CƠ HỘI TÌNH CỜ
Mối liên quan giữa than và khoai tây là điều mà tôi vẫn thường hay phỏng đoán mà chẳng đi tới kết luận nào đáng kể hơn là cả hai đều sinh ra từ đất. Về bản thân mối liên quan thì trong công việc của Barnard, ngoài cửa hàng của bà Jablett ở khu Fleur-de-Lys vẫn còn vài trường hợp tương tự, một trong số chúng là cái hang tối tăm, bí ẩn nằm sâu bên dưới mặt đường một foot, dưới một căn nhà cổ ở man Tây đường Fetter. Căn nhà gỗ xập xệ cao ba tầng, say khướt ngửa hẳn ra như sắp ngồi bệt xuống khoảnh sân sau.
Đi qua nơi chứa hai thứ hàng nói trên lúc khoảng mười giờ sáng, tôi trông thấy bà Oman trong bóng tối của cái hang. Cùng lúc đó, bà ta cũng nhìn thấy tôi liền dứt khoát ra hiệu bằng bàn tay đang cầm một củ hành Tây Ban Nha cỡ bự. Tôi bước tới với nụ cười cung kính, ’Củ hành đẹp thật, bà Oman ạ! Bà thật hào phóng khi mời tôi...”
“Tôi không mời anh. Nhưng kia! Chẳng phải nó giống một người đàn ông...”
“Cái gì giống một người đàn ông cơ?” Tôi ngắt lời, “Nếu bà đang nói về củ hành...”
“Không phải thế!” Bà ta gắt lên, “Anh đừng nói chuyện với tôi theo cái kiểu ngớ ngẩn ấy nữa, khi anh là người trưởng thành và theo một ngàng nghề nghiêm túc như vậy, lẽ ra anh nên biết điều hơn mới phải!”
“Chắc thế rồi.” Tôi tỏ vẻ hối lỗi.
Bà ta tiếp tục,” Tôi vừa mới ghé qua phòng khám của anh.”
“Để gặp tôi à?”
“Thì tôi còn đến đó gặp ai được nữa? Chằng lẽ anh tưởng tôi đến nhờ anh chàng sai vặt trong hiệu thuốc tư vấn cho à?”
“Không mà, bà Oman. Vậy ra bà bác sĩ kia không làm được việc à?”
Bà Oman nghiến rắng với tôi (một hàm răng rất đẹp), “Tôi đến...” Bà ta nói với vẻ tự phụ, “Theo lời cô Bellingham.”
Vẻ bông lơn của tôi biến mất ngay lập tức, “Tôi mong cô Bellingham không bị ốm.” Sự lo lắng đột ngột nơi tôi khiến bà Oman lập tức nở nụ cười mai mỉa.
“Không.” Bà ta đáp, “Cô ấy không bị ốm, nhưng bị đứt tay khá nặng, mà lại là tay phải nữa. Cô ấy không thể không dùng đến tay được, nhất là khi cô ấy chẳng phải một gã đàn ông đô con, lười nhác, suốt ngày la cà. Thế nên tootst hơn anh nên đến đó và chữa trị đi.”
Với lời khuyên này, bà Oman lao vụt về phía bên phải và biến mất trong bóng tôi của cái hang hệt như phù thủy hang Wokey trong khi tôi vội vàng quay về phòng khám lấy các dụng cụ và thuốc thang, sau đó sải chân tới khu Nevill.
Cô bé giúp việc của bà Oman ra mở cửa, thuật lại những triệu chứng một cách vắn tắt đầy trào phúng.
“Ông Bellingham đi ’hắng’, nhưng cô Bellingham thì ở ’hà’. Nói xong cô bé lui vào bếp còn tôi bước lên cầu thang. Lên tầng trên, tôi thấy cô Bellingham đang chờ mình, bàn tay phải nhét trong một thứ hệt như găng tay đấm bốc màu trắng.
“Tôi rất vui vì anh đã tới.” Cô nói, “Phyllis, là bà Oman ấy, chắc anh biết, bà ấy đã rất tử tế mà băng tay giúp tôi rồi, nhưng tôi muốn nhờ anh khám xem có sao không.”
Chúng tôi vào phòng khách. Tôi đặt các món đồ của mình lên bàn rồi hỏi về hoàn cảnh gây ra tai nạn.
“Thật quá đen đủi cho tôi khi bị thương vào lúc này.” Co than thở trong khi tôi vật lộn với cái nút buộc như thể thách thức giới hạn sự khéo léo của con người để cởi nó ra, thế mà lại có cái thói quen kỳ quặc là tự tuột vào những thời điểm trớ trêu nhất.
“Đọt này có gì đặc biệt thế?” Tôi hỏi.
“Tôi có vài việc cực kỳ quan trọng cần làm. Một quý bà rất uyên bác đang viết một cuốn sách lịch sử đã thuê tôi thu thập tất cả tài liệu liên quan tới những lá thư Tell el-Amarna - các bảng chữ tượng hình của Amenhotep Đệ Tứ[16].”
“Chà...” Tôi dịu giọng, “Tôi tin là tay cô sẽ khỏi nhanh thôi.”
“Phải, nhưng cũng chẳng ích gì. Công việc cần phải được hoàn thành ngay lập tức, tôi phải gửi lại những ghi chếp đầy đủ trong tuần ngày, nhưng với tình trạng bây giờ thì chắc không nổi. Tôi thất vọng quá chừng.”
Bấy giờ tôi đã cởi được lớp băng dày bên ngoài để lộ một vết cắt sâu trong lòng bàn tay suýt soát trúng động mạch chủ. Chắc chắn là cô sẽ không thể làm việc bằng bên tay này nguyên một tuần tới.
“Tôi nghĩ...” Cô nói, “Chẳng lẽ anh không thể băng vết thương để tôi có thể viết bằng tay này được sao?”
Tôi lắc đầu, “Không, cô Bellingham ạ. Tôi phải nẹp lại thôi. Chúng ta không thể mạo hiểm với một vết thương sâu thế này.”
“Vậy tôi buộc phải bỏ việc mất thôi, không biết làm thế nào để khách hàng của mình có thể hoàn thành công việc được nữa. Anh thấy đó, tôi khá rành các tài liệu về Ai Cập cổ đại, nhờ vậy mà đáng lý tôi còn sắp được nhận một khoản thù lao đặc biệt, chưa kể đây là một việc rất thú vị nữa. Thế mà giờ đành bó tay.”
Tôi suy nghĩ trong khi cẩn trọng băng bó vết thương. Rõ ràng cô đang thất vọng ghê gớm. Mất việc cũng có nghĩa là mất tiền, và chỉ cần thoáng nhìn bộ váy đen tồi tàn của cô là đủ thấy đó chẳng phải chuyện đơn giản, ngoài ra cũng có thể còn những nhu cầu đặc biệt khác nữa, phong thái của cô gần như ám chỉ như thế. Đúng lúc này tôi nảy ra một ý tưởng tuyệt vời.
“Tôi không chắc là chúng ta phải bó tay đâu.” Tôi lên tiếng.
Cô tò mò nhìn tôi, tôi nói tiếp, “Tôi định đề nghị việc này, cô hãy cân nhắc nó một cách thật cởi mở nhé.”
“Nghe có vẻ không ổn nhỉ?” Cô nói, “Nhưng tôi hứa sẽ làm thế. Gì vậy?”
“Là thế này, hồi còn là sinh viên, tôi đã học được môn nghệ thuật rất hữu dụng là tốc ký[17]. Tôi không phải phóng viên chuyên tốc ký, song tôi có thể ghi chép lại mọi việc với tốc độ đáng kể đấy.”
“Vâng.”
“Ừm, mỗi ngày tôi có vài tiếng đồng hồ rảnh rỗi, thường là suốt cả buổi chiều cho tới sáu giờ hay sáu rưỡi. Nếu cô đến Viện bảo tàng vào buổi sáng, cô có thể tìm sách, tra cứu các đoạn cần thiết (cô có thể làm được việc này mà không cần dùng dến tay phải), rồi đánh dấu lại, sau đó tôi sẽ đến vào buổi chiều và cô chỉ việc đọc các đoạn đánh dấu cho tôi chép lại bằng chữ tốc ký. Trong hai tiếng chúng ta có thể chép được nhiều ngang với cô viết bằng chữ thường trong một ngày.”
“Ôi, anh thật tử tế, bác sĩ Berkeley ạ!” Cô thốt lên, “Quá tử tế là đằng khác! Dĩ nhiên tôi không thể chiếm hết thời gian của anh như thế được, nhưng tôi rất cảm kích vì lòng tốt của anh.”
Tôi tiu nghỉu khi nghe lời từ chối dứt khoát này, song vẫn chống cự yếu ớt, “Tôi mong cô sẽ đồng ý. Đúng là một người tương đối xa lạ như tôi mà đưa ra lời đề nghị như vậy với một quý cô thì có phần trơ tráo, nhưng nếu cô là đàn ông, trong trường hợp đặc biệt đó, tôi cũng sẽ xử sự y hệt mà thôi, và hẳn là cô sẽ đồng ý ngay như một việc dương nhiên.”
“Chuyện đó thì tôi không dám chắc, dù sao tôi cũng không phải đàn ông. Đôi khi tôi cũng ước giá mình là đàn ông thì hơn.”
“Ay, tôi đảm bảo cô cứ là chính mình thì tốt hơn nhiều!” Tôi kêu lên với sự nhiệt tình thái quá đến nỗi cả hai cùng phá lên cười. Đúng lúc này ông Bellingham bước vào phòng, mang theo vài cuốn sách mới tinh được buộc dây đai.
“Chà chà, bắt quả tang nhé!” Ông ta vui vẻ thốt, “Có chyện hay ho đây? Bác sĩ và bệnh nhân cười rúc rích với nhau y như hai cô bé học trò! Chuyện gì vui thế?”
Ông ta vứt tập sách xuống bàn, vừa mỉm cười vừa lắng nghe trong khi tôi giải thích lại câu chuyện hài hước vô tình khi nãy.
“Bác sĩ nói đúng đấy.” Ông ta nói, “Cục cưng cứ là con gái thế này là tốt lắm rồi, nhưng có Chúa mới biết nếu là đàn ông thì con sẽ thế nào. Hãy nghe lời khuyên của bác sĩ thôi.”
Thấy ông Bellingham đang trong tâm trạng dễ chịu, tôi bèn đánh liều thuật lại lời đề nghị của mình cho ông nghe và nhờ ông giúp đỡ. Ông cân nhắc lời tôi với vẻ chăm chú như thể tán thành, và khi tôi nói xong, ông liền quay sang con gái mình.
“Còn gì nữa mà không đồng ý thế cưng?” Ông hỏi.
“Làm vậy sẽ trút lên đầu bác sĩ Berkeley bao nhiêu là công việc.” Cô đáp.
“Làm vậy sẽ trút lên đầu anh ta bao nhiêu là sung sướng.” Tôi nói, “Thật mà.”
“Vậy thì tại sao lại không?” Ông Bellingham nói, “Chúng ta không ngại mắc nợ bác sĩ, phải không nhỉ?”
“Không phải đâu!” Cô vội thốt lên.
“Vậy thì cứ tin anh ta đi, anh ta nói thật lòng mà. Đây là một việc tử tế và anh ta muốn thực hiện nó, cha chắc chắn thế. Thế nhé, bác sĩ, con gái tôi đồng ý, phải không nào, cục cưng?”
“Vâng, nếu cha đã nói thế, con đồng ý, với lòng biết ơn sâu sắc.”
Kèm theo lời ưng thuận này là nụ cười lịch thiệp của cô mà bản thân nó đã đủ là một sự đền đáp quá hậu hĩnh. Sau khi chúng tôi sắp xếp kế hoạch xong xuôi, tôi nhanh chóng rời khỏi đó với tâm trạng vô cũng hài lòng và đi ăn bữa trưa sớm.
Hai tiếng sau quay trở lại, tôi gặp cô đang chờ trong vườn, trên tay cầm chiếc túi xách tồi tàn. Tôi cầm túi giúp cô, rồi cả hai cùng bước đi trước cái nhìn ghen tỵ của bà Oman khi bà ta theo cô ra tới cổng.
Suốt khoảng thời gian bước đi cạnh người phụ nữ tuyệt vời này, tôi khó mà tin nổi vận may của mình. Với sự hiện diện của cô và niềm hạnh phúc của tôi, khung cảnh xấu xí xung quanh bỗng trở nên thiêng liêng, những vật tầm thường nhỏ mọn nhất cũng hóa thành đẹp đẽ. Thí dụ, đường Fetter trở thành một con phố dễ chịu với vẻ hấp dẫn cổ kính và trang nhã của thời trung cổ. Tôi hít sâu thứ không khí đầy mùi cải bắp mà tưởng như đang ngửi mùi hoa lan nhật quang. Holborn thì bình yên chẳng khác nào cánh đồng Elysian[18], chiếc xe buýt hai tầng chở chúng tôi về hướng Tây cũng y hệt như chiếc xe tứ mã vinh quang, và đám người đi lại chen chúc trên vỉa hè trông giống Những đứa con của Ánh sáng[19].
Tình yêu quả là điều ngớ ngẩn nếu đánh giá bằng tiêu chuẩn thông thường, và những ý nghĩ lẫn hành động của hai kẻ đang yêu cũng vậy. Nhưng suy cho cùng, mọi tiêu chuẩn thường nhật mới là cái sai, vì đầu óc vụ lợi của chúng ta cũng có lúc lao vào những thú vui nhỏ nhoi thoáng qua của cuộc đời mà đằng sau chúng ta là tình yêu vĩ đại vĩnh cửu giữa nam và nữ. Bài hát của chú chim sơn ca trongbuij cây giữa đêm hè còn có ý nghĩa hơn tất cả lời thông thái của vua Solomon (người mà tiện thể cũng không thiếu kinh nghiệm về niềm đam mê dịu dàng kia).
Người gác cổng ngồi trong phòng kính nhỏ xíu cạnh lối vào thư viện kiểm tra chúng tôi. Lẳng lặng là lễ giáng phúc cho chúng tôi xong, ông ta để cả hai vào tiền sảnh, từ đây (tức là sau khi tôi đã đưa cây gậy chống cho vị bán thần đầu hói để đổi lấy chiếc đĩa thần kỳ) chúng tôi bước đi dưới mái vòm khổng lồ của phòng đọc sách.
Tôi thường nghĩ nếu một loại hơn chết người nào đó có đặc tính bảo quản cao như formaldehyde chẳng hạn, được bơm vào không khí trong căn phòng này, bộ sưu tập hoàn chỉnh gồm những cuốn sách và đám mọt sách quả thực sẽ rất đáng được lưu trữ để khai sáng cho các thế hệ sau như một di tích khảo cổ phụ thêm cho bộ sưu tập chính ở Viện bảo tàng, vì chắc chắn không nơi nào trên thế giới lại có nhiều người lạ lùng và quái dị tập trung hết vào một chỗ như thế.
Một câu hỏi kỳ lạ chắc chắn đã nảy ra trong đầu những người quan sát cảnh này: Những sinh vật lạ lùng kia từ đâu tới, và chúng đi đâu khi cái đồng hồ có hình dáng đặc biệt (dành riêng cho thị lực của dân mê sách) báo đã tới giờ đóng cửa? Thí dụ như người đàn ông có bộ mặt rầu rĩ và mái tóc xoăn tít liên tục phất phơ theo mỗi bước đi kia? Hay ông già thấp bé bận áo thầy tu đen và mũ quả dưa bất chợt quay đầu lại khiến ta bị một phen thót tim khi nhận ra đó là một phụ nữ trung tuổi? Tất cả bọn họ đi về dâu? Không ai có thể bắt gặp họ ở bất cứ nơi nào khác. Liệu sau giờ đóng cửa, họ có lẩn vào đáy sây của Viện bảo tàng, ẩn náu trong các áo quan và hòm đựng xác ướp đến sáng? Hay họ luồn qua kẽ hở giữa các kệ sách và trú ngụ qua đêm sau các cuốn sách, giữa bầu không khí hài hòa của bìa da và giấy cổ? Ai mà biết được? Điều tôi biết là khi Ruth Bellingham bước vào phòng đọc sách, cô như một sinh vật ở đẳng cấp khác hẳn so với những người kia, thậm chí giống như bức tượng đầu của Antinous vốn trước đây từng đặt giữa đám tượng bán thân của các Hoàng đế La Mã (giờ đã chuyển đi nơi khác), cứ như thể đầu của một vị thần đặt giữa căn phòng bày đầy chân dung của đám khỉ đầu chó vênh vang.
“Chúng ta phải là gì đây?” Tôi hỏi khi tìm được ghế trống, “Cô muốn xem danh sách không?”
“Không, tôi có phiếu trong túi. Những cuốn sách đã được giữ sẵn ở khu ’Đặt trước’.”
Tôi để mũ lên chiếc giá sách bọc da rồi bỏ găng tay của cô vào đó, cảm giác thật thân mật và dễ bầu bạn! Thay đổi các số trên phiếu, chúng tôi đi tiếp tới bàn “Đặt trước” để lấy số sách chứa những thông tin cần xử lý hôm nay.
Đó là một buổi chiều đầy sung sướng. Hai tiếng rưỡi đồng hồ tràn đầy đầy hạnh phúc trôi qua khi tôi ngồi ở chiếc bàn bọc da bóng lộn, lướt từng nét bút trên mặt sổ, bay đến thế giới mới - một thế giới mà ở đó tình yêu và kiến thức, sự thân mật ngọt ngào và mộ khảo cổ học khô khan hòa vào nhau thành một thứ quà dị thường nhất, kỳ lạ nhất và cũng thơm ngon nhất mà tâm trí một người đàn ông có thể thưởng thức. Cho tới giờ, những cuốn sách lịch sử khó hiểu này hoàn toàn nằm ngoài tầm kiến thức của tôi. Trong số những người dị giáo phi thường ấy, Amenhotep Đế Tứ mà tôi đã từng được nghe cùng lắm chỉ là một cái tên, Hittite chỉ là một tộc người bí ẩn không rõ sinh sống chốn nào, trong khi các bảng chữ tượng hình trong tâm trí tôi chỉ đơn giản là một thứ bánh quy hóa thạch cổ lỗ sĩ dành cho hệ tiêu hóa của loài đà điểu thời thượng cổ.
Giờ tất cả đều thay đổi. Hai chúng tôi ngồi cùng nhau trên những chiếc ghế ọp ẹp, cô thì thầm kể những câu chuyện của thời đại sóng gió ấy vào đôi tai sẵn sàng nuốt trọn từng lời của tôi dù rằng việc nói chuyện trong phòng đọc sách bị cấm tuyệt đối. Từng mảnh rời rạc được sắp xếp lại, thành những câu chuyện lý thú. Người Ai Cập, người Babylon, người Aramaean, Hittete, Memphis, Babylon, Hamath, Megiddo,.... tôi nuốt lấy từng chữ với vẻ biết ơn, ghi lại rồi đòi được nghe thêm. Chỉ duy nhất một lần tôi tự làm mình mất mặt: Một tu sĩ có vẻ khổ hạnh và gay gắt đi ngang qua chỗ chúng tôi với ánh nhìn bất bình, rõ ràng đang khinh bỉ, coi chúng tôi là một cặp chui vào tận chốn này mà giở trò “chim chuột”. Tôi không khỏi bật cười khi thầm so sánh những tưởng tượng đang nảy ra trong đầu vị tu sĩ về những lời thì thầm đang rót vào tai tôi một cách nhẹ nhàng kín đáo với sự thật quá đỗi khô khan. Nhưng cô gái dịu dàng đang nói chuyện với tôi chỉ ngừng lại, ngón tay vẫn đặt trên trang giấy, mỉm cười quở trách, rồi lại đọc tiếp. Trong công việc, cô ấy hệt như một người Tartar vậy.
Một khoảnh khắc đầy tự hào đến với tôi khi để đáp lại câu hỏi “Tiếp đi?”, người bạn đồng hành của tôi nói “Thế này là đủ rồi!” và gấp sách lại. Chúng tôi đã ghi xong những thông tin cốt lõi trong sáu cuốn sách dày chỉ trong hai tiếng rưỡi.
“Anh làm việc vượt xa cả những gì anh nói.” Cô cảm khái, “Tôi phải làm cật lực hai ngày mới ghi lại được hết những gì anh vừa chép từ khi chúng ta bắt đầu tới giờ đấy. Tôi không biết phải đền ơn anh bằng cách nào đây.”
“Không cần dâu, tôi thực sự rất thích thú, hơn nữa còn được ôn lại trò tốc ký này. Còn bây giờ thì sao? Chúng ta sẽ tiếp tục với những cuốn sách mới vào ngày mai chứ?”
“Đúng. Tôi đã ghi lại danh sách, thế nên nếu anh cùng tôi ra chỗ bàn tra cứu sách, tôi sẽ tìm số và nhờ anh ghi phiếu.”
Chúng tôi mất mười lăm phút để lựa chọn một lượt sách mới. Trả lại những tập sách đã bị vắt kiệt, chúng tôi rời khỏi phòng đọc.
“Chúng ta đi đường nào đây?” Cô hỏi, chân bước về phía cổng.
Một viên cảnh sát to cao đang đứng đó, trông không khác gì thiên thần bảo vệ cổng Thiên Đường (chỉ có điều, ơn trời, ông ta không cầm thanh kiếm rực lửa ngăn người ta vào trong).
“Ừm...” Tôi đề nghị, “Chúng ta sẽ tới phố Museum thưởng thức một tách trà tuyệt vời trong cửa hiệu sữa.”
Cô toan phản đối, nhưng sau cùng vẫn ngoan ngoãn đi theo. Lát sau, chúng tôi đã ngồi sóng vai cạnh chiếc bàn mặt đá hoa cương, hồi tưởng lại công việc làm chiều nay và thảo luận những điều thú vị bên ấm trà.
“Cô làm công việc kiểu này lâu chưa?” Tôi mở lời trước, trong khi cô đưa cho tôi tách trà thứ hai.
“Nếu làm chuyên nghiệp...” Cô đáp, “Thì mới được hai năm, thực ra là từ khi chúng tôi phải bỏ nhà. Nhưng từ trước đó rất lâu, tôi từng đến Viện bảo tàng cùng bác John, chính người bị mất tích bí ẩn và bi thảm, anh biết đấy, và giúp ông ấy tìm tài liệu tham khảo. Hai bác cháu rất thân thiết với nhau.”
“Hẳn ông ấy là người có kiến thức rất uyên thâm.” Tôi gợi chuyện.
“Phải, theo một cách riêng, trong những nhà sưu tầm đồ cổ có hạng thì quả thực ông là người rất có học thức. Ông biết những cổ vật trưng bày ở tất cả các Viện bảo tàng trên thế giới, miễn là chúng có liên quan tới Ai Cập cổ đại, và ông cũng đã nghiên cứu từng mẫu vật một. Sau cùng, vì Ai Cập học là một ngành nghiên cứu về bảo tàng, ông trở thành một nhà Ai Cập học uyên bác. Nhưng mối quan tâm thực sự của ông là mẫu vật chứ không phải sự kiện. Dĩ nhiên ông biết rất nhiều kiến thức, rất rất nhiều, về lịch sử Ai Cập, nhưng bản chất ông vẫn là một nhà sưu tầm.”
“Điều gì sẽ xảy ra với bộ sưu tập nếu thực sự ông ấy đã chết?”
“Theo di chúc, phần lớn sẽ được tặng cho Viện bảo tàng Anh quốc, phần còn lại để cho viên cố vấn là ông Jellicoe.”
“Cho ông Jellicoe? Tại sao thế, ông Jellicoe thì có liên quan gì tới Ai Cập cổ đại?”
“À, ông ta cũng là một nhà Ai Cập học đầy đam mê, thậm chí có hẳn một bộ sưu tập bọ hung và các vật nhỏ khác rất đẹp có thể cất trong nhà riêng. Tôi luôn nghĩ chính niềm đam mê với bất cứ thứ gì liên quan tới Ai Cập cổ đại đã kéo ông ta và bác tôi dần thân thiết nhau đến thế, mặc dù tôi tin ông ta là một luật sư cực giỏi, và hiển nhiên cũng là một người rất kín tiếng, cẩn trọng.”
“Thật à? Tôi không cho là thế nếu nhìn vào bản di chúc của ông bác cô.”
“Đó không phải lỗi của ông Jellicoe. Ông ta cam đoan mình đã hết lời khẩn nài ông bác tôi thảo một di chúc mới với những điều khoản hợp lý hơn nhưng không thể nào lay chuyển nổi, và thực tế bác ấy đúng là một người cứng đầu. Ông Jellicoe từ chối mọi trách nhiệm trong vụ việc này. Ông ta phủi tay hết, nói rằng đầy là du chúc của một người điên rồ. Quả thực là vậy. Tôi vừa mới đọc lướt qua tối hôm trước và thực sự không tài nào hiểu làm thế nào mà một người đàn ông minh mẫn lại có thể viết ra những điều ngớ ngẩn đến thế.”
“Vậy cô có một bản sao?” Tôi phấn khỏi hỏi, sực nhớ đến lời dặn của Thorndyke trước lúc từ biệt.
“Có. Anh muốn xem không? Tôi biết cha tôi đã kể cho anh nghe về nó, bản di chúc cũng rất đáng đọc như một ví dụ điển hình cho tính tai quái của con người.”
“Tôi rất muốn cho một người bạn tôi là Tiến sĩ Thorndyke xem nó.” Tôi trả lời, “Ông ấy nói mình rất muốn đọc bản di chúc để biết chính xác các điều khoản, và có lẽ ta cũng nên để ông ấy xem và nghe ý kiến của ông ấy về chuyện này.”
“Tôi thấy ổn.” Cô đồng tình, “Nhưng anh biết cha tôi thế nào rồi đấy. Ông ấy kinh hoàng với việc... ý tôi là, ông ấy không thích bị gọi là ’xin xỏ người ta tư vấn không công.”
“Ồ, nhưng cha cô không phải bận tâm về chuyện đó đâu. Tiến sĩ Thorndyke muốn xem bản di chúc vì quan tâm tới vụ này thôi. Ông ấy là một người đam mê công việc, và coi điều này như một đặc ân cho riêng mình ấy mà.”
“Ông ta thật là tốt bụng và khéo léo! Để tôi nói lại với cha tôi cho. Nếu cha tôi đồng ý cho Tiến sĩ Thorndyke xem bản di chúc, tối nay tôi sẽ gửi hoặc tự tay mang đến. Chúng ta uống trà xong chưa?”
Tôi buồn bã thú nhận bữa trà đến đây là kết thúc. Sau khi đã thanh toán khoản tiền nho nhỏ, chúng tôi cùng nhau trở lại phố Great Russell để tránh sự ồn ào và hối hả của những con phố lớn.
“Bác cô là người thế nào?” Tôi hỏi khi cả hai bước dọc con đường yên ắng, tôn nghiêm, rồi vội vàng nói thêm, “Cô đừng nghĩ tôi là kẻ tọc mạch, nhưng với tôi, ông ấy dường như là một điều trừu tượng đầybí ẩn - ẩn số của những rắc rối pháp lý này.”
“Bác John của tôi...” Cô trầm ngâm, “Là một người kỳ quặc, có phần cứng đầu, và rất cương quyết, theo như người ta tả thì là hống hách, hoàn toàn điên rồ và không hiểu lý lẽ gì hết.”
“Rõ ràng người ta sẽ có ấn tượng đó nếu xem những điều khoản trong di chúc của ông ấy.” Tôi nói.
“Phải, và không chỉ mỗi bản di chúc đó đâu. Còn khoản trợ cấp ngu ngốc mà ông ấy dành cho cha tôi nữa. Đó là một cách dàn xếp ngớ ngẩn và bất công. Lẽ ra ông ấy phải chia gia tài như ý nguyện của ông nội tôi. Tuy thế phải nói ông ấy cũng không phải là không hào phóng, chỉ là lúc nào cũng khăng khăng làm mọi việc theo ý mình, mà thông thường ý của ông ấy bao giờ cũng sai lầm.” Cô nói tiếp sau khi ngừng lại một thoáng, “Tôi còn nhớ một việc kỳ quặc chứng tỏ sự điên rồ và cứng đầu của ông ấy. Đó chỉ là một việc nhỏ thôi, nhưng rất điển hình. Trong bộ sưu tập của ông ấy có một chiếc nhẫn nhỏ tuyệt đẹp từ Triều XVIII. Nó được cho là của Nữ Hoàng Ti, mẹ anh bạn Amenhotep Đệ Tứ của chúng ta, nhưng tôi không tin, bởi vì trên đó có hình con mắt Thần Osiris, còn Nữ Hoàng Ti, như anh đã biết, là một người tôn sùng Aten - Thần Mặt trời. Tuy thế đó quả là một chiếc nhẫn rất đẹp, và bác John, một người có sự tôn sùng kỳ quặc với con mắt bí ẩn của Thẩn Osiris, đã thuê một người thợ kim hoàn cực giỏi đánh thêm hai bản sao giống hệt, một cho ông ấy và một cho tôi. Người thợ kim hoàn đương nhiên muốn đo ngón tay của hai chúng tôi, nhưng bác John không chịu, những chiếc nhẫn phải là bản sao giống hệt, mà đã là bản sao giống hệt thì kích cỡ cũng phải như bản gốc. Anh có thể tưởng tượng ra kết quả rồi đấy - nhẫn của tôi thì quá lỏng đến nỗi tôi không thể giữ trên ngón tay được, còn của bác John thì quá chật đến nỗi dù đã xỏ được nhẫn vào, ông ấy không bao giờ tháo nó ra được nữa. Và may sao tay trái của ông ấy nhỏ hơn bàn tay phải nên mới đeo được nó.”
“Vậy cô chưa từng đeo bản sao của cái nhẫn?”
“Không. Tôi muốn sửa lại cho vừa nhưng ông ấy phản đối kịch liệt, vậy là tôi đành cất nó đi và giờ nó vẫn nằm nguyên trong hộp.”
“Hẳn ông ấy phải là một ông già cứng đầu ghê gớm!” Tôi nhận xét.
“Phải, đó là một người ngoan cố. Ông ấy khiến cha tôi rất khó chịu khi thực hiện những thay đổi không cần thiết với ngôi nhà ở Quảng trường Nữ hoàng để thành lập bảo tàng của riêng mình. Tất cả chúng tôi đều gắn bó ít nhiều với ngôi nhà ấy. Mọi người trong dòng họ đã sống ở đó từ khi ngôi nhà được xây cùng lúc người ta đặt những viên gạch đầu tiên trên quảng trường dưới thời Nữ hoàng Anne - người được lấy tên để đặt cho quảng trường. Đó thực sự là một căn nhà thân thuộc. Anh có muốn ngó qua không? Cũng ở gần đây thôi.”
Tôi hồ hởi đồng ý ngay. Nếu đó có là một kho than hay một hiệu bán cá rán thì chắc tôi vẫn vui vẻ mà đi để kéo dài cuộc dạo chơi, nhưng thực sự bản thân tôi cũng rất quan tâm đến ngôi nhà nhỏ này như là một phần hoàn cảnh vụ mất tích bí ẩn của John Bellingham.
Chúng tôi tới Cosmo Place - nơi có những cột trụ bằng sắt cổ kính hình khẩu pháo mà bây giờ họa hoằn lắm mới nhìn thấy, uy nghiêm. Một nhóm bé trai ồn ào đùa giỡn trên những hàng cột đá bao quanh cái bơm cũ có gắn đèn bên trên, nhưng ngoài thứ đó ra thì nơi đây bao trùm vẻ trang trọng hoàn toàn phù hợp với tuổi tác và vai trò của nó. Chúng tôi chậm rãi bước dọc theo mạn râm mát phía Tây, và người bạn của tôi dừng chân khi đến gần quãng giữa.
“Chính là ngôi nhà này.” Cô nói, “Nhìn bề ngoài, nó có vẻ hoang tàn và u ám, nhưng đó hẳn đã từng là một chốn dễ chịu khi tổ tiên tôi có thể phóng tầm mắt qua cửa sổ, nhìn xuyên qua quãng trường, qua những đồng cỏ xanh tới đỉnh núi Hampstead và Highgate.”
Cô đứng trên vỉa hè, ngước nhìn ngôi nhà với vẻ bâng khuâng lạ lùng, quả là một hình ảnh cảm động, tôi thầm nghĩ. Với khuôn mặt xinh xắn và dáng người kiêu hãnh, bận bộ váy cũ kỹ cùng dôi găng tồi tàn, cô đang đứng trước ngưỡng cửa của ngôi nhà đã từng thuộc về gia đình mình suốt bao nhiêu thế hệ, giờ đây lẽ ra nó phải thuộc về cô, thì kết cục lại là đang sắp sửa rơi vào tay những kẻ lạ mặt.
Cũng ngước nhìn ngôi nhà với niềm hứng thú kỳ lạ, tôi bị ấn tượng với vẻ u ám và bí mật của nó. Các cửa sổ từ từng hầm lên đến gác xép đều lắp cửa chớp, đứng bên ngoài không thể nhìn thấy dấu hiệu nào của sự sống. Im lìm, hoang phế, cô độc, tổng thể ngôi nhà toát lên bầu không khí bi thương như thể nó đang bận đồ tang và phủ đầy bụi tro khóc thương chủ nhân đã mất. Cánh cửa to lớn nằm dưới mái hiên chạm trỗ tuyệt đẹp bám từng mảng bụi, có lẽ không ai còn dùng đến nữa; những cột đèn cổ và những cái chụp bằng sắt han gỉ tại nơi các người hầu từng dập tắt bó đuốc trong lúc quý bà nhà Bellingham được khiêng trên chiếc kiệu lộng lẫy lên những bậc thang trong thời hoàng kim xưa cũ của Nữ hoàng Anne.
Chúng tôi thành kính xoay người và bắt đầu về nhà theo phố Great Ormond. Người bạn đồng hành của tôi tỏ ra trầm ngâm, chốc chốc lại chìm vào u buồn, hình ảnh này đã gây ấn tượng rất mạnh với tôi khi mới gặp mặt. Ngay cả tôi cũng không khỏi miên man suy nghĩ, tựa như từ ngôi nhà to lớn và tĩnh lặng, hồn ma của người đàn ông mất tích đã lọt ra mà đi cùng chúng tôi.
Tuy thế đó vẫn là một cuộc dạo chơi dễ chịu, sau cùng chúng tôi cũng về tới lối vào khu Neville và cô Bellingham dừng lại, chìa tay ra, khiến trong tôi tràn đầy niềm tiếc nuối.
“Tamk biệt.” Cô nói, “Rất, rất cảm ơn sự giúp đỡ vô giá của anh. Xin phép anh cho tôi lấy lại cái túi nhé?”
“Nếu cô muốn. Nhưng tôi phải lấy lại cuốn sổ tay.”
“Tại sao anh phải giữ nó?” Cô hỏi.
“Tại sao à? Chẳng phải tôi cần chép lại chữ viết tắt thành chữ thường hay sao?”
Vẻ kinh ngạc hiển hiện trên khuôn mặt cô, thực sự mà nói, cô bất ngờ đến nỗi quên cả buông tay tôi ra, “Lạy trời!” Cô thốt lên, “Tôi thật ngu ngốc! Nhưng điều này là không thể được, bác sĩ Berkeley ơi! Việc này sẽ chiếm hàng tiếng đồng hồ của anh mất!”
“Được mà, tôi sẽ thực hiện nó, nếu không những ghi chép này cũng vô dụng mà thôi. Cô có muốn lấy lại cái túi không?”
“Dĩ nhiên là không. Nhưng tôi thấy đáng sợ đấy. Anh không nghĩ là mình nên đổi ý sao?”
“Vậy thì sự hợp tác giữa chúng ta đến đây là kết thúc à?” Tôi buồn bã thốt, đoạn siết tay cô lần cuối cùng (đúng lúc này cô chợt nhận ra vị trí của nó và vội vàng rụt lại). “Chẳng lẽ cô muốn quẳng hết công sức cả buổi chiều? Tôi thì không đâu, vậy nên, tạm biệt và hẹn gặp lại cô ngày mai nhé. Tôi sẽ có mặt ở phòng đọc sách sớm nhất có thể. Tốt nhất cô nên cầm phiếu. À mà, cô sẽ không quên gửi một bản sao di chúc cho Tiến sĩ Thorndyke chứ?”
“Không, nếu cha tôi đồng ts, anh sẽ nhận được nó tối nay.”
Cô cầm mấy tấm phiếu từ tay tôi và bước vào sân, sau khi đã cảm ơn tôi một lần nữa.