☆ 3 ☆
Margaret Trane, một nhân viên cảnh sát có thân hình chắc nịch, suýt thì va vào Lucas khi đang chạy ra ngoài tòa văn phòng liên bang trong lúc vội vã. Cô tóm lấy ve áo khoác của anh và nói: “Chúa ơi, Davenport.” Cùng lúc khi Lucas nắm lấy đôi vai cô, giữ cô đứng thẳng và nói: “Bình tĩnh nào, Maggie.”
Cả hai đều lùi lại và cô nói: “Chào anh. Lâu rồi nhỉ. Có phải cô gái ở Missouri còn quá trẻ như họ nói?”
“Cô ả trẻ đấy, nói là mười lăm tuổi.” Lucas nói. “Hơi kinh khủng, cô hiểu ý tôi chứ?”
“Tôi hiểu.” Trane nói. Cô mỉm cười với anh – cả hai người họ luôn hòa hợp, kể cả khi Lucas là điều tra viên hàng đầu về tội phạm bạo lực của Minneapolis và cô thì mắc kẹt với các cuộc điều tra tại phân khu cảnh sát. Cả hai đều đã chuyển công tác, Trane thì về Phòng Điều tra Án mạng Minneapolis, còn Lucas về Cục Trấn áp tội phạm Minnesota và rồi là Cục Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ. “Tôi nghe nói nhiều chuyện trở nên căng thẳng hơn ở văn phòng cảnh sát tư pháp.”
“À, cũng bình thường thôi. Rồi cuối cùng mọi thứ sẽ được giải quyết thôi.” Lucas nói.
“Anh có Bowden đứng đằng sau và bà ấy sẽ thành Tổng thống. Anh nên tận dụng.”
“Tôi cố gắng không dựa dẫm vào điều đó quá nhiều.” Lucas nói. “Nhưng… ừ.”
“Nếu anh muốn nói chuyện với những cảnh sát thật sự, hãy ghé qua Phòng Điều tra Án mạng. Rất vui được đón tiếp anh.”
Họ tán gẫu thêm một lát, về gia đình con cái, rồi Trane nói cô phải đi, cô có một cuộc họp qua điện thoại về một gã gây án ở cả Minneapolis và Denver. Cô bước đi khỏi đó còn Lucas thì vào tòa văn phòng liên bang.
Cuộc nói chuyện với Trane làm anh vui lên. Do cái cách anh được bổ nhiệm vào Cục Cảnh sát Tư pháp nên anh không phải là người nổi tiếng nhất ở nơi này. Anh nhảy vào từ trên cao, một sĩ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ ngồi ở văn phòng tại Minneapolis nhưng làm việc độc lập và không nhận lệnh từ bất cứ ai ở Minneapolis, dù đôi khi anh nhận được những lời đề nghị. Liên lạc trực tiếp nhất của anh là với một vị quan chức của cục ở Washington tên là Russell Forte. Anh và Forte chỉ gặp nhau rất ngắn ngủi, và đã từng cùng nhau ăn trưa, và Lucas có ấn tượng rằng Forte là kiểu công chức tuyệt nhất: hiệu quả, gắn kết, quan tâm đến kết quả hơn là phương thức hay phong cách.
Cho đến giờ, họ làm việc ăn ý với nhau.
Lucas có một văn phòng ở tầng bốn tại tòa văn phòng liên bang trông có–vẻ–hiện–đại của Minneapolis, dưới hành lang từ phía phòng cảnh sát tư pháp của Khu Minnesota và văn phòng các sĩ quan cảnh sát tư pháp khác. Sự sắp xếp này khá phức tạp và là một nguồn cơn ác cảm từ phía một số sĩ quan.
Ở Cục Cảnh sát Tư pháp có chín mươi tư khu tư pháp liên bang; ở mỗi phòng có một sĩ quan cảnh sát tư pháp được bổ nhiệm trực tiếp vào vị trí cao nhất. Họ, cũng như các thẩm phán liên bang, được tiến cử bởi Tổng thống, thường là theo gợi ý của một Thượng Nghị sĩ, và được phê chuẩn bởi Hạ viện. Dưới họ là các sĩ quan công vụ, bao gồm cảnh sát trưởng tư pháp; dưới người này, là các giám thị cảnh sát tư pháp; và dưới nữa, là các sĩ quan cảnh sát tư pháp thông thường.
Lucas đứng ngoài cái tôn ti trật tự quan liêu thông thường đó; và một vài người ở văn phòng Minneapolis nghĩ anh có thể là gián điệp. Gián điệp cho ai, thì anh không biết, nhưng tin đồn là như vậy.
Thêm nữa, còn có văn phòng riêng của Lucas, mà khi trước, cho tới gần đây, là một phòng kho không cửa sổ. Dù vậy, nó vẫn riêng tư. Sự bực bội của đồng nghiệp ở sở càng trở nên trầm trọng hơn với một thực tế là anh không phải chịu đựng những khắc nghiệt quan liêu như các sĩ quan khác, những giờ giấc làm việc tệ hại, những đầu việc nhảm nhí. Anh không dưới quyền ai ở đây, cũng không phải áp giải tù nhân.
Trên hết, bản thân anh vốn giàu có và đi làm bằng một chiếc xe thể thao đa dụng hiệu Mercedes–Benz hoặc một chiếc Porsche 911. Một thẩm phán liên bang mà anh quen đã gợi ý anh dùng một mẫu xe phổ thông, hàng nội địa, trông sẽ kín đáo hơn, cho đến khi anh trở nên quen thuộc hơn trong cục.
Lucas nói: “Mặc xác họ, quan tâm làm gì cho mệt.”
Vị thẩm phán nói: “Chưa biết ai là người bị mặc xác đâu, con trai ạ.”
Sự khó chịu không chỉ giới hạn trong mối quan hệ với các sĩ quan khác: Lucas đã muốn có một danh hiệu tốt sau khi rời Cục Trấn áp Tội phạm và đã nắm lấy ngay cơ hội đầu tiên mà anh có. Anh thực sự không để tâm lắm về sự cô lập tạm thời – anh nghĩ rằng điều đó sẽ dần dần biến mất theo thời gian – nhưng chính anh cũng ngạc nhiên với cảm giác rằng mình đang trượt khỏi quỹ đạo một cách trầm trọng.
Kể từ ngày đầu tiên làm cảnh sát ở Minneapolis, anh đã bắt tay vào việc hiểu thấu môi trường xung quanh mình. Cuối cùng anh nắm bắt được khu vực Minneapolis – St. Paul và danh sách đen ở khu vực này. Nếu ai đó nói với anh rằng một gã X chưa rõ danh tính đã ra tay sát hại một gã Y đã biết danh tính, thì thường anh sẽ biết một gã Z mà anh có thể hỏi chuyện, để bắt đầu điều tra từ đó.
Điều đó không tuyệt đối đúng, nhưng đủ đúng để mang đến cho anh một tỉ lệ phá án mà không ai ở sở có thể đạt được.
Khi anh chuyển đến Cục Trấn áp Tội phạm, một cơ quan cấp tiểu bang, anh đã phải vật lộn để có được sự thích nghi tương tự; nhưng lần này, là trên toàn bộ tiểu bang Minnesota. Anh không bao giờ cảm thấy thoải mái với vùng tiểu bang như hồi làm với khu vực thành phố, nhưng anh đã xoay sở được. Qua đó, anh đã phát triển một cơ sở dữ liệu của những tay chỉ điểm trong giới giang hồ mà từ họ, anh có thể thu thập được nhiều thông tin. Anh gọi điện, chúng sẽ đáp lời; nếu chúng có rắc rối riêng, Lucas sẽ có đôi lời với thẩm phán, miễn rằng đó chỉ là những rắc rối nho nhỏ.
Với sự giúp đỡ của các đặc vụ khác, cuối cùng anh lập lên một danh sách những kẻ chỉ điểm với ít nhất vài cái tên ở mỗi hạt của bang Minnesota; đối với các thành phố lớn, như Duluth hay Rochester, anh có cả một bản điểm danh đầy đủ. Trong cơ sở dữ liệu Lucas thêm vào vài chục cảnh sát tạo nên một mạng lưới những mối quan hệ cá nhân đủ chặt chẽ để anh có thể xin giúp đỡ vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào trong tiểu bang.
Kể cả ở vị trí mới là sĩ quan cảnh sát tư pháp, anh vẫn nhận được những cuộc gọi của các đặc vụ Cục Trấn áp Tội phạm muốn được vào xem cơ sở dữ liệu của anh: “Anh biết người nào ở Alexandria có thông tin về kẹo 1 được vận chuyển qua đây từ Canada không?”
1 Từ gốc: Chicle, trong tiếng Tây Ban Nha, đây là một chất để làm kẹo cao su, nhưng đồng thời cũng có nghĩa là heroin.
Ở Cục Cảnh sát Tư pháp thì lại không áp dụng cách đó được. Thẩm quyền của anh là cả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, bao gồm nhiều lãnh thổ. Không tài nào hiểu thấu đáo được, bằng bất cứ cách thức thực tế nào: anh đã rơi vào một bãi lầy. Anh có thể gọi giúp đỡ từ Cục Điều tra Liên bang FBI, từ Lực lượng Chống ma túy DEA, từ Tuần tra Biên giới, tất cả các cơ quan có tên viết tắt bằng các chữ cái đang thực thi luật pháp của quốc gia, nhưng anh không biết cụ thể phải gặp ai. Anh không thể trông chờ vào họ – họ chỉ là những tiếng nói từ phía đầu dây bên kia của một cú điện thoại di động, và sẽ chạy quanh để giúp đỡ anh nếu họ rảnh. Anh không biết ai là kẻ xấu, hay ai là kẻ xấu nhất.
Anh, như Weather - vợ anh, đã nói, đang ở ngoài kia trong sự cô đơn.
Và anh không hiểu chữ “ngoài kia”.
Hal Oder, sĩ quan cảnh sát tư pháp của khu, ngứa mắt với cái vị thế độc lập của Lucas. Lucas không nhận lệnh hay phân công từ Oder; còn với Oder, trông anh như là một mối đe dọa trong công việc. Điều đó không dịu đi, dù Lucas đã nói rõ rằng anh không quan tâm chút nào đến công việc của Oder.
“Tôi ghét đống hổ lốn mà ông phải chịu đựng.” Lucas nói với ông ta. “Tôi sẽ không làm đâu. Tôi sẽ nghỉ việc trước. Những gì tôi muốn là đi săn. Những trò quan liêu vớ vẩn là lí do tại sao tôi bỏ việc ở Trấn áp Tội phạm.”
“Chỉ đi săn?” “Đúng vậy.”
“Nếu anh làm hỏng chuyện và dính kỉ luật, điều đó sẽ làm cho văn phòng này bị liên lụy.” Oder nói.
“Có thể tôi làm hỏng, nhưng nếu vậy, tôi sẽ nói rõ rằng không có liên quan gì đến ông và văn phòng của ông, rằng người của tôi đang ở Washington, không phải ở Minnesota.” Lucas nói.
“Ai là người liên lạc của anh ở Washington?” “Russell Forte.” Lucas nói.
“Tôi không biết hắn.” Oder nói. “Anh có chắc hắn sẽ vui vẻ nhận trách nhiệm nếu anh làm hỏng chuyện chứ?”
“Thì, anh ta là một quan chức. Ông biết rõ hơn tôi về khả năng liệu anh ta có nhận lỗi hay không.”
Oder đang gõ bút chì lên một cuốn sổ ghi chép. Ông ta ngẫm nghĩ về lời của Lucas rồi nói: “Lucas này, tôi biết chuyện gì đã xảy ra khi anh thôi việc ở bên Trấn áp Tội phạm, và tôi cũng cập nhật về chuyện xảy ra ở Iowa. Anh cứu mạng bà Bowden và anh nhận được khen thưởng nhờ chiến công đó. Theo như tình hình hiện nay thì bà ấy sẽ trở thành Tổng thống và tôi không muốn cãi nhau với một người bạn của Bowden. Nhưng tôi cảm thấy mình bị mắc kẹt ở giữa. Tôi không muốn bị khiển trách bởi những chuyện không phải do tôi làm. Nhưng khi anh mắc sai lầm, và anh sẽ thế, bởi đó là điều không thể tránh khỏi trong công việc, thì tôi sẽ phải nhận trách nhiệm. Tôi ghét điều đó.”
“Tôi sẽ không trở thành vấn đề.” Lucas hứa. “Ông sẽ gần như không bao giờ thấy tôi ở quanh chỗ này.”
Oder có vẻ như đã chấp nhận điều đó; nhưng, theo kiểu của các quan chức, ông ta để cho mọi người biết rằng Davenport không thực sự là một trong số chúng ta.
Trong một cố gắng để xoa dịu tình hình hơn nữa, Lucas đã thân thiện đề nghị hợp tác trong những tình huống phát sinh do văn phòng Cảnh sát Tư pháp Minnesota luôn thiếu nhân lực. Và đó là lí do tại sao anh bị chú ý như một gã giàu có ở Missouri.
Lucas và một sĩ quan khác cũng đã truy đuổi một gã biển thủ tiền quỹ, kẻ đã phớt lờ lệnh triệu tập của tòa liên bang Minneapolis rồi lập một danh tính mới và kiếm một ngôi nhà mới ở Idaho. Tuy nhiên sau đó, Lucas và đồng sự đã thu hồi được một lượng tiền biển thủ từ một két ký gửi an toàn ở Idaho. Cái kết đó làm cho tất cả mọi người đều vui vẻ.
Với cơ sở dữ liệu Minnesota của mình, anh giúp xác định vị trí một gã nhà quê lỗ mãng, một kẻ khinh thường luật pháp liên bang về động vật hoang dã; hắn đã quyết định tiêu diệt chó sói và đại bàng ở trong những khu hắn thích. Hắn bị Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ tóm, nhưng đã chịu mất hai nghìn năm trăm đô tiền phạt thay vì xuất hiện tại phiên xét xử của tòa án liên bang.
Hắn “nổ” với các bạn mình rằng bọn đặc vụ liên bang muốn tóm được hắn thì phải bước qua xác hắn; chừng nào khẩu súng trường còn trong tay, hắn sẵn sàng tặng một viên kẹo đồng cho đám công tố viên Hoa Kỳ. Không lâu sau, Lucas và hai sĩ quan khác đã lôi cổ hắn ra khỏi một quán rượu ở Grand Marais, khi miệng vẫn đang khóc lóc nói về những quyền lợi của mình.
Đó là những vụ bắt giữ hay ho… nhưng chưa phải thứ mà Lucas đang tìm kiếm.
Cho tới giờ, anh đã làm việc mẫn cán đến mức mà anh và Carl Meadows, Phó Cảnh sát trưởng Tư pháp, bắt đầu thi thoảng ăn trưa cùng nhau.
Một ngày sau khi quay trở lại từ St. Louis, một ngày thứ Hai mùa thu trong trẻo và mát lành ở Minneapolis, anh cùng Meadows đi bộ và mua xúc xích ở các xe bán đồ ăn nhanh trên Đại lộ Số 2. Lucas kể với ông ấy về vụ đánh án ở Missouri.
“Mọi thứ đều tốt.” Meadows nói, khi Lucas kể xong. “Nhưng anh đã tìm thấy thứ gì khác để bắt tay vào chưa? Anh đã ngồi không được một thời gian rồi.”
“Tôi biết, nhưng có thể giờ tôi có thứ gì đó rồi.” Lucas nói. “Ông đã từng nghe đến một gã tên là Garvin Poole?”
Meadows cau mày và nhìn xuống cây xúc xích của mình, như thể nó đang giữ câu trả lời. “Cái tên đó nghe quen đấy, lâu rồi, nhưng tôi không nhớ là khi nào. Một gã người miền Nam? Có phải hắn ở trong danh sách Mười lăm tội phạm truy nã hàng đầu của chúng ta một thời gian?”
“Đúng vậy. Mọi thứ tôi biết đều từ buổi nói chuyện với
Jim Duffy ở St. Louis và những gì tôi lôi ra được từ những ghi chép trên mạng trong sáng nay. Poole là một tên cướp có vũ trang kiểu cũ ở vùng Đông Nam – Georgia, Nam Carolina, Alabama, Mississippi, Bắc Florida. Hắn sinh ra ở Tennessee, nhưng không hoạt động nhiều ở đó, ít nhất là không như vậy sau khi hắn ngồi tù bốn năm ở Tennessee. Năm năm trước hắn biến mất. Người ta lờ mờ nhận ra và nghi vấn hắn xuất hiện trong một vụ cướp xe chở tiền bọc thép ở Chattanooga, tuy nhiên chưa đủ căn cứ chắc chắn; và sau đó thì không có gì nữa. Rất nhiều đồng phạm của hắn đã bị bắt và thẩm vấn, nhưng tất cả đều đồng tình rằng hắn đã biến mất. Biến đi đâu thì càng không ai biết. Nhiều người nghĩ hắn đã chết. Và rồi, mười ngày trước, một nhà kiểm tiền ma túy ở Biloxi bị đột kích. Những tên trộm đã giết năm người, bao gồm một bé gái sáu tuổi.”
“Ừ, Chúa ơi, tôi có nghe chuyện đó. Tởm thật.” Meadows nói. “Dường như một trong số các nạn nhân đã bắn trả một phát trước khi bị giết.” Lucas nói. “Nhân viên khám nghiệm hiện trường tìm thấy vài giọt máu, truy theo ngân hàng dữ liệu ADN và tìm được một kết quả khớp – họ nghĩ đó là Poole.”
“Nghĩ? Đáng lẽ ra xét nghiệm ADN phải chắc chắn.” Meadows nói.
“Lần này thì không.” Lucas nói. “Kết quả ADN khớp đến từ vụ cướp xe chở tiền ở Chattanooga. Chiếc xe tải có những máy ghi hình lắp bên trong mà bọn cướp không lấy được. Đoạn phim cho thấy một tên cướp trong số chúng bị va cánh tay vào khung cửa xe khi hắn trèo ra với một túi tiền. Họ tìm được vài mảng da từ khung cửa và chạy xét nghiệm ADN. Họ không thu được kết quả khớp, nhưng tin rằng đó là Poole nhờ vào các căn cứ về chiều cao, hình thể và phương thức thực hiện vụ cướp. Hắn che mặt và đeo găng tay nên không có dấu tay, không có nhân dạng xác định. Cả hai lái xe đều bị bắn đến chết với súng ngắn cỡ đạn.40, như cách năm người ở Biloxi bị giết. Poole thích những khẩu Glock dùng đạn.40”
“Cùng loại mà chúng ta được biên chế.”
“Vâng. Thực ra thì, các ông thôi.” Lucas mang khẩu.45 của riêng mình, như thế là vi phạm quy định, nhưng chẳng có ai rảnh mà đi bóc mẽ anh về chuyện đó.
“Có lệnh tòa liên bang nào về hắn không?” Meadows hỏi. “Vài cái từ lâu, nhưng còn dùng được. Chín năm trước, hắn và một gã tên là Charles Trevino cướp một xe chở thư ngoài St. Petersburg.” Lucas nói. “Chiếc xe đang chở một đống túi thư có đăng ký sau một hội nghị các nhà sưu tập tem. Trevino bị bắt sau đó một năm khi hắn cố gắng bán đi một số tem. Hắn khai Poole là đồng phạm, và rằng có một gã thứ ba nữa, mà hắn không quen biết, là người thực hiện việc nghiên cứu và sắp đặt. Công tố viên đã trình lên một bản cáo trạng về Poole và một lệnh tòa được đưa ra, nhưng kể từ đó chưa ai tóm được hắn.”
“Nghe như là một kẻ thông minh làm việc với những kẻ thông minh khác, nếu chúng phát hiện ra được một chiếc xe thư riêng biệt chở đầy tem cổ.” Meadows nói.
“Dường như hắn là kẻ thông minh, bên cạnh hình tượng kẻ–giết–người–máu–lạnh.” Lucas nói. “Điều đó thôi thúc tôi làm vụ này và trừng trị hắn. Điều đó và chuyện bé gái.”
“Cậu có một đứa con gái, phải không?” Meadows hỏi.
“Ba đứa.” Lucas nói. “Một đã vào đại học, một chuẩn bị vào, một đứa năm tuổi và tôi còn một cậu con trai nữa.”
“Ừ. Có sự thay đổi về hướng điều tra.” Meadows nói. “Cậu có nghe chuyện cô Sandy Park bị một gã đi xe đạp tông trúng?” Sandra Park là một sĩ quan cảnh sát tư pháp khác. Lucas có gật đầu chào cô ấy ở hành lang.
“Gì cơ? Một chiếc xe đạp?”
“Ừ. Thằng khốn ngồi trên một trong những chiếc xe đạp leo núi lốp to, lao từ trên đồi xuống, phi qua một biển báo dừng lại. Sandy đang đi bộ và bị va chạm từ phía bên hông. Dù sao thì, cô ấy không bị đau nặng, nhưng một mắt cá chân và đầu gối bị chấn thương. Cô ấy sẽ không thể đi lại trong vài tuần. Tuy nhiên cô ấy thông thạo máy tính. Nếu cậu cần hỗ trợ thì cô ấy biết mọi hệ thống máy tính của cảnh sát từ trong ra ngoài. Tôi có thể bảo cô ấy ưu tiên các câu hỏi của cậu… nếu cậu cần.” Meadows nói.
“Xin cảm ơn.” Lucas nói. “Tôi sẽ nói chuyện với cô ấy chiều nay.”
“Tôi sẽ đánh tiếng cô ấy trước.”
Lucas nói chuyện với Park và thấy mình rũ bớt được thêm chút khó khăn trắc trở. Lucas nhờ Park làm công việc thư ký, nhưng không phải vì cô là phụ nữ, mà bởi vì Lucas không biết cách làm, cô có kinh nghiệm mà anh không có, và cô đang làm việc khi bị thương, và bởi vì vân vân và vân vân.
Khó khăn được xoa dịu, Lucas yêu cầu cô vét hết mọi thứ có thể tìm thấy về Poole trong các hệ thống máy tính liên bang. Park nói cô sẽ thực hiện, và sẽ có một chồng giấy và một USB đầy dữ liệu vào ngày hôm sau.
Tối hôm đó, Lucas kể với Weather về Poole.
“Hắn là một tên bất lương kiểu cũ. Súng đạn và cướp có vũ trang, xe chở tiền và ngân hàng hoặc bất cứ nơi nào có tiền mặt – hắn thích tiền mặt. Hắn từng cướp phòng vé của một buổi trình diễn nhạc đồng quê một lần. Không hề do dự gì khi ra tay sát hại người khác. Không làm gì liên quan đến công nghệ cao.”
Anh kể cho cô nghe về cô bé bị giết ở Biloxi, cô lắc đầu: “Thật dã man.”
“Ừ.” Cả hai đều nhìn về phía cô con gái Gabrielle, đang ngồi ở chiếc ghế trong góc và đọc cuốn sách tập đọc với sự tập trung cao độ, không chú ý đến bố mẹ.
“Anh có thể đi xa thành phố một thời gian.” Weather nói. Cả hai đang ngồi trên chiếc ghế sôpha ở phòng trước, đầu cô tựa vai anh. Weather là một người phụ nữ dáng người thấp, một nhà phẫu thuật thẩm mỹ. Xinh đẹp, với đôi mắt đẹp và chiếc mũi mà cô thì tưởng là quá to trong khi Lucas nghĩ rằng nó ấn tượng.
“Có thể thế – không lâu hơn so với thời gian anh phải dành ra, nhưng có thể là vài tuần. Anh không nghĩ là mất đến một tháng. Có thể anh sẽ lái xe, thay vì đi máy bay.” Lucas nói. Anh đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng khách, nhìn vào những cuốn sách, đặt chúng xuống, nghĩ về điều đó.
“Nhưng đó không phải là nơi quen thuộc đối với anh.” Cô nói. “Miền Nam khác ở đây rất nhiều.”
“Anh biết.”
“Anh nghĩ vụ này thực sự đáng dấn thân à?” Cô hỏi.
“Một gã đủ xấu xa… quá đủ để anh dấn thân. Poole là kẻ xấu, và chưa có ai động được đến hắn.” “Một thử thách.” Cô nói.
“Chính xác.”
Weather nói: “Em không thích chuyện anh phiêu lưu quá nhiều, nhưng còn hơn là anh ngồi lê la quanh đây, ủ ê. Nhàn cư vi bất thiện mà.”
Lucas gật đầu: “Anh sẽ thành như vậy nếu anh không làm công việc mà anh nên làm.”
“Đi săn.” “Đúng vậy.”
Sáng hôm sau, Lucas gọi điện cho Russell Forte để kể về những gì mà anh đang lên kế hoạch thực hiện. Forte làm việc ở Bộ chỉ huy Cục Cảnh sát Tư pháp ở Virginia, ở bờ bên kia sông Potomac, đối diện Washington D.C.
“Tôi nhớ cái tên Poole.” Forte nói. “Hắn ở trong Danh sách Mười lăm tội phạm truy nã hàng đầu của chúng ta trong một thời gian dài. Chúng tôi để hắn chìm đi vì không có manh mối. Nếu anh tìm được hắn, đó sẽ là một thành tích đáng tự hào cho anh và cho tất cả chúng ta. Đừng cố gắng tự mình hạ hắn. Hắn là một tên giết người. Ngay khi có được manh mối đầu tiên, hãy gọi cho tôi và chúng tôi sẽ bố trí một nhóm từ Đội Đặc nhiệm cho anh.”
“Tôi sẽ làm thế.” Lucas nói.
Sau đó, ở văn phòng liên bang, anh thấy Park đứng bên cạnh máy in, đặt thứ gì đó giống một chồng giấy vào giữa hai tờ bìa cứng. “Còn nữa.” Cô nói. “Cho đến giờ thì đây là những thứ hay ho. Tôi đọc qua chúng trong lúc đang đào bới, và Lucas ạ, tôi sẽ kể cho anh rằng Poole khi xưa là một đứa trẻ xấu tính, và hắn chẳng hề thay đổi. Bố hắn thi thoảng làm việc cho bang Tennessee, những công việc cấp thấp khác nhau, nhưng ông ta cũng là một gã bất lương hạng xoàng. Bị bắt vì phe vé, một lần vì bán giấy phép lái xe ra ngoài Sở Quản lý Cơ giới – nơi ông ta làm việc, nhưng được tha bổng khỏi tội danh đó và được lấy lại công việc. Bị bắt vài lần do buôn bán hàng ăn trộm, nhưng chưa bao giờ bị kết tội. Em gái của hắn được cho là đã một lần chôm cả một xe chở đầy lốp đua, nhưng những lời kết tội được hủy bỏ, không thấy ghi vì sao. Garvin đi lên từ nền tảng đó, nhưng không phải nền tảng của một gia đình tử tế.”
“Bố mẹ hắn còn sống chứ?” Lucas hỏi.
“Chịu, nhưng tôi nghĩ là có. Poole mới bốn mươi hai tuổi, nếu hắn còn chưa chết.” Park nói. “Tôi có thể tìm ra.”
“Cô làm đi và in tất cả ra.” Lucas nói. “Nếu có gì về bố mẹ hoặc anh chị em, tôi muốn thông tin đó. Các hồ sơ về bạn bè, bạn gái, mọi thứ.”
Park vuốt ve chiếc máy in Xerox: “Tôi sẽ làm, miễn là cái máy này không lăn đùng ra hỏng.”
Khi Park hoàn thành công việc, cô đưa Lucas vài chồng giấy phải nặng đến gần năm cân. Lucas mang về nhà và chui vào phòng làm việc của mình để đọc.
Đầu tiên là những bức ảnh hiện trường vụ án ở Biloxi. Lucas đã xem hàng nghìn bức ảnh hiện trường vụ án trong suốt sự nghiệp của mình, và những bức này chẳng là gì so với những thứ tệ nhất. Cả năm nạn nhân đều bị bắn vào đầu và chết ngay lập tức. Một trong số đó, đứa bé gái, nhìn giống như một con búp bê đồ chơi bằng nhựa, nằm xòe tay chân trên nền bê tông, mặt ngửa lên trời, trên trán có một lỗ đạn trông như con mắt thứ ba. Cô bé mặc váy trắng thêu ren, che quá đầu gối. Lucas đã xem rất nhiều ảnh chụp trẻ con chết: anh liếc nhanh vào bức ảnh, rồi chuyển sang bức kế tiếp.
Thế nhưng…
Anh cứ quay lại bức ảnh đó. Cô bé có mối quan hệ về di truyền với một trong số các nạn nhân còn lại trong nhà kiểm tiền, một người đàn ông cao tuổi hơn nhiều – phân tích ADN cho thấy cô bé là cháu gái của người này. Người ông có thể là một tên khốn buôn ma túy, nhưng cô bé thì không. Trong bức ảnh, cô bé nằm ngửa, đôi mắt khép nửa. Chúng vẫn ánh lên vẻ ngây thơ và nỗi ngạc nhiên rằng sao cuộc sống của chúng kết thúc sớm vậy.
Bộ váy cũng có đóng góp điều gì đó. Nó nhắc Lucas nhớ tới những bộ váy của các học sinh trường Dòng, những bé gái đi Rước lễ Lần đầu. Các nhân viên hiện trường tìm thấy một vết máu trên bộ váy, tại vị trí mà ai đó, hẳn là một trong những tên sát nhân, đã xé một miếng, có thể là dùng làm băng cứu thương.
Cô bé trên sàn nhà bắt đầu tác động đến anh. Anh gọi điện xuống Biloxi, thấy rằng không có ai đến nhận những cái xác. “Chúng tôi không thực sự mong đợi rằng ai đó sẽ xuất hiện và nói: Vâng, tôi quen biết mấy người buôn ma túy kia, chúng tôi muốn dành cho họ một buổi tang lễ tử tế tại nhà thờ.”
Giờ Lucas bắt đầu cảm thấy thứ gì đó như một dấu hiệu riêng: hiểu tâm lý kẻ đã giết chết cô bé này. Hắn không nhất thiết phải làm thế, nhưng hắn vẫn làm. Tại sao? Có thể là tính hiệu quả đơn giản, có thể là cô bé đã thấy mặt hắn và sẽ có khả năng nhận diện được hắn, cũng có thể bởi tay súng ấy hoặc những tay súng ấy chỉ đơn giản là thích giết người.
Cùng lúc, mặc cho những tia sáng giận dữ đang lớn dần lên, một dòng suy nghĩ theo thói quen nghiệp vụ cảnh sát phá ngang dòng cảm xúc của anh. Lucas nghĩ, bắn giỏi lắm. Kẻ giết người, dù là Poole hay ai khác, là một tay chuyên nghiệp – hiệu quả, gọn ghẽ, được rèn luyện tốt, tàn nhẫn.
Lucas gạt những bức ảnh sang bên, trừ tấm hình của cô bé. Anh ngả lưng trên ghế ở bàn làm việc, nhìn nó trong một hai phút nữa, rồi lia nó vào tập ảnh. Những bức ảnh và các báo cáo điều tra chẳng cho anh biết thêm gì nhiều, có thể bởi vì chẳng có nhiều thứ để kể, ngoài những gì anh có thể tự mình nhìn thấy.
Văn phòng Điều tra bang Mississippi (MBI) đã xử lý phần lớn khối lượng công việc một cách khá chuyên nghiệp. Khi Lucas đọc xong các báo cáo, anh gọi cho người đặc vụ MBI đã ký chúng. Mất vài phút để được chuyển tiếp qua hệ thống điện thoại của MBI, rồi Elroy Martin nhấc máy và nói: “Tôi Martin đây.”
Lucas tự giới thiệu mình và nói: “Tôi đang xem xét vụ này bởi vì tình trạng đào tẩu cấp liên bang của hắn. Tôi đã có mọi báo cáo của anh, trừ phi nếu có gì mới từ ngày hôm qua.”
“Không có gì thêm đâu.” Martin nói. “Thế anh nghĩ sao?”
“Nếu anh có thể tìm thấy Poole, dấu vết ADN sẽ vạch tội hắn. Tôi lạc quan về điều đó. Vấn đề là làm thế nào để tìm được hắn. Người ta đã săn lùng hắn trong nhiều năm. Những người tốt. Những người biết họ đang làm gì.”
“Ghi chép của anh nói rằng anh không nghĩ hắn ta thực hiện vụ Biloxi một mình.”
“Đúng vậy. Chúng tôi không biết có bao nhiêu đồng phạm, nhưng tôi không tin là có ít hơn hai hoặc ba tên. Năm người chết bị giết bởi hai khẩu súng khác nhau, đều cỡ đạn.40. Tất cả đầu đạn và vỏ đạn đều từ cùng một lô, và đều được nạp lại thuốc súng. Có thể là hai tay súng chia nhau dùng một lô đạn, nhưng, anh biết đấy…”
“Có thể không.”
“Ừ. Có thể là không. Ai thực hiện vụ này phải tìm ra được nhà kiểm tiền ma túy đó – phải như vậy – và chúng tôi không nghĩ rằng đó là Poole. Chúng tôi cho rằng đó có thể là một kẻ biết về nhà kiểm tiền từ những mối quan hệ trong đường dây ma túy, có thể bởi vì hắn sống quanh đây, ở Biloxi.” Martin nói. “Có thể đó là một gã chỉ điểm chuyên nghiệp, một gã sắp xếp kế hoạch. Một tay tham mưu. Chúng tôi biết hắn đã dùng một tay tham mưu trong vụ cướp tem thư trước đó. Chúng tôi không nghĩ Poole sẽ mó tay vào bất cứ thứ gì ở nơi mà hắn sống, bởi vì hắn biết là chúng tôi nắm rất rõ khu vực đó. Chúng tôi nghĩ hắn tham gia với vai trò tay súng. Tuy vậy, chúng tôi không biết được ai là kẻ chỉ điểm.”
“Có thể là một kẻ trong băng đảng muốn phần chia của hắn được nhiều hơn?”
“Chúng tôi cũng đã bàn về điều đó nhưng nếu thế thì cần gì phải lôi Poole vào? Thứ ma túy ở Biloxi đó đi vào thông qua một băng đảng Honduras, một đường dây hoạt động chuyên nghiệp thực thụ.” Martin nói. “Nếu anh ở trong băng đảng đó, anh sẽ quen biết nhiều gã có súng, nhưng anh sẽ không biết Poole. Poole không phải là một kẻ chơi với ma túy, hắn là một thành viên của Dixie Hicks. Một kẻ xấu xa kiểu khác hoàn toàn. Chúng thực sự không có điểm chung với nhau.”
“Hừm. Nếu chúng ta có thể tìm ra gã chỉ điểm, đó sẽ là một bước tiến lớn.” Lucas nói.
“Đúng, chính thế, hiện chúng tôi còn chưa có đầu mối gì cả.” Martin nói. “Nhưng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để tóm được Poole. Chúng tôi nghĩ hắn đã ra tay hạ một người của chúng tôi vài năm trước.”
“Tôi thấy rồi.”
Họ thảo luận thêm vài phút nữa, nhưng Lucas có cảm giác rằng hướng điều tra ở Mississippi đang bế tắc. Anh cảm ơn Martin và quay lại với giấy tờ trên bàn.
Lần đầu tiên Poole vướng vòng lao lý vào năm mười một tuổi, sau một vụ đánh nhau ở sân trường. Khác với các vụ đánh nhau ở sân trường khác, đây không phải là hai cú đấm với việc kẻ bại trận thề sẽ xử được kẻ kia. Poole đã hạ được kẻ bại trận, rồi đá liên tiếp vào mặt, mạng sườn và lưng của đối thủ, cho đến khi một giáo viên lôi hắn ra. Kẻ bại trận phải vào viện trên xe cứu thương.
Không có thêm trận đánh nhau nào nữa cho đến trung học. Khi đó, chỉ có một trận với kết quả tương tự: kẻ bại trận phải vào viện. Một nhân chứng nói tại phiên tòa xét xử vị thành niên rằng Poole “tâm thần”. Poole, từng là trung vệ ở đội bóng bầu dục trung học cơ sở và năm nhất trung học phổ thông, đã bị đuổi học.
Vài tuần sau, hắn cướp một tiệm giặt khô với một khẩu súng lục đồ chơi. Tiệm giặt khô có nhiều tiền mặt và không có chút biện pháp bảo vệ nào: Poole đã không nhắm đến một nơi có thể có cách đối phó với hắn, như cửa hàng rượu hay cửa hàng tiện lợi.
Vụ cướp cũng chỉ ra sự thiếu kinh nghiệm tuổi trẻ của hắn.
Dù hắn đã chọn một cửa hàng cách nhà rất xa về phía Bắc tại ngoại ô Nashville, hắn lại không cảnh giác với những máy ghi hình; hai chiếc máy quay được lắp tại cửa hàng Dunkin’ Donuts 1 trong cùng khu trung tâm mua sắm và đã quay được khuôn mặt của Poole.
1 Dunkin’ Donuts là chuỗi cửa hàng bán bánh kếp dày vòng và cà phê của Mỹ.
Gương mặt non choẹt của hắn trong những bức ảnh chụp của cảnh sát gửi đến các trường trung học; người ta đã bắt giữ Poole vào ngay hôm mà hắn ăn cắp, hầu hết số tiền vẫn còn trong túi. Hắn được gửi tới Trung tâm Phát triển Thanh thiếu niên Mountain View, nơi hắn dành chín tháng làm việc trong xưởng gỗ và trò chuyện với các tội phạm vị thành niên khác về cách tốt nhất để tiếp tục sống với cuộc đời tội lỗi.
Ba năm sau khi được thả, hắn bị bắt lần nữa sau khi cùng với hai kẻ khác mò qua mái nhà vào một phòng vé tại nơi tổ chức biểu diễn nhạc đồng quê và cướp nó. Chúng tẩu thoát cùng với một trăm mười nghìn đô, nhưng một trong số những kẻ tham gia, Boyd Harper, có một cô bạn gái giận dữ tên Rhetta Ann Joyce, người đã tố cáo Harper cho cảnh sát.
Cô ta đã làm thế sau khi biết rằng Harper đã tiêu ba mươi nghìn đô, gần như toàn bộ phần chia của hắn từ số tiền cướp được tại buổi biểu diễn nhạc đồng quê, vào ma túy và gái điếm, trong khi cô ta không được miếng nào. Tuy nhiên, cô ta đã mắc bệnh lậu thể nặng, lây từ một trong các cô ả điếm, khác với những gì mà Harper đã cố gắng lươn lẹo với cô ta: hắn nhiễm lậu qua chỗ ngồi toa-lét.
Đến lượt mình, Harper tố cáo Poole và một đồng phạm tên Dave Adelstein để làm tình tiết giảm nhẹ tội và nhận một án tù ngắn hơn. Poole và Adelstein bóc lịch bốn năm ở nhà tù bang Tây Tennessee. Harper chỉ phải ở một năm và một ngày, tại trại cải tạo vùng Đông Nam Tennessee, nơi hắn học nghệ thuật nấu ăn. Hắn mới chỉ cải tạo được bốn tháng thì bị một kẻ lạ mặt cắm phần chuôi vuốt nhọn của một chiếc dĩa ăn vào tim. Poole và Adelstein không thể tự mình làm việc đó, nhưng cảnh sát bang Tennessee tin rằng chúng là người đứng sau qua một sự dàn xếp theo hợp đồng giữa các băng nhóm trong tù ở Tennessee.
Họ cũng tin rằng Poole và Adelstein, hoặc một trong hai, có thể có liên quan với cái chết của Rhetta Ann Joyce, người đã tự nhảy hoặc bị ném khỏi Cầu Đường sắt New River chỉ một tháng sau khi hai tên này được tha tù. Họ tin là cô ta bị ném xuống bởi chiếc dây thừng quấn quanh cổ.
Sợi dây thừng cũng có thể cho thấy một ý đồ tự sát nào đó, ngoại trừ vấn đề là các vụ tự tử hiếm khi sử dụng loại dây leo núi dài hàng ba chục mét. Cổ của Joyce va vào thòng lọng mạnh đến độ đầu cô ta đứt lìa ra. Cái đầu chỉ được tìm thấy hai tuần sau khi phát hiện cái xác, cách hẻm New River gần một cây số, khi nó dạt lên một bãi bồi.
Lucas, nhìn ảnh chụp hiện trường cái đầu của Joyce ở bờ sông, lẩm bẩm: “Thật là không ra sao.”
Poole đã không bị bắt lại lần nào nữa, nhưng lọt vào tầm ngắm của các nhà chức trách và lực lượng chấp pháp cấp liên bang với vai trò là kẻ khởi xướng của Dixie Hicks, một liên minh lỏng lẻo những gã cướp có vũ trang hoạt động ở vùng cực nam trong địa bàn các bang Liên minh miền Nam cũ.
MBI cũng tin rằng hắn đã ra tay sát hại một cảnh sát tuần tra cao tốc tên là Richard Wayne Coones. Anh ta bị bắn vào một đêm trên Quốc lộ 21 cô độc giữa Bogue Chitto và Shuqualak, Mississippi. Cảnh sát biết được tên hắn thông qua Al Jim Hudson, kẻ đã nói trong lời trăng trối cuối cùng trên giường bệnh rằng hắn đã ở trong xe khi Poole bắn Coones. Hudson chết không lâu sau đó bởi các chấn thương nội tạng hắn phải chịu trong khi chống đối sự bắt giữ.
Các đặc vụ tình báo FBI biết được từ một nguồn tin không được nêu tên trong các hồ sơ của Lucas rằng rốt cuộc Poole tích được số vàng trị giá hơn một triệu đô – có khi hơn thế rất nhiều – mà với số đó hắn định giải nghệ ở Mexico hoặc Belize. Cảnh sát ở cả Mexico và Belize chưa bao giờ thấy bóng dáng hắn, dù họ không thú nhận. Lucas không biết gì về cảnh sát ở Belize, nhưng anh đã gặp một sĩ quan tình báo cấp cao Mexico và bị ấn tượng. Nếu người Mexico không biết gì về Poole, có thể hắn không ở Mexico thật.
Rồi các tin đồn rộ lên rằng Poole đã bị sát hại bởi một đối thủ cạnh tranh tên là Ralph (Booger ) Baca. Theo nguồn tin, Baca ném xác Poole xuống đầm lầy Four Holes ở Nam Carolina, ở đó cái xác không bao giờ được tìm thấy. Vài tháng sau khi được cho là đã giết Poole, Baca chết trong một vụ tai nạn kỳ quặc khi hắn vặn chìa khóa khởi động chiếc xe máy Harley Davidson của mình và rồi bình xăng dung tích lớn Fat Bob nổ tung ngay vào mặt hắn không rõ lí do, biến Baca thành một ngọn đuốc sống. Hắn vẫn còn thoi thóp, nhưng không được lâu.
Không ai còn nghe và nhìn thấy Poole nữa, cho đến vụ giết người ở Biloxi. Nếu chuyện đó thực sự là do Poole thực hiện.
Dù phải hay không phải, Lucas nghĩ, nhiều người đã chết xung quanh Poole, cả bạn bè và kẻ thù, gồm cả một bé gái gặp vận hạn khi ông mình là một tay buôn ma túy nữa. Nhưng nếu sự kết nối giữa kết quả ADN và đoạn ghi hình là chính xác thì Poole còn sống. Nói đúng hơn là chưa chết.
Trong khi đọc tiểu sử về Poole, Lucas tìm thấy một số ghi chú của một điều tra viên FBI đã nghỉ hưu tên là Rory Pratt. Lucas có được số điện thoại từ MBI và gọi cho ông ta.
“Theo dõi hắn trên phạm vi toàn miền Nam.” Pratt nói chuyện với giọng địa phương trầm của Mississippi. “Không phải lúc nào chúng tôi cũng biết mình đang truy bắt ai hay cái gì, nhưng chúng tôi sẽ không ngừng lại sau khi Dick Coones bị bắn. Đó là một vụ sát hại đủ máu lạnh mà anh có thể bắt gặp. Chúng tôi đã xem xét mọi thứ, nhưng cứ như là đuổi theo một cái bóng. Chúng tôi mà nghe được những tin đồn rằng hắn có liên quan đến một vụ cướp ở nơi nào đó thì chúng tôi sẽ đến đó ngay vào hôm sau. Chưa bao giờ nắm được thứ gì đó chắc chắn. Chúng tôi nói chuyện với những gã đã thực sự có liên quan đến vài vụ cướp có vũ trang đó và chúng luôn chối bay chối biến rằng không quen biết Poole – chứng tỏ chúng hiểu điều gì đã xảy ra với những kẻ đã mở mồm nói về Poole.”
“Ông có cảm thấy hắn thực sự liên quan đến bất cứ vụ cướp nào mà ông đã điều tra không?” Lucas hỏi. “Nhiều người nghĩ rằng hắn đã chết.”
“Hắn chưa chết. Tôi đảm bảo đấy. Trừ phi có ai đó đánh úp hắn rồi chôn xác hắn ở vùng tối của mặt trăng và không bao giờ nói với ai. Một chuyện khác là, hắn có một cô bạn gái tên là Pandora Box 2 …”
2 Pandora Box (chiếc hộp Pandora): Trong thần thoại Hy Lạp, đó là một chiếc hộp mà nàng Pandora – người phụ nữ đầu tiên đến thế giới loài người sở hữu. Nàng Pandora đã được thần Zeus dặn kĩ rằng không được mở chiếc hộp đó ra. Nhưng với sự tò mò của mình, Pandora đã mở chiếc hộp ra và tất cả những gì trong chiếc hộp kì bí đó đã khiến cho tất cả những điều bất hạnh tràn ngập khắp thế gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh.
“Tôi có đọc, nhưng tôi tưởng đó là chuyện đùa.” Lucas nói.
“Không đùa đâu. Ý tôi là, tôi đoán có thể đó là trò đùa của bố cô ấy, nhưng từ đấy trở đi thì đều là thật.” Pratt nói. “Có chuyện kể rằng một lần Poole bắt được một gã từ băng đảng Bandido vì tội lừa hắn trong một vụ thỏa thuận tiền nong. Chuyện này dẫn đến chuyện kia và rồi Box cắt đầu gã Bandido kia với một con dao bếp, không vì lí do gì ngoài việc cô ả có thể. Không có bằng chứng về chuyện đó, không có nhân chứng nào mà ta biết, nhưng câu chuyện là vậy. Dù sao thì, Box biến mất cùng lúc với Poole, nhưng hai năm trước cô ta đến dự đám tang của một người chú ở Tennessee. Một tuần sau chúng tôi mới biết, người xung quanh đó không hề hé miệng. Nếu Box và Poole biến mất cùng lúc, và cô ả còn sống mà còn phát đạt… anh biết tôi đang hướng tới đâu rồi đấy.”
“Có ai kiểm tra các chuyến bay xem cô ả đến từ đâu chưa? Hay đi về đâu?”
“Người ta làm rồi. Cô ả không bay ra bay vào. Cô ả đến lễ tang bằng xe taxi và rời đi cũng như thế. Chúng tôi nghĩ có thể cô ả lái xe từ nơi ẩn nấp của chúng ở xó nào đó và rồi bắt taxi đến để không ai nhìn thấy xe riêng của cô ả. Lễ tang của người chú diễn ra bốn ngày sau khi ông ta chết, nên cô ả có thể lái xe từ bất cứ đâu trong khu vực phía Nam của lãnh thổ lục địa Hoa Kỳ.”
“Được rồi. Nghe này, nếu ông có thời gian, hãy gửi một e-mail tập hợp những gì ông và cộng sự đã làm – không cần tất cả những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng về tổng quát, và những gì ông nghĩ.” Lucas nói. “Đa phần là những gì ông nghĩ. Bất cứ gợi ý hoặc đề nghị nào về việc tôi nên làm như thế nào.”
“Tôi có một gợi ý ngay bây giờ đây: nếu anh bị vây, anh phải mở đường máu để vượt qua, anh sĩ quan ạ. Đầu hàng hay thương lượng sẽ chỉ làm anh bị giết.” Pratt nói. “Có khi còn bị chặt mất đầu. Thằng đó là một con rắn hổ mang nước chết tiệt và ả bạn gái hắn cũng vậy.”
Quay lại với đống giấy tờ, Lucas soạn ra một danh sách các đồng phạm đã biết, đặc biệt những kẻ thực sự có vẻ là bạn của Poole. Anh thêm vào đó bố mẹ và em gái của Poole. Dora Box thì dường như là không còn người thân nào còn sống. Khi xong việc, anh có hai mươi hai cái tên. Anh gửi danh sách đó qua e-mail cho Sandy Park, cô sĩ quan cảnh sát tư pháp, người sẽ làm phần tìm kiếm bằng máy tính, và yêu cầu các báo cáo về những người này.
Xong việc, anh gọi cho Văn phòng Điều tra bang Tennessee (TBI) và nói chuyện với người đứng đầu Ban Điều tra Tội phạm. “Tôi muốn nói với anh rằng tôi sẽ qua và cho anh biết tôi đang làm gì.” Lucas nói.
Đặc vụ ở đó, Justin Adams, biết tên tuổi của Poole và vài chi tiết về án mạng ở Biloxi. Anh ta nói: “Khi anh nghĩ anh tìm thấy hắn, hãy gọi cho tôi và chúng tôi sẽ đến đó. Anh có cần ai đến đó cùng anh không?”
“Có lẽ để sau.” Lucas nói. “Đầu tiên, tôi sẽ đi nói chuyện với bố mẹ và em gái hắn – tôi không hi vọng quá nhiều. Dù vậy, nếu tìm được gì, tôi sẽ báo cho anh.”
Sandy Park hồi âm muộn vào buổi chiều, cô đưa ra một danh sách những người là bạn hoặc đồng phạm của Poole. Trong số hai mươi hai cái tên trong danh sách, chín người đã chết – một số mắc bệnh ung thư hay già yếu, như bố mẹ của Box; trong khi ba người khác có cái chết dữ dội: hai người bị bắn trong những vụ cướp, một người tai nạn xe máy. Chị gái của Dora Box tự tử sau một thời gian dài dùng heroin. Trong số những người còn sống, tám người đang ở tù, đa số là tội phạm chuyên nghiệp lãnh án chung thân. Một người là tử tù ở Alabama.
Trong số năm người khác, Lucas có địa chỉ của ba người; ngoài ra không có chút thông tin gì về địa điểm của hai người còn lại.
Một e-mail gửi từ Pratt, điều tra viên FBI đã nghỉ hưu, cung cấp một vài chi tiết chưa từng được ghi trong hồ sơ chính thức. Poole biết cách tạo ra những “hình ảnh” khác nhau cho chính mình – hắn nhuộm tóc vài lần, râu đã từng cạo nhẵn và để rậm, đôi khi vận quần bò, đi bốt và mặc áo phông lao động, và đôi khi xuất hiện trong những bộ vét với cà vạt đắt tiền. Đôi khi hắn để kiểu tóc cạo trắng hai bên và gáy, đôi khi tóc dài chấm vai.
“Có một điều luôn luôn không đổi.” Pratt nói. “Hắn luôn bắn trước.”
Lucas dành hai ngày ở với Sam, con trai anh, tại căn nhà gỗ của mình tại Wisconsin; họ lau dọn nó và chuẩn bị sẵn sàng để đóng cửa cho mùa đông. Sam lên tám, được trốn học và thích thú với điều đó; cả hai bố con đi câu cá trong một đến hai tiếng vào buổi sáng và Sam bắt được con cá chó đầu tiên của mình, dài đến tám mươi phân. Lucas còn phấn khởi hơn cả cậu nhóc – không chỉ bởi đó là một con cá chó, mà vì cậu nhóc đang cảm nhận được vẻ đẹp thực sự của cuộc sống, tình yêu với cảnh hồ yên tĩnh vào buổi sáng sớm. Lucas hướng dẫn cậu bé cách dẫn cá trong nước, tháo móc câu với cặp kìm, và rồi thả cá về với vùng nước.
Khi cả hai đang rửa tay khỏi mùi cá tanh trong nước hồ, Sam nói: “Đây là điều tuyệt nhất con từng làm trong đời mình.”
Buổi tối, hai cha con xem ti-vi một chút và Lucas tiếp tục làm việc với hồ sơ của Poole. Sau khi xong việc ở nhà gỗ, họ lái xe về thành phố; Lucas nói với Weather rằng anh sẽ khởi hành đến Nashville vào Chủ nhật tuần sau – anh muốn dành cả một tuần để bắt đầu, với tất cả các văn phòng của các lực lượng chấp pháp mở cửa làm việc.
“Anh sẽ đi trong bao lâu?” Cô hỏi. “Áng chừng.”
“Anh sẽ đi vào tối Chủ nhật, đi Nashville vào ngày kế tiếp. Trong khoảng một đến hai tuần đầu tiên, anh cần xác định được liệu có khả năng nào xác định được nơi hắn đang ở không. Nếu kể đến lúc anh có manh mối về hắn… có thể mất hai đến ba tuần.”
“Tại sao anh nghĩ mình có thể tìm thấy Poole khi mà không có ai khác làm được?” Cô hỏi. Họ đang đứng trong bếp, xếp bát đĩa vào máy rửa. Sam đang ở ngoài gara và họ nghe được tiếng cậu bé đang đánh quả bóng chày nhựa bằng chiếc gậy khúc côn cầu cắt ngắn.
“Nếu hắn còn sống, hắn có thể bị phát hiện.” Lucas nói. “Sẽ có người biết hắn ở đâu, hoặc ít nhất là cách để liên lạc với hắn. Nếu hắn là tay súng ở Biloxi, ít nhất một người biết tìm hắn ở đâu, cái gã đã tìm ra nhà kiểm tiền. Nếu anh có thể len mình vào giữa gã này và Poole… anh sẽ tóm được hắn.”
Cô đóng cánh cửa máy rửa bát, nhấn các nút đặt chế độ, rồi tựa lưng vào đó và nói: “Đừng tự tin quá. Nó có thể làm anh bị nguy hiểm đến tính mạng.”
“Anh sẽ cẩn thận hết sức. Gã đó là một tên sát thủ máu lạnh.” Lucas mỉm cười với cô, một nụ cười ma sói. “Kiểu tuyệt nhất đấy.”
“Chúa giúp anh, Lucas.” Cô nói.