DI CHÚC CỦA JOHN BELLINGHAM
Công việc mà tôi đã hồ hởi đâm đầu vào, khi tỉnh táo cân nhắc lại thì quả đúng như lời cô Bellingham nói: Thật đáng sợ! Thành quả của hai tiếng rưỡi không ngừng tốc ký với tốc độ 100 từ/phút cần càng nhiều thời gian hơn mới chép lại được thành chữ thường. Nếu muốn giao lại chúng vào ngày mai, tôi phải bắt đầu công việc càng sớm càng tốt.
Nhận ra điều này, tôi không lãng phí thời gian nữa mà lập tức hớt hải về phòng khám trong vòng năm phút sau rồi ngồi vào bàn làm việc với bản ghi chép trước mặt, bận rộn biến những ký tự nguệch ngoạc, vô nghĩa thành chữ viết dễ đọc, rõ ràng.
Nhiệm vụ này tuyệt nhiên chẳng hề dễ chịu chút nào, ngoài trừ lý do tôi làm vì tình yêu, vì từng câu chữ tôi chép lại đều phảng phất những dư âm của tiếng thì thầm dịu dàng đã đưa chúng đến với tôi. Nhờ vậy, công việc trở nên thú vị hơn hẳn. Tôi có được góc nhìn hoàn toàn mới về cuộc sống, bước qua ngưỡng cửa một thế giới mới (thế giới của cô), thế nên những khoảng gián đoạn do bệnh nhân tới khám dù giúp tôi có quãng thời gian nghỉ ngơi bắt buộc, lại chẳng được tôi chào đón chút nào.
Buổi tối trôi đi mà không thấy dấu hiệu gì từ khu Nevill, tôi bắt đầu lo lắng sự thận trọng quá mức của ông Bellingham đã trở thành điều không thể vượt qua. Tuy nhiên, tôi không bồn chồn chờ đợi bản sao tờ di chúc bằng cuộc viếng thăm của con người dịu dàng đã nhờ vả tôi dẫu nó có ngắn ngủi cỡ nào. Đúng bãy rưỡi, cửa phòng khám đột ngột bị bật tung một cách thô bạo, nỗi sợ hãi của tôi biến mất, mọi hy vọng vỡ tan tành. Bà Oman bước vào và giơ ra một phong bì màu xanh dương với vẻ mặt hệt như người ta đưa tối hậu thư trong thời chiến.
“Tôi gửi cho anh cái này từ ông Bellingham.” Bà nói, “Bên trong có ghi chú.”
“Tôi có thể đọc ghi chú không, bà Oman?” Tôi hỏi.
“Chúa lòng lành!” Bà thốt lên, “Chứ không anh định làm gì hả? Chẳng phải đấy là mục đích nó được mang đến ư?”
Tôi cảm ơn bà về lời đồng thuận lịch thiệp này, rồi liếc nhìn thấy dòng chữ ghi cho phép tôi để Tiến sĩ Thorndyke xem bản sao tờ di chúc. Ngẩng lên, tôi chợt bắt gặp ánh mắt bà Oman dán chặt vào tôi với vẻ cáu bẳn và không mấy đồng tình.
“Hình như anh có vẻ rất dễ tính trong một số việc đấy nhỉ?” Bà nhận xét.
“Tôi lúc nào cũng dễ tính cả. Đó là bản tính của tôi.”
“Hờ!” Bà khịt mũi.
“Bà không thấy tôi dễ tính sao?” Tôi hỏi vặn.
“Khéo mồm gớm!” Bà Oman đáp, đoạn quay qua nhìn cuốn sổ đang mở và nhận xét cùng một nụ cười mỉa mai, Ggiờ thì anh có việc mà làm rồi, khác hẳn mọi khi.”
“Một sự thay đổi cực kỳ dễ chịu, bà Oman ạ. ’Thứ mà Satan tìm kiếm’... Nhưng có lẽ bà rất quen thuộc với những nghiên cứu triết học của Tiến sĩ Watts?”
“Nếu anh đang nói tới ’không dùng được tay’...” Bà ta bảo, “Tôi sẽ cho anh lời khuyên. Đừng bắt cô ấy không được sử dụng tay lâu hơn mức cần thiết. Tôi hơi bị nghi ngờ cái nẹp tay đó đấy. Hừ, anh hiểu tôi đang nói gì mà.” Trước khi tôi kịp trả lời, nhân lúc hai bệnh nhân bước vào, bà ta liền lỉnh khỏi phòng khám đột ngột hệt như khi đến.
Giờ khám buổi tối hầu như xong xuôi lúc tám rưỡi, cái giờ mà Adolphus vẫn luôn đóng cửa ngoài phòng khám đúng giờ một cách chuẩn mực. Tôi nay anh ta cũng chỉn chu như thường lệ. Sau khi đóng cửa - công việc cuối cùng hàng ngày, và giảm bớt đèn phòng khám, anh ta báo lại với tôi rồi ra về.
Khi tiếng bước chân nhỏ dần cùng tiếng đóng cửa ngoài vang lên báo hiệu anh ta đã thực sự rời đi, tôi ngồi thẳng dậy, vươn vai. Chiếc phong bì đựng bản sao di chúc đang nằm trên mặt bàn, tôi bèn xem xét nó thật cẩn trọng. Nó phải được gửi cho Thorndyke càng sớm càng tốt, chắc chắn không thể tin tưởng ai ngoài bản thân mình, tôi cần đích thân mang nó giao cho ông.
Lại ngó qua mấy cuốn sổ, tuy tôi đã chép lại được khá nhiều trong gần hai tiếng đồng hồ song công việc còn lâu mới hoàn thành. Có điều, ngẫm đi ngẫm lại, tôi nghĩ mình có thể sắp xếp chừng hai tiếng trước khi đi ngủ và một hoặc hai tiếng đồng hồ rãnh rỗi vào buổi sáng để hoàn thành nốt, nên rốt cuộc là tôi cất cuốn sổ vào ngăn kéo bàn rồi khóa lại, kế đó luồn chiếc phong bì vào túi áo, sải bước về phía phố Temple.
Những tiếng đồng hồ nhẹ nhàng chỗ Bộ Tài chính rành rọt báo hiệu ba khắc khi tôi gõ cây gậy chống lên cánh cửa văn phòng bằng gỗ sồi đồ sộ của hai người bạn mình. Không ai trả lời, cũng chẳng chút ánh sáng nào le lói qua cửa sổ. Đương lúc tôi còn cân nhắc hay là thử gõ cửa phòng thí nghiệm tầng trên thì bỗng có tiếng bước chân trên cầu thang đá, giọng tiếng nói quen thuộc vọng tới tai tôi.
“Chào Berkeley!” Thorndyke nói, “Anh cứ như Peri[20] trước cổng Thiên Đường thế? Polton đang loay hoay trên gác với một trong những phát minh mới của mình kìa. Bất cứ khi nào anh thấy cái tổ này trống không, chỉ việc lên gác đập cửa phòng thí nghiệm, tối nào ông ta cũng ở đó.”
“Tôi cũng chưa phải chờ lâu lắm mà.” Tôi đáp, “Đang định lên đó quấy rầy ông ta thì gặp hai người đây.”
“Ừ đấy.” Thorndyke vươn tay vặn to đèn lên, “Anh muốn báo tin gì à? Tôi thấy có một chiếc phong bì màu xanh dương thò ra khỏi túi áo anh kia kìa.”
“Phải, phải.”
“Phải chăng là bản sao di chúc?” Ông đoán.
Tôi trả lời “đúng”, rồi nói thêm mình đã được cho phép để ông xem nó.
“Tôi nói với thầy rồi mà lại!” Jervis reo lên, “Kiểu gì cậu ta cũng sẽ đem được bản sao tới cho chúng ta nếu quả thực nó tồn tại trên đời thôi!”
“Chúng tôi công nhận tài tiên đoán tuyệt vời của anh!” Thorndyke nói, “Nhưng mà đừng quá huênh hoang vì thế nhé. Anh đã xem tài liệu này chưa, Berkeley?”
“Chưa, tôi còn chưa lấy nó ra khỏi phong bì.”
“Nghĩa là nó hoàn toàn lạ lẫm với tất cả chúng ta. ta sẽ cùng xem nó có đúng với miêu tả của anh không?”
Ong đặt ba chiếc ghế bành ở khoảng cách phù hợp với ngọn đèn, còn Jervis cười tủm tỉm nhìn ông mà nhận xét, “Thầy Thorndyke đang vui sướng lắm đây. Với ông ấy, một di chúc không ai hiểu nổi chính là một tuyệt tác và là thú vui vĩnh cữu, đặc biệt khi nó liên quan tới những âm mưu độc ác bí hiểm.”
Tôi ngập ngừng, “Không biết liệu bản di chúc này có đển nỗi qua khó hiểu không, chứ đống rắc rối kéo theo nó chứng tỏ nó có vẻ khó hiểu thật đấy. Tóm lại nó đây này.” Đoạn đưa nó cho Thorndyke.
“Có lẽ chúng ta có thể tin tưởng bản sao này.” Ông lấy bản di chúc rồi đọc lướt qua, “Ồ, đúng rồi!” Ông tiếp tục, “Tôi thấy nó đã được sao lại bởi Godfrey Bellingham, đối chiếu và chứng nhận sao y bản chính. Vậy thì nhờ Jervis thong thả đọc lên cho tất cả cùng nghe đi, còn tôi sẽ làm một bản sao nữa để tham khảo. Hãy cùng ngồi xuống thật thoải mái và châm tẩu thuốc trước khi bắt đầu.”
Ông lấy ra một cuốn sổ. Sau khi tất cả đã sẵn sàng, Jervis giở văn bản đó ra, mở đầu bằng một tiếng “E hèm!” rồi bắt đầu đọc.
Lạy Chúa ban phước, Amen. Đây là ý nguyện và di chúc cuối cùng của tôi: John Bellingham, sống tại nhà số 141 Quảng trường Nữ Hoàng xứ đạo St George Bloomsbury London, hạt Middlesex, ngày 21/09/1892.
Điều 1:
Tôi để lại cho Arthur Jellicoe ở số nhà 184, Quảng trường New, Lincoln’s Inn London, hạt Middlesex tất cả bộ sưu tập ấn và bọ hung, các vật đựng trong tủ đánh dấu chữ A, B và D cùng với khoản tiền tổng cộng hai nghìn bảng không phải chịu thuế thừa kế.
Để lại cho Viện bảo tàng Anh quốc phần còn lại trong bộ sưu tập đồ cổ của tôi.
Để lại cho em họ của tôi là George Hurst ở Poplars Eltham hạt Kent khoản tiền năm nghìn bảng không phải chịu thuế thừa kế. Để lại cho em ruột tôi là Godfrey Bellingham, hoặc cho con gái ông là Ruth Bellingham nếu ông ta qua đời trước tôi, phần tài sản còn lại và các quyền lợi kèm theo, với các điều kiện được nêu sau đây:
Điều 2:
Thi thể tôi phải được đặt cạnh tổ tiên tại nghĩa trang thuộc xứ đạo St George the Martyr, hoặc nếu điều này là không thể thực hiện được, thì chuyển ưu tiên xuống nghĩa trang của nhà thờ, tiểu tu viện hoặc bất kỳ nơi nào được ủy quyền nhận thi thể những người sống tại hay thuộc về xứ đạo St Andrews Above the Bars và St George the Martyr hoặc St George, Bloomsbury và St Giles in the Fields. Nhưng nếu các điều kiện trên không được thực hiện thì:
Điều 3:
Tôi để lại phần tài sản còn lại cùng các quyền lợi kèm theo đã nêu trên cho em họ tôi là George Hurst, người cũng đã được nêu ở trên. Tôi xóa bỏ tất cả các di chúc cùng phụ lục đã được viết tại bất kỳ thời điểm nào trước đây và bổ nhiệm Arthur Jellicoe đã nêu trên là người nhận các tài sản còn lại là Godfrey Bellingham đã nêu trên nếu các điều kiện trong khoản 2 được thực hiện đầy đủ, hoặc George Hurst nếu những điều kiện trong khoản 2 không được thực hiện.
John Bellingham
Được ký bởi người làm di chúc John Bellingham trước sự chứng kiến của những người có mặt theo yêu cầu của ông, trước sự chứng kiến của ông và tất cả những người có mặt nêu tên dưới tư cách người làm chứng:
– Frederick Wilton, 16 đường Medford, London, Bắc, thư ký.
– James Barber, 32 Wadbury, Crescent, London, Tây Nam, thư ký.
“Chà…” Jervis đặt bản di chúc xuống trong khi Thorndyke xé nốt tờ cuối cùng khỏi tập giấy, “Tôi đã từng chứng kiến nhiều bản di chúc ngu ngốc, nhưng bản di chúc này vượt xa tất cả. Không hiểu người ta thực hiện nổi nó bằng cách nào? Một hoặc hai người thực hiện chỉ là một khái niệm trừu tượng. Một bài đại số không lời giải.”
“Tôi nghĩ khó khăn đó có thể khắc phục được.” Thorndyke nói.
“Tôi thì không.” Jervis vặn lại, “Nếu thi thể được chôn ở một địa điểm nhất định, A sẽ là người thực hiện di chúc, còn nếu nó được chôn ở nơi khác, khi đó B là người thực hiện di chúc. Nhưng một khi không thể đưa ra cái xác và không ai mảy may biết nó đang ở đâu, việc chứng minh rằng nó có đang nằm ở địa điểm đã định hay không là bất khả thi.”
“Anh đang phóng đại những khó khăn lên đấy, Jervis.” Thorndyke nói, “Cái xác, dĩ nhiên, có thể đang nằm ở bất kỳ đâu trên thế giới, nhưng vị trí của nó phải là bên trong hoặc bên ngoài ranh giới hai xứ đạo đó. Nếu nó đã được chôn trong ranh giới hai xứ đạo, việc này có thể kiểm chứng bằng cách kiểm tra các giấy chứng nhận chôn cất đã được ban hành từ ngày người mất tích được nhìn thấy còn sống lần cuối cùng và tham khảo danh sách tại những địa điểm chôn cất được quy định trong di chúc. Tôi cho rằng nếu không tìm thấy thông tin nào tại các nghĩa trang trong ranh giới hai xứ đạo, vụ việc có thể được đưa ra tòa để chứng minh việc chôn cất không diễn ra ở đó và như vậy cái xác hẳn đã bị phi tang ở một nơi khác. Một quyết định như vậy sẽ khiến George Hurst trở thành người đồng thực hiện di chúc và thừa kế tất cả tài sản còn lại.”
“Thế thì thật đáng mừng cho ông bạn của cậu đấy, Berkeley.” Jervis nhận xét, “Vì chúng ta có thể gần như chắc chắn cái xác không được chôn cất ở bất kỳ nơi nào đã được nêu.”
“Phải.” Tôi buồn rầu trả lời, “E rằng không còn nghi ngờ gì về điều đó nữa. Nhưng ông ta hẳn là một kẻ vô lại khi đặt ra những điều kiện quái đản cho cái thân xác thối rửa của mình! Ông ta được chôn cất ở đâu thì có ý nghĩa quái gì cơ chứ, đằng nào thì cũng chết rồi?”
Thorndyke khẽ bật cười, “Giới trẻ ngày nay đúng là bất kính!” Ông nói, “Nhưng những lời của anh thật chẳng công bằng chút nào, Berkeley ạ. Ngành nghề nghiên cứu biến chúng tôi thành những kẻ duy vật thuần túy và khiến chúng tôi không thể cảm thông nổi với những người vẫn còn giữ trong mình những niềm tin và cảm xúc nguyên thủy. Một tu sĩ đáng kính đến phòng giải phẫu của chúng tôi đã tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi đám sinh viên - những kẻ thường xuyên sống với những di hài - lại có thể nghĩ tới bất kỳ điều gì khác ngoài tái sinh và kiếp sau. Ông ta là một nhà tâm lý học tồi tệ. Chẳng có thứ gì chắc chắn là đã chết hơn ‘mẫu vật’ trong phòng giải phẫu cả, việc nghiên cứu cơ thể con người trong khi lặng lẽ mổ xẻ nó thành từng mảnh thành từng bộ phận riêng rẽ chẳng khác nào tháo gỡ một chiếc đồng hồ hỏng hay đám động cơ vứt đi ngoài bãi rác rõ ràng không thể đưa đến nhận thức đầy sống động về những điều miêu tả trong sách vở về sự tái sinh.”
“Không, việc ông ta khăng khăng đòi được chôn cất tại một địa điểm nhất định chẳng liên quan gì tới niềm tin tôn giáo, đây đơn giản chỉ là cảm tính ngớ ngẩn.”
“Đúng là cảm tính, tôi thừa nhận thế.” Thorndyke nói, “Song tôi sẽ không gọi nó là ngớ ngẩn đâu. Cảm tính được lan truyền quá rộng rãi theo thời gian và không gian đến độ chúng ta phải nhìn nó với sự kính trọng như một điều cố hữu của bản tính con người. Hãy nghĩ như John Bellingham, về những người AI Cập cổ đại – những người dồn hết tâm sức cho sự yên nghỉ vĩnh hằng của người đã khuất. Hãy nhìn vào những khó khăn mà họ đã phải vượt qua để đạt được nó. Hãy nghĩ về kim tự tháp, hoặc lăng mộ của Amenemhat Đệ Tứ với những mê cung chằng chịt các lối đi giả và phần mộ được bịt kín, cất giấu thật kỹ. Hãy nghĩ tới Jacob - người sau khi chết đã phải vượt qua hàng trăm dặm đường dài dằng dặc chỉ để được ngủ yên với ông chủ mình. Và hãy nhớ tới Shakespeare với lời trang nghiêm dành cho hậu thế hòng được yên nghỉ dưới nấm mồ. Berkeley ạ, đấy không phải chỉ là cảm tính ngu ngốc. Tôi cũng bàng quan không kém gì anh với thi thể của chính mình khi ‘đằng nào thì cũng chết rồi’ - theo cách nói bất kính của anh, nhưng tôi coi mối quan tâm đặc biệt mà một số người dành cho vấn đề này là cảm xúc tự nhiên và đáng được tôn trọng.”
“Ngay cả như thế…” Tôi băn khoăn, “Nếu người này khao khát có một thái ấp cho riêng mình ở một khu mồ mã đích xác nào đó, lẽ ra ông ta phải dàn xếp theo cách hợp lý hơn…”
“Về khoản này thì tôi hoàn toàn đồng ý với anh.” Thorndyke gật gù, “Chính cách diễn đạt ngớ ngẩn các điều khoản này không chỉ gây ra vô số rắc rối mà còn khiến bản thân tờ di chúc trở nên cực kỳ quan trọng trong trường hợp người làm di chúc đã mất tích.”
“Quan trọng như thế nào?” Jervis hỏi với vẻ bồn chồn.
“Hãy cùng xem xét từng điều khoản một.” Thorndyke nói, “Đầu tiên, hãy nhớ rằng người làm di chúc đã thảo ra văn bản này với một luật sư rất giỏi.”
“Nhưng ông Jellicoe không hề đồng tình với di chúc này.” Tôi nói, “Thực ra ông ấy phản đối kịch liệt hình thức của nó.”
“Chúng ta cũng sẽ ghi nhớ cả điều đó nữa.” Thorndyke đáp, “Và giờ hãy cùng xem xét những điều khoản mà ta có thể gọi là rất lôi thôi này, điều đầu tiên khiến ta chú ý là sự bất công đến phi lý của nói: Quyền thừa kế của Godfrey phụ thuộc vào việc chôn cất thi thể của người làm di chúc. Nhưng đây là một việc chưa chắc đã nằm trong tầm kiểm soát của Godfrey. Người làm di chúc có thể bị mất tích ngoài biển, tử nạn do cháy nổ, hoặc qua đời ở nước ngoài và được chôn cất ở nơi không ai nhận diện được mộ của ông ta. Rất nhiều rủi ro có thể xảy đến bên cạnh khả năng hi hữu đã xảy ra trong thực tế khiến người ta chưa thể tìm thấy cái xác. Nhưng giả sử ngay cả khi cái xác được phát hiện, vẫn còn một khó khăn nữa: Những nơi chôn cất của xứ đạo đều đã đóng cửa rất nhiều năm rồi, chúng không thể mở cửa lại trừ khi có sự cho phép đặc biệt, và tôi không chắc người ta có thể xin được quyền lợi đó. Có thể đem hỏa táng thì sẽ giải quyết được vấn đề, nhưng ngay cả như thế cũng chưa có gì chắc chắn cả, và trong bất kỳ trường hợp nào, vấn đề cũng sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của Godfrey Bellingham. Thế mà nếu những điều kiện chôn cất không được thực hiện, ông ta sẽ mất hoàn toàn quyền thừa kế..”
“Đó quả là một điều bất công ngu ngốc đáng ghê tởm!” Tôi thốt lên.
“Đúng thế.” Thorndyke đồng tình, “Nhưng nó vẫn chưa là gì nếu so sánh với những điều kỳ quặc mà ta sẽ làm sáng tỏ khi xem xét điều khoản thứ hai và thứ ba. Hãy để ý người là di chúc dường như muốn được chôn cất tại một địa điểm nhất định, ngoài ra ông ta cũng muốn em trai mình được thụ hưởng gia tài. Hãy đọc lên điều thứ nhất để thấy ông ta đã làm gì để đảm bảo đạt được những gì mình muốn. Giờ nếu đọc thật kỹ điều thứ hai và thứ ba, chúng ta sẽ thấy rằng ông ta đã khiến những ước nguyện của mình gần như không thể thực hiện được. Ông ta muốn được chôn cất ở một nơi nhất định và lại bắt Godfrey phải chịu trách nhiệm chôn cất mình đúng như thế, nhưng ông ta lại không cho Godfrey quyền thực hiện điều khoản và bày ra những chướng ngại không thể vượt qua để ngáng đường. Một khi Godfrey chưa chính thức trở thành người thực hiện di chúc, ông ta không có thẩm quyền để thực thi các điều khoản, và khi các điều khoản chưa được thực thi, ông ta lại chưa phải người thực hiện di chúc.”
“Thật là một mớ rắc rối lố bịch!” Jervis thốt lên.
“Phải, nhưng đó vẫn chưa phải điều tồi tệ nhất.” Thorndyke nói tiếp, “Khi John Bellingham chết, thi thể của ông ta ngay lập tức được xác định, và nó được ‘đặt’, tại thời điểm đó, ở bất kỳ nơi nào mà ông ta chết. Nhưng trừ khi ông ta chết tại một trong những địa điểm chôn cất đã nêu mà điều này lại vô cùng khó xảy ra, thi thể của ông ta - trong thời gian đó - sẽ ‘đặt’ ở nơi không theo quy định. Ở trường hợp này, điều hai - tại thời điểm đó - chưa được thỏa mãn và kết quả là George Hurst trở thành người đồng thực hiện di chúc.
Nhưng liệu George Hurst có thực hiện những quy định trong điều hai? Có lẽ là không. Tại sao ông ta phải làm thế chứ? Bản di chúc không có bất kỳ ràng buộc gì như vậy. Nó dồn toàn bộ trách nhiệm lên Godfrey. Mặt khác, nếu ông ta thực hiện điều hai, chuyện gì sẽ xảy ra? Ông ta sẽ không còn là người thực hiện di chúc và mất bảy mươi nghìn bảng. Chúng ta có thể chắc chắn ông ta sẽ không đời nào làm thế. Vậy thì sau khi đã xem xét hai điều khoản này, chúng ta có thể thấy ước nguyện của người làm di chúc chỉ được thực hiện trong tình huống khó tin rằng ông ta chết ngay tại địa điểm chôn cất đã nêu, hoặc xác ông ta ngay sau khi chết được đưa đến một nghĩa trang công cộng của một trong các xứ đạo đó. Trong bất kỳ trường hợp nào khác, gần như chắc chắn ông ta sẽ bị chôn cất ở nơi không như mình mong muốn, và em trai ông sẽ chẳng nhận được trowk cấp hay sự thừa nhận nào.”
“John Bellingham không thể cố tình làm vậy được.” Tôi khẳng định.
“Rõ ràng là không.” Thorndyke đồng tình, “Các điều khoản của di chúc cho thấy chứng cứ nội tại rằng ông ta không có ý định ấy. Anh hãy để ý ông ta đã để lại năm nghìn bảng cho George Hurst nếu điều khoản hai được thực hiện, nhưng lại không để lại gì cho em trai nếu nó không được thực hiện. Hiển nhiên, ông ta không lường trước những rắc rối như thế này. Ông ta chỉ mặc định như một việc đương nhiên rằng các điều kiện của điều khoản đó sẽ được thực hiện và coi chúng chỉ mang tính thủ tục.”
“Nhưng…” Jervis phản đối, “Jellicoe chắc chắn phải thấy được rủi ro và chỉ ra cho thân chủ của mình.”
“Chính xác.” Thorndyke nói. “Bí ẩn nằm ở chỗ đó. Chúng ta đều biết ông ta đã kịch liệt phản đối, nhưng John Bellingham thì vẫn cứng đầu. Ta có thể hoàn toàn hiểu được tại sao một người đàn ông lại khăng khăng đòi chia tài sản của mình theo những cách ngu ngốc và phi lý nhất, nhưng một người vẫn một mực giữ nguyên lời trong di chúc sau khi đã được chứng tỏ rằng diễn đạt theo cách ấy chắc chắn sẽ khiến những ước nguyện của ông ta không thể thực hiện, tôi cho rằng điều này là một bí ẩn cần phải xem xét kỹ lưỡng.”
“Nếu jellicoe là một trong những bên hưởng lợi…” Jervis nói, “Người ta có thể nghi ngờ ông ta cố tình ỉm đi. Nhưng đằng này, hình thức của bản di chúc chẳng ảnh hưởng gì tới ông ta cả.”
“Không,” Thorndyke nói, “Người hưởng lợi từ những điều mập mờ này là George Hurst. Nhưng chúng ta biết rằng ông ta không biết gì về các điều khoản trong di chúc, và rõ ràng không có bằng chứng cho thấy ông ta gây ra chuyện đó.”
“Câu hỏi thực tế là…” Tôi lưỡng lự, “Điều gì sẽ xảy ra? Người ta có thể làm được gì cho những người nhà Bellingham?”
“Có khả năng Hurst sẽ là người hành động,” Thorndyke trả lời, “Ông ta là người trực tiếp hưởng lợi. Có lẽ ông ta sẽ đưa ra tòa để xin xác nhận người mất tích đã chết và nhận thực hiện di chúc.”
“Khi ấy tòa sẽ làm gì?”
Thorndyke mỉm cười dửng dưng, “Anh đang hỏi một câu khá hóc búa đấy. Quyết định của tòa phụ thuộc vào tính khí thất thường không ai biết trước được. Nhưng ta có thể nói tòa án không dễ dàng công nhận ai đó đã chết. Chắc chắn sẽ có một buổi thẩm tra vô cùng quyết liệt mà tôi cho là sẽ cực kỳ khó chịu, các chứng cứ phải được xem xét bởi một thẩm phán có thiên hướng mạnh mẽ coi người làm di chúc vẫn còn sống. Mặt khác, những tình tiết đã biết điều chỉ ra khả năng ông ta đã chết, và nếu bản di chúc ít phức tạp hơn, tất cả các bên đều nhất trí thực hiện, tôi không thấy có lý do gì để không ban quyền đó. Nhưng chắc chắn Godfrey sẽ phản đối vì quyền lợi của mình, trừ phi ông ta có thể chứng tỏ các điều kiện trong điều hai đã được thỏa mãn nhưng hiển nhiên ông ta không thể làm được rồi; hoặc ông ta có thể đưa ra những lý do tại sao mình tin tưởng rằng John vẫn còn sống. Nhưng ngay cả khi ông ta không thể làm nổi điều này, thì hiển nhiên ông ta vẫn là người thụ hưởng chính theo ý nguyện của người làm di chúc, những lý lẽ phản đối của ông ta nhiều khả năng sẽ có sức nặng đáng kể trước tòa.”
“Ồ, thật ạ?” Tôi sót ruột kêu lên, “Điều đó giải thích cho một việc làm rất kỳ quặc của Hurst, tôi thật ngu ngốc khi quên chưa kể với cả hai người chuyện này. Ông ta đã cố thương lượng riêng với Godfrey Bellingham.”
“Hay đấy!” Thorndyke nói, “Thương lượng như thế nào?”
“Đề nghị của ông ta là: Godfrey sẽ ủng hộ ông ta và Jellicoe xin tòa công nhận người mất tích đã chết để thực hiện di chúc, nếu mọi việc suôn sẻ, Hurst sẽ trả ông ta bốn trăm bảng một năm cho tới hết đời, giao kèo có hiệu lực bất kể mọi sự việc xảy ra sau này.”
“Ông ta nói vậy là có ý…?”
“Có ý rằng nếu cái xác được tìm thấy tại bất kỳ thời điểm nào trong tương lai và các điều kiện trong di chúc được thỏa mãn, Hurst vẫn sẽ giữ dố tài sản và tiếp tục trả Godfrey bốn trăm bảng một năm tới hết đời.”
“Hay?” Thorndyke thốt lên, “Thật là một đề nghị kỳ quặc, rất kỳ quặc!”
“Còn đáng ngờ nữa chứ.” Jervis nói thêm, “Tôi không cho là tòa sẽ đồng thuận với giao kèo nho nhỏ đó.”
“Luật pháp không công nhận bất kỳ giao kèo nhỏ nào được thực hiện với mục đích bỏ qua những điều khoản trong di chúc dù thực tế không có gì đáng phàn nàn về giao kèo này ngoại trừ câu ‘bất kể những sự việc xảy ra sau này’.” Thorndyke đáp, “Nếu một di chúc, quá phi thực tế, sẽ chẳng có gì vô lý hoặc sai trái khi các bên thu hưởng lập ra những giao kèo riêng trong trường hợp cần thiết nhằm tránh vướng phải kiện tụng và trì hoãn thực hiện di chúc. Thí dụ, Hurst đề nghị trả bốn trăm bảng một năm cho Godfrey nếu cái xác vẫn chưa được tìm thấy với điều kiện khi người ta tìm ra nó, Godfrey sẽ trả ông ta một khoản tương tự cho tới hết đời, thế thì chẳng còn gì phải bàn, đó đơn giản là một nghĩa cử công bằng. Nhưng câu ‘bất kể những sự việc xảy ra sau này’ thì lại khác hẳn. Dĩ nhiên đó có thể đơn giản chỉ là sự tham lam, nhưng nó cũng gợi nên những ý nghĩ rất kỳ lạ.”
“Phải.” Jervis nói, “Tôi tự hỏi liệu ông ta có lý do nào để cho rằng cái xác rồi sẽ được tìm thấy? Đương nhiên như thế không có nghĩa là ông ta có lý do. Có thể ông ta chỉ chớp lấy cơ hội từ cảnh nghèo túng của người kia để đảm bảo mình nhận được phần lớn gia tài bất kể điều gì xảy ra, nhưng đó quả thực là một luận điệu sắc sảo hiếm thấy.”
“Tôi đoán Godfrey đã từ chối lời đề nghị đó nhỉ?” Thorndyke chợt hỏi.
“Phải, ông ta đã từ chối rất thẳng thừng. Tôi mường tượng ra hai quý ông đó đã trao đổi ý kiến về hoàn cảnh vụ mất tích một cách thẳng thắn nhiều hơn là khéo léo.”
“À…” Thorndyke nói, “Thật đáng tiếc. Nếu sự việc được đem ra tòa, chắc chắn sẽ còn nhiều những cuộc bàn ra tán vào khó chịu và những lời lẽ còn khó chịu hơn trên các mặt báo. Nhưng nếu các bên tự bắt đầu tỏ ra ngờ vực lẫn nhau, không ai biết được rồi sự việc sẽ kết thúc như thế nào nữa.”
“Không, lạy Chúa!” Jervis nói, “Nếu họ bắt đầu ném những lời buộc tội sát nhân vào nhau thì đúng là đổ thêm dầu vào lửa. Cứ kiểu này rồi cũng có ngày ra Tòa Đại hình[21].”
“Chúng ta cần phải ngăn họ đừng gây ra những lùm xùm không cần thiết.” Thorndyke nói, “Vụ việc khó tránh khỏi bại lộ, và cái đó phải được xác định rõ ràng từ trước. Nhưng trở lại với câu hỏi của Berkeley: Người ta có thể làm được gì? Hurst có lẽ sắp sửa hành động. Anh có biết liệu Jellicoe có hùa theo ông ta không?”
“Không, ông ta sẽ không làm thế. Ông ta đã từ chối làm bất kỳ điều gì mà không được sự đồng thuận của Godfrey, ít nhất đó là những gì ông ta nói trong thời điểm hiện tại. Thái độ của ông ta hoàn toàn trung lập.”
“Cho tới giờ thì vẫn ổn, dù ông ta có thể đổi giọng ngay khi vụ việc được đưa ra tòa.” Thorndyke hồ nghi, “Theo những gì anh vừa nói, tôi cho rằn Jellicoe muốn bản di chúc được thực hiện và thoát khỏi vụ việc này. Cũng dễ hiểu, nhất là khi ông ta được hưởng hai nghìn bảng và một bộ sưu tập có giá trị từ di chúc. Kết quả là chúng ta có thể giả định nếu ông ta vẫn giữ vị trí trung lập, sức ảnh hưởng của ông ta sẽ ngả về phía có lợi cho Hurst hơn là cho Bellingham, từ đó suy ra Bellingham rõ ràng cần được tư vấn hợp lý, một khi sự việc được đưa ra tòa, ông ta phải có người đại diện phù hợp.”
“Ông ta không đủ tiền trang trải cả hai thứ đó.” Tôi đính chính, “Ông ta nghèo rớt mồng tơi nhưng lại kiêu hãnh quá mức, không chịu nhận giúp đỡ một khi không thể chi trả được.”
“Hừm…” Thorndyke rên rỉ, “Thật kỳ quặc hết chỗ nói! Nhưng chúng ta không thể để mặc vụ này thất bại ‘muốn ra sao thì ra’ chỉ vì không được hỗ trợ về mặt chuyên môn được. Ngoài ra, đây là một trong những vụ việc thú vị nhất mà tôi từng gặp, tôi không đời nào để mặc nó hỏng bét. Ông ta không thể phản đối vài lời khuyên nhỏ chung chung được đưa ra một cách dễ dãi, thân thiện từ amicus curia1 như Brodribb vẫn thường thích nói, và sẽ chẳng có gì ngăn được chúng ta tiến hành những cuộc điều tra sơ bộ.”
“Chúng sẽ có tính chất thế nào?”
“Chà, đầu tiên, chúng ta phải tự công nhận rằng những điều kiện trong điều hai vẫn chưa được thỏa mãn, John Bellingham vẫn chưa được chôn cất tại một trong ranh giới của các xứ đạo đã nêu. Dĩ nhiên ông ta không được chôn cất ở đó, nhưng chúng ta không thể mặc định điều gì được. Rồi chúng ta phải công nhận ông ta không còn sống để có thể gặp. Tuy nhiên, hoàn toàn có khả năng ông ta vẫn còn sống sau tất cả những chuyện này, nếu điều đó là sự thật, chúng ta có nhiệm vụ phải tìm ra ông ta. Tôi cà Jervis có thể thực hiện những cuộc điều tra mà không nói gì với Bellingham, người anh em thông thái của tôi đầy sẽ rà soát lại hết danh sách đăng ký chôn cất trong nội thành, không bỏ qua cả hỏa táng; tôi sẽ lo liệu khu vực còn lại.”
“Thầy thực sự tin rằng John Bellingham có thể vẫn còn sống?” Tôi hỏi.
“Chừng nào xác ông ta chưa được tìm thấy thì nó vẫn là một khả năng, vô cùng khó xảy ra, nhưng ngay cả những kịch bản tưởng như vô lý nhất cũng phải được điều tra trước khi loại trừ.”
“Nghe có vẻ như một cuộc tìm kiếm vô vọng quá!” Tôi đánh giá, “Thầy định bắt đầu như thế nào?”
“Tôi đang tính bắt đầu từ Viện bảo tàng Anh quốc, những người ở đó có thể cung cấp một số manh mối về việc di chuyển của ông ta. Tôi biết một số mẫu vật quan trọng đang được chuyển đi ở Heliopolis, Trưởng khoa nghiên cứu Ai Cập học hiện giờ đang ở đó. Tiến sĩ Norbury - người đang tạm thời làm thay vị trí này - là một người bạn lâu năm của ông Bellingham. Tôi sẽ tới gặp ông ta và thử tìm hiểu xem nguyên nhân gì khiến ông Bellingham đột ngột phải ra nước ngoài như vậy, thí dụ như tới Heliopolis chẳng hạn. Ngoài ra ông ta có thể cho tôi biết lý do khiến người bị mất tích tới Paris trong chuyến đi cuối cùng có phần bí ẩn đấy. Thông tin này có thể là một manh mối quan trọng. Trong khi đó, Berkeley, anh phải thật khéo léo thuyết phục ông bạn của anh cho chúng tôi điều tra vụ này. Phải nói rõ cho ông ta biết tôi làm việc này hoàn toàn để mở mang tầm mắt của bản thân.”
“Nhưng đáng lý người ta phải được cố vấn bởi một luật sư hay sao?” Tôi hỏi.
“Thông thường là thế, nhưng chỉ là hình thức thôi. Chúng ta sẽ làm công việc thực tế. Sao anh lại hỏi vậy?”
“Tôi đang nghĩ tới chi phí phải trả cho một cố vấn và định sẽ nói mình cũng có một khoản tiền nhỏ…”
“Vậy thì cứ giữ lấy đi, anh bạn thân mến ạ. Anh sẽ cần tới nó khi bắt đầu sự nghiệp của mình. Về việc người cố vấn thì không có gì khó khăn cả, tôi sẽ nhờ một người bạn đóng vai trò đó về mặt hình thức, Marchmont sẽ xử lý vụ việc cho chúng ta, Jervis à, tôi tin chắc như thế.”
“Ừm…” Jervis tiếp lời, “Hoặc Brodribb già nua, nếu chúng ta coi ông ta là amicus curia.”
“Hai người thật quá tử tế khi đã rộng lượng mà quan tâm tới vụ việc của người của tôi!” Tôi thành khẩn, “Tôi hy vọng họ đừng kiêu ngạo một cách gàn dở về chuyện đó nữa. Những người ở địa vị cao khi rơi vào cảnh nghèo hèn toàn thế cả.”
“Nói cho cậu nghe nè!” Jervis thốt lên, “Tôi vừa nảy ra một ý tưởng thần tình. Cậu hãy mời chúng tôi cùng những người nhà Bellingham tới dùng một bữa tối nho nhỏ ở nhà cậu, rồi cậu sẽ tấn công ông già đó, trong khi thầy Thorndyke dồn hết khả năng thuyết phục quý cô kia. Hai người họ giờ đây đang trơ trọi vô phương cứu chữa này sẽ khó mà cưỡng lại nổi.”
Thorndyke nhận xét, “Ý kiến của anh ta cũng hay đấy. Dĩ nhiên chúng ta không được gây bất kỳ sức ép nào lên Bellingham để bắt ông ta phải thuê chúng ta, bản chất sự việc vẫn sẽ là như thế, dù chúng ta không nhận thù lao nhưng một cuộc nói chuyện thân mật bên bàn ăn có thể giúp chúng ta đặt vấn đề một cách khéo léo mà vẫn đầy sức thuyết phục.”
“Phải.” Tôi nói, “Tôi hiểu và cực kỳ thích ý kiến đó. Nhưng trong vài ngày tới thì chưa được vì có một việc choán hết thời gian rảnh của tôi rồi, lúc này tôi cần phải làm việc đó ngay.” Tôi đột nhiên cảm thấy lo sợ mình say sưa nghe những phân tích của Thorndyke mà quên bẵng thời gian.
Hai người bạn nhìn tôi một cách tò mò, tôi cảm thấy cần phải giải thích cho họ về bàn tay bị thương của cô Bellingham cùng những bảng chữ tượng hình Tell el-Amarna. Tôi trình bày đầy ngượng ngùng và không ngừng e dè nhìn Jervis. Tuy nhiên nụ cười nhếch mép chậm rãi mà tôi lo sợ lại không xuất hiện, ngược lại, anh ta nghiêm túc nghe tôi kể xong, sau đó còn bàn luận một cách sôi nổi và sử dụng biệt danh thân mật của tôi từ hồi đi học, “Nói cho cậu nghe điều này, Polly, cậu là một người bạn tốt lắm đấy, bao giờ cũng thế. Tôi hy vọng những người bạn của cậu ở khu Nevill biết trân trọng điều đó.”
“Họ biết trân trọng tôi hơn cả hoàn cảnh cho phép.” Tôi đáp, “Nhưng hãy trở lại với câu hỏi này. Ngày này tuần sau có tiện cho hai người không?”
“Với tôi thì ổn.” Thorndyke trả lời, đoạn liếc mắt nhìn người phụ tá.
“Tôi cũng thế.” Anh ta nói, “Vậy nếu ngày đó cũng tiện cho những người nhà Bellingham thì coi như xong xuôi, có diều nếu họ không tới được, cậu phải hẹn một buổi tối khác đấy.”
“Tuyệt!” Tôi đứng lên, dập tẩu thuốc, “Tôi sẽ gửi lời mời tới họ ngày mai. Giờ thì tôi phải về ngay để chép lại đống tài liệu ấy.”
Trên đường về nhà, tôi hồ hởi phỏng đoán về khả năng sẽ được đón tiếp những người bạn dưới mái nhà của chính mình (hay đúng hơn là của Barnard), nếu có thể dụ họ ra khỏi nơi ẩn náu. Thực ra đã có lúc ý tưởng này nảy ra trong tâm trí, nhưng lần nào tôi cũng bị thói trái tính của người quản gia của Barnard làm nhụt chí. Bà Gummer là kiểu phụ nữ nội trọ luôn tìm cách bù đắp cho phương thức sản xuất cổ lỗ giản đơn của mình bằng những sự chuẩn bị ở mức độ kinh khủng và ngặt nghèo nhất. Nhưng lần này tôi sẽ không nhụt chí. Một khi đưa được những người đó vào hang ổ khiêm tốn của mình, những nguyên liệu thô cho bữa tiệc có thể dễ dàng được đem vào từ bên ngoài, và những suy tính về phương hướng cùng cách thực hiện choán lấy tâm trí tôi một cách dễ chịu cho tới khi tôi trở lại bên bàn viết, đối diện với hàng đống ghi chú về các sự kiện trong cuộc chiến Bắc Syria.