← Quay lại trang sách

Chương IV (4)

Cách đây vài ngày, bà đem cho tôi một cuốn kinh nhật tụng phủ một lớp bụi dầy. Nhưng chẳng có sách kinh nào cũng như bất kỳ sách vở hoặc tư duy nào của đám dân đen hữu dụng với tôi. Tôi cần tới sự vô nghĩa và dối trá của họ để làm gì? Chính tôi chẳng phải là kết quả của nhiều thế hệ nối tiếp đã truyền lại kinh nghiệm của họ cho tôi hay sao? Quá khứ chẳng phải ở trong tôi hay sao? Còn những thứ như - thánh đường, tiếng báo giờ kinh, lễ thanh tẩy, súc miệng, sấp mình và phủ phục trước đấng Toàn năng hay Chúa tể vạn vật, với Ngài người ta chỉ có thể nói chuyện bằng thứ tiếng Arabic - chẳng thứ nào có tác dụng đối với tôi.

Ngay cả khi tôi còn khỏe mạnh và nhiều lần tới thánh đường, bất chấp những cố gắng của tôi muốn hòa hợp tâm tư và tình tự với những người khác, tôi thấy mắt mình dõi theo những tấm gạch men sáng có hoa văn trên tường, chúng làm nhẹ bớt những bổn phận của thánh đường và chuyển tôi vào cõi của những giấc mộng thú vị. Bằng cách ấy, một cách vô thức, tôi tạo cho mình một cách thoát ly. Trong khi cầu nguyện, tôi nhắm mắt lại và giấu mặt trong lòng bàn tay. Trong bóng đêm nhân tạo này tôi đọc lời cầu nguyện như những âm thanh vô nghĩa do một kẻ trong cơn mơ thốt lên. Những lời không nói ra từ đáy lòng. Tôi thấy thoải mái hơn khi nói chuyện với một người bạn hoặc một người quen hơn là với Thượng đế, Đấng ngự trên cao và toàn năng. Thượng đế là một đấng quá quan trọng đối với tôi.

Nằm trên cái giường ấm và ẩm thấp, những vấn đề này không làm tôi mảy may quan tâm. Thượng đế có tồn tại hay không đối với tôi không quan trọng, hoặc Ngài có hiện thân cho những ước muốn của những nhà cai trị thế gian, Ngài được phát minh ra để khẳng định cho thần tính của họ đặng dễ bề cho họ cướp đoạt đám lê dân. Nói cách khác, phải chăng Thượng đế là một hình ảnh tưởng tượng cho những bệnh hoạn của thế giới này được phóng chiếu lên cõi trời? Vào lúc này đây của đời mình, tôi muốn biết mình có sống qua hết đêm nay không. Trước cái chết, tôi cảm thấy rằng tôn giáo, đức tin, tín điều đều nhu nhược và trẻ con, mà những thứ tốt nhất cũng chỉ nói là loại giải trí cho những người lành mạnh, thành đạt. Trước thực tế kinh khiếp của cái chết và tình trạng tuyệt vọng của mình, tất cả những gì khắc sâu trong tôi về những chủ đề Ngài phán xét, thưởng và phạt ở đời sau, gần như là một trò lừa gạt, vô vị, và những lời cầu nguyện đã được dạy, đều hoàn toàn vô ích trước nỗi sợ chết.

Không, nỗi sợ chết hẳn sẽ không buông tha tôi. Những người không biết tới đau khổ tự thân không hiểu được khi tôi nói rằng sự gắn bó với đời sống của tôi đã tăng lên mạnh mẽ tới nỗi một khoảnh khắc khoan khoái nhỏ nhất cũng đủ đền bù cho những giờ đằng đẵng đầy hồi hộp và thống khổ.

Tôi đã thấy đau đớn và bệnh tật tồn tại và đồng thời chúng không có ý nghĩa gì. Trong đám dân đen, tôi trở thành sinh vật của một nòi giống lạ không thể nhận ra, tới nỗi họ quên mất rằng tôi từng tồn tại trong thế giới của họ. Điều đáng sợ là tôi không cảm thấy mình thực sự còn sống hay đã chết hẳn. Tôi là cái xác sống, không liên hệ gì tới thế giới người sống và đồng thời chẳng có sự lãng quên và an bình của cái chết.

Trời vừa tối, tôi rời bàn đèn, nhìn ra cửa sổ. Một thân cây đen bên cạnh hàng thịt đã hạ xuống cánh cửa chớp. Những cái bóng hòa vào thành một khối đen. Mọi vật như thể trong một thế giới trống rỗng và tạm bợ. Bầu trời đen màu hắc ín trông như cái lều đen cổ xưa bị xuyên lỗ chỗ bởi vô số những vì sao lấp lánh. Vào lúc này, tôi nghe đâu đó có tiếng báo giờ kinh, mặc dù không phải lúc. Âm thanh như tiếng kêu la của một người đàn bà, có thể là con đĩ, đang trong cơn đau đẻ. Lẫn với tiếng la ấy là tiếng chó tru. Tôi tự nhủ, “Nếu đúng là mỗi người gắn với một ngôi sao trên bầu trời, ngôi sao của tôi chắc phải ở rất xa, mờ mịt và vô nghĩa. Có thể tôi chẳng có ngôi sao nào!”

Ngay lúc đó, tôi nghe tiếng của một toán cảnh binh say mèm. Họ đi ngang qua phố vừa đùa cợt tục tĩu với nhau. Rồi họ đồng thanh hát:

“Nào, ta cùng đi uống,

Uống rượu của Xứ Ray.

Nếu giờ ta không uống,

Bao giờ mới uống đây?”

Thất kinh, tôi rút mình khỏi cửa sổ. Tiếng hát của họ vang dội lạ kỳ qua không trung rồi càng lúc càng xa và nhỏ dần. Không, họ không tới tìm tôi, họ không hay biết... Một lần nữa, im lặng và bóng tối trở lại bao phủ mọi vật. Tôi không thắp đèn dầu. Thật dễ chịu hơn khi ngồi trong bóng tối, thứ khí lỏng dày đặc ấy thâm nhập mọi thứ và mọi nơi. Tôi đã dần quen với bóng tối. Chính trong bóng tối mà những ý nghĩ đã thất lạc, những nỗi sợ đã bỏ quên, những ý tưởng ghê sợ, khó tin nấp trong hang hốc mù mịt nào đó trong đầu óc, thường sống trở lại, quẩn quanh và nhạo báng vào tôi. Những hình tượng hăm dọa và vô hình thể này ẩn nấp khắp nơi, trong góc phòng, sau màn, và bên cánh cửa.

Ngay kia, cạnh tấm màn, có một hình thù đáng sợ. Nó không động đậy, không buồn rầu và không mừng vui. Mỗi lần tôi quay đầu về phía nó, nó trừng trừng vào tôi. Khuôn mặt nó quen thuộc, dường như tôi từng thấy gương mặt này thuở bé. Vâng, đó là vào ngày thứ mười ba của tháng Farvardin. Tôi đang chơi trò cút bắt với một số đứa trẻ khác trên bờ sông Suran, ở đó tôi bắt gặp khuôn mặt này giữa những gương mặt bình thường khác. Nó làm tôi nhớ tới khuôn mặt của gã đồ tể đối diện cửa sổ phòng tôi. Hình thù này hiển nhiên chiếm chỗ của nó trong đời tôi, và tôi đã thường thấy nó trước đây. Có lẽ cái bóng này đã sinh ra cùng với tôi và di động vào trong cái vòng hạn chế của đời tôi.

Vừa khi tôi đứng dậy thắp ngọn đèn dầu, cái hình thù ấy tự mờ đi và biến mất. Tôi đứng trước tấm gương, đăm đăm nhìn vào mặt mình, cái hình trong gương gần như của một kẻ xa lạ. Thật kỳ quặc và đáng sợ. Cái bóng của tôi đã trở nên mạnh mẽ hơn cái tôi thật và tôi trở nên như cái hình trong gương. Tôi cảm thấy mình không thể nào ở một mình cùng phòng với với cái bóng này. Tôi sợ rằng nếu tôi chạy, nó sẽ đuổi theo. Chúng tôi như hai con mèo giáp mặt chiến đấu. Nhưng tôi biết mình có thể tạo nên cái bóng tối hoàn toàn riêng của mình với khoảng trũng trong lòng bàn tay và tôi đưa tay lên che mắt. Cảm giác khiếp sợ thường đánh thức trong tôi một nỗi say sưa khoái cảm khiến tôi choáng váng, lảo đảo và cảm thấy buồn nôn. Bất ngờ tôi nhận ra mình vẫn còn đang đứng. Đứng như thế là một phép lạ. Làm sao tôi có thể đứng bằng đôi chân mình? Dường như nếu tôi nhấc một bàn chân lên tôi sẽ đánh mất thế thăng bằng. Tôi cảm thấy quay cuồng. Mặt đất và mọi thứ trên đó cứ lùi xa dần khỏi tôi. Trong mơ hồ, tôi mong ước một cơn địa chấn hoặc một cơn lốc xoáy để tôi khả dĩ sinh ra lại trong một thế giới của ánh sáng và an bình.

Cuối cùng, tôi trở lại giường, tôi nói với mình, “Chết... chết...”, môi tôi khép lại nhưng tôi lại sợ tiếng nói của chính mình. Gần như tôi đã đánh mất mọi can đảm từng có. Tôi trở nên như lũ ruồi xâm nhập vào trong nhà vào đầu mùa thu, lũ ruồi gầy yếu, rã rời và sợ hãi cả tiếng vo ve từ đôi cánh của chúng. Chúng bám vào tường và bất động cho tới khi nhận ra rằng chúng vẫn còn sống, và rồi chúng lao mình vào cửa và tường cho tới khi xác chúng rớt la liệt trên sàn.

Khi tôi nhắm mắt lại, một thế giới mơ hồ bắt đầu hình thành quanh mình. Đó là một thế giới mà tôi là kẻ sáng tạo độc nhất và nó hài hòa với thị kiến về thực tại của tôi. Dù thế nào, với tôi nó rất thật và quen thuộc hơn cái thế giới tỉnh táo, không có trở lực hay những rào cản nào ngăn những ý nghĩ và trí tưởng tượng của tôi. Trong nó, thời gian và không gian mất đi hiệu lực. Những khao khát bị kiềm chế của tôi và những nhu cầu tiềm ẩn sinh ra giấc mơ này, và gây ra những hình dạng và những sự kiện vượt ngoài niềm tin dường như quen thuộc với tôi. Một hồi sau khi thức tỉnh, tôi không còn ý thức về thời gian hoặc nơi chốn và vẫn hồ nghi ngay cả chính mình có thực sự tồn tại hay không. Dường như chính tôi đã tạo ra tất cả những giấc mơ và đã quen thuộc với lối diễn giải về chúng.

Khi tôi chìm vào giấc ngủ thì đã rất khuya. Đột nhiên, tôi thấy mình đi thong dong qua một thành phố lạ, hai bên đường phố nhà cửa lạ lùng có những hình dạng kỉ hà - hình lăng trụ, hình nón, lập phương - chúng có những cánh cửa sổ thấp, tối tăm và tường phủ đầy dây hoa triêu nhan. Tất cả cư dân thành phố này, đã chết một cách kỳ lạ. Mỗi người đứng chết sững với hai giọt máu chảy từ miệng xuống rồi đông đặc lại trên áo. Khi tôi chạm vào một người trong số họ, thì cái đầu của hắn lìa ra và đổ nhào xuống đất.

Tôi đi tới cửa hàng thịt, ở đó là một người đàn ông trông giống ông già ngồi bán đồ lặt vặt trước cửa nhà tôi. Ông quấn cái khăn choàng cổ và cầm trong tay một cái dao lưỡi dài, ông nhìn trừng vào tôi với đôi mắt đỏ mà cặp mí hình như đã bị xẻo mất. Tôi ráng gỡ con dao khỏi tay ông. Cái đầu của ông lìa ra rồi đổ nhào xuống. Tôi kinh hoàng bỏ chạy. Trong khi tôi chạy trên đường phố, tất cả mọi người tôi thấy đều đứng chết sững như nhau. Khi tôi tới căn nhà của cha vợ, thì đứa em vợ, đứa em nhỏ của con đĩ, đang ngồi trên cái ghế đá bên ngoài. Tôi thọc tay vào túi lấy ra hai cái bánh và cố nhét vào tay nó, nhưng vào lúc tôi chạm vào thì cái đầu của nó lìa ra rồi đổ xuống đất. Tôi thét lên và tỉnh dậy.

Căn phòng vẫn còn mờ tối. Tim tôi đập hồi hộp. Như thể trần nhà đè xuống đầu tôi và các bức tường trở nên dày vô cùng và sắp làm buồng ngực tôi nổ tung. Mắt tôi mờ đi. Một hồi lâu, tôi nhìn chăm chú vào đám rui nhà, đếm đi đếm lại những cái xà nhà. Khi vừa nhắm mắt lại được, tôi nghe tiếng cửa mở. Đó là Vú, bà vào dọn dẹp phòng. Bà để đồ ăn sáng của tôi ở căn gác tầng trên. Tôi lên cầu thang rồi ngồi xuống cạnh cửa sổ. Từ trên này, tôi không thấy được lão già bán đồ lặt vặt, nhưng thấy người đồ tể phía bên trái. Những cử chỉ của hắn nếu nhìn từ cửa sổ của phòng tôi trông có vẻ nặng nề, thận trọng, và khủng khiếp, nhưng lại có vẻ hài hước và tội nghiệp khi nhìn từ chỗ này. Dường như hắn không phải là một tay đồ tể thực thụ, mà chỉ đóng kịch. Một người dẫn cặp ngựa thồ đen hốc hác vào, tiếng ho của chúng sâu và khan. Mỗi con treo lủng lẳng xác một cặp cừu vắt trên lưng. Gã đồ tể đưa bàn tay dầu mỡ lên vuốt ria mép rồi định giá xác con vật bằng con mắt của lái buôn. Tiếp theo, hắn chật vật kéo lê xác hai con vật và treo lên mấy cái móc ở lối vào tiệm. Tôi nhìn thấy hắn vỗ vỗ vào cặp giò chúng. Tôi đồ chừng ban đêm hắn cũng vỗ vỗ vào mình mẩy vợ hắn, vừa nghĩ tới con cừu, có thể còn ướm lời lãi bao nhiêu nếu đem xẻ thịt vợ hắn.

Khi việc dọn dẹp đã xong, tôi trở lại phòng mình và đi tới quyết định, một quyết định kinh khủng. Tôi vào buồng tủ trong phòng, lấy ra một con dao chuôi bằng xương ra khỏi cái hộp thiếc, dùng tay áo lau sạch lưỡi dao rồi đặt xuống dưới gối. Tôi đã đi tới quyết định này từ lâu, nhưng có gì đó vừa mới đây trong những động tác của người đồ tể trong lúc hắn xẻ cặp giò của con cừu, cân thịt và rồi nhìn quanh bằng một vẻ tự mãn, không hiểu sao khiến tôi muốn bắt chước hắn. Đây là một khoái cảm mà tôi cũng phải được trải qua. Từ cửa sổ tôi nhìn thấy một mảnh trời xanh thật đậm giữa những đám mây. Dường như để lên tới mảnh trời đó tôi phải leo lên một cái thang rất cao. Chân trời đã bao phủ những đám mây dầy đặc, vàng vọt và chết rồi trĩu xuống trên thành phố.

Thời tiết tồi tệ nhưng lại dễ chịu. Vì lý do nào đó, tôi không thể giải thích tại sao tôi khom mình xuống sàn nhà. Trong thời tiết như thế này, tôi luôn nghĩ về cái chết nhưng chỉ có giờ đây, khi thần chết mang gương mặt vấy máu, bóp cổ họng tôi bằng đôi bàn tay xương xẩu, tôi mới đi tới quyết định. Tôi quyết định đem con đĩ theo tôi, để sau khi tôi chết ả không được nói câu, “Xin Chúa thương xót anh. Anh đau khổ đủ rồi!”

Một đám tang ngang qua trước cửa sổ phòng tôi. Cỗ quan tài phủ vải đen và trên đó cắm hai ngọn nến đang cháy. Tôi nghe tiếng kêu lên “la ilaha il-allah”[4]. Những người buôn bán và khách qua đường ngừng mọi công việc và đi bảy bước lùi lại sau quan tài rồi tiếp tục công việc của họ. Ngay cả người đồ tể cũng ra ngoài, bước bảy bước sau quan tài rồi trở lại cửa tiệm. Nhưng lão già bán đồ vặt thì không buồn nhúc nhích khỏi chỗ bày hàng. Mọi người bỗng mang vẻ mặt nghiêm trang! Chắc chắn những ý nghĩ của họ bất chợt hướng tới vấn đề cái chết và đời sau. Khi Vú mang thuốc vào cho tôi, tôi để ý thấy bà trầm ngâm. Ngón tay bà đang lần từng hạt lớn từ một cỗ tràng hạt, bà đang lầm bầm một lời cầu nguyện nào đó cho chính bà. Rồi bà hướng ra ngoài cửa, đấm ngực và lớn tiếng đọc, allahomma, sallahomma...[5]

Như thể bà cho rằng việc của tôi là tha thứ cho người sống! Tất cả trò hề này, tôi hoàn toàn dửng dưng. Cái thực sự làm cho tôi hài lòng nhất định khi nghĩ rằng, dù một vài giây phút, đúng là đám dân đen cũng đang trải qua, mặc dù một cách tạm thời và hời hợt, tương tự những gì tôi đang chịu đựng. Chẳng phải gian phòng tôi là một cỗ quan tài? Chẳng phải cái giường của tôi lạnh lẽo và tối tăm hơn cả nhà mồ? Ý nghĩ mình đang nằm trong quan tài xảy ra với tôi nhiều lần. Đêm đêm, căn phòng tôi dường như co lại và ép vào thân thể tôi từ mọi phía. Chẳng lẽ người ta không có cảm giác này trong nấm mồ hay sao? Có sự hiểu biết nhất định nào về những cảm giác mà chúng ta trải qua sau khi chết? Đúng vậy, máu ngưng tuần hoàn và sau khoảng thời gian hai mươi bốn tiếng thì những bộ phận nào đó của thân thể bắt đầu thối rữa. Tuy nhiên, lông tóc và móng tay vẫn tiếp tục mọc một thời gian sau khi chết. Các cảm xúc và tư duy có chấm dứt vừa khi quả tim ngừng đập hay không hay chúng tiếp tục tồn tại mơ hồ do máu vẫn còn đọng trong những mạch máu? Sự kiện sắp chết tự thân là điều đáng sợ, nhưng ý thức mình đã chết thực, phải là điều hết sức kinh khủng. Có những người già chết thật lặng lẽ như đi từ giấc ngủ này sang giấc ngủ khác sâu hơn, như ngọn đèn tàn dần. Nhưng cảm giác ra sao của một thanh niên trẻ cường tráng đột ngột chết và vẫn tiếp tục hết mình chống chọi một thời gian với cái chết?

Tôi đã nhiều lần suy nghĩ về cái chết và về sự tan rã của thân thể mình, quen tới độ những ý nghĩ này không còn làm tôi sợ hãi. Trái lại, tôi thực sự khao khát được qua đời trong quên lãng và ngừng tồn tại. Điều duy nhất tôi sợ là những phân tử của xác tôi sẽ trộn vào với phân tử của đám dân đen, một ý nghĩ khiến tôi không thể nào chịu nổi. Đôi khi, tôi ước có đôi tay to lớn với những ngón dài nhạy cảm để tôi có thể cẩn thận thu gom mọi phân tử của xác mình, rồi nắm chặt không cho chúng hòa trộn vào với xác của đám dân đen.

Đôi khi, tôi cho rằng những ảo ảnh mình thấy chắc cũng tương tự với mọi người đang cận kề cái chết. Tất cả âu lo, sợ hãi, và ý chí sống đã lắng xuống trong tôi và việc tôi từ bỏ những tín ngưỡng giáo điều vốn in sâu trong tuổi thơ ấu đã đem lại cho tôi một sự yên bình nội tâm đặc biệt. Viễn tượng về sự quên lãng sau cái chết là điều duy nhất an ủi tôi. Ý tưởng về kiếp sau làm tôi sợ và mệt mỏi. Tôi chẳng bao giờ tự thích nghi được với cái thế giới mình đang sống đây. Vậy một thế giới khác có ích gì với tôi? Tôi cảm thấy thế giới này không được tạo ra cho tôi mà cho một bầy đoàn thô lỗ, trâng tráo, nham hiểm, khoác lác, hám của, những kẻ buôn bán lương tâm, mắt và tim luôn cồn cào - thực sự, nó được tạo ra dành cho những kẻ xun xoe, bợ đỡ trước quyền thế của trần gian và trời cao như con chó đói bên ngoài cửa hàng thịt vẫy đuôi mong nhận được một mẩu đồ thừa. Ý nghĩ về kiếp sau làm tôi sợ và mệt mỏi. Không, tôi không muốn nhìn thấy những thế giới buồn nôn này cùng những con người ghê tởm kia. Có phải Thượng đế là một thứ hãnh tiến đến nỗi ngài nằng nặc đòi tôi ngắm qua bộ sưu tập các thế giới của Ngài? Tôi phải nói lên như mình nghĩ. Nếu như tôi có một kiếp sau, tôi muốn trí óc và giác quan của mình sẽ ù lì. Trong trường hợp đó, tôi có thể tồn tại mà không cần cố gắng và chán chường. Tôi sẽ sống cuộc đời mình trong bóng tối của những cột đền Lingam nào đó, một thế giới tôi có thể tự do chạy quanh, ánh sáng mặt trời không làm nhức mắt tôi hoặc tiếng nói con người và đời sống ồn ào làm chói tai tôi.

Tôi càng lúc càng rút sâu vào nội tâm, như con thú vùi mình ngủ trong hang vào mùa đông. Tôi nghe thấy tiếng nói của người khác bằng tai, còn tiếng nói của mình, tôi nghe trong cuống họng. Sự cô đơn bao quanh tôi như màn đêm dày đặc miên viễn, như đêm đầy bóng tối dầy đặc, dai dẳng, lây lan chờ chụp xuống trên những thành phố yên lặng đã no nê những giấc mơ thèm khát và hiềm thù. Từ điểm nhìn của cái cổ họng này mà tôi nhận ra chính mình, tôi chẳng là gì ngoài một số hư điên rồ chứng minh trong toán học. Cái sức ép, trong hành vi sinh sản, cầm giữ hai người lại với nhau và họ đang cố gắng trốn khỏi sự cô đơn của mình là kết quả của cùng cái nết điên rồ này vốn tồn tại trong mỗi người, pha lẫn với niềm hối tiếc khi nghĩ đến mình đang dần hướng tới vực thẳm của cái chết...

Chỉ có cái chết không nói dối.

Sự hiện diện của cái chết hủy diệt tất cả những mê tín. Chúng ta là con cái của cái chết và chính cái chết cứu thoát chúng ta khỏi sự lừa dối của cuộc đời. Giữa cuộc đời, nó kêu gọi chúng ta và chiêu tập chúng ta tới nó. Vào một tuổi đời khi còn chưa học ngôn ngữ của loài người, nếu đôi lúc chúng ta ngừng cuộc chơi, chúng ta có thể lắng nghe tiếng nói của cái chết... Suốt cuộc đời, cái chết luôn vẫy gọi chúng ta. Chẳng phải nó đã xảy đến với mọi người một cách bất chợt, vô cớ, lúc mê mải trầm tư và đắm chìm thật sâu trong nó đến nỗi mất ý thức về thời gian và nơi chốn và hoạt động của tâm trí mình? Vào những lúc như thế, người ta phải nỗ lực để hiểu được và nhận ra một lần nữa cái thế giới hiện tượng mà con người sống trong đó. Người ta đang lắng nghe tiếng nói của cái chết.

Nằm trên cái giường ẩm đầy mùi mồ hôi này, mí mắt tôi trở nên nặng trĩu, tôi mong mỏi được phó mình vào cõi vô vi và đêm vĩnh cửu, mọi ký ức đánh mất cùng những nỗi sợ đã quên lãng giờ sống lại: sợ rằng những chiếc lông vũ trong gối hóa thành những lưỡi dao găm, hoặc khuy nút trên cái áo ngủ của tôi cứ to dần lên như những cái cối đá, sợ những mẩu bánh mì rơi xuống sàn sẽ vỡ tan từng mảnh như thủy tinh, lo sợ dầu sẽ tràn ra khỏi ngọn đèn trong lúc tôi ngủ làm bốc cháy cả thành phố, lo móng chân con chó ngoài hàng thịt sẽ gõ xuống mặt đường lộp cộp như móng ngựa, sợ ông già ngồi bán đồ vặt sẽ bật cười và không thể nào ngừng lại, sợ những con trùng trong khoang tắm cạnh bồn nước trong sân sẽ biến thành con rắn hổ mang, sợ cái chăn hóa thành bia mộ trên người tôi và khớp răng cẩm thạch của nó sẽ chốt tôi lại. Tôi sợ mình bị mất tiếng, bất kể tôi la thét bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ai nghe...

Tôi thường cố nhớ lại những ngày thơ ấu của mình nhưng khi đạt được và cảm thấy cái thời đó lần nữa, và rồi sau đó cũng lại gớm ghiếc và đau đớn như giờ đây.

Có nhiều thứ khác để sợ: những cơn ho vang dội như những cơn ho của cặp ngựa thồ gầy gò ở trước cửa hàng thịt, khi tôi khạc đờm ra và sợ thấy có máu, máu, thứ chất lỏng âm ấm, mằn mặn, tinh chất của sự sống dâng trào từ những đáy sâu trong thân thể và cuối cùng bị ói ra, mối đe dọa không ngừng của cái chết giày xéo lên tấm mạng tinh thần và không để lại dấu vết hy vọng nào. Tất cả những thứ này là nguồn sợ hãi.

Đời sống khi nó tiếp diễn, lạnh nhạt và thản nhiên, tiết lộ những gì đằng sau chiếc mặt nạ mà mỗi người đang mang. Dường như mỗi người mang một số mặt nạ. Có người, tằn tiệm, luôn chỉ dùng một cái mặt nạ, và sau đó tất nhiên nó trở nên cáu bẩn và nhăn nheo. Những người khác để dành mặt nạ của mình cho con cái, và còn có những người liên tục thay đổi mặt nạ. Nhưng tất cả họ, khi tới tuổi già mới nhận ra cái mặt nạ họ đang mang là cái cuối cùng và sẽ sớm bị cũ mòn, và rồi, từ đằng sau chiếc mặt nạ cuối, gương mặt thật hiện ra.

Trong những bức tường phòng tôi hẳn có chứa một loại vi khuẩn đầu độc mọi ý nghĩ của tôi. Chắc chắn rằng trước tôi có kẻ sát nhân, kẻ điên loạn nào đó đã sống trong này. Không chỉ những bức tường phòng, mà quang cảnh nhìn từ cửa sổ, gã đồ tể, ông già bán đồ lặt vặt, bà vú, con đĩ và mọi người mà tôi thường thấy, ngay cả cái tô súp và quần áo tôi mặc - tất cả những thứ này cùng nhau âm mưu gây ra những ý tưởng này trong đầu óc tôi.

Cách đây mấy đêm ở phòng thay đồ trong nhà tắm, khi tôi cởi quần áo ra, những ý nghĩ của tôi đã có một chiều hướng mới. Sau đó, trong lúc người phục vụ trong nhà tắm dội nước lên đầu tôi, tôi cảm thấy như thể những ý nghĩ đen tối của tôi đều đã được gột rửa. Tôi quan sát cái bóng của mình trên vách tường bốc hơi của nhà tắm. Tôi thấy mình mỏng mảnh và gầy như hồi mười năm trước khi còn là một đứa trẻ. Tôi nhớ lại rõ ràng cái bóng của tôi thường đổ lên bức tường bốc hơi hệt như lúc này. Tôi nhìn kĩ thân thể mình. Có gì đó vừa dâm dật nhưng lại chán ngán khi tôi nhìn vào đùi, bắp chân, bộ phận sinh dục của mình. Tôi cảm thấy toàn bộ cuộc đời mình đã trôi qua không mục đích, không ý nghĩa như những cái bóng chập chờn trên bức tường nhà tắm. Những người khác đều rắn chắc, mạnh mẽ và sung sức. Chắc chắn những cái bóng của họ hắt lên tường bốc hơi đều lớn hơn và đặc hơn và để lại dấu ấn của chúng sau khi đã rời đi, trong khi cái bóng của tôi tức thời lu mờ. Khi mặc xong quần áo sau khi tắm, những cử chỉ và ý tưởng của tôi dường như lại thay đổi. Như thể tôi đã đi vào một thế giới khác, như thể tôi lại tái sinh trong một thế giới cũ mà tôi ghê tởm. Dù thế nào, có thể nói tôi đã có được một đời sống mới, như phép lạ, vì tôi đã không tan vào trong bể tắm như một cục muối.

Cuộc đời tôi hiện ra vừa lạ lùng vừa không tự nhiên, vừa không thể giải thích, như hình ảnh trên cái hộp đựng bút mà tôi đang dùng trong lúc này khi viết. Dường như người họa sĩ đó khi vẽ bức tranh trên cái nắp hộp bút đã bị ám ảnh. Thường khi nhìn vào bức họa này, nó gây cho tôi một sự quen thuộc nào đó. Có lẽ bức họa là lý do tại sao... Có lẽ chính bức họa này đã buộc tôi phải viết. Nó miêu tả một cây trắc bá, ở dưới gốc cây là một lão già lưng còng ngồi xếp bằng trông như một đạo sĩ khổ hạnh Ấn Độ. Ông quấn quanh người một cái áo choàng dài và trên đầu đội khăn xếp. Ngón trỏ tay trái của ông dí lên môi trong cử chỉ đầy ngạc nhiên. Trước mặt ông là một cô gái mặc áo dài đen đang khiêu vũ. Những động tác của nàng không phải của người thường - nàng có thể là một Bugam Dasi. Nàng đang cầm trong tay một đóa triêu nhan. Ở giữa họ là một dòng suối chảy.

Tôi đang ngồi cạnh bàn đèn. Tất cả những ý nghĩ tăm tối của tôi đã hòa tan và biến mất trong làn khói thiên thai huyền ảo. Giờ đây thân thể tôi đang trầm tư, thân thể tôi đang mơ màng và lướt qua không gian như thể thoát khỏi trọng lực và sự ô nhiễm của tầng không khí bên dưới và bay lượn trong một thế giới lạ đầy những hình, sắc dị kỳ. Nha phiến đã thở ra linh hồn thảo mộc, một linh hồn thảo mộc ù lì và tôi đang du hành trong cái thế giới thảo mộc. Khi quấn chiếc áo choàng vào, ngủ chập chờn trước lò than, vì lý do nào đó, lão già bán đồ vặt lại hiện ra trong trí tôi. Lão thường ngồi trước mớ hàng, vai lão còng giống tôi. Ý nghĩ này làm tôi hoảng sợ. Tôi đứng dậy, cởi áo choàng và đứng trước gương. Hai má tôi đỏ au như màu thịt treo trước hàng thịt. Chòm râu rối bù nhưng lại mang sức linh tính thu hút. Đôi mắt đầy vẻ mệt mỏi và chịu đựng như đôi mắt của đứa bé bị bệnh. Như thể mọi thứ nặng nề, trần tục và thuộc con người đã tan biến khỏi tôi. Tôi hài lòng với gương mặt mình, nó gây trong tôi một loại cảm giác say sưa nhục cảm. Nhìn vào cái bóng trong gương, tôi nói với mình, “Nỗi đau của ngươi quá sâu đậm đến nỗi nó đọng lại trong đáy mắt ngươi... nếu có khóc, không chắc nước mắt có thể chảy ra được!” Tôi nói tiếp, “Ngươi là đồ ngu. Sao ngươi không tự kết liễu đời mình ở đây bây giờ? Ngươi đang chờ điều gì? Ngươi đang hy vọng điều gì bây giờ? Ngươi đã quên cái bình rượu trong buồng tủ hay sao? Một ngụm, và rồi mọi thứ kết liễu... Đồ ngu! Ngươi là đồ ngu!... Này đây, ngươi đang nói chuyện với không khí!”

Những ý tưởng nảy ra trong đầu tôi đều không liên hệ với nhau. Tôi có thể nghe tiếng nói của mình trong cổ họng nhưng không thể nào nắm bắt được ý nghĩa của những lời nói. Những âm thanh trộn lẫn trong đầu óc tôi cùng với những âm thanh khác. Những ngón tay của tôi dường như to hơn bình thường như mọi khi tôi lên cơn sốt. Mí mắt của tôi cũng vậy, cảm thấy nặng nề, môi trở nên dày hơn. Tôi quay đầu lại và thấy Vú đang đứng ở cửa. Tôi phá lên cười. Gương mặt của Vú bất động. Đôi mắt mờ mờ của bà dán chặt vào tôi nhưng không tỏ vẻ ngạc nhiên, tức giận hoặc âu sầu. Nói chung, người ta cười vào hành vi ngu ngốc, nhưng tiếng cười của tôi có một lý do thâm trầm hơn thế, tôi đang cười vào sự ngu si mênh mông mà tôi nhìn thấy trước mặt mình, con người không có khả năng giải đoán được chút nào và lĩnh ngộ những gì vượt qua tầm với của mình, tôi cười vào những gì bị che phủ trong bóng tối của đêm và cái chết - một thế lực siêu nhiên. Bà vú nhấc cái lò than lên và thận trọng bước ra khỏi phòng. Tôi lau mồ hôi trên trán. Lòng bàn tay tôi phủ những đốm trắng. Tôi dựa vào tường, đầu ngả lên tường gạch, và dường như thấy dễ chịu hơn. Một lúc sau tôi thì thầm lời một bài ca mà tôi đã nghe được đâu đó:

“Nào, ta cùng đi uống

Uống rượu của xứ Ray.

Nếu bây giờ không uống,

Bao giờ mới uống đây?”

Khi cơn khủng hoảng ập đến, lúc nào tôi cũng cảm thấy trước khi nó tới và tràn ngập một trạng thái vô cùng bứt rứt và trầm cảm như thể bị một sợi dây buộc chặt quanh tim mình. Tâm trạng tôi giống như thời tiết trước khi cơn bão ập tới. Vào những lúc đó, thế giới thực rút lui khỏi tôi, và tôi sống trong một thế giới chói sáng xa vô hạn khỏi thế giới mặt đất.

Khi ấy, tôi sợ hãi chính mình và mọi người khác. Tôi tin rằng tình huống này là do bệnh tật đã làm nhụt nhuệ khí tinh thần của tôi. Tôi sợ ngay cả khi nhìn thấy lão già bán đồ lặt vặt và gã đồ tể qua cửa sổ phòng mình. Có gì đó đáng sợ trong cử chỉ và vẻ ngoài của họ, nhưng tôi không thể nói chính xác là gì. Bà Vú đã nói cho tôi nghe một việc kinh khiếp. Bà lấy các đấng tiên tri ra thề rằng bà đã nhìn thấy lão già bán đồ vặt tới căn phòng vợ tôi vào ban đêm, và từ sau cánh cửa, bà nghe tiếng con đĩ nói với lão, “Cởi khăn choàng ra nào!” Việc ấy thật khó ngờ tới. Cách đây hai, ba ngày, khi tôi thét lên và vợ tôi đã đến và đứng ở cửa, tôi đã thấy, tôi thấy tận mắt mình, trên môi của ả mang vết răng bẩn ố vàng và bị sâu của lão già, giữa hàm răng đó của lão thường tuôn ra những câu kinh Qur’an. Và giờ đây tôi ngẫm nghĩ về việc, tại sao cái lão này lại đeo đẳng bên ngoài căn nhà tôi kể từ khi tôi kết hôn? Phải chăng lão là một trong những tình nhân của con đĩ? Tôi nhớ cùng ngày đó, tôi đã tới chỗ lão ngồi cạnh mớ đồ linh tinh và hỏi lão giá cái bình này bao nhiêu. Lão nhìn tôi qua nếp khăn choàng cổ quấn khuôn mặt lão. Hai cái răng sâu ló ra dưới cái môi sứt và lão bật lên cười. Đó là tiếng cười the thé, khô khốc, tiếng cười làm người ta dựng tóc gáy, lão nói, “Cậu không nhìn vào thứ cậu mua hay sao? Cái bình này chẳng đáng là bao. Cầm lấy đi, cậu trẻ. Hy vọng nó đem lại cho cậu may mắn!” Tôi thọc tay vào túi, lấy ra hai đồng dirhems và bốn peshiz[6] rồi đặt vào góc tấm trải. Lão lại bật cười, tiếng cười the thé làm người ta dựng tóc gáy. Tôi có thể độn thổ vì xấu hổ. Lấy tay che mặt, tôi trở về nhà.

Chú thích:

[4] “Không có chúa nào ngoài đấng Allah”, là một phần trong việc tuyên xưng đức tin của người Muslim.

[5] “Lạy Chúa tôi! Lạy C-h-u-ú-a tôi!”

[6] Những đồng tiền thời trung cổ, đại khái tương đương với đồng kran và abbasi hiện đại. (Chú giải theo D.P Costello)