Những Người Du Kích.
Tất nhiên các em không hiểu được có chuyện gì đã xảy ra, nhưng khi các em đã mang máng hiểu thì Ca-chi-a và người đưa tin vui đã chạy đi rồi. Ở sau hàng cột chỉ còn lại ông phóng viên nhiếp ảnh có bộ râu hung hung. Ông nhìn các em với vẻ mặt như thể ông vừa thức dậy, rồi ông thở dài và dang hai tay ra:
- Trên đời này thật lắm chuyện lạ kỳ, - ông nói. – Thế là bố cháu ấy vẫn còn sống!
Các em xúm quanh ông phóng viên nhiếp ảnh, nghe ông kể tóm tắt những điều mà chẳng bao lâu cả nhà máy đều biết hết. Thì ra anh bộ đội mà ông phóng viên nhiếp ảnh dẫn tới sau hàng cột không hẳn là một anh bộ đội. Trước chiến tranh, anh làm việc ở ban biên tập báo tỉnh và viết các bài ký, còn bây giờ anh công tác ở ban biên tập báo ngoài mặt trận, đồng thời vẫn gửi bài về cho tờ báo U-ran thân thiết của mình. Gần đây, bộ chỉ huy cho phép anh về U-ran lo việc xuất bản một tập ký sự chiến tranh về những chiến sĩ và sĩ quan người U-ran. Trước khi về, anh quyết định đến thăm một khu du kích để thu nhập thêm tài liệu cho một bài ký.
Khu du kích là thế nào? Là thế này: ở xa trận tuyến, trong vùng sau lưng địch, hàng chục đội du kích kết hợp lại với nhau giải phóng một vùng đất lớn khỏi ách chiếm đóng của bọn phát-xít và khôi phục chính quyền Xô-viết ở đó. Bọn phát-xít cho nhiều đội quân đến càn quét, nhưng các đội quân này đều mất tăm mất tích. Chúng đều bị du kích tiêu diệt sạch.
Thỉnh thoảng lại cso một phi đội máy bay Xô-viết bay tới khu du kích và ném hàng xuống – súng đạn, thuốc men, báo chí. Mới đây, du kích tổ chức ở trong rừng được một sân bay đầu tiên và một máy bay chở thuốc men đã bay tới đó. Anh nhà báo đến khu du kích cũng bằng chiếc máy bay nhỏ ấy.
Các máy bay khu trục phát-xít săn đuổi chiếc máy bay Xô-viết, nhưng thật may mắn, chuyến bay đã trót lọt. Anh phóng viên tờ báo quân đội đến ban tham mưu trung ương của các đội du kích và nói chuyện với các chiến sĩ du kích anh hùng suốt một đêm. Anh được nghe những câu chuyện tuyệt vời về chiếc công của những người Xô-viết dũng cảm đang tiêu diệt bọn phát-xít ở bất cứ đâu và bằng bất cứ cách nào có thể được. Đặc biệt, anh được nghe nói nhiều tới đội du kích của những người U-ran và đồng chí chỉ huy của đội này mà tất cả vẫn gọi là “kỹ sư”, bởi vì chiến sĩ du kích nào cũng có bí danh cả. Ở đội này, tất cả các sĩ quan và chiến sĩ đều quê ở U-ran. Họ vừa chiến đấu, vừa vượt ra khỏi vòng vây của địch, họ gặp được các đội du kích khác và sáp nhập vào thành một lực lượng lớn.
Đội này có tài xuất quỷ nhập thần. Họ xuất hiện ở những nơi quân địch không hề ngờ tới và nơi nào họ đã xuất hiện là chẳng còn lấy một tên phát-xít nào sống sót. Chỉ riêng “kỹ sư” đã diệt được hơn một trăm tên. Bọn phát-xít hứa sẽ thưởng mười nghìn mác[x] cho kẻ phản bội nào lấy được đầu “kỹ sư”, nhưng bắt cái bóng của một con chim đang bay còn dễ hơn là bắt anh. Nhà báo muốn gặp “kỹ sư” nhưng không được, vì đội anh đang đi hoàn thành một nhiệm vụ chiến đấu.
Sáng sớm hôm sau, chiếc máy bay nhỏ đã phải bay trở lại. Anh nhà báo chào tạm biệt các chiến sĩ du kích rồi ngồi vào chỗ đằng sau phi công.
Bỗng bên cạnh máy bay xuất hiện một người cao lớn, mắt xanh biếc, râu màu vàng sẫm. “Đây chính là “kỹ sư” của chúng tôi đây”, - trưởng ban tham mưu đội du kích giới thiệu. Người mắt xanh nói: “Ở ban tham mưu, tôi nghe mọi người bảo đồng chí về thành phố N. vùng U-ran, quê hương của chúng tôi”. – “Vâng”. – “Vợ tôi và con gái tôi làm việc ở nhà máy tại thành phố ấy, – “kỹ sư” nói tiếp. – Tên vợ và con gái tôi là…” Đúng lúc đó, động cơ máy bay gầm lên. “Kỹ sư” không kịp nói trọn câu, anh vội lấy trong túi ra chiếc bót thuốc lá bằng ngà, chỉ vào dòng chữ khắc ở đầu bót: “Va-xi-li Gan-kin”, thế là anh phóng viên bay đi với chiếc tẩu trong tay…
Câu chuyện đó được anh kể lại cho các bạn đồng nghiệp U-ran khi anh đến ban biên tập để báo cáo về chuyến đi tới khu du kích. Ông phóng viên nhiếp ảnh của tờ báo lập tức kêu lên: “Tôi biết vợ con anh ta rồi! Một người làm thợ tiện, còn một người là kỹ sư ở nhà máy. Mắt cháu Ca-chi-a con gái anh ấy cũng xanh một cách kỳ lạ”.
Các em nghe câu chuyện của ông phóng viên nhiếp ảnh như nghe một chuyện thần thoại.
- Tớ… tớ mừng cho Ca-chi-a quá!.. – Lê-na nói, em quay mặt đi, đến bên máy và xỉ mũi vào chiếc khăn tay nhỏ.
- Bác cũng rất mừng, - ông phóng viên nhiếp ảnh nói. – Bác còn nghĩ rằng có lẽ con trai bác… cũng ở trong đội du kích đó… Có thể lắm chứ, phải không các cháu? – ông hỏi các em.
- Chắc chắn rồi ạ! – Cô-xchi-a ủng hộ ông, vẻ tin tưởng. – Hoàn toàn có thể như vậy, bác ạ! – Cô-li-a gật đầu.
Sau tất cả những chuyện đó, các em có cảm giác là lạ khi thấy mình đang ở nhà máy, đang ở phân xưởng, bên cạnh những cỗ máy đã ngừng chạy mười lắm phút rồi, nhưng tất cả những cái đó là có thật, tất cả những cái đó tồn tại, và “Bản tin nhanh” của bên “Bắc Cực” thì nhắc nhở các em rằng anh chàng Min-ga-rây gớm ghê đang chờ đội xung kích của các em trả lời. Bây giờ, các em muốn trả lời Min-ga-rây một cách thật xứng đáng, và ước muốn ấy của các em mạnh mẽ hơn trước đến hàng trăm lần.
Vừa lúc đó, Ca-chi-a về. Trông em khác hẳn bình thường, có vẻ hiền lành, thậm chí rụt rè nữa, dường như em ngượng nghịu với niềm hạnh phúc bất ngờ, dường như em sợ niềm hạnh phúc có thể tan biến đi mất như một giấc mơ êm dịu.
- Thưa bác, - em nói với ông phóng viên nhiếp ảnh – dì Nhi-na cháu mời bác cùng đại úy Xta-ri-cốp ngày mai thể nào cũng đến ăn trưa với gia đình cháu… Đại úy Xta-ri-cốp đã ghi địa chỉ nhà cháu… Các cậu ơi, cả các cậu ngày mai cũng sẽ tới ăn trưa ở nhà tớ…
- Cháu ngồi xuống đây, - ông phóng viên nhiếp ảnh băn khoăn nói. – Bác thật xấu hổ vì bác đã đưa tấm ảnh cũ của cháu để dán lên “Bảng danh dự”. Bây giờ cháu hoàn toàn không giống tấm ảnh ấy nữa rồi.
Ông chụp Ca-chi-a, giữ ống kính lâu cho đủ ánh sáng, và hứa ngày hôm sau sẽ mang đến một bức chân dung tuyệt vời. Sau đó ông đến phân xưởng nhiệt luyện tìm anh bạn bộ đội của mình, còn ở sau hàng cột, các máy lại bắt đầu chạy.
Người mở máy đầu tiên là Ca-chi-a. Em lấy một chiếc ống đã gia công thô và đặt ngay nó sang một bên vì đã làm xong. Cỗ máy “Bu-sơ” đúng là chẳng dính dáng gì đến chuyện này. Nó chỉ hối hả không đâu và cản trở Ca-chi-a “làm phép lạ” bằng hai bàn tay bé nhỏ và khéo léo của em.