Mười bốn Kết cục thứ nhất
Quá trình hỏi cung thằng Thăng kéo dài bởi một vụ án khác. Cảnh sát điều tra tìm ra tại nhà Ngọc Tiên nhiều tài liệu chứng tỏ Ngọc Tiên liên quan đến một đường dây chạy án xuyên quốc gia. Đã có đủ bằng chứng về việc Ngọc Tiên tham gia chạy án cho một trùm mafia khét tiếng. Vụ này Ngọc Tiên nhận lệnh từ một người có biệt danh là đại ca X.O. Tên trùm mafia vừa bị bắt. Cùng bị cất vó đợt này có hơn một trăm người, nhiều quan chức nhà nước ở cấp cao! Bởi thế, khi thấy thằng Thăng là nhân viên của công ty Tri Âm, công an khai thác tiếp… Trong số quan chức nhà nước bị bắt, có cả Thiếu tướng Chiều, tên cúng cơm là Hả, tác giả bài thơ đọc trong đám cưới tập thể thời chống Pháp: … Yêu nhau ta cứ pằng pằng suốt đêm…!
Sau hai lần gia hạn thời gian tạm giam, trưa hôm đó, sau khi nhận suất ăn, thằng Thăng xin quản giáo cho giấy bút để viết lời khai… Sau bữa ăn được vài phút, người gác trại phát hiện thằng Thăng đã chết, mắt trợn ngược, người co quắp, da mặt đen kịt như mực Tàu.
Tin này về đến nhà bà Lịch vào bữa ăn tối. Hôm ấy Phương Nam về trễ nên bà Lịch ngồi chờ con. Chuông điện thoại reo… Nghe tin dữ, bà Lịch gục xuống. Cụ Nguyễn từ trên lầu xuống phòng ăn, thấy con dâu nằm bất tỉnh trên sàn nhà thì hốt hoảng la lên:
- Lịch ơi! Con sao thế này?
Cụ bắt mạch cho con dâu, mạch rất yếu. Cụ lấy cái gối rồi nâng đầu bà Lịch lên gối, duỗi thẳng chân tay và làm động tác cứu cấp cho bà tỉnh lại. Sau khi được uống ly nước ấm có bột sâm, bà Lịch mở mắt ra, mạch đã đập đều. Ống nghe rơi xuống mặt bàn nên máy điện thoại réo ú ú nãy giờ, cụ Nguyễn nhận ra và cầm lấy đặt vào máy. Ngay sau đó, cụ nhấn số gọi cho cháu gái. Vừa nghe tiếng tu kéo dài bên kia đầu dây thì cũng là lúc Phương Nam về tới.
Phương Nam đỡ bà Lịch ngồi dậy, dìu bà lên giường. Lúc này bà mới tỉnh hẳn, dù đầu còn váng vất. Bà nắm chặt bàn tay khô gầy của cha và bàn tay mềm mại của Nam, khóc òa…, nói trong tiếng khóc:
- Cha ơi! Con gái ơi!… Cháu Thăng bị… chết… trong tù rồi!
Gia đình bà Lịch đến trại giam xin được mang xác thằng Thăng về chôn cất, nhưng chưa được! Đây là một vụ án lớn. Việc điều tra vì sao thằng Thăng chết đang tiến hành…
Cụ Nguyễn không nói không rằng, mắt khô khốc, không rơi lệ cũng không rỏ máu. Phương Nam nhìn ông nội mà phát hoảng lên, mặt nội trắng bệch như sáp, toàn thân bất động. Cụ Nguyễn nằm liệt giường. Gia đình bà Lịch chìm trong tĩnh lặng. Con chim họa mi ngoài hành lang trước cửa phòng Phương Nam cũng ủ rũ, không hót một tiếng nào suốt những ngày này. Mãi một tuần sau, người ta mới cho phép gia đình bà Lịch nhận xác thằng Thăng. Cụ Nguyễn lặng im như tượng mấy ngày qua, khi nghe bà Lịch báo tin ấy, cụ thốt ra mấy tiếng rời rạc, khô khốc:
- Đưa lên… Bình Hưng… Hòa…!
Chuyện thằng Thăng bị đầu độc chết trong trại giam được Hùng Tâm báo cho Bắc và Thảo đúng vào lúc Bắc rước ông bà ngoại từ Hà Nội vô. Anh phải năn nỉ mãi ông bà ngoại mới chịu vô Sài Gòn, nhưng giao hẹn trước là chỉ chơi đúng một tuần rồi về; khi nào cháu cưới vợ, ông bà sẽ vào chơi lâu hơn!
Ngọc Bắc đắn đo mãi rồi cũng kể chuyện ông Hòa cho ông bà ngoại biết. Ông ngoại nghe xong, mừng rỡ reo lên:
- Thật thế à, con! Thế là những lời cầu mong của ông bà bao nhiêu năm qua đã được Trời, Phật chấp thuận rồi con ơi! Đây là đại hồng phúc, Bắc à!
- Nhưng… - Bắc tính nói, nhưng bà ngoại tiếp lời ngay:
- Không nhưng gì sất! Con không cha như nhà không nóc! Dù có tồi tệ đến mức nào chăng nữa thì người ấy cũng là cha con! Hãy đến, quỳ xuống mà xin nhận cha cháu, đến ngay!
- Phải, đến ngay kẻo không kịp! - Đến lượt ông ngoại nói như ra lệnh - Ông nội cháu và cha cháu có thể ra đi bất cứ lúc nào! Khi đó, cháu hối không kịp, mà sống cũng không bao giờ được thanh thản!
Ngọc Bắc sắm một cái lễ giản dị nhưng trang trọng, thành kính, đúng theo phong tục, đến nhà bà Lịch.
Bà Lịch già đi rất nhiều sau khi thằng Thăng chết. Thương con, thương cháu muốn đứt từng khúc ruột, đôi lúc bà không thiết sống nữa! Cuộc đời bà sao mà nhiều khổ đau đến vậy? Ngày thất tuần của thằng cháu sấu số, bà Lịch ở trên chùa, nơi để bình tro cốt cháu bà suốt từ sáng tới tối. Hôm ấy bà đã cầu khấn rất nhiều… Một trong những điều bà cầu xin Đức Phật phù hộ là Ngọc Bắc sẽ về với gia đình bà!
Quả nhiên, tối đó, Phương Nam báo tin ba ngày nữa, Ngọc Bắc sẽ làm lễ xin nhận cha! Bà Lịch không tin ở lỗ tai mình, hỏi lại con gái. Đến khi biết đích xác, bà vui quá. Đêm ấy bà thắp nhang khấn vái, tạ ơn Trời, Phật còn đoái thương đến gia đình bà, nhất là còn tha thứ cho chồng bà. Bà yêu chồng, thương chồng hơn cả bản thân. Bà tin rằng, nếu Ngọc Bắc về nhận cha, chắc chắn chồng bà sẽ hồi phục, vợ chồng sẽ được sống bên nhau… Bản tánh bà Lịch cũng như hầu hết những người phụ nữ Việt Nam sống trên phần đất phía Nam là vô cùng giàu lòng nhân ái. Bà không giận ông Hòa nữa!
Ghen tuông cái nỗi gì khi mà con người ta đối diện với sự chết? Không cần đối diện với sự chết, chỉ cần một lần chịu ơn cứu mạng là đã có thể bán cả cái vũ trụ này - nếu bán được - mà trả ơn rồi! Ghen tuông cái nỗi gì khi mà một nữ trí thức xinh đẹp vào hàng nhất nhì Hà Nội đã tự nguyện trao thân cho chồng bà mà không đòi hỏi một điều kiện ràng buộc nào, một dòng địa chỉ cũng không! Ghen tuông cái nỗi gì khi mà chồng bà đã trọn đời theo cách mạng, nay về già trầm uất nỗi cô đơn! Không thương nhau, chia sẻ với nhau thì thôi chứ ai lại đi ghen bóng ghen gió như rứa, hóa ra mình kém cỏi, vô tình, cạn lòng nhân lắm ru? Giá gì, hồi đó bà Ngô Thanh Việt sanh đôi, sanh ba cho bà… nhờ! Đứa con trai tuấn tú khôi ngô thế kia, đã mang nặng trên đôi vai nỗi côi cút bao nhiêu năm trường, đã từng đói khổ, đã từng đi bụi, đã từng nếm mùi trại giam, mui ô uế dưới đáy xã hội… Vậy mà, bằng ý chí, bằng khát vọng làm người, nó đã vươn lên, vượt qua số phận, vượt qua thử thách, qua mọi cám dỗ, quyến rũ để sống như một người trai nước Việt! Nó thật xứng đáng với giòng dõi nhà cụ Nguyễn! Có được thằng con trai như thế, lúc này, không gì sánh được. Nếu như có một thế lực nào đó bắt bà Lịch phải chết tức khắc, thì nhà cụ Nguyễn mới được nhận thằng cháu đích tôn này, bà Lịch cũng cam lòng chết ngay. Lòng dạ bà, có Trời chứng giám!
Ngay sau khi nghe tin thằng Thăng bị ám hại, ông Hòa phải vô viện cấp cứu một lần nữa, tưởng phải lìa đời! May mà ông vượt qua cõi chết, hồi phục dần. Rồi gia đình lại đón Hòa. Ở bệnh viện, không tiền nào chịu nổi! Đến sữa Ensure một trăm ngàn một hộp, ở nhà có mua, những người đến thăm có biếu, nhưng bệnh viện không cho dùng sữa đó, phải dùng Ensure của bệnh viện! Ông Hòa về nhà hôm trước thì hôm sau Ngọc Bắc đến làm lễ nhận cha…
Chẳng rõ có thần lực nào tiếp sức, khi Ngọc Bắc cúi lạy cha trước giường, ông Hòa ra dấu muốn ngồi dậy. Bà Lịch đỡ chồng, và ông ngồi được, không chỉ một vài phút mà ngồi liền nửa tiếng đồng hồ!
Cũng chang hiểu sao mà mỗi ngày ba bốn bận, lỗ tai cụ Nguyễn rong róc tuôn ra phân dơi hôi rình. Thế mà từ sáng tới giờ, từ lúc cháu Bắc quỳ lạy, nhận ông nội tới giờ, đã mười hai giờ trưa rồi, lỗ tai cụ vẫn im ắng, đầu cụ không bị nhức nhối mỗi khi tai tuôn ra cái thứ đen ngòm ấy nữa!
Ca hai cha con cụ Nguyễn cười thật tươi, nụ cười của những người đã cập kề miệng huyệt chợt được tiếp thêm sinh lực diệu kỳ do Trời ban cho…
Bà Lịch khóc òa khi Ngọc Bắc cúi lạy và kêu bà là má! Bà không ngồi nữa mà đứng lên, nắm lấy tay Bắc, rồi cứ khóc hu hu như chưa bao giờ bà được khóc vì sung sướng, như hôm nay. Nước mắt của bà, ai hiểu được? Ông Hòa có hiểu nổi không? Nước mắt của người vợ suốt đời hy sinh cho chồng, cho con, cho gia đình chồng, nước mắt của một kẻ luôn quên mình…
Ngay sáng hôm sau, ông bà ngoại của Ngọc Bắc chủ động đến thăm gia đình cụ Nguyễn. Khỏi phải nói về niềm vui của cụ Nguyễn, của vợ chồng ông bà Hòa Lịch, của cả gia đình Phương Nam đến mức nào!
Phương Nam như đang tuổi đôi tám! Tóc đen nhánh, da trắng hồng, mặt trái xoan, môi đo… Nhìn cô, người ngoài như cảm được sức trẻ của cô làm tươi mát! Bạn bè bảo cô thuộc những người không có tuổi. Từ nay Phương Nam có một người em trai tuyệt vời! Cô vui và hát liền ba bài trước bàn tiệc gia đình. Công việc của cô cũng may mắn. Trường mới xây dựng khang trang, hiện đại. Bằng lòng trọng thị hiền tài và uy tín của mình, cô quy tụ được toàn giảng viên giỏi, học từ nước ngoài về. Mỗi khóa, trường Ngọc Phương Nam đào tạo một ngàn năm trăm học viên.
Mới đây, Ngọc Bắc ký hợp đồng với chị Nam gửi đào tạo cho hai trăm nhân viên tiếng Anh, tiếng Nhật và tiếng Hoa. Dự án Thủ Thanh ngày càng phát triển với quy mô đầu tư khổng lồ. Hai chị em, mỗi người một vẻ, đang là gương mặt của các doanh nhân trẻ. Cả Phương Nam lẫn Ngọc Bắc được Hội Liên hiệp Thanh niên giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội. Công việc của trường, Nam tin cậy giao cho thầy hiệu phó Lê Trung Nghĩa, người Huế, tiến sỹ tâm lý học từ đại học Yale Hoa Kỳ về nước, làm việc với Nam mấy năm nay. Không chỉ tin cậy, cô đã nhận ra tín hiệu của Lê Trung Nghĩa. Tín hiệu từ anh chàng tiến sỹ miệng rộng, cao lêu đêu tới một mét tám mươi này khiến trái tim không ít lần xao động… Trời ban cho cô vóc dáng trẻ trung gợi cảm lạ lùng. Càng đối diện với nỗi éo le của cuộc sống, trong vất vả, trong gian khó, cô càng mơn mởn, phơi phới sức xuân. Có lẽ là nhờ vào ý chí chăng?
Cô có phong cách sống khoa học, lành mạnh, ưa sạch sẽ. Trước những hiện tượng ăn chơi trác táng, mê bia ôm hơn là công việc, trước sự băng hoại đạo lý ngoài xã hội, nhất là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, viên chức… Nam rất đau lòng. Cô cho rằng sự tha hóa của con người chưa dừng lại ở đó nếu như vườn ươm - tức là ngành giáo dục, đào tạo và chính sách cán bộ, việc trọng dụng nhân tài… - không có một cuộc thay máu thật sự!
Giáo dục đã và đang trở thành thị trường bát nháo! Theo quan niệm cổ truyền về Tam cương: Quân - Sư - Phụ, hình ảnh, uy đức của người thầy rất thiêng liêng! Thế mà nay không ít nhà giáo tha hóa, làm mọi cách để hốt bạc! Cơ chế đào tạo theo khuôn mẫu lỗi thời, đầu vào rất khó, nhưng đầu ra rất dễ! Giáo trình giảng dạy sử dụng mười lăm năm mà không thay đổi! Thi cử thì có tiền là xong! Tiến sỹ như cua đồng tháng sáu. Tỷ lệ tiến sĩ ở nước này có lẽ là cao nhất trong khu vực! Trong khi đó, tri thức trang bị cho người học lỗi thời, rập khuôn theo kiến thức nửa thế kỷ trước.
Thời đại công nghệ thông tin hiện nay, lao động tri thức, kinh tế tri thức phải là tiên phong, là động lực mạnh nhất để Việt Nam vươn lên ngang tầm khu vực. Nhưng nền giáo dục đào tạo như thế thì hy vọng gì! Điều day dứt là không phải người học dốt, mà cả hệ thống điều hành ngành giáo dục làm cho tài năng tê liệt!
Phương Nam tạo được không khí rất dân chủ trong sinh hoạt nghiệp vụ nội bộ giảng viên. Mỗi cuộc họp giảng viên trong trường, Phương Nam luôn tế nhị nêu vấn đề tư cách người thầy và lối sống gương mẫu trước học viên, trước xã hội. Theo cô, phải là có lối sống lành mạnh, sạch sẽ thì mới dung dưỡng tâm hồn thánh thiện… Cô vẫn dành thời gian cho việc học để không ngừng nâng cao kiến thức. Càng học cô càng thấy mình còn thiếu tri thức, kinh nghiệm! Và cô tiếp tục dịch sách, nhưng cô không dịch hầm bà rằn theo đơn đặt hàng như trước, mà chỉ chuyên chú vào mảng sách văn học. Cô đã thương lượng được bản quyền và vừa dịch xong bộ tiểu thuyết hai tập Thơm mãi với đời! của một nhà văn Mỹ đang là bestseller.
Thầy Nghĩa đã chính thức ngỏ lời cầu hôn với cô! Cô trân trọng tình cảm của Nghĩa, nhưng… Cô hiểu rằng tình cảm giữa cô với Nghĩa chưa có thể gọi là tình yêu! Nam khao khát tình yêu. Mà người tình lý tưởng của cô thì… không phải là Nghĩa! Hôn nhân đâu phải chuyện một sớm một chiều mà thành! Hôn nhân mà không xuất phát từ tình yêu thì chẳng khác nào chuyện gá nghĩa, gá tình, trước sau gì cũng lâm vào bi kịch. Nam hơn Nghĩa hai tuổi. Nghĩa nói: gái hơn hai, trai hơn một, rất đẹp đôi! Còn Nam, cô e rằng chính bản thân Nghĩa cũng chắc gì đã yêu cô. Nhiều khi, người ta ngộ nhận tình yêu với sự cảm mến, thích thú, mê say một người vì vóc dáng bên ngoài, vì điều kiện vật chất, vì địa vị, chức quyền… Nghĩa ơi, cứ để cho thời gian chứng minh là hơn! Chớ nên vội vã!
Lễ hỏi của Ngọc Bắc và Minh Thảo diễn ra thật trang trọng. Hai gia đình ông Hòa và ông Hoàng đang trong sống ngày vui nhất! Cụ Nguyễn đã chống gậy đi lại bình thường, lưng không hề còng, sung sướng được cùng ông bà ngoại của Bắc mang lễ vật sang nhà ông Hoàng làm lễ hỏi. Còn ông Hòa, nay đã tỉnh táo, mỗi ngày ăn được ba chén cháo thịt, uống ba ly sữa, tuy nhiên, ông đi lại còn rất khó khăn.
Chưa đầy tháng nữa là tết Nguyên đán Tân Tỵ. Dự kiến, lễ cưới của Bắc, Thảo sẽ được tổ chức vào mồng một Tết. Nguyễn Thành Đạt bán thân bất toại, vẫn không nói được, gia đình xin cho Đạt ra viện. Ông Hoàng, bà Ngọc đưa con trai trưởng lên dưỡng bệnh tại trang trại mang tên Ánh Dương của con trai thứ hai.
Giao thừa, thành phố có rất nhiều điểm tổ chức lễ hội vui xuân, nhưng đông nhất, sôi nổi nhất phải kể đến lễ hội tổ chức tại Quảng trường Rừng, nơi nhìn ra chỗ hợp lưu của hai giòng sông lớn. Lễ hội vui xuân Tân Tỵ do Công ty cổ phần Toàn Cầu tổ chức diễn ra suốt một tuần. Đêm giao thừa, pháo bông nở đỏ rực trời. Chưa có năm nào bắn pháo bông mà đẹp, ma nhiều đến thế. Cụ Nguyễn ông Hòa được con, cháu đưa xuống du thuyền Ngọc Viễn Đông, khi chỉ còn hai chục phút nữa là tới giao thừa. Chiếc du thuyền lướt đi êm ái. Đúng vào lúc Ngọc Viễn Đông cập cảng để lên Quảng trường Rừng thì đồng hồ điểm mười hai tiếng chuông, pháo bông phủ kín nền trời xanh thẫm, cái màu xanh mà trong ngành gốm sứ thế giới gọi là màu xanh Vua, còn người Trung Hoa gọi là vũ quá thiên thanh*. Nền trời rực rỡ pháo bông in rõ trên mặt hai dòng sông đang con nước lớn. Ngọc Bắc khui chai rượu sâm banh của Pháp, loại hai chục năm, tiếng nổ rất lớn, cùng với tiếng vỗ tay của cả nhà. Ba chị em Bắc, Nam và Hùng Tâm nâng những ly rượu thơm phức mời ông nội, mời ba má. Tâm hét vang ba lần: Chúc mừng năm mới! Happy New Year! Mọi người thành kính nói những lời chúc tốt đẹp nhất. Cụ Nguyễn nhâm nhi uống hết hai ly sâm banh. Ông Hòa cạn một hơi hết ly, rồi thôi. Sau đó, cả nhà lên đón xuân ở Quảng trường Rừng cùng với hàng trăm du khách nước ngoài và hàng ngàn người từ khắp nơi đổ về. Một giờ sáng, gia đình cụ Nguyễn phải về sớm vì ông Hòa kêu mệt! Cụ Nguyễn bảo:
Màu xanh da trời sau mưa rào.
- Các con, các cháu ơi, cuộc đời đẹp quá, ước gì ông mới hai mươi tuổi!
Cụ cười thật tươi. Cụ lấy ra những tờ giấy bạc mới nhất mừng tuổi cho từng người. Ông Hòa sung sướng nhìn cha, nước mắt lưng tròng. Linh tính báo cho ông biết, cha ông vui thế kia, hồn nhiên thế kia thì sắp đến giờ G rồi! Lòng ông đau thắt khi nghĩ đến cảnh mất cha…
- Thanh Lịch đâu rồi con! - Giọng cụ Nguyễn thật ấm và ngọt ngào, đã lâu lắm rồi bà Lịch mới được nghe cha chồng kêu mình bằng tên như hồi bà mới về nhà chồng - Nấu cho ba nồi nước xông để ba xông, rồi tắm rửa cho thơm tho đón xuân mới, nghe con!
- Dạ, thưa ba, con nấu rồi, ba à. Con mang lên liền đây!
Cụ Nguyễn mặc vào người bộ quần áo đẹp nhất, khăn đóng áo dài, của những năm trước 1930, cái thời cụ mới cưới vợ. Cụ bảo ông Hòa lấy chiếc hộp gia bảo từ trên bàn thờ Tổ. Tay cụ run run mở hộp, nâng niu tấm lụa có tám chữ Hán rất đẹp, đích thân Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Tri Phương ban tặng trước ngày Hà thành thất thủ: “Nguyễn Công Dũng mãnh Xả thân Vì nước”. Rồi cụ xúc động ngâm bài thơ Nhớ Bắc:
Ai đi về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Cụ xúc động quá, rưng rưng nhìn mọi người, bỏ qua bốn câu và đọc tiếp:
Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên
Mắt cụ Nguyễn nhòa lệ! Bằng giọng run run, cụ nói với cả nhà:
- Các con, các cháu! Ráng mà sống cho thanh khiết, giữ lấy truyền thống tổ tiên, giòng họ. Con người, sống làm sao đến khi chết đi để lại tiếng thơm, nhân đức… Ta… đi theo… cha mẹ ta… đây! Chào các… con, các… cháu… của… ta!
Nhẹ nhàng nằm xuống, hai tay cụ Nguyễn giữ khư khư tấm lụa trên ngực, từ từ khép mắt, miệng như mỉm cười, cụ trút hơi thở cuối cùng đúng bốn giờ sáng!
Bệnh ông Hòa vào giai đoạn cuối. Thọ tang cha xong, năm ngày sau khi cụ Nguyễn nằm xuống, sáng mồng năm Tết, đến lượt Hòa nằm liệt giường. Ông phải bị những cơn đau khủng khiếp hành hạ trong bảy ngày đêm kế tiếp. Ngày thứ tám, trong một lần giữa hai cơn đau, Hòa đưa bàn tay khô đen đét và lạnh lẽo của ông nắm lấy tay vợ:
- Lịch ơi! Anh chết đến nửa thân người rồi… Trong những ngày nằm trên giường bệnh, anh ngộ ra rằng cuộc đời đẹp quá, sự sống cao quý quá! Chỉ tiếc là trong khi đang sống, người ta… mấy ai biết được vẻ cao quý đó đặng mà sống cho ra Con Người! Anh đã sa chân vô cõi mê, đã làm nhiều điều không nên làm, mắc nhiễu lỗi lầm, gây nhiều ân oán, thậm chí thất đức, mà cứ nghĩ rằng mình đúng, mình hay, mình làm theo lẽ phải! Lịch ơi! Hãy tha thứ cho anh về những gì anh đã làm em buồn. Mái tóc của em đẹp là thế mà sớm bạc trắng xóa, chủ yếu là do anh khiến em buồn khổ! Nhưng, Lịch ơi! - giọng Hòa yếu hẳn, đứt đoạn, chỉ còn là những âm thanh thều thào. Bà Lịch áp sát tai vào miệng chồng, ráng nghe - … Anh xin em hiểu cho anh một điều: Giá như… sau khi chết, được trở lại… làm người, anh sẽ lại… chọn em, vì anh… yêu em. Anh… yêu… em… như… yêu cuộc… đời… này, Lịch … ơi…!
Cơn đau kế tiếp, cơn đau cuối cùng ập đến vô cùng dữ dội, khiến ông Hòa không thể nói tiếp những điều muốn trối lại về tình cảm đặc biệt của ông với bà Hải Yến cùng con gái Phương Nam, về tình cảm và nỗi ân hận của ông, mặc cảm tội lỗi của ông với Thanh Việt cùng con trai Ngọc Bắc… Toàn thân ông co quắp, mắt trợn trừng, miệng há hốc, mặt nhăn nhó, méo mó, dị dạng… Ông ra đi không được thanh thản, nhẹ nhàng như cụ Nguyễn!
Qua giỗ đầu hai cha con cụ Nguyễn, đám cưới của Ngọc Bắc, Minh Thảo được tổ chức ở Quảng trường Rừng. Khỏi cần nói đám cưới ấy đông vui tới mức nào! Sau lễ cưới, Ngọc Bắc và Minh Thảo lên trang viên Ánh Dương hưởng tuần trăng mật.
Sau khi ra tù, chú ruột của Thảo là Nguyễn Ánh Dương lên rừng ký hợp đồng thuê ba ngàn héc ta đất hoang, ở vùng đệm vườn Quốc gia Cát Tiên. Trong chiến tranh, đất này bị máy bay Mỹ hủy diệt, biến thành miền đất chết. Ánh Dương xây dựng trang trại, đặt tên: Trang viên Ánh Dương, trồng các loại cây có giá trị xuất khẩu cao, đắp đập ngăn suối ngăn khe tạo thành rất nhiều hồ nuôi cá sấu, cá chình, cá lăng, ba ba, tôm càng… cung ứng cho các nhà hàng khách sạn và xuất khẩu. Một nhánh thượng nguồn phía tây của sông Đồng Nai chảy qua trang viên. Dương xây đập, làm trạm thủy điện giữa rừng, làm hai chục cây số đường tráng nhựa rộng mười hai mét nối quốc lộ với dinh thự của anh. Kiểu dáng dinh thự Ánh Dương na ná như dinh Độc Lập. Tại đây có hồ bơi, sân tennis, có một khu chuyên nuôi đà điểu, dê, ngựa và bò sữa. Nhân công làm việc ở trang trại lên tới năm trăm người, dưới sự chỉ huy của Ánh Dương có gần hai chục kỹ sư, trong đó nhiều người vốn là bạn thân của anh. Họ có thú vui là cưỡi ngựa đi săn vào cuối tuần, hoặc đi câu. Cứ mỗi tháng, Dương lại tổ chức đua ngựa với các tay đua ở khắp các trang trại miền Đông Nam Bộ. Dương cạy cục nhập được hai cặp ngựa nòi từ Anh Quốc nên đội đua của trang trại Ánh Dương luôn về nhất. Ngọc Bắc, Minh Thảo hưởng một nửa tuần trăng mật tại trang viên Ánh Dương. Nửa thời gian còn lại, họ bay ra Nha Trang, lên đảo du lịch Minh Ngọc – vừa đi vào hoạt động - nghỉ ngơi. Cùng đi, có ông anh kết nghĩa Stephan Harris.
Ở trang viên Ánh Dương, dưỡng khí nhiều, cảnh vật hiền hòa, lòng người thanh thản. Ông Hoàng bà Ngọc chọn nơi này cho con trai trưởng Nguyễn Thành Đạt - cùng người em kế Đạt, là thương binh, suốt ngày chỉ cười - sống những năm cuối đời. Hai ông bà cứ hàng tháng mời bà Lịch lên trang viên ở một tuần, thưởng thức không khí trong lành. Tuổi già, ai cũng mong được sống hòa vào thiên nhiên, thoát tục, xa hẳn cõi mê…