Chương 13
Weather Karkinnen, vợ Lucas, đang lái chiếc Audi có thể bỏ mui màu xanh sẫm, vào một buổi tối mùa hè dễ chịu. Các cửa kính xe đều kéo lên hết vì cô không muốn kiểu tóc mới bị rối tung.
Một túi đồ thực phẩm nằm trên ghế hành khách bên cạnh. Cô vừa lái xe quay về nhà từ siêu thị Lunds trên đường Ford Parkway tại St. Paul. Cô có dáng người nhỏ nhắn, vai gần như chạm vào cạnh dưới cửa kính xe. Cô cảm thấy thoải mái khi lái xe trên con đường uốn lượn xuôi theo đại lộ Mississippi River; A5 không phải là chiếc xe hot nhất, nhưng lại rất dễ lái.
Weather đang suy nghĩ về lũ nhóc, đặc biệt là Sam. Sam đang ở tuổi học tiểu học, và thật tệ khi những đứa trẻ lớp một ngày nay cứ thi thoảng lại đánh nhau. Nó không phải là đứa đi bắt nạt - tất cả giáo viên ở trường đều nói thế - mà là đứa luôn đứng lên bảo vệ kẻ yếu, một vai trò nó cực kỳ háo hức được đảm nhận, cũng theo lời các giáo viên. Lucas đã nói chuyện với thằng bé về chuyện này, nhưng anh cần phải làm nhiều hơn, cô nghĩ.
Một thằng nhóc đi ván trượt bỗng lọt vào chùm sáng đèn pha. Weather cẩn thận ngoặt xe sang bên để tránh, rồi tiếp tục xuôi về Randolph, vẫn suy nghĩ về Sam, và...
Rầm!
Cô không hề thấy nó lao đến.
Xe Audi bị chiếc Toyota Tacoma cũ, đang tăng tốc khỏi điểm giao cắt giữa đường Randolph với đại lộ Mississippi River, đâm cực mạnh. Chiếc A5 bị văng sang bên đến gần một mét, cánh cửa bị dập nát hướng vào trong, toàn bộ các túi khí bung ra cùng một lúc.
Đầu Weather va mạnh vào cửa kính ghế tài xế khi nó vỡ tan, các mảnh thủy tinh găm vào da đầu. Đầu cô lại lao sang bên trái, nhưng cô không còn nhận thức được nữa vì đã bất tỉnh. Sức mạnh cú đập khiến Weather bị vẹo cổ, cánh cửa bẻ gãy cánh tay cô, ép khuỷu tay đè mạnh vào xương sườn. Vài xương bị gãy, một đầu xương gãy đâm vào phổi bên phải.
Có bốn nhân chứng: Một cặp đôi ra ngoài đi dạo buổi tối, đang đi bộ trên vỉa hè song song với đại lộ; một sinh viên trường St. Kate, đang quay về trường trên xe đạp sau khi thay ca tại một nhà hàng ở Ford Parkway và một người đi ván trượt.
Cả bốn nhân chứng đều nhìn thấy tài xế chiếc xe bán tải, một người đàn ông to béo mặc chiếc áo thun ngắn tay màu đen rộng thùng thình, đội mũ bóng chày màu vàng sáng. Hắn nhảy xuống khỏi xe tải mà chẳng hề hấn gì, chỉ dừng lại một giây trong chùm sáng từ cột đèn phía đầu xa nút giao, rồi chạy về phía đường Randolph, sang đường chỗ giáo đường Aaron và chạy vào một con hẻm.
Chẳng ai nghĩ đến chuyện đuổi bắt hắn. Trong cả một phút đầu tiên sau vụ đụng xe, ai cũng lóng nga lóng ngóng, lục túi tìm điện thoại, chạy đến xem xét Weather. Người đi ván trượt đã buông rơi ván trượt khi tên tài xế khuất sau con hẻm và chạy đuổi theo hắn, nhưng không thấy hắn đâu nữa.
Cảnh sát St. Paul cử một xe tuần tra đến trong hai phút; sáu phút sau, xe cứu thương đến nơi. Weather vẫn đang nằm trong xe, hôn mê bất tỉnh. Khi một nhân viên y tế và một cảnh sát giật mạnh cánh cửa ghế hành khách ra ngoài, luồn cáng vào trong xe, cắt dây đai an toàn vẫn cài chặt trên ngực Weather, rồi cẩn thận đặt cô xuống cáng.
Một lúc sau, trên đường đến bệnh viện Regions, nhân viên y tế giục tài xế, “Lái nhanh lên anh bạn... Hãy đưa cô ấy đến đó... Nhanh nữa lên...”.
Một trung sĩ tuần tra lấy túi xách của cô, mở ví ra tìm thấy một chứng minh thư. Một cảnh sát khác lao đến bên anh ta và hỏi, “Cậu có biết cô ấy là ai không?”.
Viên cảnh sát xem bằng lái của cô. “Weather... Karkinnen.”
“Tôi tra cứu biển số rồi. Xe này đăng ký tên cô ấy và chồng cô ấy, Lucas Davenport.”
“Ôi trời ơi,” viên trung sĩ nói. “Nghe này - đến ngay BCA, lấy số điện thoại của Davenport. Nếu họ không có thì lấy số của Del Capslock. Kể cho anh ta nghe chuyện đã xảy ra. Anh ấy là bạn thân của Davenport.”
“Thế cậu làm gì?”
“Gọi thêm nhiều xe tới đây. Thật nhiều xe vào. Thằng cha này chạy bộ; chúng ta sẽ lần theo dấu hắn dù có phải mất cả đêm.”
Lucas chưa bao giờ làm việc cho cảnh sát St. Paul, nhưng anh đã sống ở thành phố này hơn hai mươi năm, danh tiếng vang khắp Phòng Cảnh sát St. Paul. Có thể anh không phải là người được yêu thích nhất, nhưng vợ cảnh sát vẫn là vợ cảnh sát.
Viên trung sĩ gọi thêm nhiều xe nữa đến hiện trường vụ tai nạn. Các cảnh sát xới tung khu phố bằng những ánh đèn pin và chó nghiệp vụ, nhưng không tìm được tên tài xế. Mặc dù họ thu được xe tải của hắn, bằng lái là của một người có tên là Alice B. Stern. Nhà của Alice Stern, ở phía đông St. Paul, tối om và câm lặng. Gõ cửa nhiều lần mà chẳng có ma nào trả lời. Một người hàng xóm cho biết Stern làm phục vụ tại một quán bar gần đó. Cảnh sát tìm thấy cô ta ở đấy, đang phục vụ đồ uống. Cô ta làm việc ở quán bar này từ lúc bốn giờ.
Khi được thẩm vấn, cô ta thừa nhận sở hữu xe Tacoma. Cô ta dùng con xe cũ rích này chở hàng gia dụng đi bán vào các buổi sáng thứ Năm, bán đồ lặt vặt tại phiên chợ trời họp vào các ngày thứ Bảy. Bình thường cô ta lái chiếc Corolla, đang đậu trong bãi đỗ xe của quán bar.
Cô ta cũng có bạn trai.
“Tôi không tin nổi Doug lại dùng nó - anh ta có lái được đâu,” cô ta khai với viên trung sĩ St. Paul. “Ý tôi là anh ta lái được, nhưng không được phép lái. Lần trước anh ta vừa ra khỏi thành phố Lino Lakes trong trạng thái say rượu.”
Viên trung sĩ giận dữ nhìn cô ta, và cô ta nói, “Ôi không...”.
Ba xe cảnh sát quay về nhà Alice Stern. Cô ta cho họ vào và cùng phát hiện Douglas Garland Last trong ga-ra, chết ngồi trên một cái ghế văn phòng mua ở chợ trời. Trên đầu anh ta có lỗ đạn, một khẩu 38 nằm lăn lóc trên sàn cạnh tay anh ta, cùng chiếc mũ bóng chày Iowa Hawkeyes màu vàng sáng. Viên trung sĩ gọi tất cả mọi người tới. Mọi việc được thực hiện tại phòng giám định pháp y, Last được phát hiện có nồng độ cồn trong máu là 2.1, gấp đôi giới hạn cho phép.
Vẫn chuyện xưa như diễm. Gọi Hội Bà mẹ phản đối lái xe khi say xỉn. Một lần nữa. Làm thế cũng chẳng thay đổi được gì - Douglas Last chưa bao giờ làm được gì tốt đẹp.
Họ còn tìm thấy Capslock trước cả Last. Anh ta biết chính xác Lucas đang ở đâu.
Lucas ngồi trên giường, đang lật trang một cuốn sách rách nát về thơ haiku10* của Mỹ, thì Del liên hệ với anh.
chu Thich: 10* Haiku là thể thơ độc đáo và thịnh hành của Nhật Bản. Nó chỉ bao gồm 17 âm tiết trong 3 dòng thơ, co thể được xem là thể loại thơ ngắn nhất trên thế giới.
Del chẳng buồn vòng vo. “Trời ơi, Weather vừa gặp tai nạn giao thông. Cô ấy đang trên đường đến Regions. Bị thương nặng lắm. Tớ đang trên đường tới, nhưng tốt hơn cậu nên quay về đi.”
Tim đập như trống dồn, Lucas đứng bật dậy, quờ tay tìm quần. “Đã xảy ra chuyện gì? Ở đâu? Tệ đến mức nào? Del...”
“Cô ấy bị đâm trên đại lộ Mississippi River, cách nhà cậu hai khu phố. Tên tài xế bỏ chạy rồi, nhưng họ giữ lại xe tải của hắn. Tớ chỉ biết thế thôi. Sẽ gọi lại cho cậu...”
Sống lưng Lucas lạnh toát. Anh phải quay về đó.
Quầy lễ tân kết nối anh với dịch vụ cho thuê chuyến tại sân bay Dulles International. Anh cho họ biết số thẻ tín dụng, nêu đích danh tên Thượng nghị sĩ Smalls. Nhân viên điều hành nói rằng anh có thể rời đi ngay sau khi xác minh thẻ. Anh lại gọi cho lễ tân nhờ đặt taxi, thay quần áo, nhét vào ba lô bộ phụ kiện du lịch thiết yếu, tất cả điện thoại, máy tính và máy quay, kiểm tra nhanh khắp phòng để chắc chắn mình không quên thứ gì, rồi lao ra cửa. Tại quầy lễ tân, anh dặn nhân viên khách sạn giữ phòng cho anh, rằng anh sẽ quay lại nhưng không nói rõ khi nào, Bob hoặc Rae muốn dùng phòng thì cứ để họ vào.
Trong suốt chuyến đi dài bốn mươi phút tới sân bay Dulles, anh gọi cho Bob thuật lại chuyện đã xảy ra.
“Tôi không biết cụ thể tình trạng cô ấy thế nào, nhưng từ những gì nghe được thì cô ấy đã bị thương. Tôi sẽ phải vắng mặt một thời gian. Hai cậu cứ ở lại. Khi nào quay về, tôi sẽ thông báo sau... nếu tôi quay về.”
Tiếp theo anh gọi cho con gái Letty, tại Stanford. Anh kể cho con bé những gì nghe được từ Del, con bé đáp, “Con đang về đây. Sẽ gọi lại cho bố sau”.
Anh gọi cho Del, anh ta đáp, “Tớ đang ở Regions, chưa nói chuyện được với bác sĩ, tất cả đều đang chăm sóc cô ấy. Mà cô ấy còn sống nhé. Các nhân viên y tế đưa cô ấy tới nói rằng khi đến đây cô ấy đang hôn mê. Tớ tìm được một người bạn của vợ tớ, nhờ người đó để ý rồi.” Vợ của Del, làm y tá tại Regions, không có ca làm việc khi Weather được đưa tới. “Các vết thương trên đầu Weather đang chảy máu, nhưng họ cho rằng sọ cô ấy không bị tổn thương, đó là tin tốt. Tuy nhiên phổi cô ấy bị thủng, một cánh tay bị gãy. Họ sẽ tiến hành chụp cộng hưởng từ sau khi cô ấy ổn định. Hiện cô ấy chưa cần phải truyền máu, theo tớ cũng là một tin tốt nữa... Đến giờ tớ mới biết được vậy thôi.”
“Tớ đang trên đường ra sân bay,” Lucas nói. “Phía tên tài xế kia chúng ta có tin gì chưa?”
“Vẫn chưa biết thêm gì về hắn. Tớ đang gọi cho bạn bè ở St. Paul; tớ biết họ đã cử cảnh sát tuần tra tìm kiếm hắn ở các vùng lân cận. Họ bảo thằng cha này chạy vượt biển báo dừng tại đường Randolph và đâm ngang sườn xe của cô ấy. Đến giờ tớ chỉ biết có vậy thôi, nhưng tớ sẽ cố gắng hết sức cập nhật thông tin. Khi lên máy bay nhớ báo tớ biết giờ hạ cánh - tớ sẽ gặp cậu ở Humphrey.”
Letty gọi lại khi xe taxi của Lucas sắp đến Dulles. “Con đang trên chuyến bay đêm từ sân bay San Francisco lúc mười giờ, nối chuyến ở Denver. Đó là chuyến bay duy nhất con tìm được. Con sẽ thuê xe để đến Minneapolis. Hẹn gặp bố sáng sớm mai. Ôi, mẹ sao rồi hả bố?”
Lucas kể lại cho con bé thông tin Del cung cấp, sau đó xe đưa anh đến sân bay. Con bé đáp, “Bố nhớ bảo trọng nhé”.
Chiếc máy bay thương mại nhỏ có hai phi công, không có tiếp viên. Phi công nói, “Được biết rằng vợ ngài vừa gặp tai nạn; chúng tôi rất lấy làm tiếc. Chúng tôi sẽ đưa ngài tới đó nhanh hết sức có thể.”
Lucas gật đầu, thắt dây an toàn và máy bay cất cánh.
Anh đã xem nhiều phim có cảnh người ta gọi điện khi máy bay đang bay, nhưng anh không cầm nổi điện thoại lên nữa. Hai tiếng sau, máy bay hạ cánh tại sân bay Humphrey ở Minneapolis - St. Paul International. Del đang đợi anh.
“Cậu biết được thêm gì rồi?” Del hỏi, sau khi Lucas loạng choạng bước trên con đường trải nhựa.
“Chả biết gì ngoài những gì cậu đã kể - tớ không dám sờ vào điện thoại khi đang bay.”
“Cô ấy còn sống. Đã lấy lại được phần nào ý thức...” “Ý cậu là thế quái nào vậy?” Lucas gặng hỏi. “Phần nào?”
“Các bác sĩ nói rằng tình trạng não hiện giờ của cô ấy là bình thường đối với những ca chấn động. Một cánh tay của cô ấy bị gãy.
Phổi bị thủng khi cái gì đó... mình không biết nữa, có thể là xương sườn... đâm thủng nó, tuy nhiên hai lá phổi đã hoạt động trở lại rồi. Nhiều xương sườn của cô ấy bị gãy, có vết bầm tím rất nặng, nhưng hai cánh tay, hai cẳng chân, mười ngón tay, mười ngón chân đều cử động được. Cô ấy có thể qua được, nhưng sẽ phải chịu đau đớn trong vài tuần. Hoặc vài tháng.”
Lucas cảm thấy hòn đá tảng được nhấc khỏi hai vai mình. “Tớ phải gọi cho Letty,” anh nói. “Giờ này chắc con bé đến Denver rồi.”
“Tớ phải nói cho cậu biết về tên tài xế.”
“Họ tóm được hắn rồi à?”
“Gần như thế.”
“Mẹ kiếp, Del.”
“Hắn chết rồi. Hắn vừa ra khỏi thành phố Lino Lakes trong tình trạng say rượu lần thứ năm. Lần trước, hắn đã cố gắng băng qua dải phân cách và làm bị thương hai người,” Del nói. “Hắn mất một năm điều trị. Tớ đoán hắn chưa được điều trị triệt để vì hắn vừa mới ra viện được một tháng thôi.”
Lucas chẳng còn biết nói gì, ngoại trừ, “Cậu cũng có biết đếch gì đâu”.
Hai người đi đến vào bệnh viện Regions lúc hai giờ sáng. Weather đang nằm trong phòng hồi sức tích cực, nơi người thân đến thăm không được vào, tuy nhiên xét đến hoàn cảnh của Lucas và thực tế Weather cũng là bác sĩ, họ lấy ra hai cái ghế phía sau các tấm rèm ICU quanh giường cô.
Khi Lucas bước tới đằng sau tấm rèm, anh chỉ muốn dừng lại và khóc. Đôi mắt Weather tuy mở, nhưng gương mặt cô bầm tím khủng khiếp, sắc tím phủ kín toàn bộ bên má trái. Cổ cô bó trong một cái khung, băng bó bột quấn quanh cánh tay trái. Hai túi dịch đang treo trên giá cạnh giường, với các ống nhỏ chạy ngoằn nghèo luồn vào cánh tay cô; một cái ống khác thòi ra từ dưới đệm, thải nước tiểu vào một cái túi treo bên giường.
Bản thân Lucas có vài lần từng phải nằm trong khu này, và anh căm ghét cái mùi của nó, cái mùi mà anh có thể nhận ra ngay vào bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu: sự pha trộn của mùi đồng của máu, của thịt ôi, của nước tiểu, vài loại thuốc sát trùng, và thứ mà anh cho là i-ốt, thứ mùi kinh khủng anh vẫn còn nhớ được từ tuổi thơ đầy sóng gió của mình.
Anh ngồi đó, rướn người sang phía Weather, nắm lấy tay cô và lẩm bẩm, “Có anh đây rồi”. Anh không hề cảm thấy cô siết chặt bàn tay anh, nhưng đôi mắt cô cử động về phía anh. Cô nói, qua làn môi mỏng như tờ giấy, “Có phải em bị tai nạn không?”.
Một y tá đứng sau Lucas thì thầm, “Chị ấy cứ hỏi thế suốt”.
Lucas nói với Weather, “Ừ, nhưng em sẽ ổn thôi. Các bác sĩ nói em đang làm rất tốt”.
Weather nhắm mắt lại và dường như lại lịm đi. Lucas nắm chặt tay vợ. Vài phút sau, cô lại mở mắt, hoảng hốt quay sang anh rồi lại hỏi, “Có phải em bị tai nạn không?”.
Cô hỏi như thế thêm ba lần nữa. Sau lần thứ ba Lucas cầm tay cô bỏ vào trong chăn rồi bước ra ngoài rèm, nhắn một y tá đi ngang qua, “Tôi cần nói chuyện với bác sĩ của cô ấy”.
“Ông ấy đang ở đây, tôi sẽ đi gọi.”
Del vẫn đang đợi ngoài hành lang. Anh ta bước lên và hỏi Lucas, “Xảy ra chuyện gì thế?”.
“Tớ phải nói chuyện với bác sĩ.”
Hai phút sau ông bác sĩ xuất hiện, tay cầm theo chiếc iPad. Ông ta có dáng người cao, mảnh khảnh, đeo cặp mắt kính gọng thép trên cái mũi khoằm, mặc áo bờ-lu trắng, quần dài xám.
“Anh Davenport phải không?” Ông ta hỏi, nhìn sang Del rồi nói, “Anh Capslock, rất vui được gặp lại anh”.
“Cô ấy sẽ không sao chứ?” Lucas hỏi.
“Vâng. Gần như thế,” bác sĩ đáp, quay sang Lucas. “Các thương tích rõ ràng bên ngoài đã xử lý xong rồi. Vấn đề bỏ ngỏ bây giờ là chấn thương ở cổ, mà chúng tôi không thể đánh giá đầy đủ được cho đến khi có thể nói chuyện với cô ấy. Chấn thương ở đầu có vẻ là chấn động từ nhẹ đến nặng.”
“Cô ấy cứ liên tục hỏi có phải mình bị tai nạn không.”
“Đúng là có chuyện đó. Có thể cô ấy gặp phải hội chứng mất trí nhớ tạm thời nào đó, có thể nó sẽ mất đi hoặc không bao giờ khỏi. Cô ấy có thể mất đi ký ức vài phút trước vụ va chạm hoặc phần còn lại của ngày, hoặc cô ấy có thể mất đi chút ký ức sau đó lấy lại được. Hoặc có thể cô ấy chẳng mất đi chút ký ức nào cả.”
“Điều quan trọng là gì?”
“Điều quan trọng là cô ấy sẽ ổn. Cổ chính là vấn đề khiến tôi lo lắng nhất - nhưng cũng có thể chẳng có vấn đề gì hết. Chúng tôi thấy các cơ bắp hai bên cột sống bị sưng vài chỗ, tức là cô ấy sẽ phải chịu đau đớn. Còn những gì cụ thể hơn thì chúng tôi vẫn chưa rõ.”
“Khi nào thì bác sĩ biết rõ được?”
“Dự đoán chính xác nhất hả? Mai đi. Tôi hy vọng sau khi cô ấy ngủ vài giấc thật ngon, cô ấy sẽ nói chuyện được, và có thể làm vài xét nghiệm để có câu trả lời thỏa đáng.”
“Tôi có thể làm gì cho cô ấy không?” Lucas hỏi.
“Không nhiều đâu. Thứ cô ấy cần nhất là được nghỉ ngơi. Một chuyện thôi - và đây chính là điều khó khăn nhất đối với các bác sĩ - tâm trí của cô ấy cũng cần được nghỉ ngơi. Không được mang báo chí vào cho cô ấy đọc, cả máy tính bảng hoặc laptop cũng không được. Cô ấy sẽ còn phải nằm đây vài ngày, thậm chí chúng tôi còn không cho cô ấy xem ti vi. Não bộ của cô ấy cần được yên tĩnh. Với những người như cô ấy thì điều này rất khó. Cô ấy có thể cảm thấy rất buồn chán.”
“Buồn chán là tốt,” Lucas nói. “Chúng tôi có thể xử lý được.”
“Họ toàn nói vậy đấy,” bác sĩ nói, kèm theo một nụ cười. Ông ta quay sang Del. “Giờ anh thấy sao rồi?”
“Tôi trở lại làm việc rồi, nhưng vẫn còn đau,” Del đáp. “Không chạy nhanh được nữa.”
“Sẽ phải mất thời gian đấy,” bác sĩ đáp. “Vẫn rèn luyện thể dục đều chứ?”
“Khi nào tôi có thể...” Del lảng tránh ánh mắt của bác sĩ. “Hãy làm việc liên tục vào. Mỗi giờ. Chết tiệt, Capslock ạ...” “Rồi rồi, tôi biết rồi,” Del nói.
Bác sĩ quay sang Lucas. “Tôi tiếp nhận Capslock sau mấy chuyến phiêu lưu của anh ta dưới El Paso. Nói thật với anh, anh ta còn đau đớn hơn Weather nhiều. Nhưng nhìn anh ta bây giờ xem.”
Lucas: “Tôi có phải làm thế không?”
“Tôi biết là rất khó.”
Del quay ra xe trong khi Lucas vẫn ngồi sau tấm rèm cùng Weather. Del trao cho Lucas một túi mua sắm bằng nhựa. “Tớ đã đến Barnes & Noble trong khi chờ máy bay đến,” anh ta nói. “Mấy tờ tạp chí. Cậu nợ tớ bảy mươi bảy đô đấy.”
“Bác sĩ nói tớ không được cho cô ấy xem báo.”
“Dành cho cậu mà,” Del nói. “Dạo tớ nằm ở đây, bà xã gần như phát điên vì buồn chán. Trời ạ, cậu thử ngồi đó và nhìn trừng trừng nhau xem, rồi cứ thi thoảng, một dòng nước tiểu lại chảy vào túi. Tụt hết cả cảm xúc.”
“Cứ đọc báo đi,” bác sĩ nói.
Lucas nhận lấy túi đồ rồi bảo Del về nhà. “Tụi mình có phát điên cũng chẳng làm được gì.” Khi Del bước xa rồi, Lucas gọi với theo,“Này, cậu tuyệt lắm”.
Del vẫy tay, sau đó Lucas quay lại ngồi sau tấm rèm. Một giây sau Weather mở mắt rồi hỏi, “Có phải em bị tai nạn không?”.
Lucas đáp, “Đúng”. Cô lại nhắm mắt, anh chọn một tờ tạp chí Outside bắt đầu đọc từ trang cuối.
Cô lại hỏi, lại hỏi rồi lại hỏi - “Có phải em bị tai nạn không?” - và sau lần cuối cùng, Lucas nói, “Đúng,” và cô hỏi, “Có ai bị thương không? Em có đâm phải ai không?”.
Lucas buông rơi tờ báo. “Ôi trời ơi, em trở lại rồi. Đừng đi đâu nhé, anh sẽ gọi y tá.”
NÃo bộ Weather hoạt động bình thường trở lại. Cô hỏi anh hàng trăm câu hỏi, và cô vẫn tiếp tục hỏi khi Letty đẩy tấm rèm sang bên, nhìn thấy gương mặt bầm tím của Weather và buột miệng, “Lạy Chúa tôi”.
“Đúng những gì em mong được nghe từ một sinh viên đại học,” Weather nói. “Lạy Chúa tôi.”
Letty quay sang Lucas. “Trông mẹ tệ thật, nhưng mẹ vẫn nghiêm khắc với con thế này thì chưa tệ lắm đâu.”
Lucas nói, “Mẹ không khỏe đâu. Mẹ bị đau rất nhiều đấy, và sẽ còn khó chịu trong vài tuần”.
“Thế còn thằng khốn đã đâm mẹ thì sao ạ?” Letty hỏi. Con bé là thiếu nữ cao lêu nghêu, có mái tóc đen và đôi mắt đen tuyệt đẹp.
“Hắn chết rồi,” Lucas đáp. “Tự sát bằng súng. Hắn có cả một bảng dài tội danh lái xe khi say xỉn, lần trước vừa ra tù xong.”
“Tốt,” Letty nói. “Càng đỡ khó chịu cho con khi phải giết hắn.”
Weather nói, “Letty, cần phải cho con tham gia một khóa trị liệu nghiêm túc đấy”.
Lúc bảy giờ, Weather chìm vào giấc ngủ, y tá nói rằng cô ấy sẽ ngủ một lúc. “Chúng tôi gặp nhiều ca chấn động ở đây lắm. Chị ấy kiệt sức rồi, có khả năng chị ấy sẽ ngủ đến trưa hoặc muộn hơn. Tốt hơn hết là hai bố con cũng nên về ngủ đi.”
Cả hai đều kiên quyết muốn ở lại, nhưng nữ y tá rồi sau đó là bác sĩ đều xua họ về.
Hai cha con cùng quay lại vào buổi trưa, cho dù Weather phải đến hai giờ chiều mới tỉnh và đòi dùng laptop. “Em biết hết về những cơn chấn động và em không muốn xem lướt lướt. Em chỉ cần thông báo cho các bệnh nhân...”
“Có người lo hết mọi chuyện rồi,” Lucas nói. “Em không được sử dụng laptop cho đến khi bác sĩ cho phép.”
“Thế bây giờ em biết làm gì? Nằm yên đây cho đến khi thành kẻ ngớ ngẩn à?”
“Chính xác,” Letty đáp. “Vả lại, người ta sắp tống cổ bố con con ra khỏi đây rồi, để làm một đống xét nghiệm cho mẹ. Rồi mẹ sẽ bận đến giờ ăn tối.”
Hai ngày tiếp theo của Lucas là sự hòa trộn giữa căng thẳng và buồn chán. Xương sống của Weather có vẻ ổn, nhưng cô bị căng cơ ở vài nơi trên cổ, ngực và xương sườn và sẽ phải làm bạn với nẹp cổ một thời gian... “Một thời gian” mang ý nghĩa thật mơ hồ. Cô không thể ho hay cười mà không thấy đau đớn, cánh tay bị gãy nhức nhối nhưng cô nói mình có thể làm ngơ đi được.
“Cổ không thể cử động được khiến em phát điên. Mắt em đau nhức, phải nhìn xung quanh mà không được cử động đầu. Không thể đọc được gì mới là tồi tệ...”
Letty bắt đầu nói đến chuyện quay về California vì các lớp học sắp khai giảng trở lại, Weather nói rằng con bé có thể đi. Letty muốn được thấy Weather về nhà.
Lucas đưa Sam và Gabrielle đến thăm Weather mỗi buổi chiều. Cô bắt đầu chu trình ngủ muộn vào buổi sáng, ngủ trưa vào buổi chiều và thức cả đêm cùng anh. Cô quyết định sẽ không quay lại làm việc trong ít nhất sáu tuần, có khả năng là hai tháng.
Ngày thứ sáu kể từ vụ tai nạn, hai vợ chồng thức đêm nói chuyện đến tận hai giờ sáng. Lucas, con cú đêm, vẫn chưa hề nghỉ ngơi từ khi về nhà, dành thêm một tiếng nữa để đọc sách. Tám giờ sáng hôm sau, anh đang ngủ bình yên thì có tiếng gõ cửa. Letty gọi, “Bố ơi?”.
Anh vất vả ngồi dậy, “Gì đấy?”.
“Có bà này muốn gặp bố,” Letty nói.
“Cái gì cơ?”
“Có bà này đến muốn gặp bố. Con gặp bà ấy trong bếp. Tốt hơn bố nên xuống đi.” Giọng nói của Letty ngụ ý đây là chuyện quan trọng.
Lucas cảm thấy như vừa lĩnh phải nhát búa tạ vào đầu. “Phụ nữ à? Bà ta muốn gì?”
“Tốt hơn bố nên xuống đi,” Letty nhắc lại.
Con bé quay ra hành lang đi xuống nhà. Lucas ngồi dậy, tìm quần bò và áo thun để mặc vào. Anh chẳng buồn đi giày, theo Letty ra hành lang xuống nhà.
Người đàn bà đang chờ trong bếp trông như dân tị nạn từ Ukraina hồi một năm sau Thế chiến II. Bà ta lùn tịt, mái tóc xám có thể đã từng có thuở hoe vàng; có thể tầm bảy mươi tuổi; và béo phì. Bà ta đang mặc chiếc áo mưa rẻ tiền, cho dù ngày hôm nay trời nắng và ấm áp, một tay bà ta cầm chiếc túi xách nhựa. Để hoàn tất bức tranh, trên đầu bà ta quàng chiếc khăn trùm của phụ nữ Nga thời xưa. Từ người bà ta phảng phất mùa rau bắp cải và xúc xích, hoặc trông bà ta có vẻ sẽ toát ra thứ mùi ấy. Bà ta trông có vẻ kiệt sức.
Letty đứng cạnh bà ta. Lucas hỏi, “Tôi có thể giúp gì cho bà?”.
Bà ta xua xua tay, rồi nói, “Tôi là Mary Last. Thằng con tôi là Douglas Last, kẻ mà cảnh sát cho rằng đã lái xe gây tai nạn cho vợ anh. Nhưng thằng bé không làm thế”.
Lucas nhìn Letty, rồi nói, “Tôi không nghĩ là...”.
Letty: “Bố nghe bà ấy nói đã.”
Lại tông giọng ấy của con bé, Lucas quay sang Mary Last, rồi hỏi, “Tại sao anh ta lại không làm thế?”.
“Thằng Douglas nó uống nhiều lắm,” Mary Last nói. “Tôi đã cố gắng khuyên bảo nó. Nó hút thuốc ngay từ hồi học trung học. Ngày nào nó cũng ăn thịt băm với pho mát. Trứng và thịt lợn muối xông khói vào buổi sáng, thịt băm với pho mát hoặc pizza Ý thì ăn cả ngày. Cả bây giờ cũng vậy. Nó không bao giờ tập thể dục. Nó béo ị và mắc bệnh tim. Các bác sĩ bảo rằng nếu còn không thay đổi thì nó sẽ chết trong vòng một năm, có thể là hai. Nhưng nó không nghe. Đồ ăn chính là ma túy đối với nó. Nó là thằng nghiện ăn. Ôi con tôi, nó không thể chạy nổi ba mươi mét, thế nhưng cảnh sát lại nói rằng nó chạy nhanh đến nỗi không ai đuổi kịp và trốn thoát. Thằng bé không thể làm được thế. Không thể nào. Anh đi hỏi bác sĩ của nó mà xem.”
Letty sau này kể với Weather rằng Lucas có thể đã nói một từ trong số ngàn từ để đáp lại. Nhưng lúc đó anh cảm thấy thế giới xung quanh quay cuồng. Một chuyện tưởng chừng đơn giản và tồi tệ bỗng chốc hóa thành cực kỳ phức tạp và thậm chí còn tệ hơn.
Anh nhìn bà già trước mặt, rồi thốt lên, “Khốn kiếp thật”.