← Quay lại trang sách

V BỎ THÂY ĐẤT KHÁCH

Thực ra ngoài ước mơ của bọn Max. Khi ở đồn Sutter ra đi họ chỉ mong mỗi ngày mỗi người kiếm được vài ba ounce vàng, bây giờ họ kiếm được trên số đó. Nhưng họ tiêu pha cũng nhiều.

Hồi mới tới gulch, các quán chỉ bán mỗi một thứ thịt heo muối, nhiều khi đã nặng mùi, Kit thỉnh thoảng vác súng đi, đem về một con nai, vài con vịt trời, con nhím, con thỏ… Sau một tháng, hàng hóa thực phẩm chở tới mỗi ngày mỗi nhiều: khoai tây, đậu, trà, bánh bích qui, giấm, bột xà bông… Chủ quán muốn cho giản tiện, định một giá chung cho mọi thứ: bất kì thứ gì, cứ mỗi livre, khoảng nửa kí, phải trả một Mĩ kim. Trung bình, mỗi người tiêu năm Mĩ kim(?), riêng về khoảng ăn uống.

Nhưng bọn người đào vàng không có Mĩ kim, trả bằng vàng cho tiện. Họ cũng chẳng buồn cân vàng, cứ mở túi da ra, lấy đại một nhúm, định phỏng chừng là nặng bao nhiêu. Chủ quán có kì kèo thì họ thêm một chút. Lâu rồi cũng quen, ít khi sai nhiều, người mua và người bán thỏa thuận với nhau ngay. Chút đỉnh, xính xái mà.

Vàng có nơi tốt, có nơi xấu, nhưng những thợ mỏ lão luyện chỉ trông qua cũng đoán được vàng ở gulch nào, mà định giá từ tám đến mười sáu Mĩ kim một ounce. Tính ra mỗi gam, giá trung bình là ba quan tiền Pháp. Và một người đào vàng kiếm được gấp mười hay hai mươi một công chức hạng trung.

Một hôm, Hans thèm thịt gà. Thứ này rất hiếm vì ngay vườn ruộng còn bỏ hoang thì ai mà nghĩ tới chuyện nuôi gà. Nhưng chàng cùng với Lê Kim tới thăm bọn Trung Hoa và kiếm được một con. Người ta đòi tới năm chục Mĩ kim, gần ba ounce vàng, chàng xót ruột, đành nhịn, kiếm một miếng thịt nai vậy.

Nhờ có Kit mà dân đào vàng được nếm đủ các thứ thịt rừng: thịt chồn, heo rừng, gấu, hoẵng… cả thịt đà điểu nữa. Cây súng của chàng làm lợi cho chàng hơn cây súng của các bạn.

Người nào cũng thèm trái cây và rau, nhưng không kiếm đâu ra được. Lê Kim vô rừng kiếm các thứ lá cây chua chua hoặc chát chát về ăn với thịt. Các bạn trong đoàn hoan nghênh sáng kiến đó. Đôi khi Lê Kim làm thông ngôn cho gulch trong việc giao tiếp với người Hòa Lan hoặc người Trung Hoa; ít lắm vì bọn người này đã nói được vài tiếng Anh.

Đào vàng được trên một tháng thì túi da người nào cũng bắt đầu nặng rồi. Cứ phải đeo hoài thứ đó ở bên sườn hoặc trước bụng, với một hai khẩu súng sáu, họ thấy khó chịu. Bọn Olivier, Salmon, Paine và hai người nữa nghĩ tới chuyện đem gởi vàng ở ngân hàng San Francisco. Phải hai người đi cho chắc chắn, mỗi người phải có một con ngựa. Mà ngựa tuy không hiếm lắm, nhưng giá rất cao. Một con ngựa già cũng phải trả hai trăm Mĩ kim.

Olivier nảy ra một ý mà chàng tự khen là tài tình:

- Này các bạn, bọn thằng “Jack ba ngón tay” cứ luẩn quẩn ở miền này hoài, đi đâu ít bữa không biết rồi trở lại, chúng chẳng làm ăn gì cả. Quân du thủ du thực này khả nghi lắm. Thằng Jack nói chúng buôn bán, buôn bán gì đâu? Chỉ có vài con điếm nhởn nhơ, hút thuốc, uống rượu, ca hát suốt ngày, làm sao đủ nuôi cả bọn trên mười đứa được? Các thợ mỏ ở đây ngán chúng lắm, chắc nhiều người cũng muốn cất vàng một chỗ nào cho yên ổn. Chúng mình có thể đề nghị đi gởi vàng giùm cho họ ở ngân hàng. Phí tổn chia đều… Vả lại mua ngựa, đi xong chuyến này rồi về bán lại, không lỗ bao nhiêu đâu.

Ý kiến đó được hoan nghênh. Họ đem ra bàn với một thợ mỏ già dựng ở gần lều họ. Người này bằng lòng và bảo sẽ rủ thêm vài bạn nữa. Olivier dặn phải giữ kín.

Hôm sau, một đám thợ mỏ lại kiếm Olivier; Olivier phải gạt bớt ra vì số vàng sẽ nặng quá, Olivier và Paine chở không hết. Họ bèn mua hai con ngựa cột ở gần lều, đợi ngày lên đường.

“Jack ba ngón tay” cứ ít bữa lại chơi nói chuyện phiếm, thấy hai con ngựa đó, hỏi:

- Mua mấy con ngựa mắc dịch này làm gì vậy?

Olivier đáp:

- Mùa mưa gần tới rồi, thế nào cũng phải rời cái gulch này. Sẵn có người bán thì mua trước đi, để tới lúc đó, ai cũng muốn mua, sẽ đắt.

Jack đã đánh hơi thấy có chuyện gì rồi, la cà các quán, nghe ngóng và chỉ trong một ngày hắn biết được dự định của bọn Olivier.

Họ biết được ngày đi gởi vàng.

Có người giao hết vàng cho Olivier và Paine; có người giữ lại một nửa. Họ dặn Olivier và Paine hễ gặp thợ mỏ nào đi ngược chiều về phía gulch thì nhắn tin cho họ biết. Bọn ở lại gulch quyết tâm gắng sức làm việc gấp rưỡi để thưởng công hai người ra đi.

Tới ngày thứ ba, họ dậy thật sớm, sửa soạn ra claim thì thấy đoàn xe của “Jack ba ngón tay” nhốn nháo khác thường; ngựa đã thắng vào xe, sắp hàng định rời đi đâu đó.

Kit bảo:

- Tụi nó sắp cút đi rồi. Nhưng tại sao thằng Jack không cho mình hay nhỉ. Có vẻ hấp tấp, khả nghi lắm.

Max cau mày:

- Chắc chúng đã làm cái gì bậy, nên đào tẩu đây.

Trời bắt đầu trở lạnh. Sương mù sáng nào cũng phủ kín chân núi và mặt sông. Một số thợ mỏ đã thu xếp đi San Francisco hoặc Sacramento. Trước khi đi, họ bán tháo hết đồ đạc: cuốc, leng, ba tê, lều… Chủ quán mua hết với giá thật rẻ, để đầu mùa sau bán lại với một giá rất đắt. Chẳng hạn như một cái cân tồi để cân vàng, chỉ đáng một Mĩ kim, khi lại gulch, họ phải mua của chủ quán với giá ba mươi lăm Mĩ kim, bây giờ bán lại cho chủ quán với giá mười Mĩ kim.

Một số người đào được nhiều vàng rồi tính không trở lại nữa, sẽ mua một cái trại nào đó để làm ruộng, nuôi bò. Nghe nói ở phía Nam San Francisco còn nhiều đất phì nhiêu lắm. Một số khác hoặc vì đào được ít, hoặc vì ham vàng, tính tới mùa nắng sang năm sẽ trở lại đào nữa.

Max nói:

- Tôi đưa anh em đến miền Tây này, lại đây đào vàng ít lâu với anh em cho vui, bấy nhiêu đủ rồi; tôi sẽ trở lại đồn Sutter, bàn với ông Sutter xem có thể làm được gì cho miền này không.

Kit cũng muốn theo Max để săn bắn. Hans muốn kiếm đất làm ruộng ở một nơi nào cách xa miền mỏ. Lê Kim cũng ngán đào vàng rồi, bảo sẽ đi San Francisco cho biết, rồi quyết định sau.

Họ đồng ý rằng ai muốn đi đâu thì đi nhưng hãy cùng nhau đi thăm San Francisco, đã từ châu Âu, châu Á qua đây mà không biết San Francisco thì cũng uổng. Nhưng phải đợi hai bạn Olivier và Paine về rồi mới đi được. Mà lạ quá, nửa tháng đã trôi qua, vẫn không có tin tức gì cả. Mọi người đâm lo, ngong ngóng từng ngày.

Sáng nào họ cũng nhìn trời xem có đám mây đen nào kéo tới không. Mưa đổ xuống vài trận là cả miền này lầy lội, rồi ngập lụt. Tại gulch, chỉ còn lại vài ba chục thợ mỏ, chủ quán tính đóng cửa, bảo họ:

- Mưa đổ thình lình lắm, không ai đoán trước được cả. Thường đổ ban đêm, có khi chỉ nửa giờ rồi tạnh, nhưng nửa giờ đó cũng đủ cho trong lều ướt hết. Có khi mới đầu mùa mà nó kéo dài bốn năm ngày, tám chín ngày và cả thung lũng này bị ngập. Đất sét dính chặt vào gót giày, không nhắc chân lên được nữa, các bạn sẽ như bị cầm tù ở đây.

Hans hỏi:

- Theo chú đoán thì mấy bữa nữa mưa sẽ trút xuống.

Chủ quán đáp:

- Có thánh mới biết được! Tôi khuyên anh em càng đi sớm càng hay.

Bọn Max quyết định lên đường, không đợi Olivier và Paine nữa, chắc chắn thế nào cũng gặp họ ở dọc đường hoặc ở San Francisco.

Tới đâu họ cũng hỏi thăm thấy có hai người hình dáng như vậy cưỡi ngựa qua cách đây nửa tháng không, tên là Olivier và Paine.

Một hôm họ vào đụt mưa trong một căn nhà. Chủ nhà trân trân nhìn Max, nhìn Lê Kim một chút rồi hỏi:

- Các ông phải ở gulch Gully không?

- Phải, sao ông biết chúng tôi?

- Tên ông là gì?

- Max.

- Còn ông này phải là Kim không?

Cả bọn ngạc nhiên.

Chủ nhà bảo:

- Mời các ông vô, có bạn các ông trong này.

- A, Olivier và Paine đây rồi.

- Không, chỉ có một người thôi, ông Paine.

Paine nằm trên giường, xanh xao, hai bàn tay còn băng bó.

Họ chạy lại hỏi:

- Anh làm sao vậy? Bị thương nặng không? Còn Olivier đâu?

Paine thở dài:

- Chúng bắn chết anh ấy rồi. Quân chó má. Tội nghiệp ảnh. Tôi trở tay không kịp. Anh ấy đi trước tôi hai chục thước; cách nhau như vậy để có gặp tai nạn thì người này có thể cứu người kia, hoặc nguy quá thì có thể thoát thân… Chúng chăng dây ngang đường. Ngựa anh ấy vấp té. Rồi tôi nghe thấy súng nổ. Ngựa tôi đứng sựng lại, hí lên, suýt hắt tôi xuống đất. Tôi mới lấy được thăng bằng, hai thằng nhảy tới ôm chầm lấy tôi, tôi lăn xuống đất. Tôi vừa rút súng ra bắn được một phát, rồi nghe thấy mấy tiếng súng nổ; một đứa đâm tôi túi bụi mấy chục nhát, coi đùi và cánh tay tôi nè… Chúng rút lui. Tôi gọi:

“Olivier! Olivier!”

Không thấy đáp. Tôi rán lết lại. Nhưng máu ra nhiều quá, tôi ngất đi. Lúc đó trời đã tối. Sáng sớm hôm sau, một người vực tôi dậy. Các anh còn nhớ anh Tom không? Ảnh đã chỉ cho mình một lớp đất nào mới có vàng đó, ngày đầu tiên đó. Ảnh nhớ mặt tôi, xuống sông múc nước cho tôi uống, tôi tỉnh lại một chút, kể đầu đuôi cho ảnh nghe. Xác anh Olivier nằm ở lề đường, cách tôi hai chục thước. Chúng bắn ảnh mấy phát trúng óc, trúng ngực, quân chó đẻ! Chắc ảnh không kịp kêu.

Kit hỏi:

- Chúng là ai, anh nhận ra được không?

Paine đáp:

- Trời tối không trông thấy mặt, nhưng nhận được giọng chúng là giọng Mễ Tây Cơ. Và thằng chỉ huy tụi nó, cũng nói tiếng Mễ Tây Cơ nhưng giọng lơ lớ y hệt giọng thằng “Jack ba ngón tay”.

- Vụ xảy ra ngày nào?

- Tôi nhớ là buổi tối thứ nhì sau khi từ biệt các anh.

Mọi người đều nói:

- Đúng rồi.

Max bảo:

- Tối đó chúng hại hai anh rồi phi ngựa gấp trở về gulch, sáng hôm sau dông liền, như chạy trốn. Đúng như tôi đã ngại. Cái nợ máu… Nhưng anh kể tiếp đi.

- Tom thật tận tâm. Ảnh khiêng tôi tới nhà cách chỗ đó có lẽ cả cây số, săn sóc các vết thương cho tôi rồi trở lại chỗ đó, đào một cái huyệt chôn anh Olivier. Chúng cướp hết vàng rồi, quân chó đẻ… Tôi đau lòng về cái chết của anh Olivier, mà lại buồn rầu vì mang tiếng với anh em nữa, các anh thì không nói gì, còn những bạn khác đã giao vàng cho tụi tôi, chắc sẽ cho tôi là quân gian trá.

- Đừng nghĩ bậy nào! Không ai nghi ngờ anh đâu. Gặp bọn họ chúng tôi sẽ kể đầu đuôi cho bọn họ nghe. Nếu họ có đòi bồi thường thì chúng tôi sẽ bồi thường cho anh, bất quá đào vàng thêm một mùa nữa chứ gì… Nhưng tôi tin rằng không có chuyện đó đâu.

Salmon hỏi:

- Nhưng anh không tìm cách báo tin cho chúng tôi biết? Chúng tôi mong quá chừng.

Paine đáp:

- Tôi có nhờ anh Tom báo tin ngay cho các anh, anh ấy không chịu, bảo ở lại rình tụi Jack, tin rằng chúng sẽ dò la, hay tin tôi còn sống, thế nào cũng trở lại hạ thủ tôi cho không ai tố cáo chúng được. Ảnh chờ đây hai ba ngày không thấy gì, rồi giao tôi cho chủ nhà săn sóc giùm để đi San Francisco. Ảnh thực tận tâm mà ông chủ nhà cũng tốt bụng quá.

- Bây giờ anh thấy trong mình ra sao?

- Các vết thương nhẹ ở đùi đã lành rồi, còn cánh tay và bàn tay. Có xương gẫy, phải bó. Một hai tháng nữa mới lành hẳn. May không thành tật. Thật xui xẻo. Kiếm được ít vàng tính nghỉ mùa đông này rồi qua năm tìm chỗ mở quán. Bây giờ hết trọi rồi, lấy gì mà tiêu.

Max bảo:

- Anh đừng lo. Sau khi anh đi, chúng tôi đã rán làm việc, kiếm được kha khá, sẽ chia với anh, tội nghiệp anh Olivier. Chúng tôi cũng đã dành phần cho ảnh, mà ảnh đâu còn để mà nhận. Bây giờ để anh nghỉ, bọn tôi đi thăm mả anh Olivier đây.

- Phải đấy.

Họ ra khỏi nhà, đi ngược lại đường cũ, ai nấy làm thinh vì xúc động.

Theo lời chỉ của chủ nhà, họ tìm được một nấm mộ ở gần bụi cây, trên mộ có mấy miếng đá lớn. Nước đã làm cho đất sụt xuống ở một góc. Họ đắp lại. Cây thánh giá Tom cắm trên mộ cũng đã đổ. Họ dựng lại. Trên thánh giá chỉ có mỗi một chữ Olivier.

Nhiều người làm dấu thánh. Có người sụt sịt, ngẹn ngào. Họ ngồi bên mộ, nhớ lại những bạn đã bỏ thân trên con đường từ Saint Louis. Mới trên nửa năm mà sao thấy dài đằng đẳng. Biết bao gian truân, biến cố. Những nằm xuống(?) của các bạn đó lúc này ra sao? Giá có trở về con đường đó cũng không sao tìm ra mộ của họ nữa! Mà không ai muốn trở về con đường địa ngục đó cả. Thực ghê gớm quá. Như một ác mộng! Thấy gió lào xào trên cây nhắc họ cảnh qua dãy Núi Đá. Dòng nước lấp lánh dưới sông nhắc họ những con sông Rivière Bleue, Rivière Verte, Neubraska, Humboldd…

Lê Kim đề nghị:

- Khi đi đường chúng ta phải chôn vội vàng các bạn xấu số đó. Bây giờ chúng ta không nên để mộ anh Olivier điêu tàn như vậy. Chúng ta nên xây cất lại ngôi mộ này, rồi làm một mộ bia ghi tên hết cả các bạn khác đã bỏ mình trong cuộc hành trình nữa.

Max chăm chú ngó Lê Kim, gật đầu:

- Tôi không biết phong tục xứ anh, nền văn minh của xứ anh, nhưng xét anh tôi cũng biết rằng dân tộc anh có một nền văn hóa cao. Chúng ta sẽ thực hiện đề nghị của anh.

- Họ trở về nhà trọ của Paine. Sáng hôm sau, trước khi lên đường, họ chia cho Paine hai phần vàng, một phần để chàng chi tiêu, một phần để khi chàng bình phục rồi xây ngôi mộ và mộ bia cho Olivier và các bạn đã khuất.

Salmon tự nguyện ở lại chăm sóc Paine. Chàng nói:

- Anh Paine và tôi tuy không cùng quê nhưng tính tình hợp nhau. Tôi vẫn mến anh ấy. Tôi chẳng có việc gì ở San Francisco, tôi ở lại đây với anh ấy cho vui. Khi nào anh ấy bình phục, chúng tôi sẽ lại San Francisco tìm các anh. Nếu không lại được thì hết mùa mưa, chúng tôi sẽ trở về gulch Gully đào vàng một chuyến nữa. Kiếm chúng tôi ở đó sẽ gặp.

Họ từ biệt nhau. Bọn sáu người vội vàng lên đường kẻo bị mắc kẹt vì lụt. May quá, họ vừa ra khỏi Sacramento thì những trận mưa đổ xuống liên miên, những con đê để ngăn nước bị vỡ mà tám phần mười nhà của trong thị trấn bị nước cuốn đi. Họ xuống kịp một chiếc tàu nhỏ đưa họ tới San Francisco.