← Quay lại trang sách

Mười Sài Gòn, Ngọc Viễn Đông, Ngọc Phương Nam

Ông Trọng vừa ăn xong bữa cơm tối một cách mệt mỏi. Ăn mà mệt, đó là bữa ăn của một người cập kề lứa tuổi cổ lai hy mà vẫn phải lo việc dân việc nước. Sức khỏe ông Trọng còn khớ, nhưng vợ con không ở cùng, cô đơn lắm lắm, ăn uống khó mà thấy ngon miệng! Thời trẻ, lúc nào cũng đói ăn thì không có mà ăn. Nay thức ăn ê hề toàn sơn hào hải vị thì ngắc ngứ nuốt không vô. Cũng giống như cái chuyện ấy: Thời trai trẻ, sức lực dư thừa thì lúc nào cũng giữ vững phẩm chất cách mạng, nhiều em nhiều cháu sẵn sàng dâng hiến vẫn không dám chơi bời. Nay già rồi, gối mỏi chân chồn, da mồi tóc bạc thì thèm, thèm đến tê tái, nhưng nhiều lúc trên bảo, dưới không nghe mất rồi! Vừa ăn cơm, ông vừa mong Kim tới. Đó là một nhân viên hành chánh, rất tận tụy với công việc. Kim có chồng, có một con trai hai tuổi, chồng đang đi lao động ở Đức. Việc chồng Kim được đi Đức là nhờ ông Trọng. Kim có khuôn mặt mỏng dẹt, không được xinh đẹp nhưng là gái một con, mới hai mươi tư tuổi, có cặp mắt rất đa tình lại cao ráo, chả trách gì ông Trọng phải lòng! Bữa cơm tối nay, cô không tới, ông ăn thì ít mà mệt thì nhiều.

Con cái ông Trọng được cưng chiều, ham chơi, hư hỏng cả! Làm cha, hỏi ai không mệt mỏi!

Chiều nay, Kim đưa tập công văn giấy tờ mới nhận được vào phòng ông, trong đó có thư xin tiền của cậu con trai đầu đang quậy ở Pháp. Tiền đâu đủ để cung phụng cho nó? Ông Trọng muốn có một người đàn bà để ông tâm sự cho vơi nỗi buồn. Cách nay nửa năm, ông có quen với một chủ tiệm cà phê, một bà góa. Chị ta bốn mươi tám tuổi nhưng trông còn tươi mát lắm. Tin này bay đi rất nhanh, cả cơ quan xì xào bàn tán, chê trách. Ông Trọng chủ động chấm dứt mối quan hệ đó. Nay, ông tự nhủ, phải thật kín đáo trong quan hệ với Kim. Kim đúng là vàng ròng của ông!

Ông nhớ lại cách đây chừng bốn tháng, Kim vào đưa cho ông tập “Giấy tờ trình ký”. Như thường lệ, Kim lật từng tờ cho ông ký tên. Cô đứng gần đến nỗi bộ ngực căng tròn mơn mởn như kề vào má ông. Ông cầm lòng không đặng. Áp mặt vào bộ ngực đầy khiêu khích, đồng thời vòng tay ra sau xoa xoa vào bộ mông chắc nịch của người đàn bà một con, ông Trọng rên lên:

- Kim, em hấp dẫn vô cùng!

- Kìa chú! Đừng làm thế…

Miệng thì nói vậy nhưng toàn thân Kim run rẩy áp chặt vào người Trọng. Người đàn bà đang độ căng tràn sức sống, có cặp mắt rất lẳng, xa chồng đã gần nửa năm trời, giống như nắng hạn gặp mưa rào. Ông Trọng còn kịp tỉnh trí để ra chốt trái cửa lại rồi mới làm một trận mưa rào cực lớn, có cả phong ba bão táp nữa trên cánh đồng đang khô hạn…

Từ sau lần ấy, cứ mỗi tuần, ông Trọng lại có dịp thay trời làm mưa để cánh đồng kia không bị thiêu đốt. Rồi một hôm, có thể do chốt cửa đã mòn, cũng có thể chốt cửa không mòn nhưng vì ông Trọng đang cơn bức xúc, bấm không kỹ, nên… đúng lúc ông Trọng xoa xoa bộ mông tròn lẳn, còn Kim đang cà cạ cái bóng mu của mình vào người ông thì tự nhiên cánh cửa bật mở tung! Không thấy ai cả! Từ đó, ông Trọng dứt khoát không làm mưa ở phòng làm việc nữa! Ông chuyển địa điểm chống hạn tới những khách sạn mini, chuyên cho thuê phòng theo giờ, và đôi khi, ông chống hạn ngay tại nhà mình. Tối nay, theo hẹn, cánh đồng khô hạn kia sẽ đến cho ông làm mưa.

Kim đi làm về ghé nhà trẻ đón con thì biết con bị sốt. Thế là cô sai hẹn với người làm mưa, phải đưa con trai đi bác sỹ. Tám giờ rồi mà không thấy Kim đến, Trọng sốt ruột quá. Theo thói quen, ông giết thời giờ bằng cách… nghĩ tới công việc. Ông đọc thư của Hai Sài Gòn:

“… Thủ trưởng kính mến! Trong chuyến đi Mỹ vừa rồi, Hoàng bộc lộ rõ tham vọng “lót ổ” để chuẩn bị làm ăn riêng với tư bản Mỹ. Trong các cuộc tiếp xúc, Hoàng ca ngợi Mỹ hết lời, không còn một chút cảnh giác cách mạng và tự hào dân tộc, không còn gì là ranh giới giữa hai nước thù địch. Trong buổi gặp gỡ các doanh nhân ở New York, Hoàng ngang nhiên vạch áo cho người xem lưng: Lôi toàn chuyện yếu kém trong quản lý kinh tế của ta ra mà phê phán và kêu gọi các nhà đầu tư Mỹ hãy nhanh chóng chiếm lấy thị trường Việt Nam. Thậm chí Hoàng còn lộ bí mật quốc gia khi nói rằng khâu yếu nhất mà các nhà đầu tư Mỹ nên nhảy vào là công nghiệp nặng, dầu khí, công nghiệp chế biến, hạ tầng cơ sở, như giao thông, điện… Hoàng còn lộ bí mật, gây bất lợi cho Nhà nước ta khi nói rằng thu nhập của người lao động Việt Nam đang ở mức rất thấp, bình quân chưa được hai mươi đôla một tháng. Trong cả chuyến đi, Hoàng và cô phiên dịch bám nhau như sam, việc gì cũng trao đổi với Tiên mà bơ các thành viên trong đoàn… Về chuyện tài chính, Hoàng và Đạt nắm cả, ăn xài vô tội vạ. Những ngày ở Mỹ, Hoàng sống như… đế vương bằng tiền của Tổng Công ty. Riêng Bản ghi nhớ mà Hoàng đã ký tại Mỹ về dự án liên doanh là một âm mưu trục lợi rất độc, gây thiệt hại rất lớn cho quốc gia!…”.

Cuối thư, Hòa khẩn thiết đề nghị cấp trên ra quyết định cho Hoàng về hưu càng sớm càng tốt!

Từ lâu, Trọng đã coi Hoàng là phần tử xét lại, nếu không muốn nói là phần tử phản động! Đọc báo cáo của Hòa - Trọng thường xuyên nhận được thư báo cáo kiểu này - trong lòng Trọng trỗi dậy niềm căm giận Hoàng đã dai dẳng cản phá ông suốt mấy kỳ Đại hội.

Hận thù trỗi dậy ngập lòng nhưng khi Trọng gọi điện thoại cho Hòa, chỉ nói rằng chuyện nhân sự là do Ban Tổ chức và cấp cao hơn định đoạt chứ ông đâu có trực tiếp làm chuyện đó. Ông bảo Hòa hãy báo cáo với Ban Tổ chức. Hòa trả lời: Đã gửi báo cáo tới những nơi cần gửi rồi! Tiếp đó Hòa nói: “Việc không đưa anh nắm trọng trách là thiệt thòi lớn…! Em nghĩ, với uy tín lớn của anh, một người chủ lực trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, anh nói một tiếng là Hoàng về vườn liền!”. Người làm mưa, làm gió biết nó nịnh mình, vẫn sướng! Và trong lòng ông trỗi dậy một nỗi buồn, và giận… Trọng lặng đi… Hòa bảo ngày mai chú em trung tá Bùi Hành mang biếu anh Trọng loại thuốc bổ, vô cùng công hiệu, ăn ngon ngủ khỏe, cường dương tật nhược! Nghe hai từ cường dương, Trọng gật gù, hài lòng, Trọng mong điều đó lắm. Ăn khỏe ngủ khỏe mà đi đái ướt giày thì chết quách cho rồi! Hòa nói: “Anh mà bệnh lúc này thì chúng em gay go to! Trong cuộc chiến đấu chống tham nhũng mà không có anh thì chúng em biết trông cậy vào ai?”. Đến câu này, ông Trọng nghĩ Hòa nói thật, và ông thấy tự hào!

Chờ Kim, Trọng tưởng tượng ra thân hình Kim mơn mởn, đang khao khát… như trời hạn mong mưa. Trọng thoáng buồn khi nhớ lại những lần ông không cửng lên được, khiến Kim buồn sụ mặt. Thật là oái oăm, mỡ để miệng mèo mà chỉ ngáp, không ăn nổi! Phí của giời! Trọng nhớ đến câu chuyện tếu táo mà ông nghe được từ miệng mấy cậu tài xế trong cơ quan:

Một ông già ngoài bảy chục tuổi vô tiệm thuốc tây hỏi mua Viagra. Cô bán hàng tủm tỉm cười hỏi:

- Thưa bác, mua mấy viên?

- Cho tôi mua một phần tư viên.

- Trời đất, người ta thường uống nửa viên trở lên, có người uống tới hai viên mới đủ đô, bác cao tuổi rồi phải uống ba bốn viên mới hiệu quả!

- Ồ không, chả là thằng cháu nội mới biếu tôi đôi giày mới, hiệu Adidas, để tôi đi bộ buổi sáng. Tôi sợ cái chứng toàn đái vô chân, mang dép còn được, dễ rửa, nay mang giày, đái ướt thì uổng. Thế nên tôi uống một phần tư là đủ cho nó vọt quá mũi giày!…

Kim vẫn chưa đến. Những lúc như thế này mà có Kim thì lòng ông sẽ thanh thản phần nào. Hai đứa con trai hư hỏng, quậy phá. Con gái út bị chồng bỏ, chơi bời phóng túng, thay bồ như thay áo… Sao con cái mình chẳng ra gì, trong khi cha con Hoàng, từ Bắc vô Sài Gòn, tức là dân ngụ cư, mà cứ phơi phới lên hương hè?!

Số phận của Hoàng, kể như đã được định đoạt!

Kim vẫn chưa tới.

Nàng không đến thì ta đến! Biết đâu nàng lại có kép trẻ? Điên lên, Trọng đẩy chiếc xe Dream II ra khỏi nhà, phóng như bay đến quận Tư. Thì ra là con trai của Kim bị sốt viêm họng. Đứa trẻ vừa uống sữa, uống thuốc xong, đang ngủ, Kim đang dọn dẹp nhà cửa thì Trọng đến. Kim nói lời xin lỗi Trọng. Trọng ôm chặt lấy người đàn bà đang bị khô hạn. Đêm ấy, người làm mưa làm gió không ngủ ở nhà mình…

*

Ngọc Bắc điện thoại mời Phương Nam sáng mai đi dạo trên sông Sài Gòn. Anh muốn dẫn Nam đi coi công trình đang thi công:

- Nhân tiện, Phương Nam cho tôi có dịp thưởng thức những món ăn Nam Bộ.

- Cám ơn anh Bắc, để Nam thu xếp công việc, nếu xong thì chiều nay Nam sẽ điện thoại trả lời anh!

Sáng hôm sau, Nam tới. Bắc mời Nam đi ăn phở tại đường Thủ Khoa Huân. Nam bảo phở chỗ đó chưa phải là ngon. Cô giới thiệu với Bắc tiệm Bà Kê, nơi mà Hùng Tâm đã mời cô. Cô ăn một lần, nhớ hoài.

Đây có lẽ là tiệm phở duy nhất tại Sài Gòn không dọn rau thơm, không giá đậu mà chỉ có hành tây xắt mỏng. Vừa ăn, Bắc vừa khen ngon. Anh ăn hai tô, không để lại một giọt nước nào. Bắc bảo, anh cứ nghĩ phở ngon thì chỉ có Hà Nội, cũng như Văn chương thì nhất Bắc Kỳ. Còn như báo chí, không bì được Nam!* Thế mà ăn phở tiệm này, chỉ riêng cái nước phở ngọt thanh, không vẩn đục, lại thơm tho, nếu cụ Nguyễn Tuân sống lại cũng phải tấm tắc mà viết thêm bài Phở nữa!

Lịch sử Báo chí Việt Nam phát triển trước hết ở Sài Gòn. Vào những năm bốn mươi của thế kỷ XX, rất nhiều nhà văn xứ Bắc như Tản Đà, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài… đã Nam tiến, họ vô Nam Kỳ để “đi thực tế”, nhưng chủ yếu là vô Sài Gòn làm báo để lấy tiền sống, viết văn. Một số người đã ở hẳn Sài Gòn, phần đông, họ đi đi về về giữa Sài Gòn và Hà Nội.

Bắc lái xe ra bến tàu, để xe lại, dắt Nam xuống du thuyền mang tên Ngọc Viễn Đông. Đây là chiếc du thuyền anh đặt Ba Son đóng, máy móc và trang bị nội thất thì nhập của Mỹ. Anh ký hợp đồng gửi Ngọc Viễn Đông thường trực tại bến tàu, tất nhiên là anh mua bảo hiểm. Bắc điều khiển du thuyền lướt như bay trên sông Sài Gòn đầy nắng và gió. Bên phải và bên trái họ, tàu hàng nước ngoài chờ cập cảng đậu san sát như hàng trăm cao ốc trên mặt nước. Mặt sông này là thủy giới làm ăn của cánh buôn lậu và gái mại dâm. Nam ngồi bên tay lái, vừa say sưa ngắm cảnh vừa nghe Bắc nói. Đây là lần đầu tiên trong đời, cô được lướt trên sông Sài Gòn vãn cảnh bằng du thuyền. Sau lưng họ, Sài Gòn đẹp quá! Sài Gòn đang thay đổi từng ngày, hàng loạt cao ốc, khách sạn có vốn đầu tư nước ngoài nhô lên trên nền trời xanh. Nam bảo, không ít trong những tòa nhà cao tầng ấy đã phá vỡ kiến trúc tổng thể của Sài Gòn. Tệ hơn, về cửa ngõ phía đông thành phố, qua thị trấn Phú Xuân một chút, hướng đón gió biển Đông về cho người Sài Gòn thở, đã mọc lên sừng sững ống khói một nhà máy nhiệt điện. Thiết bị cổ lỗ từ trước những năm 1960, nay họ đổ rác cho ta, vậy mà vẫn cấp giấy phép đầu tư được thì tệ quá! Người Pháp kiến trúc thành phố này cho một đô thị năm trăm ngàn dân. Nay con số ấy gấp mười ba lần rồi! (tính cả khách vãng lai). Thời buổi nhập nhoạng này, người ta dễ dãi với những kẻ biết điều, đồng tiền đi trước! Chẳng thế mà tòa đô chánh thành phố xưa, nay là Ủy ban Nhân dân thành phố, kiến trúc chủ đạo của khu vực này đã bị phá cách bởi một tòa cao ốc phía sau lưng nó, y hệt cái hộp quẹt to bè chắn ngang, che lấp khoảng trời xanh lâu nay vẫn làm nền cho tòa đô chánh thành phố…

Ngọc Viễn Đông từ từ giảm tốc độ, tránh chiếc tàu cánh ngầm từ hướng Vũng Tàu về, rồi quẹo tay trái rẽ vào sông Đồng Nai. Đây là cảng Cát Lái, một cảng sông quan trọng vào bậc nhất trong hệ thống cảng sông miền Nam. Qua Cát Lái được mươi phút thì đến lãnh địa của Ngọc Bắc. Cả một công trường xây dựng khổng lồ, sôi động, với hàng trăm thiết bị xe máy và gần năm trăm công nhân đang làm việc.

Hồi chân ướt chân ráo vô Sài Gòn, được các chuyên gia trong Hội đồng tư vấn chỉ dẫn, Bắc đi khảo sát hai bên sông Sài Gòn và Đồng Nai, rồi xin phép chính quyền địa phương cho khai hoang vùng đất hoang hóa ven hai dòng sông. Đó là bán đảo Thủ Thanh, lâu nay là vương quốc sình lầy, lác đác những cây sú, vẹt, bần, đước và cây mắm. Trong chiến tranh, người Mỹ đã rải chất khai quang xuống vùng này để ngăn chặn quân giải phóng làm bàn đạp tấn công. Bắc được phép, quyết định dành một ngân khoản lớn thuê tàu và xà lan thổi cát, đổ đất san lấp mặt bằng. Anh cho kỹ sư thiết kế quy hoạch tổng thể vùng đất này với diện tích hơn một trăm năm chục hécta, thành khu phức hợp du lịch: khu du lịch nghỉ dưỡng, công viên văn hóa các dân tộc trên thế giới, khu giải trí dưới nước, khu thi đấu thể thao quốc tế. Anh đặt tên cho công trình này là Ngọc Viễn Đông. Tại đây, anh để năm chục héc ta trồng rừng phòng hộ, cũng là tạo cảnh quan. Còn lại anh cho chừa khoảng trống để làm hồ nước ngọt tự nhiên, cứ năm công đất có một cái hồ rộng vài chục đến vài trăm mét vuông, đủ hình đủ dạng.

Trong khi chờ các cơ quan như: Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa Thông tin, Tổng cục Thể dục Thể thao… duyệt thiết kế, Bắc cho xây dựng hạ tầng gồm đường giao thông rộng mười lăm mét mặt, đổ bê tông nhựa, lưới điện, cống thoát nước và hệ thống cấp nước, đồng thời xây một trăm lẻ tám ngôi biệt thự một trệt một lầu, nhìn ra sông, nhiều cái có sân thượng, mỗi cái một kiểu dáng khác nhau. Từ mép sông trở lên, anh chừa ra hơn chục mét trồng cỏ sân gôn, trồng hoa, kê ghế đá trên thảm cỏ công viên cho du khách ngắm sông. Bắc đã ký hợp đồng với các sở thú và các vườn quốc gia trong toàn quốc để thả vào rừng phòng hộ một số loài thú quý hiếm…

Phương Nam ngỡ ngàng trước cảnh sông nước thiên nhiên thanh bình và những hoạt động con người hai bên sông. Nhưng điều khiến cô xúc động nhất là tài năng, tầm nhìn xa của Bắc, trên hết là tình cảm quá ư đặc biệt thể hiện trong mắt Bắc khi nhìn cô. Trong câu chuyện, cô biết Bắc sinh ngày hai mươi ba tháng Mười một năm 1969, cô sinh ngày mười lăm tháng Tám, tức là sinh sau cô đúng ba tháng một tuần. Trong mắt Nam, Bắc sinh sau, nhưng dáng vóc, tư cách, phong độ, nhất là sự tinh anh toát ra từ lời nói, ánh mắt chứng tỏ Bắc là một thanh niên từng trải, trưởng thành.

Sau mối tình đầu cay đắng, Phương Nam thất vọng, mất niềm tin vào sự đánh giá, cảm nhận con người của mình, cô như con chim bị tên một lần, nay thấy cành cong là hốt hoảng. Cô gần như cảnh giác với tất cả!

Rất nhiều lần trong chuyến du ngoạn này, Nam nhận ra ánh mắt Bắc nhìn cô, không phải liếc trộm, mà là nhìn trực tiếp, ngay thẳng, đầy trìu mến. Cô vừa lo lắng, vừa cảnh giác, vừa thấy lòng xao động. Cô thầm nghĩ: Nếu Bắc có cảm tình với mình như ánh mắt anh đã thể hiện, thì cô chỉ xin Bắc mãi mãi là một người bạn tốt, bạn tri âm… Người tri âm hiếm lắm! Một người Trung Hoa nổi tiếng đã đúc kết thành phương châm sống: Một phải, hai nên, ba quên, bốn có:

- Phải yêu đời

- Nên lao động

- Nên nghỉ ngơi

- Quên tuổi tác

- Quên bệnh tật

- Quên hận thù

- Có một sổ tiết kiệm hoặc tài khoản

- Có một căn nhà

- Có một người bạn đời chung thủy

- Có một người tri kỷ, tri âm

Phương Nam nghĩ, trong mười điều trên, cái gì cũng khó, nhưng nếu quyết chí thì cũng đạt được. Riêng điều thứ mười, có một người tri kỷ tri âm phải chăng là khó đạt nhất?

Cuộc đời, được riêng điều thứ mười, đã là sung sướng, mãn nguyện rồi!

Như cha cô, một đời bôn ba chinh chiến, một đời phấn đấu lập công, lập danh, một đời lãng mạn hào hoa, giờ này ông được những gì? Nhiều lần, từ ngày cháu Thăng hư hỏng tới nay, ông lộ rõ vẻ thất vọng. Không chỉ thất vọng vì thằng cháu hư đốn, mà Phương Nam còn nhận ra cha mình thất vọng vì chuyện không được thăng thiếu tướng, không được thăng chức. Ông chưa một lần thổ lộ điều này với ai ở trong gia đình, nhưng Nam nhận ra điều đó qua ánh mắt, qua vẻ mặt khi ông nội cô hỏi han con trai về chuyện ấy. Một lần, má Lịch cũng gặng hỏi, ba cô gắt lên:

- Bà cứ chạm mãi vào vết thương của tôi ư?!

- Tôi xin lỗi ông, nhưng sao ông không nói ra với cha, với em cho nhẹ bớt cõi lòng? - Bà Lịch hạ chữ em thật dịu ngọt. Bà muốn nhắc ông là từ ngày hai vợ chồng tiếng bấc tiếng chì vì chuyện thằng Thăng, họ không còn kêu nhau bằng anh anh em em ríu rít ngọt ngào như xưa nữa! Sự phôi pha trong tình cảm biến thể ra ngôn ngữ, là nỗi bất hạnh của mối tình một thời rất đẹp của họ. Họ không còn ôm nhau, âu yếm nhau như thuở nào…

Khi ấy Nam nhìn cha, đôi mắt ông như có một màn sương mỏng trùm phủ… Cô thấy thương cha vô cùng! Như thế, phải chăng cha cô không thể có một người tri âm tri kỷ mà trút bầu tâm sự?

Sau này, càng trưởng thành, cô càng hiểu rằng có một người tri âm tri kỷ khó vô cùng!

- Mười hai giờ rưỡi rồi, Phương Nam ơi! Nam đói chưa? Xin lỗi nhé, để tôi quay về rồi chúng ta đi ăn.

Nhìn cái miệng cười rất đẹp của Bắc, Nam lại vắt óc tự hỏi hình như mình đã gặp Bắc ở đâu rồi!

Họ lấy xe hơi, và theo đề nghị của Nam, hai người phóng xuống Nhà Bè ăn cá chìa vôi, đang cữ cá ngọt thịt nhất trong tháng.

Chìa vôi là giống cá có vẩy như vẩy cá chép, cứng hơn một chút. Trên sống lưng cá có ngạnh y hệt cái chìa vôi thường cắm trong bình vôi của các bà ăn trầu ngày trước. Cá sinh sản và sống chủ yếu ở vùng nước lợ, nghĩa là trên vùng cửa sông, cách biển khoảng mươi, mười lăm kilômét. Thế nhưng không phải cửa sông nào cũng có cá chìa vôi. Ở miền Bắc không có. Miền Nam, chín cửa sông Cửu Long cũng rất ít con cá này. Duy chỉ cửa sông Sài Gòn là có chìa vôi. Cá sống tập trung ở vùng ngã ba sông Đồng Nai nhập vào Sài Gòn, ngang với thị trấn Phú Xuân, Nhà Bè cho tới Cần Giờ. Chìa vôi có thể lớn, rất lớn, có con tới vài chục ký, nhưng phổ biến là từ bốn ký đến mười lăm ký. Những người sành ăn cá chìa vôi bảo rằng, cá nhỏ, dưới ba ký, thịt nhão, không ngon. Người ta bắt được cá nhỏ liền thả ngay xuống sông. Tuy vậy, nguồn lợi cá chìa vôi đang kiệt dần, do tác động ô nhiễm môi trường, do lưu dân tứ xứ đến đánh bắt vô tội vạ…

Thịt gà ngon như thế nào, cá chép ngon như thế nào, cá bống mú ngon như thế nào, thì cá chìa vôi là sự tổng hợp của những hương vị ấy! Thực ra, cá chìa vôi ngon hơn rất nhiều những thứ vừa kể. Nó lại rất lành, chữa được nhiều bệnh. Nó bổ dưỡng cho mọi người, nhưng còn làm khí huyết lưu thông, nhân cường tật nhược… Trời nắng nóng, ăn một tô cháo cá chìa vôi là người mát mẻ, ngủ ngon. Trời mưa tầm tã, vừa đi làm về mà mắc mưa, muốn hắt xì hơi, nướng một đĩa cá chìa vôi lên, hương thơm nhức mũi hàng xóm, uống một ly rượu nhỏ, ăn chìa vôi nướng, tăng nhanh calori, tăng sức đề kháng cho cơ thể, hết cảm cúm. Những người đàn ông độ tuổi ngũ tuần, nếu muốn tăng cường sinh lực để cho chuyện gối chăn toàn bích, nên ăn mỗi ngày một tô cháo cá chìa vôi mà phải nấu bằng xương cá, vây cá và nhất là phải có đầu cá. Cá nước ngọt, cũng công dụng này, duy chỉ có đầu cá rô mề là sánh được.

Một hồ sen hình bán nguyệt có đường kính gấp đôi ngôi biệt thự mang tên Xinh Tươi. Chủ nhà hàng Xinh Tươi, tên khai sinh là Trần Thị Cà, sau khi lấy chồng, cải danh thành Trần Xinh Tươi, tuổi đầu tứ, bốn mươi hai bốn mươi ba, đại loại thế, nhan sắc trung bình nhưng điểm trang rất kỹ. Chồng Xinh Tươi là tài xế xe bồn, sanh ra trước Xinh Tươi đúng một giáp. Tư Xe bồn con nhà lính nhưng tính nhà quan. Cả ngày trên cabin không hề tợp một giọt rượu bia, nhưng tối, sau khi rời vô lăng là ông có nhu cầu ăn nghỉ rất đàng hoàng. Sành ăn - khoản này, ông thừa kế ở cha ông, cựu tài xế xe bồn - và giỏi nấu ăn, những món ngon thiên hạ đãi ông, ông đều tẩn mẩn học để về nhà chui vô bếp tự thực hiện. Bản tánh như rứa nên đến đâu Tư Xe bồn cũng phải kiếm một người đàn bà săn sóc từ ăn nhậu cho tới giấc ngủ. Bởi thế nên tỉnh nào, huyện nào có nhu cầu xăng dầu, có xe bồn tới lui, là tỉnh ấy, huyện ấy có một người đàn bà mà ông gọi là cô Út, người đời kêu bằng vợ nhỏ của Tư Xe bồn. Khi Tư Xe bồn được đề cập ở đây thì nghe nói giả có tới năm chục cô út! Hồi đầu, Tư Xe bồn còn nhớ tên, sau lộn hoài. Một lần đang vặn hai núm vôlum trên ngực cô Mai, lại buột mồm la lên: Cúc à, sao em đẹp quá dzậy?! Thế là Tư Xe bồn bị o Mai nhéo tới bầm thây, bị đạp dzăng xuống đất và phải nhịn trong suốt đêm mặc dù mỡ trước miệng mèo! Từ ấy, Tư Xe bồn Út hóa tất cả các vợ nhỏ. Thôi thì Mai, Lan, Cúc, Trúc, thôi thì Huệ, Hồng, Đào, Tuyết, rồi Tiên, Thúy, Hà, Trinh… tất tần tận thành Út ráo trọi!

Riêng Xinh Tươi thì không bị Út hóa. Người ta là đệ nhứt kia mà! Đệ nhứt phu nhơn Xinh Tươi vốn là con gái độc nhứt của một lão ba đời ghe chuyên săn cá chìa vôi, được Tư Xe bồn xây cho ngôi biệt thự kiêm nhà hàng, chỉ bán ba món cá chìa vôi rất nổi tiếng toàn miền Nam. Giới xe bồn Lào và cánh liền anh bồn Cambốt kháo nhau: Khi tới Tổng kho xăng dầu Nhà Bè nhận hàng mà chưa đặt chân tới nhà hàng Xinh Tươi thì chưa phải tài xế bồn lớn, chưa phải hảo hán xe bồn! Mà quả có thế thật!

Này nhé! Ngay sau khi khách vô, chưa kịp ngồi xuống ghế thì mấy cháu phục vụ trắng ngần, hơ hớ, đã sáp vô, đứa bỏ đá vô ly, đứa bốp bốp mở khăn, đứa dạ thưa… thượng đế ăn gì… Chưa đầy năm phút sau, món thứ nhất: gỏi cá chìa vôi dọn ra, nóng và thơm lừng, nghi ngút bốc hơi. Đó là món trộn tài tình giữa một con bơi trên sông nước lợ, sống và ân ái, sinh con đẻ cái trong môi trường nước ngọt hòa chan cùng nước biển; với các loại rau mọc ở ven sông, rễ rau hút đất và nước của miệt nước ngọt giao hòa cùng nước mặn. Cuộc giao hòa ân ái vĩnh hằng giữa nước ngọt từ trên nguồn tuôn xuống với nước biển từ đại dương bao la dềnh lên khiến những loại rau chưa có tên trong từ điển này thơm, ngon, giòn, ngọt mà đích thị là rau sạch rồi! Không ai hơi đâu mà bón đạm với phun thuốc trừ sâu cho rau mọc bên sông. Cá chìa vôi trộn gỏi với rau bắp chuối, thân chuối non, hay rau cần ta… đã ngon trên mức xuất sắc rồi, nhưng muốn ăn cho đúng điệu, sành ẩm thực, muốn cho món gỏi chìa vôi ăn một lần nhớ trọn đời, nhớ luôn sang cả đời con đời cháu thì phải trộn bằng rau hái ven sông nước lợ! Người nào thích ăn gỏi cá mà ăn được món chìa vôi với ba thứ rau không tên trong từ điển ở Xinh Tươi quán, có chết cũng mỉm cười nơi chín suối! Các loại rượu: rượu thuốc ngâm theo thang Minh Mạng nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, rượu tắc kè ngâm cùng cá ngựa, rượu tay gấu, rượu thất xà nhất điểu, rượu bao tử nhím - phải là con nhím săn được giữa mùa khô,… bán trong quán Xinh Tươi chính là niềm tự hào vô song của Tư Xe bồn. Tư năm mươi sáu tuổi rồi mà săn chắc gọn gàng như trai ngoài đôi mươi, chừng đó cô Út với ông vẫn chẳng bõ bèn gì. Nghe đồn, có một vùng non xanh nước biếc, cảnh và tình tha thiết đến nỗi ông kết nạp cùng lúc năm cô Út! Mà kỳ lắm nghe, tuyệt nhiên không có chuyện ghen tuông giữa năm cô! Có phân công phân nhiệm chu đáo và khoa học. Ông không để Út nào thiệt thòi bao giờ. Đều tăm tắp! Đúng là không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng!

Món thứ hai tại Xinh Tươi quán là cá chìa vôi nướng mọi, hoặc cá chìa vôi hấp tỏi gừng, được dọn cùng với khoai môn cao chiên. Món cá này chấm với muối hột rang và tiêu lốt, tức tiêu xanh nguyên hạt. Rau sống thì chấm nước mắm y*. Nước mắm ở đây tuyệt ngon, nguyên chất, không đường không bột ngọt. Ớt được thửa từ Hà Nội về: ớt sừng trâu màu xanh hơi ửng vàng, cay xé lưỡi ù tai nhưng thơm và bổ, không hại mắt. Dùng dao bén, xắt lát mỏng rồi cho vô rổ thưa sàng qua sàng lại cho rớt hết hạt ớt, phòng khi hạt ớt lọt vào nếp nhăn của bao tử thì chỉ còn nước phẫu thuật cắt bỏ! Đĩa rau xà lách Đà Lạt cùng thảo hương - rau thơm - mười hai loại, trông thật bắt mắt, xanh tươi hơn hớn y hệt bà chủ Xinh Tươi đang ngồi ở quầy thu tiền, cặp nhũ hoa bự như trái dừa Bến Tre, miệng cười tươi roi rói phô hàm răng trắng nhách vì toàn là răng giả.

Nước mắm không pha.

Cái món cá nướng này ngộ lắm. Sức uống một xị thì nó khiến uống ba, sức uống mười ve thì nó xui uống nguyên két! Để rồi nhòe, để rồi túy lúy, để rồi tửu nhập ngôn xuất nói cười rổn rảng, để rồi mắt long lanh nhìn cặp giò, cặp mông, cặp dzú mấy cháu hầu bàn, tay chân bắt đầu rậm rịch và thằng nhỏ thì bật dậy kêu gào đòi được làm việc! Đúng lúc ấy, món thứ ba: cháo cá chìa vôi dọn ra.

Xương đầu cá, xương sống, vây cá hầm ra nước cốt, bí quyết ở đây là mần răng để nước ngọt nước thơm, không mùi tanh, nấu với gạo nàng thơm Chợ Đào hoặc gạo tám xoan Nam Định, cháo nấu loãng, lẫn trong đó mấy sợi gừng non xắt nhuyễn, nấm hương, rau thì là, ngò thơm, tiêu sọ xay, những miếng tim, gan cá và bao tử cá trình bày bên trên khiến thực khách ngẩn người ngẩn cả mũi, rồi bưng bát cháo cá lên là húp! Soàn soạt! Soàn soạt! Y hệt như nông dân ngoài Bắc gặt lúa, cắt gốc rạ tập đoàn đổi công. Soàn soạt! Soàn soạt! Thế là sạch bách tô cháo, có thể nói sạch như rửa! Ô hay, bao nhiêu là rượu là bia đắt tiền bừng bừng trong người giờ này ém nhẹm đi mô cả rồi hè? Rõ là tinh quái! Bà chủ Xinh Tươi đứng ở quầy nhìn vào từng bản mặt của thực khách vừa soàn soạt húp cháo vừa thèm thuồng nhìn cặp nọ cặp kia của mấy cháu hầu bàn đương tuổi đôi tám. Nhìn ngó thì cứ việc, đàn ông thấy gái ắt phải dòm, đây miễn phí, nhưng bờm xơm ư? Cấm! Ở đây là quán ăn. Quán ăn là cấm tiệt, không bao giờ mại mấy cái thứ bảo bối của Giời, của đời. Thèm thì đi nơi khác mà tầm. Ở đây không kinh doanh mấy chuyện đó, nó thất đức lắm. Đồng tiền sạch mới cho hạnh phúc lâu bền. Kinh doanh ba thứ đó thì giàu lẹ, nhưng bạo phát, bạo tàn. Trước sau gì cũng ngồi tù, mà cha mẹ không ngồi tù thì con cháu cũng tù mục xương vì tội lỗi do hệ lụy của đồng tiền dơ bẩn…

Ngọc Bắc và Phương Nam ngồi sát kề hồ sen, xa những bàn khách nhậu. Gió nhẹ, hương sen thoảng trong gió len lỏi vào da thịt Nam khiến cô thấy người nhẹ tênh, thanh thản. Giọng cô trong vắt, đan xen tiếng cười cũng hồn hậu, tinh khôi, như rót mật vào tai Bắc. Những gì cô kể cho Bắc nghe về ba món chìa vôi là của Hùng Tâm thuật cho cô. Bắc nghe cô như học trò uống từng lời của cô giáo dạy văn giỏi. Thực khách ồn ào, không khí trong nhà hàng sôi lên vì men rượu và chất hoạt huyết cường dương của đầu cá chìa vôi. Bàn của hai người không tránh nổi sự tạp nham ồn ào của khách nhậu, tuy thế, họ vẫn thấy vui, vì chuyến đi, vì luồng gió sạch, mát, lành, từ sông Nhà Bè thổi vào, vì những món ăn chuẩn về mặt vệ sinh, cao cấp về mặt dinh dưỡng. Ngoài kia, qua rặng dừa lửa trĩu nặng trái rực lên trong ánh hoàng hôn, cách nơi họ đang ngồi chừng gần hai chục mét là dòng sông đang cuồn cuộn chảy. Những con tàu khổng lồ đang tiến vào cảng Sài Gòn ngược chiều với những con tàu đang hướng ra cửa biển Cần Giờ. Khi gặp nhau, dù chỉ trong khoảnh khắc, chúng liền rúc lên hồi còi oa òa òa òa như là lời chào, lời chúc của những cư dân suốt đời gắn với biển khơi. Đồng hành với chúng là những con tàu hoặc xà lan nhỏ hơn nhưng cũng chảnh chọe ra phết bởi tiếng còi lảnh lót, ra cái điều ta đây cũng là dân ngang dọc hải hồ, hồ thỉ tang bồng chứ có kém cạnh chi ai! Thỉnh thoảng trên mặt sông, gần bờ, hiển hiện một chiếc xuồng tam bản hoặc lớn hơn, chiếc ghe máy của những ngư dân quanh năm chài lưới khúc sông này. Họ là những người săn cá chìa vôi dạn dày kinh nghiệm. Ghe xuồng của họ không có còi để mà rúc, âm thanh mà họ phát ra chỉ là loại âm thanh khiêm nhường của máy Kôle* mười hai sức ngựa, hoặc là tiếng mái chèo tay khua vào lòng nước. Khi những con tàu khổng lồ gặp những chiếc lá me, tức ghe xuồng của ngư dân, từ xa đã phải giảm tốc độ, nếu không thì sóng lớn sẽ lật úp những chiếc lá me kia! Trên những chiếc lá me ấy, anh ngư dân còn trẻ mắt tinh nhanh như rái cá, da đen ánh, bắp chân bắp tay rắn như thép, vừa buông lưới, thả câu, vừa hò đối đáp hoặc ca những làn điệu dân ca nặng tình quê hương, mang tâm thức của kiếp người lao động lầm than nhưng luôn khao khát tình yêu, hạnh phúc. Và giọng hò của một cô gái, chắc còn trẻ hơn, đáp lại… Phương Nam nghe giọng hò của người phụ nữ chiều nay cất trên sóng nước, lời ca có tự lâu rồi, mà sao lòng cô rưng rưng, đau đáu bởi thân phận mười hai bến nước, bọt bèo, trong nhờ đục chịu:

Kôle: một loại động cơ do Ấn Độ sản xuất, một thời dùng phổ biến ở sông nước miền Nam.

- Bí nằm giàn bí, bí than

Không ai ngắt ngọn nấu canh

Thân em nay rách mai lành

Giả như rá chợ, ai đành thì mua.

Một giọng đàn ông trầm trầm cất lên từ một chiếc vỏ lãi khác:

- Đèn treo cột đáy

Nước chảy đèn rung

Anh thương em thảm thiết vô cùng

Biết cha với mẹ bằng lòng hay không?

Giọng cô gái:

- Thân em xét kỹ

Cũng tỷ như đồng bạc đầu hình

Người người ai cũng muốn nhìn

Lăng xăng đương buổi chợ biết gởi mình nơi đâu?

Giọng trầm ấm của người trai:

- Sông Nhà Bè có cây nằm nước

Sông Bao Ngược sóng bủa rao rao

Em gặp anh, sao không hỏi không chào

Hay là em có chốn nào phụ anh?

Giọng cô gái thật mượt mà:

- Bèo nằm dưới ruộng bèo than

Không ai đem rổ xúc mang lên bờ.

Tiếng chàng trai đáp:

- Cây da Bình Đông

Cây da Bình Tây

Cây da Chợ Cũ

Ba bốn cây da rủ cây da tàn

Bao nhiêu lá rụng anh thương nàng bấy nhiêu.

Không có tiếng hò đáp lại, chàng trai tấn tới:

- Nước chảy riu riu

Lục bình trôi líu ríu

Anh thấy em nhỏ xíu anh thương…

Chỉ thấy tiếng mái chèo khua nước rộn lên trên mặt sông…

Sài Gòn mùa này chợt mưa chợt nắng. Một đám mây bay ngang, làm một trận mưa rào nặng hạt. Mặt sông và bầu không khí biến thành màu trắng đục. Câu hò trên sông vẫn vang lên nhưng thấm đẫm nước mưa, hay đẫm nỗi buồn…? Rồi tạnh. Trời sáng bừng. Phương Nam nghe lòng cô nao nao… Trái dừa lửa mà Phương Nam đang uống ngọt thơm đến mức tưởng như không thể có loại nước dừa nào ngọt và thơm hơn thế! Những gì xao xuyến, xa xót tự đáy lòng trào lên khiến đôi mắt bồ câu của cô vương nỗi buồn cuộc tình đầu sớm tàn…

* * *

Phiên tòa sơ thẩm tuyên án Đạt tù chung thân! Dương ba năm tù và phải bồi hoàn đủ số vàng gây thất thoát cho công ty.

Mười ngày sau, Đạt ký vào đơn chống án. Dương cũng chống án. Mấy tờ báo chuyên khai thác các vụ án được một phen bán báo chạy như tôm tươi.

Quá trình tái điều tra tiến hành ì ạch. Mãi mười tháng sau, phiên xử phúc thẩm của Tòa tối cao mới tiến hành. Trường hợp của Dương được làm rõ: Những người thân tín của Dương đã tìm ra bản fax của giám đốc Đại ra lệnh cho Dương, bản fax này bị trưởng phòng kinh doanh Đạo ăn cắp ngay sau khi Dương nhận được vài ngày! Kẻ xấu hãm hại Dương bị vạch mặt. Dương bị phạt một năm tù giam vì tội liên đới trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng tính từ khi bị tạm giam, thời hạn đã quá một năm, anh được tha ngay tại tòa. Tòa cũng nói rõ hành vi của gia đình Dương đưa hai trăm cây vàng là bị bọn cò chạy án móc ngoặc với phần tử xấu trong ngành công an, viện kiểm sát và tòa án đe dọa tống tiền nạn nhân. Vụ này sẽ được đưa ra xử trong một vụ án khác mà bị can chính đã bị khởi tố điều tra.

Về Đạt, vấn đề căn nhà cấn nợ đã được làm rõ. Chính cơ chế xin-cho và quá nhiều thủ tục phiền hà bó tay doanh nghiệp Nhà nước khiến cho các doanh nghiệp cứ phải nói dối để lách cơ chế! Tòa thừa nhận tình trạng chiếm dụng vốn đang tràn lan hiện nay, làm suy vong nền kinh tế vừa thoát khỏi vực thẳm sập tiệm. Thực trạng kinh tế - xã hội đang đòi hỏi Quốc hội nhanh chóng kiện toàn hệ thống pháp luật, phải có luật chi tiết cho từng hoạt động của con người cũng như doanh nghiệp. Nước nào trên thế giới có hệ thống luật pháp hoàn thiện cao thì phải học người ta ngay! Chỉ khi nào Nhà nước pháp trị, tức là điều hành, quản lý bằng luật pháp thì xã hội mới có trật tự, công bằng, mới thật sự tự do!

Riêng khoản chi hoa hồng một trăm ngàn đôla, tòa đã làm rõ được bảy chục ngàn. Còn ba chục ngàn đô, tòa vẫn yêu cầu bị cáo phải trưng ra chứng từ, tài liệu đã chi xài như thế nào. Thế nhưng những người phiên dịch liên quan đến khoản ba chục ngàn này đã phiêu dạt tứ xứ ở cả Đông Âu lẫn Tây Âu. Mà có tìm ra họ thì chắc gì họ dám dũng cảm xác nhận để cứu Đạt? Luật sư của Đạt tranh luận quyết liệt tại tòa bằng những lý lẽ của sự thật, của cuộc sống. Thế nhưng tòa chỉ cần chứng từ. Nếu không có chứng từ hoặc tài liệu thì có nghĩa là Đạt tham ô. Luật sư của Đạt hỏi: Vì sao tòa đã công nhận việc chi quà bằng bao thư hết ba chục ngàn đô mà lại không chịu công nhận ba chục ngàn còn lại, gồm hai chục ngàn chi qua bao thư và mười ngàn giao cho ông Cổ, Giám đốc Chi nhánh Hà Nội. Ông Cổ đã khai và đã chết trong trại giam vì bạo bệnh bột phát. Tòa trả lời: Bị cáo Đạt không đủ cơ sở để chứng minh đã bỏ hai chục ngàn đô ấy vào bao thư hoặc mua quà biếu! Chỉ khi nào bị cáo tìm được người nhận thực hiện việc đó, mới kết luận được bị cáo vô tội!

Khi tòa cho nói lời cuối cùng, Đạt đứng dậy, quay nhìn những người thân và bạn bè. Anh ước ao tìm thấy ánh mắt của Phương Nam, nhưng không có! Anh hiểu người như cô chẳng bao giờ quan hệ với một tên tham nhũng!

- Thưa tòa! Tôi đã và mãi mãi khẳng định tôi là một người trong sạch, cả đời tôi chỉ mong cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, cho xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tôi không hề tham ô tham nhũng. Tôi không hổ thẹn khi thưa với cha mẹ tôi, với các bạn bè tôi, với con tôi, rằng tôi đã sống như một con người chân chính, như mẫu người quân tử trọngnhân nghĩa lễ trí tín. Tôi luôn luôn thực hiện tam bất: Bần tiện bất năng di. Phú quý bất năng dâm. Uy vũ bất năng khuất! Số tiền một trăm ngàn đôla là tiền hoa hồng của người Nga. Tôi tin rằng vài ba năm sau, việc chi hoa hồng, “lại quả” sẽ trở thành chuyện công khai! Đó là tập quán làm ăn quốc tế, dù bất thành văn. Nếu hôm nay tòa vẫn khép tôi vào tội xấu xa nhơ bẩn ấy, thì sau này, Trời có mắt, Trời sẽ minh oan cho tôi, cho dù lúc ấy tôi không còn sống trên cõi đời này!

Cả khán phòng lặng đi trong sự cảm thông, xúc động. Các ống kính máy quay phim, máy ảnh tập trung về phía Đạt. Tòa nghị án để ngày hôm sau phán quyết. Đạt trả lời phỏng vấn của giới báo chí, anh không hề tỏ ra dù một thoáng giận hờn ai, cũng như không hề yếu đuối, nản lòng… Anh bảo anh là nạn nhân của buổi giao thời, khi mà cơ chế cũ, lỗi thời nhưng chưa được xóa hẳn, còn cơ chế mới thì được hoan nghênh, Chính phủ cho thực hiện nhưng chưa thật triệt để. Các bộ, ngành trong Chính phủ còn quay lưng lại nhau, hành tỏi nhau, làm khổ nhau. Một trong những biểu hiện rõ nhất trói tay các doanh nghiệp là hình sự hóa các quan hệ kinh tế!…

Sáng hôm sau tòa phán: Đạt bị mười lăm năm tù giam!

*

Băng Rồng Xanh của thằng Thăng có bốn đứa theo chân đại ca về làm việc cho X.O. Đó là một ông chủ có tiếng là lành, chơi tennis hay và điệu nghệ. Những người cùng giới thì coi X.O là thạo đời, quan hệ giao tiếp vào hàng tay tổ! X.O có bằng cử nhân Luật, biết xài tiếng Anh, tiếng Quảng Đông.

X.O là con thứ hai trong một gia đình có mười người con. Cha người Tàu, mẹ người Việt. Cha X.O có tổ tiên ở Quảng Đông, có tiệm chạp phô tại Chợ Lớn. Mẹ X.O vốn là con gái một ông thợ may từ Hội An vô Sài Gòn lập nghiệp trước năm Năm mươi. Năm Bảy mươi ba, X.O lấy bằng thầy cãi, tập sự luật sư mới chưa đầy nửa năm thì Sài Gòn giải phóng. Suốt khoảng thời gian từ 1976 đến năm Tám mươi lăm, hơn chín năm ròng, X.O nằm gai nếm mật. Đi thanh niên xung phong được hai năm, cực quá xá, X.O chuồn về, rồi chiến tranh biên giới Tây Nam, đi bộ đội, lại chuồn, lăn lóc đủ nghề để kiếm cơm ăn: làm mì sợi, nấu sữa đậu nành, làm xà bông cây, làm phụ tùng xe đạp, xe gắn máy… Làm gì cũng trúng, trúng đậm, nhưng chỉ được thời gian ngắn là bị hốt, bị ngồi tù vì… không đăng ký kinh doanh, trốn thuế! Thời ấy, cả nước tuân theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp nên mọi chuyện mở mang làm ăn khó lắm, phải thần thế xin xỏ chạy vạy tốn kém bộn bạc mới được hành nghề. Tổng cộng, X.O đã ba lần bị ngồi tù! Tất nhiên, do chạy vạy, mỗi lần chỉ phải ngồi có vài tuần là tha!

Rồi tới thời kỳ các cơ quan nhà máy xí nghiệp trung ương cũng như địa phương bung ra làm ăn theo kế hoạch B, C, kêu bằng ba lợi ích*! Sài Gòn dò dẫm, chập chững bước vào giai đoạn Đổi mới, mọi sự bớt u ám dần, con người đã bắt đầu được rướn cổ ngẩng đầu, có cái để mà hy vọng. Năm 1985, X.O kiếm được chân dạy ngoại ngữ và luyện thi. Cuộc sống dần dần ổn định rồi khá lên. Đến năm 1990 thì X.O không đi dạy mướn nữa mà mở lớp của mình, khi quá đông trò, mướn thầy về dạy. Khoản học phí thu được sau vài khóa, X.O cược cả vào một lô đất gần dạ cầu Sài Gòn, vay mượn thêm một mớ, xây liền một sân tennis, một nhà hàng sân vườn và hai ngôi biệt thự đều mang tên Tri Âm. Vốn là người nhạy thời thế, lại giỏi tận dụng những mối quan hệ trên sân tennis với các vị quyền cao chức trọng, không để vuột khỏi tầm tay bất cứ dịp may nào, X.O phất lên mau lẹ.

Thời kỳ này chỉ có doanh nghiệp quốc doanh, một số rất ít công tư hợp doanh, chưa có doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ba lợi ích gồm: lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của cá nhân người lao động.

Sân tennis Tri Âm, nhà hàng sân vườn Tri Âm, biệt thự Tri Âm của X.O thu hút toàn khách thượng lưu, có máu mặt của xã hội! Giai đoạn ấy, Sài Gòn còn ít sân quần vợt lắm. Người chơi có hai loại: giới có chức quyền và giới doanh nhân mới phất. Nhờ tiếp thị giỏi, chơi đẹp chơi sộp, sân Tri Âm gần như hội mặt toàn giới mê quần vợt cả nước. Có nhiều vị làm rất lớn ở Hà Nội, cuối tuần được X.O mời, bao vé máy bay vô Sài Gòn, mắc bận cách mấy cũng lên đường. Các vị vô chỉ cốt đến Tri Âm thư giãn, đánh với ông chủ của nó là Ba Đào vài séc. Ba Đào danh nổi khắp Bắc Trung Nam…

Sân quần vợt, theo Ba Đào, là điểm đến của những người có quyền, có tiền, biết sống và biết thưởng thức cuộc đời! Những ai đã tới Tri Âm, đã gặp X.O một lần thì suốt đời không muốn đến chơi ở sân banh nào khác, chỉ chơi ở Tri Âm, chỉ ăn tại nhà hàng sân vườn Tri Âm, chỉ nghỉ ở Tri Âm villa. Ông Vũ Trọng Phụng có sống lại, hẳn sẽ cười mỉm chi cọp bởi nhân vật Xuân Tóc đỏ của ông thời hiện đại xem ra đã hiện đại đến không ngờ! Trên sân quần vợt, có thể nghe và thấy được toàn cảnh thời sự, kinh tế, chính trị, xã hội cả đất nước. Trên sân, có thể biết được từ những điều cao đẹp nhất cho đến những chuyện ô uế khốn nạn nhất của cuộc sống đương đại. Trên sân, có thể nắm được những điều cơ mật thuộc về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên sân, mọi chuyện khó giải quyết nơi công đường sẽ trở nên đơn giản, dễ dàng. Trên sân có thể bàn bạc, thỏa thuận, sang nhượng, mua bán, giao kèo, ký tá đủ mọi thứ: từ một cặp giò dài, cái eo nhỏ, cho đến đất đai, quyền chức, bằng cấp, xuất ngoại, du học, đôn một ai đó lên, giáng một kẻ nào xuống, làm điêu đứng, khử một người nào đó, bán một lô hàng nhập lậu, tiêu thụ một kho hàng quá đát, định hướng đầu tư mới cũng như thay đổi chiều hướng đầu tư cho cả một miền, một vùng, cấm xuất thứ này, cho nhập thứ kia… Về mặt nào đó, Xuân Tóc đỏ của ông Phụng còn phải gọi đại ca X.O bằng cụ tổ!

Đến khi X.O nhận ra thằng bé vẫn lượm banh cho mình mấy năm qua là cháu nội của ông Hòa, thì ông Hòa đã nghỉ hưu! Đâu có sao! Ở xứ mình, quyền lực là tài sản lớn nhất. Uy tín cũng là tài sản, nhưng là tài sản vô hình. Một người uy tín ngời ngời như ông Hòa thì nghỉ hưu đôi khi lại hay hơn cả khi còn đương chức! Vấn đề là phải chờ đúng lúc để tận dụng, phát huy. Thế nên thằng Thăng được tuyển dụng. Tiếng là đại ca X.O nhưng Ba Đào không uống được nhiều. Chưa bao giờ X.O say xỉn. Người say xỉn là nô lệ của rượu. Chỉ có thể là ông chủ chứ X.O không bao giờ chịu làm nô lệ nữa! Mười năm trời xất bất xang bang từ sau cái ngày nóc Dinh Độc lập thay cờ là quá đủ rồi! Ba Đào dùng rượu ngon, gái đẹp, tức là mỹ tửu và mỹ nữ để sai khiến người khác, làm phương tiện cho mình đạt mục đích chứ không phải để say sưa túy lúy tối ngày. Đại ca X.O nổi danh vì hào phóng với khách khứa, đã tiếp khách sộp là chỉ uống rượu Tây, mà chuyên trị Hennessy X.O.

Có rất nhiều người uống rượu nhưng mấy ai biết thưởng rượu? Ba Đào tự hào biết thưởng thức cuộc đời. Ly rượu trong tay Đào, dù là rượu đế, Đào cũng rành sáu câu: hương vị, màu trong hay đục, nấu bằng nếp, tẻ, hay khoai mì, bắp, ủ bằng loại men gì… X.O từng thưởng thức những loại đế nổi danh cả nước như đế Gò Đen (Long An), Xuân Thạnh (Trà Vinh), Bà Điểm (Hóc Môn, Sài Gòn), Bàu Đá (Bình Định), Làng Chuồn (Phú Vang, Huế), Kim Long (Quảng Trị), Trương Xá, Phú Lộc (Hải Dương, Hưng Yên), Làng Vân (Bắc Ninh)…! Trên thế gian này, người ở phương trời nào cũng có niềm tự hào rất chính đáng về món ngon của lạ quê mình. Rượu là một trong những niềm tự hào đó.

Người Pháp tự hào là một trong những quốc gia cất rượu từ trái nho ngon nhất thế giới. Họ coi rượu là tinh chất của cuộc đời! Họ tự hào về việc uống rượu Champagne, vang Bordeaux như là nghệ thuật sống. Đã có thời kỳ, bình quân một người Pháp uống một trăm lít rượu vang một năm. Khẩu phần của người lính giữa chiến trường luôn luôn có ly vang đỏ! Một trong những vùng trồng nho nổi tiếng nhất là Bordelairs; với hơn một trăm hai chục ngàn hécta đất đồi núi, một vạn hai ngàn nông dân xứ này cho ra lò hơn bảy trăm triệu lít rượu vang mỗi năm. Nhưng trái nho không chỉ nấu ra sâm banh và vang đỏ, vang trắng… mà chế phẩm tuyệt vời của nó chính là rượu Cognac. Gia tộc Hennessy dẫn đầu về loại rượu thượng thặng này. Hennessy cất từ nho của Pháp (khác với Whisky là rượu cất từ lúa đại mạch, nổi tiếng nhất là Whisky Scotland). Hennessy có nồng độ bốn mươi phần trăm, gồm các loại X.O, V.S.O.P, là sản phẩm của công ty JAS Hennessy Co, thành lập năm 1765. Đây là loại rượu hợp gu của Ba Đào. Các loại nhãn hiệu như: Extra, XO (Extra Old), Napoléon, Grand Reserve, Cordon Bleu, Liqueur Cognac là những loại rượu Cognac được ủ rất lâu, trên năm chục năm hay hơn nữa. Chất lượng của rượu Cognac không chỉ phụ thuộc tiến trình chưng cất mà còn là sự tổng hợp của thổ nhưỡng, khí hậu và các điều kiện khác để cho ra trái nho. Nho sau khi hái, ép lấy nước cốt (đổ vô trong máng để cho các thiếu nữ còn trinh dẫm đạp bằng những gót chân son), ủ lên men, đưa vào nồi cất. Rượu mới cất không có màu, chứa khoảng bảy chục phần trăm cồn và còn mùi vị trái cây, thậm chí cả mùi đồng (của nồi cất). Rượu được ủ trong thùng gỗ sồi, ủ càng lâu càng ngon. Do gỗ sồi thở ôxy mà giúp cho rượu đổi dần thành màu hổ phách, có hương vị nho dịu dàng. Bước tiếp theo là pha chế các loại Cognac với nhau (từ ba chục đến năm chục loại) sao cho rượu có vị ngon nhất trước khi vô chai dán nhãn.

Thường các ngôi sao hoặc các chữ kí hiệu được ghi trên nhãn để chỉ chất lượng rượu. V.O: Very Old. V.S.O.P: Very Superior Old Pale - Trên cả mức rất cũ xưa; mà dân nhậu đọc theo tiếng Pháp trại ra: “Verser Sans Oublier Personne”- rót không chừa một ai! Tuy nhiên dân không chịu nhậu cự lại thành: “Verser Sans Oubliger Personne” - rót không bắt buộc ai! Những kí hiệu, chữ viết tắt trên được coi vượt cả ba sao về thời gian ủ rượu (ba sao phải ủ ít nhất bốn năm rưỡi), vì thế hơn hẳn về chất lượng. Khi đổ Cognac trên tay, hơi ấm từ lòng bàn tay làm rượu tỏa mùi thơm ngào ngạt.

Đến với Tri Âm, được những bông hoa nhỏ trẻ trung xinh như mộng dâng mỹ tửu, lại được chủ nhân khai hóa cho những tri thức về rượu, ông Trọng, ông Thất và một lô xít xông các ông, các chú, các anh hai, ba, tư, năm, sáu, bảy… ai mà chả mê!

Ba Đào hiểu rằng, tiếng là đày tớ của dân nhưng không phải ai cũng như ai. Có rất nhiều người vô cùng liêm khiết, thực sự tận tâm vì sự nghiệp, hy sinh tất cả cho mục tiêu, cho quyền lợi chính đáng của nhân dân, mất ăn mất ngủ vì dân vì nước. Nhưng có không ít đày tớ của dân, lại bị hấp lực quá mãnh liệt của sự quyến rũ, xa rời lý tưởng cách mạng cao đẹp, gia nhập mê cung ăn chơi nhảy múa; cùng giới doanh nhân giàu xổi, mới phất lên bằng mánh mung chụp giựt, khi ra sân chơi tennis thì hầu như ông nào cũng khoái rượu và khoái… của lạ. Nghĩa là họ biết thưởng thức cuộc đời! Ấy, cuộc đời nó thi vị ở cái chữ lạ đó mà! Các cụ dạy: L… lạ, cá tươi! Trúng phóc!

Từ năm 1993, Ba Đào X.O đã lao vào kinh doanh bất động sản. Thời đó, đất đai ở Thủ Thiêm, Thủ Đức, Nhà Bè… rẻ hơn cả bèo, xin cũng được vài mẫu. Nhà đất ở nội thành quận Nhất quận Ba cũng rất rẻ. Ba Đào mua mua bán bán quay vòng vốn rất lẹ. Chả mấy đỗi, thầy Đào đã có trong tay vài mẫu đất ven sông Sài Gòn ở bán đảo Thủ Thanh, Thủ Đức, cùng hơn chục căn nhà ở trung tâm thành phố.

Sự đời, trâu cột ghét trâu ăn, có người độc miệng bảo: Thằng Ba Đào quen biết rộng, ăn chơi toàn thứ cộm cán, được bọn mafia rửa tiền chớ nó là cái thá gì mà tài sản lên hàng triệu đô mau lẹ quá vậy? Câu ấy đến tai, Đào chỉ cười, cười rất lành, cái miệng rộng ngoác gần tới mang tai phô ra hàm răng trắng, khá đều và khít rịt. X.O có cái mũi to như mũi lân, hai vành tai rộng, dái tai dày và bự như tai Phật. Người ta bảo, mấy người như rứa giàu dữ lắm!

Ở Sài Gòn, sau bất động sản thì không gì kiếm lời lẹ mà chắc ăn bằng nghề mở nhà hàng, quán nhậu. Quán bình dân lúc nào cũng đông nhưng nhếch nhác, vệ sinh kém. Nhà hàng sang trọng thì sạch sẽ nhưng ít người tới. Tính toán kỹ, X.O quyết định mở một nhà hàng thiết trí đẹp, bàn ghế chén ly sạch, đẹp và sang, nhân viên phục vụ có nghề, tận tâm, món ăn ngon, giá cả rẻ hơn các nơi khác, món ăn từ dân dã đến cao cấp, thứ gì cũng có! Trong nhà hàng của X.O, nhân viên không được phép nói không mà chỉ được nói có, và trên môi luôn sẵn nụ cười!

Thằng Thăng ngày càng xứng đáng là trợ lý đắc lực cho X.O về phương diện ngoại giao. Nghĩa là khi X.O cần đưa thư, gửi chút quà hay gửi một mỹ nữ tới ai đó, ở địa chỉ khách sạn nào đó thì thằng Thăng mần ngon ơ. Mọi chuyện xuôi chèo mát mái!

Từ năm Một ngàn Chín trăm Bảy mươi bảy, cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực tác động vào Việt Nam. Hàng loạt công trình có vốn đầu tư nước ngoài đình trệ. Chỉ riêng lãnh vực cao ốc văn phòng, căn hộ cho thuê cao cấp tại thành phố Hồ Chí Minh có tới gần trăm dự án, nhưng chỉ có hơn chục dự án hoàn tất, còn lại dở dang hoặc ngừng ngay sau khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp phép. Dự án khu đô thị mới tại Thủ Đức do một tập đoàn đa quốc gia của Hoa Kỳ đầu tư, được cấp phép vào tháng 12-1996, vốn đầu tư ban đầu gần một tỷ đôla, xin dừng hẳn! Dự án đường cao tốc Sài Gòn - Vũng Tàu và dự án cảng container Sao Mai Bến Đình vốn đầu tư gần một tỷ đô cũng xin trả lại giấy phép! Bức tranh toàn cảnh về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vừa lóe sáng lên từ năm 1993-1996 đã sớm tắt ngấm! Trên những con đường đẹp nhất thành phố, tại những vị trí trung tâm của trung tâm, hàng loạt mặt bằng được đền bù giải tỏa và san nền tốn cả trăm triệu Mỹ kim, giờ đây thành đất hoang cho cỏ mọc, chó ỉa, người đái bậy, và là nơi chích choác của dân ghiền. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực ngấm vào từng ngõ ngách đời sống và nền kinh tế vốn ngắc ngoải, èo uột. Lao động thất nghiệp lại đầy đường đầy phố. Hàng ngàn người di dân tự do từ các tỉnh phía Bắc và miền Trung đổ vào, cùng với những thanh niên miệt vườn ở châu thổ sông Cửu Long bung về thành phố hy vọng tìm cơ hội đổi đời. Nay đầu tư nước ngoài ngừng hẳn, họ đành ôm mối thất vọng để rồi kiếm ăn từng bữa bằng mọi giá. Hàng ngàn cô gái có chút nhan sắc sa vào con đường bán trôn nuôi miệng với đủ loại dịch vụ như cà phê ôm, bia ôm, hớt tóc ôm, karaôkê ôm… Không có nơi nào như ở Sài Gòn, quán nhậu, nhà hàng và những tiệm giải trí mọc lên như nấm sau mưa rào. Biết bao biệt thự, khách sạn mini của người Việt mình tung vốn ra xây cho lẹ để đón các nhà đầu tư nước ngoài đến thuê, nay trơ gan cùng tuế nguyệt.

Hùng Tâm chịu cú khủng hoảng kinh tế như bị Trời giáng! Bao nhiêu vốn liếng có được nhờ mấy cơn sốt đất, chôn vào hệ thống ba chục biệt thự và khu nghỉ dưỡng ven sông, giờ thành công cốc. Biệt thự tiện nghi, phong cảnh hữu tình mà không có ma nào thuê! Tiếc quá hóa bệnh. Sáng sáng, Tâm điện thoại cho các công ty du lịch, các công ty nước ngoài đang có mặt tại Sài Gòn hỏi thăm, nhờ vả, hẹn hò, mời đi ăn, đi chơi… để họ dẫn mối, giới thiệu khách có nhu cầu thuê phòng ở, phòng nghỉ. Giá thuê phòng đao còn một phần ba, rồi một phần tư so với thời kỳ đầu năm 1996, mức chi hoa hồng cho người môi giới tăng gấp đôi, rồi gấp ba, mà vẫn không có khách. Ế ẩm, ngán ngẩm, sinh ra lẩm cẩm… Tâm chặc lưỡi để mặc nhân viên cho thuê phòng theo giờ, phục vụ nhu cầu giải trí tình dục… Thế là bị công an tóm! Lại phải tốn khoản tiền lớn hơn để được tha…

Thế nhưng có những kẻ lại hốt khẳm nhờ thời buổi khủng hoảng! Ba Đào là người chưa hề bỏ lỡ một cơ hội nào. Nhìn những lô đất đẹp như mơ ở trung tâm thành phố, Ba Đào nghĩ ngay đến chuyện mướn lại, tất nhiên với giá rất bèo để mở nhà hàng. Chỉ trong vòng hai tháng, Ba Đào cho khai trương đồng loạt sáu nhà hàng. Cùng với nhà hàng đang kinh doanh, hệ thống bảy nhà hàng của X.O đạt công suất phục vụ hơn sáu ngàn lượt khách một ngày. Phải công nhận là vợ chồng X.O có duyên với việc mở nhà hàng. Cái nào cũng đông nghẹt khách! X.O đặt tên cho hệ thống nhà hàng của mình một cái tên rất chi là hơi thở thời đại: Hội Nhập, đánh số từ một tới tám. Tiền lời của kinh doanh nhà hàng, X.O ném vào cuộc mua lại nhà đất với giá rất chi rẻ mạt của những tay mơ, ngu lâu, chúi đầu vô xây nhà, xây khách sạn, biệt thự để hứng bụi! Hàng ngày, ngoài những vụ việc thuộc về lãnh vực ngoại giao với quan chức, các đối tác, các cấp các ngành, X.O giao cho Thăng nhiệm vụ đi thanh sát về trật tự an ninh, vệ sinh tại các nhà hàng. Dần dà, việc đó trở thành công việc chính của thằng Thăng, bởi đâu phải ngày nào cũng có việc biếu xén quà cáp và dâng gái tơ cho đối tác! Khi X.O cần thêm người, Thăng tiến cử bốn thằng trong băng Rồng Xanh.

Độ rày Thăng rủng rỉnh tiền bạc. Nó đã mua được xế hộp rất chiến, và tháng nào nó cũng mang về cho bà nội hai triệu đồng, đ?