← Quay lại trang sách

Phần III - Chương 10

Lâm bước lên xe, bàng hoàng như người bỏ quên lại ở thôn Thiên Vinh, làng Đồng Đội một cái gì. Chàng thấy ruột gan như rỗng hốc, chân tay rời rạc. Một mối buồn và một mối đau không biết từ đâu bỗng đột nhập vào cơ thể. Nhưng chàng không biết đau ở đâu, buồn bởi gì. Chàng nhìn giời thì thấy u ám và chán ghét. Chàng thấy xót xa và thương tiếc, nhưng cũng chẳng hiểu là xót xa gì, thương tiếc gì. Mấy lần chàng toan cho quay xe lại, nhưng tự hỏi không biết quay xe lại để làm gì, chàng lại cứ đi. Đi với một ngao ngán trong lòng. Mà cũng không biết tại làm sao mà ngao ngán.

Về đến Hanoi, bọn gia nhân mừng tíu tít. Nhưng chúng đều lấy làm lạ mà không nhận ra cái ông chủ dễ tính và hay nói trước kia nữa.

Tụi nhân tình của Lâm lại càng lấy làm lạ nữa. Lâm ngày nay không còn là anh công tử đùa nghịch, phá phách và quăng tiền ra cửa sổ như trước kia nữa.

Các bè bạn thì thấy rằng Lâm không còn là linh hồn của những cuộc vui. Lâm không còn là thằng ưa nói nhảm, ưa nói tục như xưa kia. Lâm bây giờ ít nói, ít cười. Mặt lúc nào cũng lầm lầm lì lì và vẩn vơ nghĩ ngợi làm sao ấy.

Biết Lâm về chơi quê Nam mười ngày, bè bạn đều đồng thanh:

– Ôi thôi! hỏng! Thằng Nam đã làm hỏng thằng Lâm của chúng mình rồi. Đã biết hễ chơi với bọn văn-sĩ là y như bị chúng nó truyền cái bệnh vẩn vơ khóc mây, khóc gió, tiếc hão, thương huyền cho mà. Lâm ôi! thôi thế là từ nay mày là một người chết đối với cái Hanoi ăn chơi rồi! Mày chỉ còn là một con gấu hôi hám và cáu tính mà không ai có thể gần được nữa. Mày đã bị đầu độc bởi những lý thuyết của anh văn sĩ lọ. Mày quên rằng những món tâm lý, triết lý của chúng nó là những liều thuốc độc ghê gớm. Những chữ nghĩa lôi thôi hàng rốc của chúng nó là những bát cháo lú. Ồ lú, nếu chúng tao mà làm Vua thì mày có biết chúng tao đối với bọn văn sĩ và viết báo ra làm sao không? Chúng tao đem trói chúng nó hàng rốc ở đầu hàng Đào, rồi chúng tao bắt chúng ăn hết nhật trình và sách vở chúng nó đã viết cho công chúng xem. Giời ơi! thời buổi này sao không có một ông Tần Thủy Hoàng đến giết dùm bọn văn sĩ đi cho thiên-hạ nhỉ. Lâm ơi, thế là đất Hanoi vui chơi đã thiệt mất một đứa con yêu quý là mày đó. Hanoi từ mày rồi con ạ!

Lâm nghe bạn bè nói thế chỉ mỉm cười:

– Tao lại sắp cưới một cô vợ nhà quê, và tao sắp dọn về nhà quê ở. Hanoi từ tao cũng là một cái phúc cho tao, bởi vì tao sẽ không phải sống một cuộc đời vô dụng và nhạt nhẽo như đời chúng mày …

Ừ, hôm nay, tao điên, chúng mày chờ hôm khác hẵng đến.

Bè bạn và nhân tình đi rồi, Lâm ngồi vơ vẩn…

….Chàng đem phóng đại những ảnh của Thơm để ở buồng ngủ. Rồi được mấy hôm, bạn bè và nhân tình trông thấy chế nhạo dữ quá, chàng lại đem cất đi. Lắm lúc chàng muốn gửi một bức về cho Thơm, nhưng lại sợ Thơm nhớ đến mình mà buồn, nên chàng lại thôi …

– Có lẽ Thơm đã quên ta rồi.

Nhưng nghĩ đến sự Thơm quên mình thực chàng lại thấy thắt ruột. Những lúc ấy giá Thơm có đây, thì chàng đem ra Đốc-lý cưới làm vợ, cưới ngay.

Về Hanoi được mười ngày, chàng thấy chán ghét cái đời vui chơi, chán ghét hẳn chứ không phải chán ghét mà vẫn đi chơi như trước.

Nhiều khi buồn quá chàng muốn lại chơi Nam để nói chuyện về Thơm, nhưng Nam vì công việc đã đi Huế …

Lắm lúc chàng thấy nhớ Thơm quá, muốn đi ô-tô về thăm ngay, nhưng đến khi tự hỏi «về để làm gì?» chàng lại thôi. Vì chàng cũng không thể giả nhời cho mình biết về để làm gì cả. Về để gieo mối tiếc thương, chua xót vào lòng Thơm thì chàng không thể về được.

Nhân có người tổ chức một cuộc du lịch sang Tàu, Lâm liền đi ngay. Chàng hi vọng rằng cảnh giời cao bể rộng ở xứ người sẽ cất đi cho chàng cái buồn vô căn cớ. Nhưng trái lại, chàng càng thấy buồn thêm. Chàng thấy vị đời nhạt nhẽo … Ở Thượng Hải, chàng nhìn cảnh vật chẳng thấy hứng thú gì. Trừ những khi nào, chàng nghĩ đến những ngày chàng sống với Thơm ở hội Phủ Giầy là chàng thấy thinh thích một tí. Chàng thấy hình như mình sống lại.

Lắm đêm, chàng băn khoăn tự hỏi: «Hay là ta yêu, hay là ta đương yêu? hay là ta đã yêu?» Nhưng mỗi lần nghĩ đến sự lấy nhau, chàng lại thấy ngài ngại, chàng lại xua đuổi cái ý ấy đi.

Nhưng khi tầu về gần đến Quảng Châu Loan thì không hiểu sao, chàng lại thấy đỡ buồn mà lòng hơi vui vui. Chàng cũng không biết vui bởi lẽ gì.

Tầu rời khỏi bến Quảng Châu Loan thì đêm chàng nằm mê thấy Thơm đầu tóc rũ rượi đến phục bên giường chàng khóc lóc. Chàng trông thấy mặt Thơm đầy thịnh nộ, đầy trách móc. Lâm đến gần toan ôm lấy Thơm thì Thơm lùi lại rồi hét:

– Anh giết em! anh giết em!

Tiếng hét ấy làm cho Lâm bừng tỉnh. Chàng trở dậy mồ hôi vã ra như tắm. Chàng còn hình tưởng thấy rõ ràng nét mặt đau đớn nhưng còn đầy vẻ yêu đương của Thơm. Mà cái tiếng hét oan hồn kia còn vang lên trong ca-bin (cabine) chàng nằm.

Chàng thấy như trong ca-bin thiếu khí giời. Ngực bức bối khó thở. Chàng khoác áo ngủ lên «boong» hóng gió.

Lúc ấy đêm đã khuya. Bóng tối dày đặc rũ xuống bể. Chàng không trông thấy nước, chàng chỉ nghe thấy tiếng sóng vỗ vào sườn tầu. Chàng tưởng chừng như nghe thấy tiếng khóc than rầu rĩ của Thơm. Chàng nhớ lại những chuyện cổ tích mà người chết oan hiện hồn về để đòi mạng, chàng run sợ. Rồi lại tự cười mình mê tín.

– Mình thì làm gì cho Thơm có thể chết? … Mà Thơm thì việc gì mà chết? Khỏe mạnh như thế chết làm sao chóng thế được?

Mới xa cách Thơm có hơn một tháng, mà Lâm tưởng chừng như xa cách đã lâu lắm. Dẫu chàng vẫn tự nhủ Thơm không thể chết và nhỡ có chết cũng không phải tại mình nhưng nghĩ đến sự Thơm có thể chết, chàng thấy như cả cơ thể chàng cũng chết đi vậy. Dẫu chàng cho đó là những ý nghĩ hão huyền, trẻ con, nhưng chàng vẫn thấy lòng bồn chồn.

Chàng nóng ruột muốn về ngay nhà để hỏi xem tin tức Thơm. Chàng thấy tầu đi chậm quá. Chàng muốn có cánh mà bay ngay về thôn Thiên Vinh. Tưởng tượng khi vế thấy Thơm tươi cười nhìn mình, chàng thấy lòng rạo rực một sinh thú lạ lùng. Lúc ấy, chàng rắp ở trong đầu những cái mộng đẹp với một cô Thơm yêu quý ở bên cạnh, với một tòa nhà ở chân núi Ngăm, với một cánh đồng lúa xanh nuốt.

Chàng tưởng chừng như đã lấy Thơm. Chàng ôm vào lòng, dắt nàng đi chơi hết bờ ruộng này sang bờ ruộng khác. Chàng ôn lại trong trí nhớ cả cái quang cảnh đêm hôm mồng tám chàng choàng tay vào mình Thơm đưa Thơm đi chơi trên con đường vào Phủ Giầy. Chàng thấy má nóng hổi, tưởng chừng như Thơm đang áp má vào má mình. Chàng thấy mặt nóng bừng như cái hơi thở của Thơm phà vào. Chàng thấy một làn hương thơm ngây ngất bọc lấy mình. Chàng nhớ lại những lời chế giễu của người trên ô-tô.

Một tiếng còi tầu thét. Lâm bừng mắt. Chàng bồi hồi tiếc ngẩn tiếc ngơ.

Chàng lững thững xuống ca-bin. Nhưng vừa nằm xuống giường, chàng liền bị cái tư tưởng Thơm có thể chết đến ám-ảnh. Rồi cả những hình ảnh giấc mê lúc đêm lại hiện ra. Chàng tưởng tượng thấy người ta đem Thơm đặt vào áo quan, rồi người ta khiêng ra đồng bỏ xuống huyệt, vùi đất lên

Tưởng tượng đến chỗ người ta lấp đất, những tiếng đất dội vào áo quan, Lâm tưởng chừng như người ta đang chôn mình, mà cái tiếng đất dội vào áo quan kia là tiếng kêu cứu của trái tim mình, chàng hoảng hốt thét lên. Một người bồi tầu vội vã chạy vào, bật đèn:

– Cái gì thế ông? Ông làm sao thế?

Lâm liền nói dối:

– Không có gì đâu. Có lẽ tôi mê sảng.

– Thế mà tôi cứ tưởng cái gì. Tôi nghe tiếng ông kêu, tôi sợ quá. Ông nằm mê thấy cái gì mà sợ hãi đến thế.

Lúc ấy, Lâm cần phải có người để nói chuyện. Chàng sợ phải ở một mình trong một gian buồng cô quạnh với những ý nghĩ đen tối. Chàng liền hỏi người bồi tàu:

– Người ta cứ bảo người chết hiện hình về, anh có bao giờ nằm mê thấy người chết hiện hình về bao giờ không?

Anh bồi nói ngay:

– Có, người hiện hình về, đúng lắm. Hồi tôi theo tầu đi mác-xây (Marseille) đến Colombo thì nằm mê thấy thầy tôi về. Quả hôm sau nhận được giây thép bảo rằng thầy tôi đã chết.

Những lời của anh bồi làm cho Lâm thắt ruột lại.

Nghĩ đến Thơm chết, chàng thấy mình cũng chết đi. Không cần hỏi Thơm chết vì mình hay vì gì. Cái ý nghĩ Thơm chết cũng làm cho Lâm tan tác linh hồn rồi.

Người bồi thấy Lâm mặt tái mét, tay run lên, liền hỏi:

– Ông nằm mê thấy người thân tín chết hiện về phải không?

– Người này đối với tôi chỉ hơi quen chứ không phải thân tín.

– Ồ, nếu thế thì không đúng. Chỉ có người thân tín với mình mới nhớ tiếc mình mà về báo mộng cho mình hay thôi ; có lẽ ông đi tầu mệt nên nằm mê thấy thế đấy. Tôi làm tàu hơn mười năm, tôi thấy nhiều hành khách nằm mê thấy nhiều cái kỳ dị lắm. Nhưng ít khi đúng. Thôi ông ngủ đi. Trưa mai thì tàu đến Hải Phòng rồi. Phải dưỡng sức để đến Hải Phòng mà chơi chứ.

Lâm hi vọng rằng giấc mộng của mình chỉ là một giấc mộng như mọi người hành khách mệt nhọc. Nhưng chàng xét thấy mình chẳng say sóng mà cũng chẳng mệt nhọc tí nào. Chàng lại nhớ đến lời người bồi: «chỉ có người thân tín với mình mới nhớ tiếc mình mà về báo mộng cho mình hay thôi». Chàng bâng khuâng tự hỏi xem mình có là người thân tín với Thơm không? Chàng thấy rằng không. Nếu mình yêu Thơm thì mình đã hy sinh những lẽ trói buộc về hoàn cảnh để lấy Thơm rồi. Nhưng Thơm đối với mình thì thế nào? Chàng thấy rằng Thơm yêu mình lắm. Thế thì Thơm là người thân tín của mình rồi.

Đến đây, Lâm thấy cháy ngực và cháy cổ. Chàng thấy chết điếng người đi. Chàng thấy các mạch máu như dừng cả lại. Một cái gì lạnh lẽo hơn nước đá chạy từ đầu chàng quá sống lưng rồi xuống đến chân, làm cho chân giá buốt. Chàng tưởng chừng như mình chết ngay ở trên cái giường ấy.

Chàng sợ hãi muốn cựa cậy mà không sao cựa cậy được. Da thịt chàng như bị dán cả xuống nệm. Chàng thấy như có một cái gì nặng nghìn cân đè lên người. Chàng vẫn trông thấy cái đèn điện lửa đỏ ở trên trần tàu trắng. Chàng vẫn trông thấy cái quạt máy xoáy treo ở trên tường. Nhưng động đậy thì chàng không động đậy được. Chân tay và cả cơ thể như bị đóng đinh xuống giường. Chàng muốn kêu cứu, nhưng tiếng nói cứ đến cổ thì dừng lại không ra nữa.

Chàng thấy nước mắt cứ dàn dụa chảy lên trên má. Nước mắt càng chảy nhiều ra bao nhiêu, thì cái khối nặng đè lên người lại nhẹ dần đi bấy nhiêu.

Lúc ấy, chàng mới nhận thấy rằng chàng yêu Thơm nhiều lắm. Mà chàng không có Thơm thì không còn sinh thú gì. Chàng vùng dậy đập tay xuống giường:

– Thế nào cũng phải cưới Thơm làm vợ.

Chàng thấy tâm hồn khoan khoái, chàng thấy sung sướng vì sự quyết định ấy. Nhưng chàng lại nhớ đến cái mộng đêm qua, chàng sợ hãi, nhưng chàng lại lẩm bẩm:

– Chả nhẽ mới có hơn một tháng mà đã chết chóng thế được!

Rồi chàng lại nhớ đến những cái chết rất chóng, nhớ đến những người mình vừa gặp hôm trước mà hôm sau đã có tin bảo rằng chết rồi

Chàng lại sợ, rồi mình tự nhủ mình:

– Mình cứ hay nghĩ luẩn quẩn, mộng mị nghĩa gì, chẳng qua mình nhớ thì mình nằm mê thấy thế.

Ý nghĩ ấy làm cho chàng hơi yên lòng. Nhưng chàng lại sợ đã có người đến hỏi Thơm. Mà không khéo Thơm đã đi lấy chồng rồi. Nhưng vừa nghĩ thế, chàng lại nghĩ khác ngay:

– Ở nhà quê, lấy chồng đâu chóng thế được. Hôm mình ở đấy đã có ai lấy đâu. Thế thì thế nào Thơm cũng là vợ mình, là vợ mình!

Chàng nghĩ thế thấy sung sướng quá, liền choàng ra ôm không khí, ôm cô Thơm tưởng tượng ở trước mặt.

Trong đầu Lâm, lúc ấy sôi nổi bao nhiêu ý nghĩ hoan lạc. Chàng giận mình trước kia sao lại mù quáng đến không nhận thấy rằng mình yêu, đến những lẽ khốn nạn gây ra bởi hoàn cảnh mà không cưới nàng làm vợ. Chàng tự nghĩ:

– Thơm không thể ra Hanoi ở với mình, thì mình về nhà quê ở với Thơm. Mình làm một cái nhà gác thật to, mình tậu rõ nhiều ruộng để cho Thơm trông coi. Mình đem rõ nhiều sách về để đọc. Mình càng khỏi phải ở Hanoi là chốn chỉ gây cho người ta chứng buồn bã và dạy người ta những sự chơi bời hư hỏng.

Lúc ấy, Lâm như ngụp lặn trong hoan lạc. Đâu đâu chàng cũng nhìn thấy những con mắt âu yếm của Thơm nhìn chàng, cũng tưởng tượng thấy những cánh tay ngà ngọc của Thơm ôm chàng. Rồi chàng nói to:

– Ta đã yêu!

Chàng sực nghĩ đến câu châm ngôn Tây:

“Sự vắng mặt đối với ái tình như gió đối với lửa, nó dập tắt những cái đang cháy nhỏ, và thổi bùng những lửa to.”

Chàng nhẩy xuống giường khoa tay:

– Ta đã có một khối tình to lớn trong đời ta.

Chàng mong từng phút cho tàu mau đến bến Hải Phòng.