← Quay lại trang sách

Chương XXXII

Huỳnh trở lại, cái tơi lá ướt nước chảy ròng ròng xuống nền đất, chàng đặt trước mặt Trần một gói cơm trộn sắn màu xám ngoét và một con cá mắm khô quắt đen sì:

– Ăn đi, nhà bếp nó cho lấy phần mày, cũng khá tốt đấy, ăn đi mày, cả ngày đói khát ngồi nghe giảng chiến thắng Cao Bắc Lạng trong khi bị cầm tù chưa đủ, tối lại cho ăn bữa cơm chết toi này xong là bắt họp kiểm thảo tư tưởng, hỏi cả ngày học tập tin chiến thắng ai có ý nghĩ gì hãy khai ra. Tao khai ngay là tao mệt mỏi, chỉ muốn ngủ, thế là cán bộ chủ tịch buổi họp lạnh nhạt nhìn tao bằng cặp mắt trắng dã của nó, và bảo: “Được lắm, vậy cho anh về lều đi ngủ.” Tao chỉ mong có thế, tao đứng dậy đi liền một mạch ra nhà bếp xin cơm cho mày rồi về đây.

Trần cau mày:

– Mày chọc chúng nó làm gì, lại thêm rắc rối chứ có ích gì đâu.

Huỳnh không trả lời; chàng đến gần giường Hiếu nằm, đặt tay lên trán Hiếu; thấy mái tóc Hiếu còn ẩm ướt, Huỳnh kêu lên:

– Thằng này thật không biết gì cả, sẵn lửa sao không hong tóc cho chị cho khô, để ướt như thế này nó thấm vào đầu không tốt.

Trần nghe lời, chàng đỡ đầu Hiếu gối lên đùi chàng, xõa mớ tóc dài của nàng ra trước ngọn lửa, chàng thong thả gỡ những lọn tóc ướt của nàng bằng cái lược thưa, buổi chiều khi người ta đưa nàng vào trại, mưa từ ngoài rừng cho đến căn lều này đã gội đi nước bùn đất dính trên tóc nàng, nên bây giờ được hong khô bên lửa, tóc nàng đã trở nên sạch sẽ óng ả đen mượt.

Như sực nhớ ra Hiếu nói với Trần:

– Sáng nay trên đường đến đây tôi có gặp anh Hòa, anh Thành và cô Huyên. Họ hỏi thăm anh và anh Huỳnh, họ có viết thơ cho hai anh nữa, ở trong túi áo của tôi đó, chắc bị ướt cả.

Trần quay lại bảo Huỳnh:

– Mày xem trong túi áo của Hiếu hong ở kia xem có thư không?

Huỳnh làm theo Trần bảo, lấy trong áo Hiếu ra ba cái thư, chàng mang lại bên lửa, định mở ra xem, bỗng chàng lim dim mắt có dáng tư lự:

– Tao nghĩ thật bậy quá mày ạ.

– Cái gì bậy?

– Thằng Hòa, thằng Thành dám viết thăm tụi mình cũng được đi, tụi nó đang có thế lực, người ta đang còn cần đến chúng nó, còn Huyên mà cũng cả gan bày đặt viết thư thăm tù Tây Hạ thì con bé quả thật là liều hết sức. Ai khiến nó không biết, thăm với viếng làm gì, đáng đánh đòn con bé về tội này.

Huỳnh lật ngắm nhìn phong thư nhỏ nhắn nhất:

– Lại ẩu nữa rồi, mày xem, bé Huyên nó đề bì thư như thế này: “Kính gởi anh Huỳnh và anh Trần, tù Văn Nghệ, trại Tây Hạ.” Có chết không chứ.

Trần bật cười:

– Đúng là chó con không biết sợ cọp, nó ngộ nghĩnh thế, chắc cũng chẳng ai làm gì nó đâu, mày đừng lo.

Huỳnh lần lượt bóc mấy cái thư, chàng vừa đọc vừa nói với Trần:

– Huyên đang lên tỉnh xin giấy tờ để đi học lại, có thể là sẽ vào Khu Năm, cô bé bảo có nhiều trở ngại nhưng cô bé cũng có nhiều hy vọng rời khỏi Thừa Thiên vào đầu năm tới, cô bé hỏi hai anh ở trong ấy có hay ngâm thơ với nhau không, nếu có thì vẫn vui như thường, ở ngoài này buồn và vắng lắm, mong hai anh chóng được ra để mọi người gặp lại. Còn thư của Thành và Hòa chúng nó bảo anh em ở ngoài đang lo vận động cho chúng mình ra khỏi đây, chỉ còn chờ thời gian, chúng nó chúc mạnh khỏe, chúc sáng tác thật nhiều, dặn chúng mình đừng quên Tổ quốc và nhân dân đang chờ đợi. Hừ, chờ đợi, chờ đợi những gì nhỉ, chờ những chiếc pháo bông chớp lòa rực rỡ cả bầu trời để rồi tắt ngấm, trả đêm về lại cho đêm chứ gì. Tụi thằng Thành thằng Hòa coi cũng khá mà bây giờ cũng dùng sáo ngữ với anh em. Nhưng thôi, cứ kể thì cũng có tình lắm mới dám viết cho mình trong lúc này.

– Chậc, mày khó tính vừa chứ, chúng nó không dùng sáo ngữ ấy thì làm sao mà viết được thư cho chúng mình?

– Ờ, cũng có lý.

– Huyên nó bảo ở ngoài buồn và vắng lắm, là sao nhỉ?

Hiếu cựa quậy trong lòng Trần, nàng trở mình nằm nghiêng, ngước mặt về phía Huỳnh:

– Cô Huyên bảo tôi nói lại với hai anh là ở ngoài ấy các anh Hoàng, Bửu, Hồ, Phong đã bỏ về thành hết rồi, không còn ai ở lại nữa.

Hiếu ngừng một chút để thở rồi nói tiếp:

– Mà không còn ai thật, dạo này họ về thành nhiều quá, anh Hoài cũng mang vợ ra Huế tháng trước, họ đi về ngã Cầu Đôi, anh Tùng về ngã làng Nguyệt, chú Thảo đi qua Tây Hồ lên Huế, còn nhiều nhiều lắm, tôi nhớ không xiết, toàn những người khá cả, thật là uổng.

Trần cười buồn cúi hôn lên mắt Hiếu:

– Thật uổng, thật uổng là sao em? Như Trần của em và thằng Huỳnh đó, bây giờ mang thân tù tội thế này có uổng không em?

– Ai cũng cảm thấy uổng cả đấy chứ, không biết sao họ để vậy. Anh Thành nói với tôi là anh em bộ đội bên trung đoàn xin cấp trên thả hai anh ra, họ đòi sự có mặt của hai anh bên cạnh họ. Ấy thế là những người chủ xướng một số thì bị đổi đi ra mặt trận Quảng Bình, còn số khác thì khôn hồn đi luôn về thành trước khi bị đẩy đi xa.

Huỳnh thở ra:

– Tụi điên khùng chúng nó còn lạ gì tình cảnh này mà làm vậy, chỉ thêm rách nát chứ ích gì đâu, hai thằng tôi thì đáng giá gì mà đòi với hỏi.

– Vâng, tôi nghe vậy cũng thầm lo cho số phận của những anh em thương mình, nhưng anh Thành bảo dầu sao việc đó cũng gây được tiếng vang đáng kể trong bộ đội và quần chúng bên ngoài và do đó người ta không thể bạc đãi hai anh quá ở trong tù, bởi vì người ta còn phải ước lượng phản ứng của chiến sĩ và nhân dân mến mộ tư tưởng và thi văn của hai anh.

Huỳnh cười chua chát:

– Chị chưa hiểu hết ý của thằng Thành muốn nói, nó nói vậy là nó không muốn nói rằng nhờ sự theo dõi và mến mộ của đám quần chúng và bộ đội đối với chúng tôi nên người ta sẽ không dám thủ tiêu chúng tôi một cách dễ dàng như xưa nay người ta vẫn thường làm vậy đó thôi.

Hiếu rùng mình, hốt hoảng, nàng quay lại ôm chặt lấy Trần:

– Không, không thể như thế được, đừng nói thế anh Huỳnh, không, không phải như vậy phải không Trần?

Trần siết chặt thân hình nhỏ bé của Hiếu vào lòng, vỗ về:

– Không đâu em, không phải vậy đâu em, đừng có nghe cái miệng của thằng Huỳnh, anh đã nói với em rằng nó sợ chết kinh khủng, nó sợ điên lên lận, cho nên cái gì cũng khiến nó nghĩ đến chuyện giết chóc. Em còn yếu, hãy nằm yên nghỉ cho khỏe, đừng lo nghĩ gì hết, không nên cho em, không nên cho con chúng mình nữa. Anh đang ở bên em, không đủ sao, hãy nhắm mắt lại đi em, anh ôm em và con như thế này suốt đêm nay, suốt cả đêm nay, còn hơn cả một đời, cứ nghĩ như vậy, vì một phút của chúng ta bằng một năm của cả đời người mà, em có nhớ không em? Em có nhớ có lần anh đã bảo em như thế rồi mà.

Trần ru đưa Hiếu trong cánh tay chàng, chàng nói bằng giọng nói trầm ấm cố hữu của chàng, cố ru ngủ tiềm thức bí ẩn hoang dại trôi nổi giữa hư vô, ở đó lô nhô những nấm mồ, những ánh thép lóe lên chớp lạnh giữa không gian, những giòng nước mắt đóng thành băng giá, những đôi mắt khép hờ để vậy ngàn năm.

Huỳnh lục đục trải chiếc tơi lá bên cạnh đống lửa, chàng ngả mình trên đó, lấy chăn đắp kín người, càu nhàu:

– Nó nói phải đó chị Hiếu, có lẽ tôi bị ám ảnh nên nói bậy đó, không có gì đâu, những thằng chúng tôi phải sống chứ, những thằng này phải sống thì đất nước này mới còn chứ, những thằng này mà chết đi để cho quê hương xứ sở này chúng nó đem làm mắm à. Tao có sợ chết là phải lắm chứ Trần, con người chỉ có một thân xác thôi chứ có bao lăm mà đem chấp cái chết. Xuống nằm dưới mộ cho dế nó kêu ri rỉ trên đầu, buồn nhức xương, mà tao lại hay buồn. Đêm kia tao nằm thấy Lương, tao thấy mắt nó thật buồn, thôi tao bắt đầu đi ngủ đây, mày đi ăn cơm đi rồi còn ngủ một chút, chị Hiếu cũng gắng ngủ một chút cho chóng mạnh. Ngày hôm nay, thế là quá đủ, thật quá đủ.

Huỳnh ngáp dài, nhắm mắt, nằm yên lặng.

Tóc Hiếu đã khô, Trần đỡ nàng nằm xuống giường âu yếm: “Chờ anh một chút,” đoạn chàng đứng dậy cầm một thanh củi khều ngọn lửa cháy bùng lên, vói tay lấy ba cái thư Huỳnh để gần đó. Chàng cầm nắm cơm Huỳnh mang về lúc nãy vừa nhai vừa soi thư vào ánh lửa xem lại một lượt. Xem xong chàng bỏ từng cái thư vào lửa, chàng ngắm những tờ thư lần lượt cháy sém ra tro, lòng chàng bỗng trở nên bình thản. Chàng nghe tiếng chân quen thuộc của người giữ tù đi lại dừng trước cửa lều, tiếng khóa xích sắt kêu rổn rảng, tiếng chân người đi xa dần, rồi lặng yên. Chàng nhai nghiền ngẫm miếng cơm trộn sắn với miếng cá mắm khô trong miệng, mắt đăm đăm nhìn ngọn lửa.

Cơn mưa đã dứt từ lâu, hơi nước trong không gian vẫn còn trĩu nặng, đâu đó những giọt tranh kêu tí tách, rời rạc, khiến chàng nhớ câu nói của Trường, một bạn tù, vào một ngày đi chặt cây trong rừng, thình lình trời đổ mưa, cả bọn phải chui vào một hốc đá dưới tàng cây rậm lá để ẩn cho qua cơn mưa. Gió tạt mạnh vào chỗ ẩn không kín đáo gì cho lắm cho nên cả bọn đều không tránh khỏi bị ướt. Có năm sáu người chụm lại trong một cái hốc không đầy một thước vuông, nước mưa từ tàng cây cao rơi xuống vòm đá nhô ra làm thành một cái rèm bằng nước, thỉnh thoảng gió thổi mạnh kéo dài rèm mưa từ bên phải sang trái hay ngược lại rồi đổ dồn về một phía, chảy dài xuống đất, để lại một khoảng trống ở giữa, mưa tha hồ tạt vào đám người trú ẩn. Trường lớn tuổi nhất trong bọn, vào khoảng bốn mươi, anh ta bị ướt như chuột lội, anh nhìn mưa đâm ra cảm khái:

– Nghĩ cái thân phận của một hạt mưa còn long đong như thế huống hồ cái thân tù của anh em mình, nước từ suối đổ ra sông, từ sông ra biển, từ biển bốc thành hơi nước bay lên trời, thành mây bay lang thang, chán mới tụ lại thành giọt mưa rơi trên ngọn lá, từ ngọn lá rơi xuống mái hiên này, lượn qua lượn lại kéo dày kéo mỏng còn chán khó khăn mới rơi được xuống để thấm vào lòng đất. Khó lắm anh em ơi.

Cả bọn vỡ ra cười. Trần nhìn mọi người lúc đó, những tiếng cười òa vỡ từ những khuôn mặt hốc hác vô vọng, trên đó có những đôi mắt im sửng, khô khan, tiếng cười phát ra từ những cái miệng há ra với một thanh âm mà người ta gọi là cười. Đã có lần Trần bực dọc vì những nụ cười đó, chàng nhớ không biết có ai đã nói: “Người Việt Nam mình cái gì cũng cười, vui cũng cười, buồn cũng cười, người ta tử tế với mình cười đã đành, mà người ta đá đít cũng cười, nản thật.” Hồi đó Trần đồng ý cho rằng nụ cười đó thật là ngu xuẩn, nhưng bây giờ nhìn những nụ cười của những bạn tù, những người đã hơn một lần kiêu hãnh chấp nhận nghiệp chướng của quê hương làm nghiệp chướng của mình, Trần bàng hoàng nhận ra rằng đó chính là nụ cười đích thực của người Việt Nam. Tất cả người Việt Nam đều cười như thế cả. Họ cười như thế khi bị chà đạp, bị lừa dối, bị đối xử tàn nhẫn phũ phàng, bị đem làm hình nhân thí nghiệm trăm ngàn mớ lý thuyết quái đản khác nhau. Họ đều cười như thế trước tham vọng của kẻ mạnh, trước đớn hèn quỳ gối của kẻ yếu, trước những giá trị không hề có thật.

Người Việt Nam cười, nụ cười như những giọt mưa mang biết bao ảo ảnh phù du trong bóng sáng của mình.

Trần ngoảnh nhìn Hiếu nằm ngửa trên giường với cái bụng nhô lên dưới lần chăn mỏng: “Rồi đây con ta cũng sẽ cười như thế, bởi vì ngay khi chưa ra đời, nó đã cùng cha mẹ nó sống qua cái đêm tù ngục này. Và mùa mưa trong rừng chỉ mới bắt đầu.”

Một nỗi ngậm ngùi thương xót thấm lạnh hồn Trần, chàng đứng lên, đến nằm bên cạnh Hiếu, chàng vòng tay ôm lấy người nàng, chợt nàng đưa cả hai tay níu chặt lấy cánh tay chàng, run rẩy siết vào ngực, cử chỉ yếu đuối, tội nghiệp như một nắm nuối vô vọng, như chới với ôm vào người một khoảng trống không. Lòng Trần rung động tràn ngập thương yêu, chàng cúi xuống đặt môi trên trán người yêu, nghe cơn mưa trở lại, rào rạt từ rừng xa đổ tới rõ dần.