← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 20

“Rebecca, sao em không nằm nghỉ một lúc? Nằm xuống nghỉ một chút thôi, dù không ngủ cũng được mà. FBI sẽ gọi nếu có tin tức gì mới.”

Đi đi lại lại trong phòng khách sạn, Rebecca lắc đầu trước đề nghị của Colin. “Em bồn chồn quá. Và cũng rất lạnh.” Cô đã mặc hai áo len và vẫn cảm thấy lạnh. Rút điện thoại di động ra, cô bấm số của Rachel, như cô đã làm cứ mười lăm phút một lần.

“Em ấy sẽ không trả lời đâu, em yêu.”

“Làm sao anh biết được chứ?” Rebecca gắt lên, sau đó ngay lập tức hối hận vì đã phản ứng quá gay gắt với lời nói dịu dàng của anh. “Xin lỗi.” Cô vén tóc ra sau tai và vòng tay quanh người. “Em cứ nghĩ rằng có lẽ, nếu em ấy đang bất tỉnh, em ấy sẽ tỉnh lại và trả lời điện thoại. Đó là việc duy nhất em có thể làm lúc này, Colin. Em biết không thể thay đổi được gì, nhưng thế còn tốt hơn là ngồi một chỗ và chờ đợi.”

“Anh hiểu.” Anh tắt chương trình tin tức và vỗ vỗ vào giường. “Đến đây. Ít nhất anh có thể giúp em ấm hơn.”

Đi qua phòng, Rebecca dừng lại ở chiếc cũi khách sạn đã cung cấp. Bridget đang ngủ, những lọn tóc xoăn vàng ôm quanh khuôn mặt ngây thơ, ngọt ngào. Rebecca vuốt gò má mịn màng, bầu bĩnh của cô con gái, cổ họng nghẹn lại bởi tình thương mến. Kể từ khi Megan biến mất, Rebecca đã quanh quẩn và rối rít với Bridget quá nhiều. Ngay cả con gái cô cũng dần mệt mỏi vì điều đó. Khi chuyện này qua đi, cô nhất định phải ghi nhớ không được phép làm những cô con gái của mình nghẹt thở.

Những cô con gái - số nhiều. Bởi vì Megan sẽ về nhà.

Sau khi điều chỉnh chiếc chăn đắp cho Bridget, Rebecca tiếp tục đi đến giường, bấm số Rachel trong khi cô tiến lại gần Colin và ngả người dựa vào thành giường. Anh vòng tay quanh người cô và cô rúc lại gần. Điện thoại đổ chuông.

Một hồi.

Hai.

Ba hồi.

Sau hồi chuông thứ tư, hộp thư thoại kích hoạt.

Colin nói đúng. Rebecca thở dài và nén sự thất vọng xuống khi cô gập điện thoại lại. Cô đang làm việc tốn công vô ích. Cho dù điện thoại của Rachel ở đâu, có rất ít khả năng có người sẽ nghe thấy nó.

Dù sao đi nữa, cô định sẽ vẫn tiếp tục gọi. Chỉ để đề phòng.

Gary Feltrop dừng khựng lại khi đi qua cánh đồng hoang vắng gần kề con đường nông thôn hai làn, hơi thở của ông tụ lại thành đám mây mù trong hơi đêm trong lành. Ông nghe loáng thoáng có tiếng ro ro vài phút trước, khi ông ra ngoài để chắc chắn rằng cái máy bơm dùng cho gia súc ở bãi cỏ phía sau đã sửa sáng nay không bị tắc lần nữa, nhưng ông không phát hiện thấy điều gì cả.

Tuy nhiên, lần này âm thanh đó gần hơn. Và mặc dù bị bịt lại, vẫn rất dễ nhận ra.

Một chiếc điện thoại đang đổ chuông.

Cảm thấy khó hiểu, ông nhìn về hướng phát ra âm thanh và đảo mắt nhìn cánh đồng hoang vắng. Ánh trăng đủ sáng để xác nhận rằng ông là người duy nhất có mặt ở đây. Bên cạnh đó, còn ai khác ngoài một người nông dân chăn nuôi gia súc ra ngoài vào lúc 9 giờ trong một đêm lạnh lẽo như thế này chứ?

Nhưng những hồi chuông đó vẫn tiếp tục. Ông bước vài bước về phía đó. Âm thanh ngừng lại. Ông dừng bước.

Đưa tay lên, ông lia chiếc đèn pin một vòng xung quanh. Hai giả thuyết xuất hiện trong đầu: Ai đó đang nấp đằng sau chiếc giếng bỏ hoang, hoặc một người qua đường nào đó đã làm rơi điện thoại khi đi ngang cánh đồng của ông.

Người qua đường không làm ông lo lắng. Ông đã bắt gặp những đứa nhóc học cấp ba trong vùng đi tắt qua cánh đồng này vài lần, nhưng chúng chưa bao giờ làm hư hại bất cứ thứ gì.

Tuy nhiên, nếu có người đang nấp sau chiếc giếng trong một đêm lạnh như thế này, đó sẽ là vấn đề đáng lo ngại hơn.

Ông đi vòng quanh cái giếng ở một khoảng xa, chiếu chiếc đèn pin thẳng vào khối đá đổ nát. Nhiều năm trước, chiếc giếng nông đào bằng tay này là nguồn cung cấp nước cho những ngôi nhà lúc trước nằm gần con đường quê này, nay đã biến mất từ lâu. Con đường cũng đã biến mất và cái giếng khô cạn này đã tồn tại dài hơn cả thời gian sử dụng của nó. Ông phải phá thành giếng, lấp nó đi. Ông sẽ làm thế, một ngày nào đó.

Đi hết một vòng, ông tiến đến gần cái giếng hơn. Không ai ở đó cả. Ông có thể tìm chiếc điện thoại thất lạc trong cánh đồng này vào buổi sáng.

Chiếu ánh sáng đèn pin lên đống đá, ông nhận ra vài hòn đá đã bị mất. Chuyện này chỉ mới xảy ra gần đây thôi. Mấy hòn đá này chắc vừa bị dỡ ra. Nó sẽ sớm sụp xuống, tạo thành một cái lỗ hổng nguy hiểm trên mặt đất. Thêm một công việc vào danh sách các việc phải làm. Ông lắc đầu và kéo mũ thấp xuống để bịt kín hai tai. Nhưng nhìn vào mặt tích cực, sẽ không mất nhiều sức để phá đống gạch vụn này. Và cái hố này có đủ chỗ cho tất cả đống gạch đá này.

Để xác nhận điều đó, ông nghiêng người qua lỗ hổng và chiếu đèn vào khoảng trống tối tăm.

Cau mày. Nheo mắt.

Cái thứ màu vàng, lấp lánh phản chiếu lại từ đáy giếng, bị những viên đá đã rơi xuống từ bức tường bao vùi mất một nửa là cái gì?

Gary lấy kính ra khỏi túi, đeo vào và nhìn lại lần nữa.

Nó là một cái khóa trang trí. Của vật có vẻ là túi của phụ nữ.

Một cái túi làm cái quái gì trong cái giếng này?

Ông ngó xuống, ước gì ánh sáng của chiếc đèn pin mạnh hơn. Cái giếng chỉ sâu 3-4 mét, nhưng những bức tường bùn đất tối tăm đã hấp thụ ánh sáng. Dù vậy, ông vẫn có thể nhìn thấy một mảnh vải màu be ló ra giữa những viên đá. Nó giống như một tấm bạt. Loại dùng để làm tấm lót. Và nó trông khá sạch sẽ.

Nghĩa là có người đã vứt đống đồ này xuống giếng mới đây thôi.

Chỉ mới đây thôi.

Và cho dù người nào đã làm điều đó thì chắc chắn chẳng phải có ý đồ tốt đẹp gì. Tình huống đơn giản nhất là chiếc túi đã bị đánh cắp. Và tệ nhất… à, ông đã xem đủ các chương trình liên quan đến hình sự để biết rằng rất nhiều chuyện xấu xa xảy ra trên thế giới này. Nhưng ở vùng nông thôn Missouri này, ông không chứng kiến nhiều chuyện xấu lắm.

Ông nghĩ cảnh sát trưởng địa phương cũng thế. Joe là một gã tốt bụng và kiểu làm việc ung dung của cậu ấy rất phù hợp với vùng nông thôn này. Nhưng Gary khá chắc chắn rằng cậu ấy sẽ không cảm kích vì bị đánh thức vào đêm Chủ nhật để kiểm tra thứ mà cậu ấy cho rằng là một cái túi bị đánh cắp. Tốt hơn là lấy chiếc túi lên và đưa nó cho Joe vào buổi sáng. Dù sao ông cũng phải đi vào thành phố để mua vài vật dụng.

Sau một chuyến cuốc bộ nhanh chóng trong đêm giá lạnh đến kho thóc và ngược lại, ông thả cái móc sắt xuống giếng, móc vào quai túi, kéo ra khỏi hòn đá và lôi nó lên.

Ngay khi kéo nó lên đến miệng giếng, điện thoại trong ngăn bên hông của chiếc túi bắt đầu đổ chuông lần nữa.

Không bị vây hãm bởi những bức tường bẩn thỉu, tiếng kêu chói tai vang vọng với sự rõ ràng đến giật mình trong bầu không khí của một đêm tĩnh lặng. Gary suýt nữa trượt tay khỏi cái móc nhưng đã kịp chộp lại được chiếc túi trước khi nó rơi trở lại xuống giếng.

Khi điện thoại bắt đầu đổ chuông, ông nhìn chằm chằm vào nó, không chắc phải làm gì. Đây là lần thứ ba ông nghe thấy nó đổ chuông trong vòng 45 phút qua. Có thể là ai đó đang cố gắng liên lạc với chủ nhân của chiếc túi. Người nào đó quan tâm. Và đang lo lắng. Một người cha, có lẽ thế? Hay một người chồng?

Gary vừa là một người cha vừa là một người chồng nên ông rất cảm thông với họ. Vì thế ông làm theo tiếng gọi của lòng trắc ẩn.

Ông trả lời điện thoại.

Không còn lý do nào để nán lại hiện trường nữa. Nick biết điều đó. FBI, phối hợp với các thám tử đến từ lực lượng cảnh sát vùng, đã thẩm vấn từng nhân viên khách sạn làm việc tại thời điểm xảy ra vụ bắt cóc, nhưng không ai nhìn thấy gì cả. Họ cũng đã kiểm tra đoạn băng của hệ thống an ninh mười phút trước và sau khi Rachel bị buộc phải bước ra khỏi tầm ghi hình, nhận diện bất kỳ ai có thể từ những chiếc ô tô họ lái. Họ cố gắng liên lạc với gần hết những người đó nhưng không ai trong số họ nhận ra bất kỳ hoạt động bất thường nào. Đội ERT cũng rất cố gắng nhưng cũng chẳng thu được kết quả gì.

Vậy thì anh phải làm gì, về nhà và đi ngủ? Đúng thế, Một cốc cà phê xuất hiện trước mặt anh.

“Mình chôm được một ít từ khách sạn.” Mark uống một ngụm khi Nick nhận lấy cốc cà phê.

“Cảm ơn.” Anh uống một ngụm. Chất lỏng nóng hổi đó chảy đến đâu là làm anh cảm thấy bỏng rát đến đó. “Nghe này, cậu không cần ở lại đây. Cậu có thể lấy xe mình về nhà nếu muốn và mình sẽ đi nhờ xe ai đó sau.”

“Mình sẽ ở lại cho đến khi mọi chuyện kết thúc.” Nick nhìn bạn đầy vẻ biết ơn. “Cảm ơn.”

“Chúng ta sẽ giải quyết được việc này.”

“Mình biết thế.”

Cả hai người đều cố che giấu nỗi lo lắng trong giọng nói của mình.

Liệu có kịp không?

Chiếc BlackBerry của Nick bắt đầu rung lên và anh lấy nó ra từ thắt lưng. “Bradley.”

“Matt Carson.” Người đặc vụ Chicago bỏ qua tiểu tiết và đi thẳng vào vấn đề chính. “Có lẽ chúng ta đã có một tin tức đột phá trong vụ bắt cóc.”

Cốc cà phê méo mó đi khi Nick siết chặt nắm tay. “Tôi đang nghe đây.”

“Một người vừa gọi điện thoại đến mười phút trước, anh ta nghĩ rằng vợ cũ của mình có thể có liên quan đến vụ bắt cóc. Tôi đang trên đường đến nhà anh ta, dự kiến mười phút nữa sẽ đến nơi. Tôi muốn anh cùng tham gia cuộc hội đàm này khi tôi nói chuyện với anh ta. Nếu anh có thể?”

Ra hiệu cho Mark đi theo, Nick bắt đầu sải bước về phía khách sạn. “Được. Tôi đang ở hiện trường vụ bắt cóc Rachel Sutton với đặc vụ Mark Sanders. Chúng tôi sẽ tìm chỗ và tham gia cuộc hội đàm này. Người này là ai?”

“Anh ta rất trung thực. Một giảng viên hóa học.” Matt nêu tên trường đại học. “Lý lịch của anh ta sạch sẽ. Vợ cũ anh ta tên là Debra Kraus và hiện đang sống ở khu vực St. Louis. Anh ta không có địa chỉ. Có thể anh nên bắt đầu truy tìm tung tích của cô ta.”

“Tôi sẽ lo việc đó. Gọi tôi ngay khi anh thiết lập được cuộc gọi.”

Vừa đi, Nick vừa thuật lại tình hình cho Mark, người đang sải bước bên cạnh mình. Khi anh nói xong, chiếc BlackBerry lại rung lên. Anh nhận ra tên người gọi.

“Rebecca, chúng ta có…”

“Nick, một người đàn ông trả lời điện thoại của Rachel.”

Trước giọng nói sắp kích động của cô ấy, Nick dừng khựng lại. “Cái gì?”

“Tôi đã gọi đi gọi lại số của em ấy và ông ta vừa trả lời.” Từ cuối cùng thốt ra cùng một tiếng nấc.

“Rebecca, nói lại đi. Cô đang nói về điện thoại nhà hay di động của cô ấy?”

“Đây… Tôi sẽ để anh nói chuyện với Colin.”

Trong khi chờ chuyển điện thoại sang Colin, trái tim Nick bắt đầu đập dồn dập.

“Chuyện gì thế?” Mark hỏi.

“Mình không biết. Mình hy vọng Colin sẽ nói rõ ràng hơn.”

“Nick? Colin đây. Cứ mười lăm phút Rebecca lại gọi vào điện thoại di động của Rachel một lần và một người đàn ông vừa mới trả lời. Một người nông dân, tôi nghĩ thế, tên là Gary Feltrop. Sống ở gần một nơi tên là New Melle. Ông ta ra ngoài để kiểm tra gia súc và nghe thấy tiếng điện thoại đổ chuông. Ông ta câu nó lên từ… nó nằm trong đáy của một cái giếng cạn bỏ hoang.”

Hơi thở dồn dập thoát ra khỏi phổi Nick và anh phải đặt câu hỏi tiếp theo. “Có gì ở trong đó nữa không?”

“Có. Một mảnh vải mà ông ta nghĩ có thể là tấm lót. Nhưng có đá chèn lên nó. Hình như đá trên thành giếng đã rơi xuống hoặc là bị đẩy xuống.”

“Chờ chút, Colin.” Bấm phím tắt tiếng, Nick cố gắng hít thở.

“Chuyện gì thế?” Mark cau mày và tiến lại gần hơn.

“Rebecca đã gọi vào điện thoại di động của Rachel. Một người nông dân ở New Melle vừa trả lời. Ông ta tìm thấy nó trong một cái giếng.”

Cơ cằm Mark giật giật.

“Colin? Cho tôi tên và số điện thoại của người đó đi.” Nick ra hiệu cho Mark lấy bút và sổ tay, sau đó lặp lại thông tin từ Colin. “Được rồi, đợi một chút. Chúng tôi cũng đang điều tra theo một manh mối mới ở Chicago, nhờ vào câu chuyện trên mục tin tức. Nói với Rebecca chúng tôi đang bám theo mọi manh mối.”

Khi đường dây ngắt, Nick chuyển hướng, tiến đến xe thay vì khách sạn. “Cậu có thể gọi điện trong lúc mình lái xe được không? Chúng ta cần ERT và K-9 đến trang trại của người này ở New Melle nhanh nhất có thể. Và chúng ta cần người kiểm tra xem có thể phát hiện ra điều gì về Debra Kraus. Mình phải để điện thoại rảnh để chờ cuộc gọi từ Carson.”

Trước khi Nick dứt lời, Mark đã bấm số trên chiếc BlackBerry.

Năm phút sau, khi Nick tiến về hướng tây thành phố, cuộc gọi từ Chicago đến và anh tóm tắt tình hình ở St. Louis cho người đặc vụ đó.

“Còn thứ gì khác trong giếng không?” Matt hỏi.

“Chúng tôi đang đến đó để kiểm tra.” Nick có thể nghe thấy Mark nói chuyện với người nông dân đó, đưa ra chỉ dẫn. Ngón tay anh siết chặt trên vô lăng.

“Tôi đang ở với Allen Harris. Anh ấy đồng ý với cuộc hội đàm. Anh muốn tiến hành luôn hay đợi thêm?”

“Cứ tiến hành đi. Tôi không muốn lãng phí thêm chút thời gian nào nữa. Nếu chúng ta phải dừng lại vài phút khi tôi cập nhật tình hình, tôi sẽ báo anh biết.”

“Được rồi. Tôi sẽ mở loa ngoài cho anh.” Có một tiếng lách cách, sau đó Matt nói tiếp. “Giáo sư Harris, đặc vụ Nick Bradley ở St. Louis đang ở đầu dây bên kia và có thể đặt vài câu hỏi trong khi chúng ta trao đổi.”

“Không thành vấn đề.”

“Làm ơn nói với chúng tôi điều gì đã khiến anh gọi đến tối nay.”

“Bài báo trên tờ Tribune sáng nay và bản tin buổi tối. Tôi e rằng điều này có thể hơi võ đoán và tôi xin lỗi trước nếu đúng là thế, nhưng tôi cảm thấy điều gì đó không đúng và lương tâm tôi sẽ không thể thanh thản nếu có người chết chỉ vì tôi sợ bị mất mặt.”

“Chúng tôi đánh giá cao điều đó, giáo sư Harris.” Matt trấn an anh ta. “Anh có thể nói cụ thể hơn về điều mà anh nói rằng có gì đó không đúng không?”

“Vâng. Vợ cũ của tôi, Debra Kraus, khao khát muốn có một đứa con. Nó giống như một nỗi ám ảnh. Thực ra, thành thật mà nói, đó là lý do duy nhất cô ấy kết hôn với tôi. Nhưng mọi thứ không diễn ra theo ý muốn của cô ấy. Trong ba năm kết hôn, cô ấy đã sảy thai hai lần, cả hai lần đều làm cô ấy vô cùng khốn khổ và bị biến chứng nguy hiểm đến tính mạng trong lần mang thai thứ ba. Khi chuyện kết thúc một cách bi thảm, ừm, chúng tôi không giữ được đứa bé.”

“Định nghĩa từ không giữ được là thế nào đi.” Nick xen vào.

“Lúc đầu cô ấy một mực không chịu tin rằng mình lại sảy thai lần nữa. Cô ấy cho rằng đứa trẻ đã bị cướp đi. Rồi cô ấy ngồi trong căn phòng chúng tôi dành riêng cho con hàng giờ liền, hát ru cho một con búp bê và vờ như nó là con mình. Tôi phải lôi cô ấy đến bác sĩ tư vấn tâm lý trong khi cô ấy không ngừng đấm đá, gào thét, nhưng cô ấy vẫn không chịu hợp tác. Và bắt cô ấy uống thuốc giống như một cuộc đánh vật vậy. Tôi nghĩ cô ấy không chấp nhận hoàn toàn sự thật rằng lần mang thai cuối cùng không mang đến cho cô ấy một đứa trẻ.”

“Vì sao anh nghĩ cô ấy có thể có liên quan đến bắt cóc đứa trẻ nhà O’Neil?” Matt hỏi.

“Một đồng nghiệp của tôi vô tình gặp cô ấy ở St. Louis vài ngày trước. Ở nơi gọi là Chesterfield, tôi hỏi anh ấy địa điểm trước khi gọi cho anh. Cô ấy mang theo một đứa trẻ và nói với bạn tôi rằng đang trông hộ bạn. Nhưng vấn đề là, cô ấy không hề có bạn ở đây. Cô ấy sống hoàn toàn đơn độc. Và trong suốt quá trình điều trị tôi phát hiện ra rằng cô ấy có vấn đề về thần kinh từ nhỏ.”

“Vấn đề kiểu gì?” Nick thúc giục.

“Rối loạn thần kinh. Không ổn định. Cô ấy cũng bị suy nhược thần kinh lúc đang học đại học và buộc phải bỏ dở việc học giữa chừng. Ít nhất đó là những gì cha cô ấy nói với tôi. Tôi tìm đến ông ta trong lúc tuyệt vọng muốn tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Ông ta không nói gì cụ thể hơn.”

“Anh li dị bao lâu rồi?”

“Một năm.”

“Có khả năng nào đứa trẻ đồng nghiệp anh nhìn thấy có thể là con ruột của cô ấy không?”

“Không. Cô ấy bị bệnh nhau cài răng lược trong lần mang thai cuối cùng. Cô ấy mất đứa trẻ và phải cắt bỏ dạ con. Và cô ấy sẽ không bao giờ được duyệt nhận con nuôi, do có tiền sử thần kinh như thế.”

“Anh có biết chúng tôi có thể tìm thấy vợ cũ của anh ở đâu không?”

“Không. Tôi không muốn giữ liên lạc. Nhưng cô ấy làm nghề trợ lý luật sư, nếu thông tin này giúp được gì đó cho các anh. Đó là một điều kỳ lạ. Cô ấy rất tháo vát, giỏi giang trong công việc. Bác sĩ điều trị tâm lý cho cô ấy gọi đó là chứng rối loạn ảo tưởng, như những chuyên viên phân tích của các anh đã nói. Anh ta nói người mắc chứng này thường có thể làm việc tốt, hành vi kỳ quái của họ chỉ liên quan đến chứng ảo tưởng của họ. Tôi cho rằng cô ấy vẫn làm nghề đó.”

Mark đang nói chuyện rất nhỏ, ra hiệu cho Nick.

“Matt, tôi cần tắt tiếng trong chốc lát.” Anh bấm phím và liệc sang nhìn Mark. “Ông Feltrop đẩy những hòn đá ra bằng cái móc và lấy tấm lót lên. Ông ta nói ở dưới đó có vẻ là quần áo và vài dụng cụ.”

“Thế thôi ư?”

“Ừ.”

“Quần áo kiểu gì?”

“Thứ duy nhất ông ta có thể xác định chắc chắn là một chiếc áo khoác màu xanh lá mạ.”

Áo của Rachel. Nhưng ít nhất không có người.

“Được rồi.” Từ đó phát ra giọng khàn khàn và anh hắng giọng khi bấm phím tắt tiếng. “Giáo sư Harris, theo ý kiến của anh, vợ anh có khả năng gây bạo lực không?”

“Tôi không biết. Có lẽ. Nếu cô ấy đủ tức giận, hay đủ rối loạn.”

“Cha cô ấy có biết cô ấy đang ở đâu không?”

“Tôi nghĩ là không. Họ đã chia cách nhiều năm rồi.”

“Dù sao chúng tôi cũng muốn xác nhận với ông ta. Anh có số của ông ấy không?”

“Có. Từ năm ngoái, ông ta đã chuyển đến sống ở thành phố này. Nhưng cũng có thể ông ấy đã đổi số rồi.”

“Chúng tôi sẽ bắt đầu từ đó.” Matt nói. “Tôi sẽ lấy thông tin từ anh trong một phút nữa. Nick, còn câu hỏi gì nữa không?”

“Bây giờ thì không. Nhưng giáo sư Harris, chúng tôi có thể cần thêm sự giúp đỡ từ anh.”

“Tôi sẽ cố hết sức nếu có thể.”

Đường dây kêu lách cách và khi giọng nói của Matt xuất hiện trở lại, âm thanh của cuộc hội đàm đã tắt. “Tôi sẽ cho điều tra người cha.”

“Và chúng tôi sẽ cố gắng lần tìm Debra Kraus. Cô ta có những đặc điểm trùng khớp với nhận dạng người mà chúng ta đã xây dựng. Gọi cho tôi nếu anh phát hiện ra bất cứ điều gì.”

“Chắc chắn rồi.”

Cả Mark và Nick kết thúc cuộc gọi chỉ cách nhau trong vòng vài giây.

“Cậu nghĩ thế nào?” Mark hỏi.

“Mình nghĩ Debra Kraus là nghi can chính. Theo chồng cũ của cô ta, cô ta có vấn đề nghiêm trọng về thần kinh, không nói đến chứng ảo tưởng về việc làm mẹ có thể biến thành bạo lực nếu cô ta cảm thấy có mối đe dọa nào đó. Cậu có thông tin gì không?”

“Đội ERT và K-9 dự kiến sẽ đến cùng lúc với chúng ta. Không có số điện thoại của Debra Kraus trong danh bạ điện thoại. Bây giờ chúng ta sẽ thử mở rộng tìm kiếm. Cả ngoại ô St. Louis và các cùng lân cận.”

“Chồng cũ của cô ta nói cô ta là trợ lý luật sư và có lẽ vẫn đang làm trong ngành đó. Đó có thể là một cách để tìm cô ta.”

“Xét đến số lượng công ty luật ở St. Louis, lần tìm cô ta theo cách đó vào đêm Chủ nhật có thể sẽ mất nhiều thời gian, Nick.”

Rất nhiều thời gian là đằng khác.

Thông điệp không lời đó vang lên thật to và rõ ràng. Trong thời tiết này, ra ngoài đường đối mặt với cái lạnh cắt da cắt thịt đối với người quần áo đầy đủ còn là một cực hình, đừng nói đến người có rất ít thứ để che chắn bảo vệ mình trước cái lạnh. Chiếc áo sơ mi lụa cổ điển và chân váy đen Rachel mặc cho buổi tiệc trà chỉ mang đến sự ấm áp vừa đủ khi ở bên trong nhà trong điều kiện thời tiết mùa đông lạnh giá.

“Chúng ta cần trực thăng sẵn sàng để quét nhiệt khi chúng ta đã khoanh vùng, đề phòng cô ấy ở ngoài trời.” Nick gắng hết sức để duy trì giọng nói bình tĩnh, chuyên nghiệp, nhưng Mark hiểu anh quá rõ.

“Đã xong.” Mark đặt tay lên vai anh. “Chúng ta sẽ tìm thấy cô ấy, Nick. Chúng ta có hai manh mối rất đắt giá. Mình nghĩ chúng ta đã đến rất gần cô ấy rồi. Và mình đang cầu nguyện.”

“Mình cũng thế.”

Gần như cả cuộc đời, Nick đã đặt niềm tin vào những lời cầu nguyện, coi đó là kim chỉ nam dẫn đường chỉ lối, là chỗ dựa và là nguồn an ủi động viên của mình.

Tối nay anh hy vọng nhiều hơn ở lời cầu nguyện của mình.

Anh hy vọng nó sẽ cứu mạng người phụ nữ đã nhanh chóng nắm giữ trái tim mình.

“Này, Marsha, xem cái này này.” Kristal đang đọc cuốn sách tâm lý học liền dừng lại và gọi với cô bạn cùng phòng.

“Gì thế?” Marsha cầm cốc xô đa lên và thong thả đi từ nhà bếp vào phòng khách.

“Đó là câu chuyện về vụ bắt cóc đứa trẻ nhà O’Neil.” Cô chỉ vào ti vi khi tấm ảnh đứa trẻ xuất hiện trên màn hình. “Họ nghĩ rằng cô bé đang ở St. Louis.”

“Mình biết rồi. Tay phóng viên của tờ St. Louis Scene đưa ra giả thuyết rằng cô bé đã ở đây một thời gian rồi.”

“Nhưng bây giờ nhà ngoại cảm trong bài báo đó đã bị bắt cóc. Hóa ra cô ấy là em gái của mẹ đứa trẻ. Sinh đôi, và đã bị chia cách từ lúc mới sinh.”

“Đùa à.” Marsha ngồi trên tay vịn của chiếc ghế trường kỷ.

“Dù sao đi nữa, cậu không nghĩ đứa trẻ đó rất giống với đứa trẻ cậu trông chiều nay sao?”

“Danielle?” Marsha nghiêng đầu và ngắm nghía tấm ảnh trên màn hình. “Đứa trẻ đó nhỏ hơn. Và màu tóc khác.”

“Phải, nhưng cậu không chú ý đến vết nâu sau tai Danielle sao? Mình nhìn thấy nó khi cậu bế dựng cô bé ấp vào vai.”

“Mình cũng thoáng nhìn thấy nó khi mặc bộ áo liền quần cho cô bé. Sao thế?”

“Mình thấy nó giống như thuốc nhuộm tóc.” Kristal lùa tay vào mái tóc nâu đỏ của chính mình. “Mình nhuộm rồi nên mình biết, cái thứ đó rất khó làm sạch. Nó bám được trên mọi chất liệu. Và tấm ảnh trên màn hình đó có thể là từ Giáng sinh. Quần áo của đứa bé có màu đỏ và xanh lá cây. Trẻ con thay đổi rất nhiều trong vài tháng đầu. Cậu có biết gì về mẹ của đứa trẻ đó không?”

“Chị ấy không nói nhiều. Nhưng mình biết chị ấy mới chuyển đến đây từ Chicago.” Marsha cau mày và lắc lắc chất lỏng trong cốc số đa. “Cậu biết không, khi mình chỉ cho chị ấy bài báo đầu tiên trên tờ St. Louis Scene về nhà ngoại cảm đó, chị ấy có vẻ hơi lo lắng.”

“Theo như FBI, Megan O’Neil có một vết bớt hình quả dâu tây nhỏ trên hông phải.” Người dẫn chương trình tiếp tục. “Mắt cô bé màu xanh lơ và…”

“Ôi Chúa tôi…” Marsha há hốc miệng và người cô cứng đơ, tay cầm cốc số đa dừng khựng lại khi còn chưa kịp đưa nó lên miệng.

“Gì thế?” Kristal ngả đầu ra sau để nhìn cô bạn cùng phòng. “Danielle có vết bớt đó trên hông.”

“Ôi!” Kristal rút điện thoại di động và giữ nó ra. “Mình nghĩ tốt hơn là cậu nên gọi FBI.”

Viên đá trượt khỏi những ngón tay tê cứng của Rachel. Lần nữa.

Nước mắt chực trào lên trong mắt và cô cố gắng kìm chúng lại.

Đừng khóc! Đừng từ bỏ! Tiếp tục đi!

Cô đã lặp đi lặp lại câu thần chú đó hàng giờ đồng hồ rồi, nhưng thực ra, cô không biết mình đã đục đẽo quanh tấm bản lề này bao lâu rồi. Cô đã không còn khái niệm gì về thời gian nữa.

Cô cũng đang đánh mất những thứ khác nữa. Khả năng suy nghĩ một cách tỉnh táo. Và khả năng đứng thẳng. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan cũng giảm đi. Nhưng ít nhất cô không thấy lạnh như lúc trước nữa, mặc dù những cơn run rẩy dữ dội vẫn tiếp tục ập đến. Cô cũng chẳng còn quan tâm nhiều đến việc phải bám sát kế hoạch của mình. Câu thần chú tạo động lực đang bắt đầu mất đi tác dụng của nó.

Ngồi thụp xuống đất, cô nghĩ đến chuyện từ bỏ. Đó là việc rất dễ dàng. Cô có thể buông xuống tất cả và kết thúc cơn ác mộng này. Vì sao phải kéo dài sự đau đớn này chứ?

Cô ngẫm nghĩ. Viễn cảnh đó cũng hay ho đấy chứ. Cô đã gắng hết sức mình, đúng không? Cạo thêm một hay hai mảnh vụn gỗ ra khỏi cánh cửa đó có ích lợi gì? Cô vẫn còn đang loay hoay với cái bản lề thứ nhất. Rốt cuộc, những cố gắng của cô cũng chẳng đi đến đâu. Cô chẳng thể nào cạy được một cái bản lề, đừng nói là hai.

Kiên trì và tiếp tục đi.

Giọng nói từ sâu thẳm bên trong thúc giục cô. Đó cũng là giọng nói cô đã nghe thấy trong những năm qua những lúc cuộc sống trở nên khó khăn. Trong những lúc thăng trầm, trải qua đủ những cung bậc cảm xúc ở cô nhi viện, trong những cơn đau của những lần phẫu thuật liên tiếp, trong những năm trưởng thành trong đơn độc không có ai chờ đón ở nhà, cô đã nghe thấy giọng nói đó, nghe theo chỉ dẫn đó.

Và bản tính ngoan cường đó đã được đền đáp. Nếu không giúp cô thành công, thì chí ít nó cũng mang đến cho cô lòng tự tôn. Bỏ cuộc sẽ là một lựa chọn ngu xuẩn để kết thúc cuộc đời mình.

Gom góp chút sức tàn, Rachel mò mẫm quanh nền đất bẩn cho đến khi tìm thấy hòn đá sắc cạnh kia.

Cô buộc những ngón tay bất hợp tác nắm lấy nó. Cầm nó lên. Và tiếp tục công việc.