Chương 4
Như một đứa trẻ sơ sinh, ảo thuật gia khóc nức nở mãi mới trấn tĩnh để nói được nên lơi, "Tội nghiệp cho mụ già." Lân tuyệt nhiên không lên tiếng, và Schmendrick chăm chú nhìn lân bằng vẻ mặt lạ lùng. Mưa sớm dăng dăng, lân chiếu sáng một vùng, trong như chú hải trư xuất hiện trong vùng biển. "Không," lân nói như để trả lời ánh mắt dò hỏi của ảo thuật gia "Tôi không tiếc thương báo giờ."
Ảo thuật gia yên lặng nép mình bên đường mưa, kéo sát hơn nữa tấm áo choàng vào mình, trông hệt như chiếc ô đen gẫy gọng. Lân chờ đợi, cảm thấy ngày tháng của đời mình cũng dăng dăng tơi tả quanh mình như mưa rơi lúc đó. "Tôi cũng có buồn đấy," giọng lân dìu dịu, "nhưng không giống như bạn buồn."
Khi Schmendrick nhìn lân nữa, ông ta muốn kéo cả khuôn mặt mình trực diện với lân mà vẫn không được. "Bạn định đi đâu? Trước kia, bạn đương định đi về phía nào, rồi bị mụ ta bắt?"
"Tôi đương trên đường đi tìm đồng loại," lân nói "Ông bạn ảo thuật gia, ông bạn có lần nào gặp đồng loại tôi? Cũng sống giữa hoang vu, với màu trắng bọt biển như tôi đây này."
Schmendrick lắc đầu trịnh trọng. "Quả thực là không. Tôi chỉ mới vinh hạnh được gặp một mình bạn. Thuở tôi còn là một chú nhỏ thì kỳ lân còn, nhưng như tôi biết thì chỉ có một người là được gặp kỳ lân. Bây giờ thì kỳ lân đi hết cả rồi, bạn ạ, đi hết cả rồi, trừ bạn thôi. Khi bạn cất bước đi, nơi nào có tiếng vang dội lại, ấy là nơi đồng loại bạn đã từng ở."
"Không, điều đó vị tất đã đúng," lân nói, "vì có nhiều người đã gặp đồng loại tôi kia mà." Điều làm lân vui chính là chỉ mới gần đây thôi - hồi ảo thuật gia còn là chú bé - người ta còn gặp kỳ lân. Lân nói, "Một chàng bướm có nói với tôi về Con Bò Mộng Đỏ, và mụ phù thủy thì nói với tôi về vua Haggard. Vì vậy tôi sẽ đi bất kỳ đâu tìm cho ra họ để dò la tin tức về đồng loại tôi. Bạn có thể cho tôi hay vua Haggard trị vì miền nào không?"
Khuôn mặt nhà ảo thuật trông xa vời nhưng ông ta bắt đầu mỉm cười chầm chậm tưởng như miệng của ông ta đương hóa thành thép cứng nhắc, ông cố cười cho tự nhiên nhưng vẫn là nụ cười cứng như thép.
"Tôi có thể đọc cho bạn nghe một bài thơ," ảo thuật gia nói.
"Những đồi nhẵn như dao mài,
Không cầm thú, chẳng cỏ cây;
Tình người chua như giấm bỗng
Haggard ngự trị chính nơi đây."
"Tôi sẽ biết khi tới đó," lân nói, và nghĩ rằng ảo thuật gia đương rỡn mình. "Thế ông bạn có biết bài thơ nào nói về Con Bò Mộng Đỏ không?"
"Không có bài nào về nó cả," Schmendrick đáp. Ông ta đứng dậy, vẫn tái nhợt, miệng mỉm cười. "Về vua Haggard thì tôi có được nghe nói. Ông ta là một tên bủn xỉn, cai trị một vùng đất khô cằn gần biển. Người ta bảo vùng đất này xưa cũng phì nhiêu xanh tốt, nhưng từ khi Haggard tới cai trị thì nó khô héo đi như vậy. Nông dân nơi nào thấy ruộng lúa hoa mầu của họ bị tàn phá bởi châu chấu, bởi thiên tai là họ chép miệng nói, "Đất đai khô cằn như trái tim Haggard!" Người ta còn kể rằng trong lâu đài nhà vua ở không có ánh sáng, không có lửa, và ông ta phải sai người đi ra ngoài ăn cắp gà, ăn cắp khăn dải giường, ăn cắp bánh tự các bệ cửa sổ. Chuyện còn kể lần cuối cùng vua Haggard cười.
Lân dậm chân. Schmendrick nói, "Còn về phần Con Bò Mộng Đỏ, tôi đích thân biết ít hơn là nghe kể chuyện về nó, vì chuyện nọ thường mâu thuẫn với chuyện kia. Con Bò Mộng Đỏ có thật, Con Bò Mộng Đỏ là một bóng ma, Con Bò Mộng Đỏ là chính nhà vua Haggard khi mặt trời vừa lặn. Con Bò Mộng Đỏ đã có ở nơi đó trước khi vua Haggard trị vì, hay vua Haggard tới mang theo nó tới, hay vua Haggard tới trước rồi nó tới sau. Con Bò Mộng Đỏ che chở cho nhà vua, giúp nhà vua chống mọi cuộc tấn công xâm nhập, mọi cuộc cách mạng, khiến nhà vua khỏi tốn của trong việc trang bị quân đội. Con Bò Mộng Đỏ giữ nhà vua làm tù nhân cho nó trong chính lâu đài của nhà vua. Con Bò Mộng Đỏ là con quỷ mà nhà vua đã bán linh hồn cho nó. Nhà vua đã bán linh hồn cho quỷ để có được Con Bò Mộng Đỏ. Con Bò Mộng
Đỏ làm chủ Haggard. Haggard làm chủ Con Bò Mộng Đỏ."
Lân cảm thấy chăng chắc một điều, điều chăng chắc đó thoạt xuất hiện tự một tâm điểm rồi gợn khắp cơ thể như những đợt sóng. Trong tâm tưởng lân còn nghe thấy tiếng bướm rung lên, "Tất cả đều bị dồn xuống các ngã đường từ lâu rồi, Con Bò Mộng Đỏ theo sát từng bước một." Lân như trông thấy những bóng trắng bị cuốn theo chiều gió, và những sừng vàng lúc lắc. "Tôi sẽ tới đó," lân nói. "Ông bạn ảo thuật gia, tôi mắc món nợ tự do với ông bạn. Bây giờ ông bạn muốn gì nào, trước khi chúng ta chia tay."
Đôi mắt dài của ảo thuật gia Schmendrick long lanh như lá cây dưới ánh mặt trời. "Xin để tôi được theo bạn."
Lân chuyển sang hướng khác, điềm đạm, nhún nhảy, và không trả lời. Ảo thuật gia tiếp, "Tôi có thể hữu ích với bạn. Tôi biết đường đi tới lãnh thổ Haggard, tôi thông thạo các thổ âm khác nhau từ đây đến đó." Lân như sắp tung mình bay biến vào đám sương mù dày đặc, thì Schmendrick vội vã tiếp. "Vả lại với những kẻ lang thang, dù là kỳ lân đi nữa, thì việc có một thày phù thủy đi bên, không bao giờ là một điều dở cả. Xin hãy nhớ chuyện thày phủ thủy cao tay Nikos. Một lần trong rừng, thầy Nikos chợt thấy một kỳ lân đang ngủ, đầu vùi vào lòng một nàng trinh nữ miệng cười toe toét trông thật khả ố, trong khi đó ba chàng đi săn đương thận trọng tiến tới và cùng giương cung nhắm bắn để lấy sừng lân. Thậm cấp chí nguy, Nikos chỉ còn một đường tơ kẽ tóc để hành động. Với một lời chú và một cái vẫy tay, ông đã hóa lân thành chàng trai trẻ đẹp. Chàng trai đó - lân - thức giấc vừa kịp nhận thấy ba chàng giương cung đương há hốc mồm ngạc nhiên, bèn nhảy xổ tới giết liền cả ba. Lưỡi gươm của chàng xoắn tít và nhỏ mọn, chàng dậm chân lên những xác đó."
"Thế còn cô gái?" lân hỏi. "Cô gái có bị chàng lân giết?"
"Không, chàng cưới cô ta làm vợ. Chàng nói cổ là một thiếu nữ vô tâm, giận dỗi với gia đình, và điều sở nguyện của cổ là lấy một chàng trai tốt. Đúng là chàng lân rồi. Kể từ đấy và mãi mãi về sau này, không bao giờ Nikos hóa chàng trai trở lại thành lân như cũ được nữa. Chàng chết già, và rất được trọng vọng - có người kể chàng chết vì ăn quá nhiều hoa đồng thảo (violet) vì bao nhiêu hoa đồng thảo với chàng cũng là còn thiếu. Họ không có con cái gì cả."
Lân như có lần đã nghe chuyện đó rồi. "Nhà ảo thuật gia đó chẳng giúp ích gì, ngược lại đã làm một điều rất tai hại," lân nói khẽ. "Thật là khủng khiếp nếu ảo thuật đó hóa tất cả giòng giống kỳ lân thành người, sống ngơ ngác, chen chúc dưới những mái nhà nóng bức. Như thế thì chẳng bao lâu Con Bò Mộng Đỏ sẽ giết hết giống ký lân."
"Bây giờ bạn định đi đâu đây," Schmendrick hỏi "Trái tim thân ái của tôi - có thể hơi lẩm cẩm một chút đấy - đôi khi cũng cần, như kẻ khát cần nước uống ấy mà, chuyện chơi đâu. Xin hãy nhận tôi làm bạn để tôi cùng đi với cho vui, cho may mắn, hay cho gì nữa không biết. Hãy để tôi đi theo."
Trong khi ảo thuật gia nói, mưa tan dần, trời trở thành đẹp và những hạt mưa còn đọng trên cỏ ướt lấp lánh như những hạt ngọc trai. Lân nhìn đi nơi khác, tìm khuôn mặt quân vương trong đám quân vương mơ hồ, tìm một tòa lâu đài lấp lánh xây trên lưng con Bò Mộng Đỏ giữa muôn vàn tòa lâu đài lấp lánh trong màu trắng tuyết. "Trước đây chưa một ai làm bạn đồng hành với tôi" lân nói, nhưng cũng kể từ trước đó, tôi chưa hề bị bắt nhốt bao giờ, chưa hề bị người ta trông lầm thành con ngựa cái trắng tầm thường, hoặc chưa hề được người ta hóa cho thành kỳ lân hơn để thiên hạ dễ nhận. Nhiều chuyện lạ như vậy bỗng dồn dập đến với tôi, việc bạn đi theo tôi đâu có lạ hơn gì, và cũng chưa là điều lạ cuối cùng đâu. Vậy bạn cứ việc theo tôi nếu bạn muốn, tuy tôi vẫn ngỡ rằng bạn xin tôi một điều gì khác kia." Schmendrick mỉm cười buồn bã. "Tôi có nghĩ tới điều đó chứ." Ảo thuật gia nhìn xuống những ngón tay của mình, lân nhìn theo, nhận ra những vành bán nguyệt tím bầm trên đó do những thanh sắt đập phải. "Nhưng tôi biết bạn chẳng bao giờ giúp tôi thành đạt được điều tôi ước mơ."
Thế đấy, lân nghĩ, và lần đầu tiên cảm thấy một sợi buồn vương vất trong tâm tư. Có một thế nhân làm bàn đồng hành thì luôn luôn như vậy đó "Đúng vậy", lân đáp, "quả thực tôi chẳng thể khiến bạn thành xuất chúng về một cái gì mà bạn không có khả năng, về điểm này tôi cũng không hơn gì một tay phù thủy. Tôi chẳng thể biến bạn thành một ảo thuật gia đại tài."
"Tôi biết mà," Schmendrick đáp. "Không sao, xin bạn đừng thắc mắc về điều đó."
"Tôi không hề thắc mắc về điều đó đâu," lân nói.
°
Một chú sáo sậu xanh bay nhào xuống nhìn họ, vào ngày đầu tiên của một cuộc hành trình tay đôi đó, và nói "Cha, cha, hay ta," rồi bay thẳng về tổ với vợ. Sáo sậu vợ lúc đó đang nằm trong tổ uể oải cất giọng sầu bi ru đàn con:
Nhện, rệp, châu chấu, bọ hung,
Dế, giun, trứng cút, bông hồng, ốc sên.
Nghĩ mà muốn ợ, muốn rên,
Bay cao cũng chẳng lên tiên mà mừng."
"Vừa thấy một kỳ lân," sáo sậu chồng vừa nhào xuống đã nói.
"Không kiếm được cái gì ăn chứ gì," sáo sậu vợ lạnh lùng đáp. "Tôi ghét những thứ đực rựa miệng nói mà mồm không?"
"Con ơi, có kỳ lân!" sáo sậu bố không còn giữ được vẻ bình tĩnh hằng ngày, anh chàng bứt rứt nhảy lên nhảy xuống trên cành. "Ta chưa hề thấy một kỳ lân nào kể từ thuở"
"Anh chưa hề một lần gặp kỳ lân," mụ vợ nói. "Nhớ là tôi đây, tôi biết rõ những gì anh đã gặp, và những gì anh chưa hề gặp trong đời."
Sáo sậu chồng không chú ý đến lời vợ. "Có một người mặc áo choàng đen đi với kỳ lân," giọng anh hấp tấp, ánh ỏi. "Họ đương vượt núi Miêu Sơn, ý hẳn họ tới giang sơn của vua Haggard, ta đoán vậy. Sáo sậu chồng nghiêng đầu hấp háy, vẻ đó cô sáo sậu vợ vốn chịu lắm. "Ờ, hãy thử tưởng tượng cảnh lão vương Haggard đương ăn sáng, thì lân đến gõ vào cánh cửa ảm đạm của tòa lâu đài ông ta ở. Cha, ta có thể đánh đổi bất kỳ cái gì để được chứng kiến."
"Dám chắc không ai để cả một ngày mà ngắm kỳ lân đâu, sáo sậu vợ ngắt lời chồng với tiếng chép mỏ "Tôi hiểu vào những giờ nhàn rỗi người ta vẫn thường nghĩ về kỳ lân với những hình tượng dị kỳ huyền hoặc." Sáo sậu vợ đã tiến tới trước chồng, xù lông cổ."
"Mình ạ, tôi thực sự chưa ngắm rõ lân đâu." Sáo sậu chồng nói, và sáo sậu vợ biết là chồng đã không ngắm, không dám ngắm lân, tuy nhiên nàng cũng mổ chàng một cái. Nàng vốn là một phu nhân luôn luôn biết cách lăng loàn một chút.
°
Lân và ảo thuật gia đi qua con suối, leo qua Miêu Sơn, đi xuống một thung lũng màu tím ngắt có trồng táo. Đi hết thung lung họ qua những đồi thấp trong như đàn cừu ngoan đương cúi đầu bàng hoàng hít lấy hương lân. Kế đó đến vùng đồi thấp nữa rồi xuống hẳn đồng bằng oi bức không khí đặc quánh. Rồi lân và Schmendrick phải lội qua những dòng sông, leo lên tụt xuống những bờ cao và dốc, qua những dải bờ sông đất cát với những cây gai tua tủa, qua những cánh rừng xác xơ, khiến lân nhớ lại khu rừng nhà. Lân nghĩ khu rừng nhà giờ hẳn cũng xác xơ như thế này, nhưng điều đó không sao. Xong công việc lân sẽ về ngay, khi đó rừng lại xanh tối; bốn mùa xuân bất tận như xưa.
Ban đêm, khi Schmendrick ngủ vùi li bì vì mỏi mệt, thì lân nằm nép mình trong bóng tối vẫn thức, đời hình bóng khổng lồ của Con Bò Mộng Đỏ nhảy xổ từ nguyệt cầu tới. Đôi khi lân đánh hơi thấy mùi mà lân cho là đúng mùi Con Bò Mộng Đỏ - thứ mùi tăm tối, quỷ quyệt, khó chịu nhưng được hơi đêm làm cho nhẹ bớt đi và theo gió phả tới. Đôi lần lân đã chồm dậy đứng vào thế chuẩn bị chiến đấu, để rồi sau đó nhận ra đó chỉ là mấy chú hươu đương đứng khép nép đằng xa kính cẩn hướng về phía lân. Bao giời loài hươu cũng cũng kính yêu lân và thèm khát địa vị lân. Một lần có chú hươu đực mới được hai năm bị các bè bạn nói khích, bèn tiến tới gần nói lí nhí mà không dám nhìn thằng vào mắt lân, "Công nương đẹp lắm. Công nương đẹp lắm. Đẹp như lời mẹ chúng tôi thường nói."
Lân yên lặng nhìn lại chú hươu nhỏ, biết rằng chú không chờ đợi được lân trả lời. Một con hươu khác vừa cười hi hí vừa nói khẽ, "Tiếp tục đi mày, tiếp tục đi." Thế là chú hươu nhỏ ngẩng cao đầu và hét to, hét nhanh rất hào hứng, "Nhưng mà tôi biết có một kẻ khác còn đẹp hơn công nương kia!" Dứt lời nói quay vội đi, phóng mình mất hút vào ánh trăng, và các bạn nó cũng chạy biến theo hút nó. Lân lại nằm xuống.
Thỉnh thoảng trong cuộc hành trình đôi bạn có dịp qua một làng nào đó, Schmendrick được dịp đi giữa đường phố nhỏ, tự giới thiệu mình là một thầy phù thủy lang thang, tiện dịp qua đây chỉ "xin trổ tài chút xíu kiếm đồ nhậu, tạm phiền quý vị chút xíu, quấy rầy giấc ngủ của quý vị chút xíu, rồi lại đi ngay."
Hiếm có nới mà dân làng không ân cần mời nhà ảo thuật với con ngựa cái trắng đẹp của ông hãy dừng lại qua đêm, và trước giờ lũ trẻ con phải đi ngủ, nhà ảo thuật đã biểu diễnt tài nghệ tại khoảng trống trước chợ dưới ánh đèn lồng. Ảo thuật gia trình diễn bình thường thôi, không bao giờ có tham vọng làm những trò khó, thường chỉ là trò búp bê bập bẹ nói, hóa xà phòng thành kẹo, và ngay trong những trò dễ dãi lặt vặt này, đôi khi ảo thuật gia cũng sểnh tay hớ hênh. Tuy nhiên lũ trẻ vẫn khoái lắm, cha mẹ lũ trẻ càng niềm nở trong bữa ăn tối. Và những đêm mùa hạ, như vậy qua đi êm đềm. Mãi nhiều năm về sau, Lân còn nhớ mùi xô-cô-la là lạ của chuồng ngựa, nhớ cảnh chiếc bóng Schmendrick như khiêu vũ trên tường, trên cửa, trên lò sưởi dưới vùng ánh sáng lung lay.
Sáng ra họ lại tiếp tục cuộc hành trình, các túi của Schmendrick chật ních những bánh mì, pho mát, cam. Lân thủng thỉnh đi bên, trắng lóa dưới ánh mặt trời, trắng biếc dưới bóng cây. Trò quỷ thuật của Schmendrick thì mọi người quên ngay, nhưng vẻ nuột nà của con ngựa cái trắng thì ám ảnh họ hoài, ám ảnh trong nhiều đêm, và đã có những phụ nữ chợt thức giấc, úa nước mắt vì vừa mộng thấy kỳ lân.
Một buổi chiều kia, đôi bạn dừng lại tại một thị trấn sung túc đến nỗi ngay những tên ăn mày cũng có cằm sệ, và lũ chuột thì đi lắc lư. Schmendrick lập tức được mời tới dự tiệc với ông Thị Trưởng và quý vị trong hội đồng thành phố; trong khi lân - không ai biết đó là kỳ lân, dĩ nhiên rồi - thong dong đi trên cánh đồng cỏ non ngọt như sữa. Bữa tiệc tuyệt hảo được bày ngoài trời giữa một khoảng trống, vì tiết trời chiều ấm áp, mà chủ nhân thì muốn khoe với khách vẻ thanh bình thịnh vượng của thành phố mình.
Trong bữa tiệc Schmendrick kể lại chuyện đời phù thủy phiêu lưu của mình, tất nhiên phịa ra đủ thứ nào những đấng quân vương, nào những con rồng, nào những công nương mỹ miều, quý phái. Ảo thuật gia không cố ý nói dối, chỉ khéo sắp đặt cho câu chuyện gây xúc động khiến tinh ranh như đám nghị viên hội đồng thành phố kia mà cũng ngỡ là thật. Không những chỉ quý vị nghị viên, mà cả đám bách tính vô tình đi qua bàn tiệc, chợt nghiêng tai lắng nghe cũng tin là có loại bùa chú mở được đủ loại ổ khóa nếu biết áp dụng đúng lúc. Và không ai là không nín thở khi ảo thuật gia chỉ cho thấy những vết sẹo trên những ngón tay của ông. Ông bình tĩnh giải thích. "Kỷ niệm với quái điểu Celaeno đó. Nó cắn mà."
"Thế thưa ông, không bao giờ ông sợ sao?" Một cô gái hơ hớ xuân xanh hỏi khẽ. Ông Thị Trưởng suỵt miệng có ý muốn bảo cô gái hãy cuốn xéo đi, nhưng Schmendrick điềm tĩnh châm điếu xì gà, thở phào búp khói đầu và nhìn cô gái qua làn khói đó, đáp, "Sợ và đói đã giữ cho tôi trẻ lâu như thế này đây." Ông đưa mắt nhìn quanh khắp lượt các ông nghị đương lim dim gật gù, rồi nháy mắt với cô gái một cái.
Ông Thị Trưởng không mếch lòng. "Đúng thế," ông thở dài nói, bàn tay đeo đầy nhẫn ve vuốt bàn tiệc. "Chúng tôi ở đây hiện sống một cuộc đời phù túc quá chăng, tôi cũng không rõ, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng một chút sợ, một chút đói đôi khi quả là điều cần, giúp tâm hồn người sắc bén hơn, nhạy cảm hơn. Chính vì vậy chúng tôi bao giờ cũng hoan nghinh các vị khách lạ tới đây kể chuyện và hát ca để mở rộng tầm nhìn cho chúng tôi, giúp chúng tôi biết nhìn sao vào lòng mình..." Ông ngáp và vươn vai, bụng sôi ùng ục.
Một trong số các ông nghị bỗng lên tiếng, "Trời ơi, xin hãy trong ra đồng cỏ kìa!" Những chiếc đầu nặng nề cùng xoay trên những chiếc cổ gật gù để cùng hướng về phía xa tít cánh đồng và nhận thấy những bò, cừu, ngựa của làng trên xóm dưới đều tụ tập lại quanh con ngựa cái trắng đương ung dung gặp cỏ non mướt. Không một tiếng động. Kể cả đàn lợn, đàn ngỗng cũng đều im thin thít. Chỉ một lần có tiếng quạ kêu xa, tiếng quạ bảng lảng chìm dần trong nền trời chiều như một cánh tro tàn.
"Kỳ lạ" ông Thị Trưởng thì thầm. "Thật là kỳ lạ."
"Dạ đúng thế phải không thưa ông," ảo thuật gia thêm lời. "Nếu như tôi lại kể thêm để quý vị nghe."
"Điều đáng chú ý là," lời ông nghị đã từng lên tiếng nhận xét đầu tiên, "tất cả những con vật quanh đó đều không sợ sệt, mà chỉ tỏ vẻ cung kính."
"Vì chúng biết nhìn ra thứ mà quý vị đã quên lãng mất rồi." Schmendrick cạn nốt ly rượu vang đỏ của mình và cô gái hơ hớ tuổi xanh nhìn chằm chằm vào ông bằng đôi mắt vừa dịu dàng vừa hờ hững như đôi mắt lân. Ông đặt mạnh ly xuống bàn, nói với ông Thị Trưởng vẻ mặt tươi cười, "Đó là một sinh vật hiếm hoi lắm, quý ông không dám ngờ tới đâu. Đó là huyền thoại, một ký ức, một câu ca dao một bài đồng dao, còn sót lại trong tiếm thức. Nếu quý ông nhớ ra, nếu quý ông khao khát."
Tiếng ảo thuật gia bỗng chìm vào giữa tiếng vó ngựa rộn ràng và tiếng lũ trẻ kêu la inh ỏi. Khoảng một tá kỵ mã áo quần tả tơi từ đâu phi tới vừa quát tháo vừa cười ha hả, dân phố chạy tóe về bốn ngả. Đám kỵ mã phóng ngựa thành một hàng rồi tỏa rộng vây quanh khua trống gõ đập bất kỳ cái gì chúng gặp, quát tháo thách đố huênh hoang ỏm tỏi nhưng không hướng về ai cả. Một chàng kỵ mã nhổm người trên yên ngựa, kéo dây cung và bắn bay chiếc phong tiêu (chong chóng chỉ chiều gió) trên đỉnh tháp chuông nhà thờ; một chàng khác quờ tay tóm lấy chiếc mũ của Schmendrick, vừa cố nong đầu mình vào, vừa gầm thét. Vài chàng nâng đứa trẻ khóc thét ngồi lên phía trước yên, vài chàng khác chỉ giằng lấy bánh săng uých mà ăn, giằng lấy bong bóng đựng rượu vang mà uống. Những đôi mắt long lanh trên những khuôn mặt gồ ghề, họ cười hô hố.
Ông Thị Trưởng ngồi yên quan sát, nhận diện tay cầm đầu. Rồi ông khẽ nhướn lông mày; tức thì anh chàng đó bật móng tay làm hiệu; đoàn ngựa dừng lại, đứng yên. Y như đoàn súc vật đương đứng quanh, chiêm ngưỡng lân đằng xa kia. Họ nhẹ nhàng đặt những trẻ em xuống đất, trả lại hầu hết các bong bóng rượu vang.
"Jack Jingly, nhờ anh một tí." Ông Thị Trưởng cất lời điềm đạm. Tay anh chị lãnh đạo đám kỵ mã xuống ngựa thong thả tiến lại trước bàn tiệc, nơi ông Thị Trưởng, các ông nghị và vị quý khách còn ngồi đông đủ. Hắn to con, cao dễ đến hơn hai thước, và cứ mỗi bước tiến toàn thân hắn lại vang lên rỏng rẻng vì những vòng, những xuyến, những chuông đính trên chiếc áo chẽn kèm theo tiếng cười thô lỗ. "Công việc ra sao đây," ông Thị Trưởng nói "Tôi không hiểu vì sao cá người không bao giờ trở lại một cách êm ả lịch sự như những người văn minh."
"A, đám người đó không hề có ý làm hại ai ở đây, thưa ông Thị Trưởng," người to lớn thực thà phân trần, "Bị tù cẳng trong rừng suốt ngày, họ cần giải trí chút xíu, như uống thuốc tẩy ruột ấy mà. Này, này liệu đó, sao đấy?" Với một tiếng thở dài, hắn rút ở ngang lưng ra một túi tiền lép xẹp, đặt vào bàn tay mở rộng của ông Thị Trưởng. "Thưa ông Thị Trưởng tất cả có ngần ấy," Jack Jingly nói. "Không nhiều, nhưng chúng tôi không làm sao xoay sở cho nó hơn thế được."
Ông Thị Trưởng dốc tiền vào lòng bàn tay, dùng ngón tay dùi đục mập ú của ông đẩy từng đồng lên, rồi làu nhàu, "Quả thực không nhiều, tháng trước đã ít, ít đến hết mức, tháng này còn ít hơn. Tài nghệ của các anh xuống dốc quá rồi."
"Thời buổi khó khăn," Jack Jingly nhăn nhó giải thích "Chúng tôi không thể bị quở trách vì khách bộ hành không còn nhiều vàng như xưa. Làm sao mà vắt cổ chầy ra nước bây giờ, thưa ông."
"Thế mà ta làm được đấy," ông Thị Trưởng nói. Ông cau mày giận dữ, tung nắm tay về phía tên đạo tặc khổng lồ. "Và nếu anh muốn giở trò ăn chặn, nếu anh muốn làm giàu bằng cách tước đoạt phần tôi, tôi sẽ vắt kiệt anh, thưa anh bạn, tôi sẽ vắt kiệt anh, làm lòng anh, làm thịt anh, rồi ném bã cho cuốn theo chiều gió. Bây giờ thì xéo đi, và nhớ nhắc điều đó cho cái ông lãnh tụ lãnh tiếc xơ xác của anh hay. Hãy xéo đi, tất cả lũ quỷ!"
Jack Jingly vừa quay đi, vừa lầm bầm trong miệng Schmendrick dặng hắng thoạt hơi ngập ngừng nói, "Xin cho lại cái mũ của tôi, nếu ông bạn không phiền lòng về việc ấy."
Tên cướp khổng lồ nhìn chằm chằm vào ảo thuật gia, trợn đôi mắt đỏ ngầu như mắt trâu, không nói gì "Cái mũ của tôi," lần này giọng Schmendrick cương quyết hơn. "Một người trong bọn ông lấy, bảo hắn khôn ngoan ra hãy trả lại tôi cái mũ đó."
"Khôn ngoan ra à?" Hắn nói ủn ỉn như lợn. "Anh là ai, và cho tôi hay thế nào là khôn ngoan?"
Hơi vang hãy còn bừng bừng trong ánh mắt, Schmendrick đáp, "Tôi là Schmendrick ảo thuật gia, xấu chơi với tôi thì phiền đa. Tôi già hơn bề ngoài, và không hiền lành như người ta tưởng đâu. Cái mũ của tôi đâu?"
Jack Jingly trợn mắt nhìn giây lâu rồi đi thẳng tới con ngựa của hắn, nhảy lên yên. Hắn cho ngựa chạy sát lại chỉ còn cách Schmendrick có một kẽ tóc. "Này, nghe ta bảo," giọng hắn vang vang, "Nếu anh là ảo thuật gia, hãy làm vài trò xem thử. Hãy hóa cái mũ ta thành xanh, hãy nhét đầy tuyết vào cái bao da bên yên ngựa này, hãy thủ tiêu bộ râu của ta đi. Hãy trổ tài quỷ thuật, hoặc hãy phủ phục xuống lạy ta." Hắn rút ở thắt lưng da ra một con dao găm đu đưa cái mũi nhọn và huýt sao riễu.
"Ảo thuật gia là khách của ta," ông Thị Trưởng cảnh cáo, nhưng Schmendrick đã lên tiếng một cách trịnh trọng, "Được lắm. Rồi nó sẽ đổ lên đầu ngươi." Ảo thuật gia kín đáo nhìn bằng đuôi mắt thấy cô gái hơ hớ đương chăm chú quan sát mình, ông bèn chỉ vào lũ bù nhìn đàn em đương nhe răng cười sau tên đàn anh của chúng, đọc mấy câu tựa như thần chú có vần. Tức thì chiếc mũ đen của ông tự đứt khỏi tay tên cướp đàn em rồi bay là là trong không khí xẫm màu lặng lẽ như một con cú. Hai người đàn bà thấy vậy ngất xỉu, và ông Thị Trưởng ngồi xuống. Cả bọn cướp la lên như bầy trẻ.
Dọc theo khoảng trống khu phố chiếc mũ đen hạ xuống tự múc đầy nước. Rồi nó chập chờn lượn lại, rõ ràng là muốn tiến thẳng đến đỉnh đầu Jack Jingly, khiến hắn phải vội lấy hai tay che và càu nhàu, "Này, này, bắt nó bay ra xa đi," cả đám đàn em hắn cười hi hi. Schmendrick tủm tỉm thắng thế và bật móng tay ra lệnh cho chiếc mũ mau tiến tới.
Nhưng khi chiếc mũ gần tới đầu tên cướp lãnh tụ bỗng đổi chiều, thoạt từ từ rồi nhanh dần khi nó bắt đầu nghiêng tới bàn tiệc. Ông Thị Trưởng chỉ còn kịp bổ ngảvề phía trước một chút thì chiếc mũ đã chụp một cách vững trãi vào đầu ông. Schmendrick cúi xuống tránh né kịp thời, nhưng một vài ông nghị bị nước tung tóe bắn vào chút ít.
Mọi người cười ồ, Jack Jingly từ mình ngựa cúi xuống nhấc bổng Schmendrick ảo thuật gia lên, lúc đó ông ta đương muốn dùng cái khăn bàn để lau cho ông Thị Trưởng luống cuống. "Không còn ngờ chi nữa, chắc chắn ông bạn còn phải biểu diễn nữa," tên khổng lồ rống lên bên tai Schmendrick. "Ông bạn nên đến với bọn tôi." Hắn đặt úp Schmendrick xuống ngang yên rồi phóng ngựa, lũ đàn em rách rưới phóng theo. Tiếng khịt mũi, tiếng khạc nhổ, tiếng cười thét của chúng nhường như còn vang vang trong khu phố sau khi tiếng vó ngựa của chúng đã chìm dần vào quãng đường xa.
Đám đàn ông chạy lại hỏi ông Thị Trưởng rằng họ có cần đuổi theo tụi cướp để cứu Schmendrick. Ông Thị Trưởng lắc cái đầu tóc ướt của ông mà rằng, "Tôi nghĩ rằng điều đó không cần. Nếu quả ông khách của chúng ta là một tay phù thủy quán thế như ông ta nói, ông ta thừa sức tự cứu lấy mình. Trường hợp ngược lại, thì tại sao một tên bịp được ta tiếp đãi ân cần lại có quyền trách ta không cứu hắn. Không, không, chúng ta không phải bận tâm đến ông khách đó."
Nước đã đổ lên đầu ông thoạt thành những dòng suối nhỏ chảy xuống má, rồi chập lại thành vài dòng suối lớn chảy dọc theo phía sau gáy và phía trước áo lót mình của ông, nhưng ông quay lại điềm tĩnh nhìn về phía đồng cỏ xa, con ngựa cái trắng của nhà ảo thuật như tỏa ánh sáng trong bóng chiều chạng vạn. Nó tung vó tới, tung vó lui trước hàng rào mà vẫn yên lặng. Ông Thị Trưởng nói khẽ, "Tôi nghĩ chúng ta nên săn sóc dùm ông bạn con vật cao giá kia." Ông sai hai người đi tới cánh đồng cỏ với chỉ thị là tròng thừng cho khéo vào cổ nó, dắt nó về nhốt trong cái chuồng chắc chắn nhất của ông.
Nhưng hai người chưa kịp qua cổng lớn để đi vào cánh đồng cỏ, thì con ngựa cái trắng đã thoắt nhảy vọt qua hàng rào và vút biến vào đêm tối như một vì sao lạc. Hai chàng đứng sững đó giây lâu, không để ý tới lệnh cho quay lại của ông Thị Trưởng, và cũng không nói với nhau là sao cái nhìn của họ lại cùng bị thu hút vào con ngựa trắng lâu đến như vậy. Nhưng rồi kể từ sau ngày đó đôi khi giữa những chuyện thật quan trọng họ cười phá lên, và coi đó bất quá là những trò trẻ.