← Quay lại trang sách

Chương XIII

Đã gần một tháng tròn trôi qua, tôi không đụng gì đến những điều tôi ghi chép dưới ảnh hưởng của các ấn tượng, dù là lộn xộn, nhưng lại bộn bề sức sống. Cái tai họa mà tôi dự cảm khi đó, quả nhiên đã đến, và nó còn dữ dội, đột ngột hơn đến một trăm lần so với dự đoán. Tất cả đều lạ lùng, tồi tệ và thậm chí là bi kịch, đặc biệt là với tôi. Tôi đã vấp phải một số sự kiện, hầu hết là lạ lùng, chí ít thì cho đến nay tôi nhìn nhận chúng, dù bằng con mắt khác, đặc biệt là khi xem xét chúng trong bối cảnh những vòng xoáy mà tôi lâm vào, thì thấy chúng không hoàn toàn bình thường. Nhưng điều thú vị đối với tôi hơn cả là cái cách mà tôi ứng xử với các sự kiện. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu mình thế nào! Tất cả trôi đi như một giấc mơ - thậm chí niềm đam mê của tôi, trước đây thật là mãnh liệt và chân thành, thế mà giờ đây... biến đi đâu mất? Quả thật, đôi lúc cũng có xuất hiện trong đầu tôi ý nghĩ: “Lúc đó mình có điên không, và có ngồi đâu đó trong nhà thương điên không, và có lẽ giờ đây tôi đang ngồi trong đó chăng - những điều ấy thật rõ nét và bây giờ tôi vẫn cảm thấy...”.

Tôi sắp xếp và đọc lại các trang giấy. (Ai mà biết được, có thể, chỉ là để khẳng định rằng có phải tôi viết trong nhà thương điên hay không?) Bây giờ tôi hoàn toàn cô độc. Mùa thu đang đến, lá cây đang vàng. Tôi ngồi trong một thị trấn ảm đạm (ôi, những thị trấn của Đức sao mà ảm đạm thế!), và đáng lẽ phải suy nghĩ về bước đi tiếp theo thì tôi lại chỉ sống với những trải nghiệm vừa qua, dưới ảnh hưởng của cơn bão mới rồi đã cuốn tôi vào vòng xoáy của nó rồi quăng tôi đi xa, thật xa. Đôi lúc tôi vẫn còn cảm giác quay cuồng trong cơn bão đó, cảm giác có một cơn bão lại sắp ập đến, lại xòe đôi cánh rộng ghì siết lấy tôi, khiến cuộc đời tôi xáo trộn, vượt quá mọi mức độ và lại tiếp tục quay tròn, quay mãi.

Tuy nhiên, có thể tôi sẽ ổn định được cuộc sống, sẽ hết quay cuồng và sẽ cố gắng tìm hiểu thật rõ những gì xảy ra trong suốt tháng qua. Tôi lại có ham muốn cầm bút, song đôi khi suốt nhiều buổi tối tôi chẳng biết làm gì. Thật kỳ lạ, để làm được một việc gì đó, tôi phải đi mượn ở cái thư viện tồi tàn nơi đây những cuốn tiểu thuyết của Paul de Kok (bản dịch sang tiếng Đức!), mà gần như tôi không thể chịu đựng nổi, nhưng đến khi đọc, tôi lại thấy kinh ngạc với chính mình: dường như tôi đang sợ là vì đọc những sách đó mà tôi làm mất đi sức hấp dẫn của những sự kiện vừa rồi. Cũng giống hệt như là tôi rất quý yêu giấc mộng không đâu vào đâu cùng những ấn tượng còn sót trong đây, điều đó làm tôi lo sợ phải đụng chạm đến nó bằng một công việc khác, để cho nó khỏi tan thành mây khói! Có phải là nó đáng quý đối với tôi đến như thế không? Tất nhiên là nó đáng quý rồi, và có thể bốn mươi năm nữa tôi vẫn còn nhớ đến...

Bây giờ tôi cầm bút đây. Tuy nhiên, tôi chỉ có thể kể lại một phần nào, ngắn gọn: những ấn tượng đã không hoàn toàn như cũ nữa...

* * * * *

Thứ nhất là phải kết thúc câu chuyện bà già. Ngày hôm sau bà thua trắng tay luôn. Điều đó đã phải xảy ra đối với những người sa vào con đường này, nó giống hệt như người ngồi vào xe trượt rồi lao từ đỉnh núi tuyết xuống, tốc độ ngày một gia tăng. Bà già mải mê chơi đến tám giờ tối, tôi không theo chơi với bà, mà chỉ nghe kể lại.

Potapych tháp tùng bà suốt ngày. Bọn Ba Lan chỉ đạo bà đã phải thay phiên nhau mấy lần. Bà mở đầu bằng việc tóm tóc đuổi cổ tên Ba Lan hôm trước để mướn một tên khác, nhưng tên này lại còn kém hơn. Bà đuổi tên này, lại mướn lại tên cũ, tên này không đi xa, cứ quanh quẩn sau ghế bà lúc bà xua đuổi tên kia, thỉnh thoảng lại ló đầu ra trước mắt bà, lúc bà đã rơi vào cơn tuyệt vọng. Tên thứ hai bị đuổi kia cũng chẳng hề đi đâu xa, thế là cứ một tên đứng bên phải thì tên kia bên trái. Lúc nào chúng cũng cãi vã nhau, chửi bới nhau vì các cách đặt tiền và các nước đi, chúng gọi nhau là những “đồ đểu cáng” và những đồ khác nữa, sau đó chúng lại hòa giải, lại đặt tiền cho bà vô trật tự và cứ chỉ đạo bà. Cãi nhau chán, chúng cứ đặt tiền mỗi bên một kiểu, chẳng hạn, bên này đặt ô đỏ thì bên kia ô đen. Kết cục là chúng làm bà rối trí và lạc hướng, cuối cùng bà rớt nước mắt nói với tay hồ lỳ lớn tuổi nhất cầu xin hắn cứu giúp bà để đuổi cổ hai tên kia đi. Hai tên này lập tức bị đuổi ra ngoài, dù cho chúng đã kêu van và quẫy đạp. Cả hai đứa cùng kêu xin và chứng minh rằng bà già còn nợ tiền chúng, bà lừa dối chúng và đối xử với chúng một cách thô bạo và đê tiện. Ông Potapych khốn khổ đã rớt nước mắt kể lại cho tôi nghe tất cả những chuyện ấy ngay trong buổi tối khi bà thất trận và phàn nàn rằng chính ông nhìn thấy hai tên đã nhét căng đầy túi, chúng đã ăn cắp vô liêm sỉ và mỗi chốc lại nhét tiền vào túi. Chẳng hạn, chúng xin bà trả công cho chúng năm đồng tiền vàng, sau đó chúng đặt tiền của chúng vào cạnh tiền của bà. Khi bà thắng, chúng kêu ầm lên là tiền của chúng thắng, còn bà toàn thua. Khi chúng bị đuổi rồi Potapych mới bước lên và báo lại rằng chúng đã nhét đầy tiền vàng vào túi. Bà già lập tức nhờ hồ lỳ giải quyết, và mặc cho hai đứa ra sức kêu gào (giống như hai con gà bị tóm chặt), cảnh sát đã lấy sạch tiền trong túi chúng ra để trả cho bà. Mặc dù thua cuộc, nhưng bà già lại có được uy thế rõ rệt trước các anh hồ lỳ và trước ban quản trị cung giải trí. Dần dần danh tiếng bà lan tỏa ra khắp thành phố. Tất cả những ai đến vùng suối khoáng này từ khắp các vùng miền, những người từ thường dân đến các bậc thượng lưu đều đổ về đây ngắm xem “une vieille comtesse russe, tombée en enfance” vừa mới thua bạc đến “mấy triệu đồng”.

Nhưng bà già thắng được rất ít nhờ vào việc bà thoát ra khỏi hai tên Ba Lan. Thay chỗ hai tên đó bà lại thuê một tên thứ ba cũng là Ba Lan, tên này nói tiếng Nga thành thạo, ăn mặc như trưởng giả, nhưng vẫn giống như đầy tớ, để ria mép rậm rạp, lên mặt ta đây. Hắn ta cũng biết “ôm chân chủ”, biết “quỳ gối”, nhưng đối với những người xung quanh thì lại kiêu ngạo, độc đoán, tóm lại, ngay từ đầu hắn đã không coi mình là đầy tớ, mà là ông chủ của bà già. Cứ từng phút, từng bước đi hắn lại thề thốt với bà rằng hắn là một bậc quý nhân “danh giá”, rằng hắn sẽ không thèm lấy một xu nào của bà. Hắn cứ nhắc đi nhắc lại những câu thề thốt đến nỗi bà già khiếp đảm. Nhưng chính vì tên quý nhân này ban đầu quả thật đã điều chỉnh được lối chơi của bà và bắt đầu trúng quả, nên bà không bỏ được hắn. Một giờ sau hai tên Ba Lan mà hồi nãy đã bị đuổi đi, nay quay trở lại, đứng sau lưng bà, lại tỏ ý muốn giúp đỡ, dù chỉ là được sai vặt. Potapych thề rằng đã thấy ba tên nháy mắt cho nhau, thậm chí còn đưa vào tay nhau những vật gì đó.

Chính vì bà già không ăn trưa và hầu như không rời khỏi ghế, nên quả thực đã có một tên Ba Lan đắc dụng: hắn chạy ngay sang quán ăn kiếm cho bà một bát nước dùng, rồi sau đó là cốc trà. Hai tên kia chạy đi mất. Nhưng đến cuối ngày, khi mọi người thấy bà đã thua sạch túi đến tấm ngân phiếu cuối cùng thì sau ghế bà bỗng xuất hiện sáu tên Ba Lan mà trước đó chưa ai trông thấy chúng và nghe thấy tên chúng. Khi bà thua đến đồng xu cuối cùng, bọn chúng không những không nghe lời bà mà còn vượt mặt bà tiến đến bàn chơi cướp tiền. Chính chúng điều khiển và đặt tiền, cãi nhau inh ỏi, chúng nói chuyện với tên quý nhân danh giá một cách sỗ sàng, còn tên quý nhân danh giá gần như đã quên là có bà ngồi đó. Thậm chí, khi bà đã thua gần hết, lúc tám giờ tối bà trở về khách sạn vẫn còn ba bốn tên không buông tha bà, chúng chạy theo hai bên ghế của bà lớn tiếng liến thoắng khẳng định rằng bà đã lừa chúng một chuyện gì đó và bà phải đền lại. Chúng cứ thế chạy đến tận khách sạn, cuối cùng người ta phải đuổi chúng đi.

Theo cách tính của Potapych thì hôm ấy bà thua cả thảy đến chín mươi ngàn rúp, không kể số tiền hôm qua bà đã thua. Tất cả các ngân phiếu, các khoản vay năm phần trăm, các cổ phiếu mang theo bà đều lần lượt đem đổi thành tiền. Tôi thấy kinh ngạc không hiểu sao bà già có thể ngồi liền bảy tám giờ trong ghế bành, hầu như không rời khỏi bàn, nhưng Potapych kể rằng có ba lần bà thắng đậm, bà lại thấy hy vọng tràn trề, nên không thể rời đi được. Tuy nhiên, các con bạc đều hiểu rằng làm sao một người có thể ngồi gần như suốt ngày một chỗ theo dõi con bài mà lại không sơ hở bên phải, bên trái.

Trong khi đó thì ở khách sạn cũng xảy ra những sự kiện hết sức quyết định. Buổi sáng, trước mười một giờ, khi bà còn ở nhà, bọn người nhà chúng tôi, tức là tướng quân và De-Grie đã quyết định đi nước cờ cuối cùng. Khi biết rằng bà quyết không rời đi, mà ngược lại, lại quay về cung giải trí, thì họ bí mật (trừ Polina) đến tìm gặp bà để thảo luận dứt khoát, thậm chí là thẳng thắn. Tướng quân trước đó thì lẩy bẩy và rúm ró vì những hậu quả khủng khiếp đối với ông, bây giờ bỗng nhiên vượt lên quá trớn: sau nửa giờ van xin, cầu khẩn, thậm chí thú thật mọi điều, ngay cả thú nhận tình yêu đối với m-lle Blanche (ông hoàn toàn rối trí), tướng quân bỗng lên giọng dữ dội, thậm chí quát tháo và giậm chân mắng bà rằng bà làm nhục cả dòng tộc, bà đã gây ra vụ xì căng đan cho cả thị trấn, và cuối cùng, cuối cùng ông bảo “Bà đã nhục mạ cả tên tuổi nước Nga. Việc này phải gọi cảnh sát!”. Bà già phải dùng cây gậy để đuổi ông (gậy thật đấy). Tướng quân và De-Grie còn hội ý với nhau thêm một hai lần nữa buổi sáng hôm ấy, tâm điểm của trao đổi là: đã thực sự phải dùng đến cảnh sát hay chưa? Họ bảo, này nhé, bà già bất hạnh nhưng đáng kính, bà đã qua thời minh mẫn rồi, đã thua đến đồng cuối cùng rồi, vân vân... Tóm lại là có nên thiết lập hệ thống quản chế hoặc ngăn cấm bà già hay không?... Nhưng De-Grie chỉ nhún vai và mỉm cười chế giễu tướng quân lúc này đã ba hoa hết lời và chạy xuôi chạy ngược khắp phòng. Cuối cùng De-Grie khoát tay và bỏ đi đâu mất. Đến chiều người ta bảo rằng anh này đã đi khỏi khách sạn, đã dặn trước điều gì đó hết sức quyết liệt và bí ẩn cho m-lle Blanche. Còn về phần m-lle Blanche thì từ sáng sớm đã có những động thái dứt khoát: hoàn toàn mặc xác tướng quân, thậm chí không cho tướng quân đến gặp mình nữa. Khi tướng quân chạy theo đến cung giải trí và đã thấy cô khoác tay tiểu công tước thì cả cô lẫn m-me veuve Cominges đều không đón nhận ông. Tiểu công tước cũng không cúi chào. Suốt ngày hôm ấy m-lle Blanche yêu cầu và săn đón để tiểu công tước nói lời quyết định. Nhưng khốn thay! Cô đã bị lừa đau đớn trong phép tính với công tước! Tai họa nhỏ này xảy ra vào lúc chiều tối, khi người ta bỗng phát hiện thấy công tước một xu không dính túi, cũng đang tính cách moi tiền chứng khoán của cô để chơi rulet. Cô giận dữ đuổi cổ ông ta ra và khóa trái cửa lại.

Sáng hôm đó tôi đến gặp ngài Astley, hoặc nói cho đúng hơn, suốt buổi sáng tôi đi tìm ngài, nhưng không tìm được. Ở nhà cũng không, cung giải trí cũng không và công viên cũng không nốt. Lần này ở khách sạn ông cũng không ăn trưa. Đến tận năm giờ chiều tôi mới thấy ông đang đi từ chỗ đường sắt đến khách sạn d’Angleterre. Ông vội vã và đăm chiêu, mặc dù nhìn nét mặt ông khó phân định đây là lo âu hay là bối rối. Ông vui mừng chìa tay cho tôi với lối nói thường gặp “A!”, nhưng không dừng bước, mà tiếp tục vội vàng đi. Tôi đi theo, nhưng dường như ông chỉ trả lời tôi qua loa, khiến tôi không kịp hỏi gì thêm. Hơn nữa, tôi lại thấy không hiểu vì sao rất ngượng mặt khi nói đến Polina, còn ông cũng không đả động gì đến nàng. Tôi kể chuyện bà già, ông chăm chú nghe nghiêm túc rồi nhún vai.

- Bà ấy thua hết. - Tôi bảo.

- Phải rồi, - Ông đáp - bà ấy chơi từ lúc tôi đi, vì thế tôi cũng đã biết là bà ấy thua. Nếu còn thời gian tôi sẽ đến cung giải trí xem chơi thế nào cho biết.

- Ông bảo ông đi đâu? - Tôi nói to, ngạc nhiên, từ nãy tôi chưa hỏi.

- Tôi đi Frankfurt.

- Ông có việc?

- Vâng, có việc.

Tôi biết hỏi gì thêm nữa đây? Tuy thế, tôi vẫn đi bên cạnh ông, nhưng ông đã quay người đi vào khách sạn bên đường “De quatre saisons” [1], gật đầu chào tôi rồi biến mất. Trở về nhà, tôi dần dần nhận ra rằng dù tôi có nói chuyện với ông đến cả hai tiếng đồng hồ thì tôi cũng không hiểu thêm được gì, bởi vì... tôi chẳng biết hỏi gì cả. Đúng, quả đúng như vậy! Bây giờ tôi không biết làm cách nào tạo ra câu hỏi.

Suốt ngày hôm ấy Polina hoặc là đi dạo chơi công viên với bọn trẻ và bà nhũ mẫu, hoặc ngồi lì trong phòng. Tướng quân thì cô đã tránh xa từ lâu, hầu như không nói gì với ông, hoặc chỉ nói những gì thật cần thiết. Từ lâu tôi đã thấy điều đó. Nhưng khi thấy tình cảnh của ông hôm nay, tôi biết ông không thể bỏ qua cô, nghĩa là giữa họ không thể không có những điều cần lý giải trong gia đình. Tuy nhiên, khi tôi trở về khách sạn sau cuộc trò chuyện với ngài Astley, tôi đã gặp Polina và đám trẻ, thì thấy trên nét mặt cô là vẻ yên bình tĩnh tại, tựa hồ mọi sóng gió trong nhà chỉ tránh xa có một mình cô. Thấy tôi chào, cô gật đầu lại. Tôi giận dữ về phòng.

Tất nhiên, tôi tránh không nói chuyện với cô, không một lần đến chỗ cô từ sau sự kiện Vurmerhelm. Trong vụ này phần nào đó là tôi đã gồng mình lên quá sức và đã vấp ngã, nhưng thời gian càng lùi xa thì trong lòng tôi cơn giận dữ càng bùng phát hơn. Giá như cô nàng không yêu tôi một tí tị tì ti nào thì có lẽ dù sao nàng cũng không được chà đạp lên những tình cảm của tôi và không được quá khinh bỉ khi nghe tôi ngỏ ý. Nàng thừa biết rằng tôi yêu nàng. Chính nàng đã để yên, đã cho phép tôi được nói như thế! Quả thật, điều đó có phần kỳ lạ. Từ lâu, khoảng hai tháng trước đây đã có một số lần tôi nhận thấy rằng nàng muốn coi tôi là bạn, một người bạn tin cậy và thậm chí nàng đã phần nào thử áp dụng như thế. Tuy nhiên, không hiểu sao điều ấy lại không thành nếp được, thay vào đó bây giờ lại là những quan hệ lạ lùng, vì thế mà tôi phải nói với nàng như vậy. Nhưng nếu như nàng ghét bỏ tình yêu của tôi, thì cớ sao nàng lại không cấm ngay tôi không được nói với nàng?

Tôi không bị cấm, mà thậm chí thỉnh thoảng nàng còn mời tôi đến nói chuyện là khác, và tất nhiên... nàng làm thế là để mua vui mà thôi. Chắc chắn là tôi biết, tôi thấy chắc chắn rằng nàng thấy vui sướng khi nghe tôi nói và kích động tôi cho tôi đau đớn, rồi bỗng nhiên quay ngoắt sang thái độ khinh bỉ tột cùng và sự thờ ơ. Nàng cũng biết rằng không có nàng tôi không sống được. Đã ba ngày trôi qua sau câu chuyện với nam tước, nhưng tôi vẫn không chịu đựng nổi sự xa cách. Lúc tôi gặp nàng ở cạnh cung giải trí, trái tim tôi rung động mạnh đến nỗi mặt tôi nhợt đi. Thế nhưng không có tôi nàng cũng không chịu được. Nàng cần đến tôi chẳng lẽ lại giống như cần chú hề Balakirev?

Nàng có một điều bí mật - điều ấy đã rõ! Câu chuyện giữa nàng với bà già xuyên thấu trái tim tôi. Đã hàng ngàn lần tôi kêu gọi nàng chân thành với tôi, nàng cũng biết rằng quả thật tôi sẵn sàng vì nàng mà quyết chết. Song nàng vẫn xa tôi bằng một thứ gần như khinh bỉ, hoặc đem cuộc đời mà tôi dành cho nàng ra làm tế vật, bắt tôi làm theo những phương cách giống như đã làm với ngài nam tước! Như thế có phải là đáng căm tức hay không? Chẳng lẽ đối với nàng cả thế giới này chỉ còn là một tên người Pháp? Thế còn ngài Astley thì sao? Nhưng đến đây thì sự việc lại hoàn toàn không hiểu được. Mà thôi, lạy trời, bây giờ tôi khổ sở quá rồi!

Về đến nhà, trong cơn điên giận, tôi cầm bút viết cho nàng bức thư như sau:

“Polina Aleksandrovna! Tôi thấy rõ rằng đã đến hồi mở nút vở kịch mà tất nhiên có liên quan đến cô. Tôi nhắc lại lần cuối cùng: cô cần hay không cần cái đầu của tôi đây? Nếu cô cần, dù làm bất kỳ việc gì, cô cứ sai bảo, tôi vẫn đang ngồi trong phòng tôi, ít ra thì cũng là phần lớn thời gian, và chưa đi đâu. Nếu cần, cô viết cho tôi, hoặc cho gọi tôi đến”.

Tôi dán phong bì rồi nhờ chú bảo vệ hành lang mang đi, và dặn chú phải trao trực tiếp tận tay. Tôi không mong trả lời, nhưng ba phút sau anh ta trở về với thông tin rằng “xin chuyển đến ngài lời chào”.

Đến bảy giờ tôi được mời đến gặp tướng quân.

Ông đang trong phòng, ăn mặc như sắp đi đâu. Mũ và gậy chống đặt trên đi-văng. Khi bước vào tôi cảm thấy như ông đang đứng giữa phòng, hai chân mở rộng, đầu cúi xuống và đang nói to cho chính mình nghe. Nhưng vừa nhìn thấy tôi ông đã kêu lên và chạy ra chỗ tôi, khiến tôi bất giác lùi lại định chạy, ông túm chặt lấy hai tay tôi kéo ra đi-văng, ông ngồi xuống và kéo tôi ngồi ghế đối diện, không buông tay tôi, môi run rẩy, mắt đẫm những hạt lệ lóng lánh trên mi, rồi nói với tôi bằng giọng van vỉ:

- Anh cứu tôi! Cứu tôi! Tha thứ cho tôi!

Tôi ngồi một lúc không hiểu gì cả, còn ông cứ nói, cứ nói, rồi nói đi nói lại mãi “Tha cho tôi! Tha cho tôi!”. Cuối cùng tôi đoán ra là ông chờ tôi cho một lời khuyên, hoặc nói cho đúng hơn, ông đã bị mọi người bỏ rơi trong nỗi lo lắng bồn chồn, ông nhớ đến tôi, gọi tôi đến, chỉ để được nói, được nói.

Ông đã bối rối, lúng túng đến cực độ. Ông chắp tay sẵn sàng quỳ gối trước mặt tôi (các bạn nghĩ thế nào?), để nhờ tôi đến gặp m-lle Blanche để khuyên cô quay trở về với ông và lấy ông làm chồng. Tôi nói to:

- Ông tha cho tôi, thưa tướng quân, tôi không biết bây giờ ma demoiselle Blanche có còn nhớ đến tôi không? Tôi có thể làm gì được chứ?

Nhưng từ chối cũng vô ích, ông không hiểu tôi nói gì. Rồi ông nói sang chuyện bà già, có điều nói rất lộn xộn, và ông khăng khăng với ý định bảo tôi đi tìm cảnh sát. Ông bỗng nhiên nổi giận:

- Chúng ta, chúng ta, tóm lại, đang sống trong một quốc gia đàng hoàng, nghĩa là giới lãnh đạo phải che chở ngay lập tức những bà già như vậy! Vậy, thưa anh, - Ông chuyển sang giọng che chở, ông đứng lên, đi đi lại lại trong phòng - ngài chưa biết được điều đó, - Ông quay sang một quan ngài tưởng tượng nào đây trong góc - rồi ngài sẽ biết thôi, phải rồi, những bà già như thế phải bắt vào khuôn vào phép mới được. Ôi, quỷ tha ma bắt họ đi!

Rồi ông lại đổ kềnh xuống đi-văng, một phút sau ông thở hổn hển pha chút nức nở kể cho tôi rằng m-lle Blanche không lấy ông làm chồng vì bà già đến đây không báo điện tín trước, bây giờ cô mới biết rằng ông không có của thừa kế. Ông cho rằng tôi chưa biết gì chuyện này. Tôi định nói chuyện De-Grie thì ông phẩy tay.

- Nó đi rồi! Nó lấy tất cả đồ đạc của tôi. Bây giờ tôi hoàn toàn trần trụi! Tất cả số tiền mà anh mang về... tôi không biết là bao nhiêu, hình như còn lại là bảy trăm franc, thôi, không nói nữa, thế là hết, sau này thế nào tôi không biết, tôi không biết nữa.

- Ông thanh toán tiền khách sạn thế nào? - Tôi hoảng hốt - Và... sau này...

Ông nhìn tôi đăm chiêu, có lẽ ông không hiểu, và cũng có thể là không nghe rõ. Ông định nói về Polina Aleksandrovna, về bọn trẻ, nhưng ông vội đáp: “Phải! Phải! - Nhưng ông lại quay sang nói về công tước, rằng bây giờ đi cùng ông ta là Blanche, và như thế... như thế... - Tôi biết làm gì được, hả anh Aleksei Ivanovich? - Ông bỗng quay sang tôi - Lạy trời, tôi biết làm gì đây? Anh nói đi, bọn chúng vô ơn quá, có phải là chúng vô ơn không?”.

Cuối cùng ông khóc như mưa như gió.

Không thể làm gì được với con người này, để lại ông ta một mình cũng nguy hiểm, và có thể phải cùng chịu một cuộc phiêu lưu. Tuy nhiên, tôi đã tìm được cách để tránh thoát phần nào, tôi đã bảo bà nhũ mẫu phải thường xuyên ghé mắt thăm ông, ngoài ra lại nói với anh trực hành lang, một anh chàng tinh nhanh, anh này cũng hứa sẽ để mắt đến.

Tôi vừa thoát được tướng quân thì Potapych đến chỗ tôi, bảo tôi đến gặp bà già. Lúc ấy là tám giờ, bà vừa ở cung giải trí trở về sau trận thua khánh kiệt. Tôi đến nơi: bà ngồi trên ghế, mệt rũ và rõ là đã ốm. Marfa mời bà dùng trà, gần như phải ép bà uống. Giọng bà nói đã thay đổi.

- Xin chào anh Aleksei Ivanovich! - Bà nói chậm rãi và cúi đầu một cách trọng thị - Xin lỗi vì lại làm phiền anh, anh tha thứ cho kẻ già nua này nhé. Tôi đã bỏ lại nơi đây tất cả, gần một trăm ngàn rúp. Anh nói đúng, ngày hôm qua đối với tôi là ngày không thành đạt, bây giờ tôi không còn lấy một xu dính túi. Tôi không muốn chậm trễ một phút nào nữa, đến chín giờ rưỡi là tôi sẽ đi. Tôi đã cử người đến tìm ông bạn người Anh của anh, ngài Astley, để hỏi vay ông ấy ba ngàn franc trong vòng một tuần. Xin anh thuyết phục ông ta đừng có nghĩ khác và đừng từ chối. Anh bạn ơi, tôi vẫn còn khá giàu. Tôi còn được quản lý ba khu trang ấp và có hai ngôi nhà. Tiền mặt tôi cũng vẫn còn, nhưng không mang hết theo người. Tôi nói thế để ông ấy không nghi ngờ gì. Kìa, ông ấy đến rồi. Thật là con người tốt bụng.

Ngài Astley vừa nghe gọi đã đến ngay. Không nghĩ ngợi gì và không nhiều lời, ông lập tức đưa ra ba ngàn franc kỳ phiếu để bà già ký tên vào đấy. Xong việc, ông cúi chào đi luôn.

- Anh Aleksei Ivanovich, bây giờ anh đi đi! Chỉ còn hơn một tiếng nữa thôi. Tôi muốn nằm nghỉ, xương cốt đang đau nhức. Xin lượng thứ cho tôi, con mụ già ngốc nghếch. Từ nay tôi sẽ không quở trách lớp trẻ là nhẹ dạ, còn cái ông tướng bất hạnh của các anh tôi cũng sẽ không bắt tội nữa. Tiền bạc thì tôi sẽ không cho anh ta như anh ấy mong muốn, bởi vì theo ý tôi, anh ta là con người ngu dại, có điều là tôi cũng không hơn gì. Quả thật là Chúa Trời tha cho cái tội già nua nhưng lại trừng phạt cái tội ngạo mạn. Thôi, chào anh, Marfa đâu, cho tôi đi lên.

Thế nhưng tôi muốn đi tiễn bà già. Ngoài ra tôi còn mong chờ một điều gì đó, tôi cứ chờ sẽ có một chuyện gì xảy ra. Tôi ngồi không yên trong phòng. Tôi ra hành lang, thậm chí ra chỗ hàng cây dạo chơi đôi phút. Bức thư tôi gửi cho nàng đã rõ ràng và quyết liệt, còn tai họa hôm nay, tất nhiên, đã là tai họa cuối cùng. Trong khách sạn tôi nghe chuyện De-Grie bỏ đi. Cuối cùng, nếu nàng gạt bỏ tôi với tư cách tôi là người bạn, thì có thể, tôi với tư cách là kẻ hầu hạ nàng sẽ không bỏ tôi đâu. Dù nàng dùng tôi làm người sai bảo tôi cũng xin nghe, biết làm sao khác được!

Đến giờ tàu tôi chạy ra chỗ cầu tàu để giúp bà lên. Bà được đưa vào toa gia đình riêng. “Cám ơn anh nhiều vì sự quan tâm vô tư của anh. - Bà chia tay tôi - Nhờ anh chuyển lời tôi đến Praskovia. Tôi đã nói với nó hôm qua rồi. Tôi sẽ chờ nó”.

Tôi đi về nhà. Qua phòng tướng quân tôi gặp bà nhũ mẫu bèn hỏi thăm về ông. “Ông ấy không sao đâu”, - bà buồn rầu đáp. Tôi vào thăm, nhưng vừa đến cửa thì dừng ngay lại vì quá kinh ngạc. M-lle Blanche và tướng quân đang cười hô hố rất to về một chuyện gì đó. Veuve Cominges ngồi ngay trên đi-văng. Tướng quân dường như vui lắm, ông nói luyên thuyên và cười liên tục như điên dại, khiến mặt ông nhăn nhúm hẳn đi và đôi mắt thì biến đâu mất. Về sau tôi được chính Blanche cho biết là chính cô đã đuổi cổ công tước, và khi thấy tướng quân khóc lóc, cô đã an ủi ông và đến thăm ông ít phút. Vị tướng khốn khổ đâu có biết rằng trong phút giây đó số phận ông đã được định đoạt, và rằng Blanche đã bắt đầu đóng gói đồ đạc để đáp chuyến tàu sớm nhất đi Paris.

Đứng trên ngưỡng cửa phòng tướng quân tôi từ bỏ ý định bước vào và lặng lẽ đi ra. Đến phòng mình, mở cửa ra, trong bóng tối nhập nhoạng tôi thấy có bóng người ngồi ở ghế trong góc. Thấy tôi xuất hiện, cái bóng không đứng lên. Tôi đến gần nhìn xem thì thấy tá hỏa: đó là Polina!

Chú thích:

[1] Bốn mùa (tiếng Pháp).