← Quay lại trang sách

Chương 16

Mười giờ là giờ hoàng đạo cho cuộc đột kích, dù cách gọi đó cũng không đúng lắm. Lúc mười giờ, các nhân viên đến muộn phải có mặt ở văn phòng, nhưng vẫn còn lâu mới đến giờ ăn trưa.

Rae đã hoàn thành xong báo cáo về lệnh khám xét nhà James Ritter từ tối hôm trước, Forte sẽ lập thành hồ sơ. Chẳng có gì nhiều để báo cáo, cho dù thẻ chìa khóa khách sạn được xem là bằng chứng trong vụ này.

Lucas, Bob và Rae bước ra ngoài trong ngày trời xanh quang đãng, ghé vào một nhà hàng nhỏ lúc chín giờ, bàn bạc xem sáng nay họ sẽ làm gì. Vài phút sau họ cho xe vào bãi đỗ tại trụ sở Heracles tại Virginia, trong một khu vực có tên là Crystal City. Máy bay của các hãng hàng không đang hạ cánh gần đó, Lucas nghĩ nơi này có thể rất gần sân bay quốc gia Reagan.

Heracles chỉ là một trong số gần nửa tá công ty thuê cái khối lập phương bằng kính màu xanh lục, cao mười lăm tầng tẻ ngắt này, với kết cấu bãi đỗ xe rất thuận tiện hệt như một tòa nhà văn phòng.

Bao quanh bãi đỗ xe là những bụi cây xanh ngút mắt, chẳng rõ tên gọi là gì, trông cũng tẻ ngắt như bản thân cái tòa nhà kia. Hai phần ba bãi đỗ đã chật kín. Một nhân viên bảo vệ béo ị mặc đồng phục xám xịt đang tuần tra quanh bãi đỗ, khi họ đánh xe vào khu vực dành cho khách đến thăm, anh ta bước lại gần và hỏi Lucas, “Các anh có hẹn trước không?”.

“Không, nhưng chúng tôi có việc ở đây,” Lucas đáp, giơ thẻ lên. “Chúng tôi muốn nói chuyện với một vài bên thuê nhà.”

“Không thành vấn đề, anh bạn,” tay bảo vệ nói. “Tôi chắc chắn chẳng ai ở đây ăn cắp ốp vành bánh xe của anh đâu, nếu anh có dùng.”

“Thế thì trông hộ mấy cái bánh xe nhé,” Rae nói.

“Tôi sẽ làm thế,” tay bảo vệ đáp.

Khi bước lên lối vào, Bob nói, “Sẽ nóng đây”.

“Ý cậu là cuộc nói chuyện với Heracles hay dạo một vòng ngoài kia?” Lucas hỏi.

“Ngoài kia kìa,” Bob nói, lấy mấy đầu ngón tay lau trán.

Quầy tiếp tân đối diện cửa ra vào, với một hàng rào sắt trải dài từ quầy đến các bức tường cả hai bên. Có thể đi xuyên qua hàng rào nhờ ba cánh cửa xoay ở bên trái. Nhân viên lễ tân mặc bộ váy màu xanh lá cây sáng màu, đội chiếc mũ nhỏ không vành hợp tông, ngồi sau quầy, trong khi một nhân viên bảo vệ, đeo súng bên hông, đứng giữa hai cánh cửa xoay.

Một lần nữa họ lại trình thẻ, ký tên, nhận từ nhân viên lễ tân những phù hiệu cho phép họ đi qua cửa xoay. Lucas nói với cô ta, “Không cần thông báo đâu”. Cô ta gật đầu nhưng vẻ mặt vẫn bối rối, vì thông báo là bổn phận của cô ta, anh nói rõ thêm: “Đừng thông báo chúng tôi đến”.

Tay bảo vệ hỏi, “Các anh đến đây bắt ai à?”.

Lucas đáp, “Không biết được”.

Công ty Heracles nằm trên tầng hai. Lucas và Rae đi thang máy lên, vì cửa chống cháy trên cầu thang chỉ mở chiều ra và đã bị khóa. Bob đợi thang máy tiếp theo vì còn phải trông chừng cửa ra vào, bảo vệ và lễ tân. Lucas luôn luôn thích xuất hiện mà không báo trước, anh muốn thăm dò phản ứng bất ngờ của người mình sắp thẩm vấn. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cuộc khám xét căn hộ của Ritter có thể được xem như lời cảnh báo.

Cửa vào văn phòng Heracles là cửa hai cánh bằng kính đối diện thang máy. Lucas chẳng thấy thêm bất kỳ cánh cửa hay tấm biển chào khách nào khác, dọc tiền sảnh theo cả hai hướng dẫn đến cuối tòa nhà. Rõ ràng Heracles đã thầu nguyên tầng này, anh nghĩ. Một phụ nữ trẻ ngồi tại bàn làm việc đắt tiền đối diện cửa ra vào; mỗi bên hành lang xếp hai chiếc ghế màu da cam sẫm dành cho khách, đang không có ai ngồi. Lucas đưa tay kéo cửa, nó không nhúc nhích.

Cô ta nói vào một thứ nằm trên bàn có lẽ là micro: “Tôi có thể giúp gì các anh?”.

Mấy cái loa gắn trên hai bức tường hai bên cửa. Lucas đáp, “Cảnh sát Tư pháp Mỹ đây. Làm ơn mở cửa ra,” rồi giơ phù hiệu lên. Cô ta ngần ngừ, Lucas nhắc lại, “Làm ơn mở cửa ra”.

Cô ta vươn tay ấn một nút màu đen trên bàn làm việc, cửa bật mở với một tiếng cạch nhẹ. Lucas kéo cửa ra, bước vào, theo sau là Rae, rồi nói, “Chúng tôi muốn nói chuyện với ngài George Claxson, ngài John McCoy và ngài Kerry Moore”.

Cô nàng lễ tân sợ hãi. “Tôi có thể nói cho họ biết chuyện này là sao không?”

Lucas đáp, “Không cần. Tôi sẽ nói cho họ biết. Chỉ cần báo là chúng tôi đã tới”.

“Tên anh là...”

“Cảnh sát Tư pháp Lucas Davenport và cảnh sát Tư pháp Rae Givens. Cảnh sát Tư pháp Bob Matees sẽ tới trong một phút nữa.”

Cô ta gật đầu, nhấc điện thoại lên, ấn một nút rồi nói bằng giọng gấp gáp, “Có ba cảnh sát Mỹ ở đây muốn nói chuyện với các ngài Claxson, McCoy và Kerry Moore...” vài giây sau cô ta nói tiếp, “Họ sẽ không nói...”.

Bob bước ra khỏi thang máy, cô ta mở cửa cho cậu ta vào. Bob nói, “An ninh xịn phết nhở”.

Cô ta đáp, giọng run run, “Chúng tôi làm nhiều hợp đồng quốc phòng mà”.

Hành lang tiếp tân có hai cửa ra vào ở phía sau, chia đôi hai bên bàn tiếp tân. Cửa bên trái bật mở, một phụ nữ trung niên mặc váy xám nói, “Các anh cảnh sát... các anh muốn gặp ngài Claxson đúng không? Làm ơn đi theo tôi”.

Họ đi theo bà ta bước vào một nơi có vẻ là văn phòng bảo hiểm, nhưng chẳng đông nhân viên cho lắm: một dãy khoảng năm mươi gian làm việc nhỏ trong một căn phòng to bằng sân bóng rổ. Trong mỗi gian làm việc đặt một máy tính, gần một phần ba máy tính trong số này đang được sử dụng. Có hai người ngước mắt nhìn lên khi người đàn bà kia dẫn Lucas, Bob và Rae đi qua, nhưng hầu hết bọn họ đều không mảy may chú ý.

Đang bước đi, người đàn bà quay nửa người lại rồi nói, “Tôi là trợ lý riêng của ngài Claxson. Hôm nay ngài McCoy không đi làm; ông ấy đang ở Camp Peary. Ngài Moore đang làm việc ở chỗ khác tại đây - có thể là phòng Kế hoạch - tôi sẽ đi tìm ngài ấy. Ngài Claxson đang đợi trong văn phòng”.

Lễ tân có thể ngạc nhiên khi thấy họ, nhưng người phụ nữ này thì không, Lucas nghĩ. Cuộc viếng thăm của họ đã mất tính bất ngờ.

Văn phòng của Claxson khá lớn có thể nhìn ra sân bay. Phòng ngoài có ba bàn làm việc dành cho thư ký đặt các máy tính, hai máy trong số này do các phụ nữ có tuổi sử dụng, họ tò mò nhìn các cảnh sát nhưng không nói gì. Bàn thứ ba, cỡ lớn hơn, có khả năng thuộc về trợ lý riêng của Claxson, người đang hộ tống bọn họ.

Phòng trong cùng trải thảm dày màu xanh khá rộng, các bức tường được trang trí bằng các tấm bảng đồng, các bức ảnh, vài bức tranh thiên nhiên hoang dã, cùng hai cái đầu hươu gắn vào tường. Một bàn làm việc bằng gỗ hồ đào rộng nằm chéo góc.

Đích thân Claxson ngồi trước màn hình máy tính trên bàn làm việc. Lão ta ngước mắt lên khi họ bước vào, ra hiệu mời họ ngồi xuống mấy cái ghế xếp theo hình bán nguyệt đối diện bàn làm việc. Có hai khẩu súng ngắn nằm trên bàn, một khẩu là mẫu 1911.45, khẩu kia là loại 9mm bán tự động, nằm giữa là con dao chiến đấu Ka-Bar của lính thủy đánh bộ dài hơn ba mươi centimét. Trên chuôi dao bằng da bóng khắc hai chữ cái “GC”.

Claxson đúng là tay đánh máy mười ngón thứ thiệt, gõ phím rào rào một đoạn văn bản trong khi Lucas, Bob và Rae ngồi xuống ghế. Lão ta kiểm tra màn hình, chạm vào nó bằng đầu ngón trỏ, gõ hai phím và đoạn văn bản biến mất. Lão ta quay người lại, hai bàn tay đan vào nhau trên bàn, rồi nói, “Tôi có thể giúp gì cho các vị cảnh sát đây?”.

Trông Claxson giống một diễn viên mà Lucas từng xem trong một số bộ phim: mảnh khảnh, đầu hói với những vết tàn nhang cỡ bằng đồng 25 xu, nhưng lại có gương mặt dễ nhìn chứ không thô cứng. Lão ta đeo cặp kính không gọng, mặc bộ complet xám, sơ mi trắng và chiếc cà vạt xanh nhạt được trang trí bằng những ngôi sao.

Lucas: “Có phải hai tuần trước ngài bay máy bay riêng đến Omaha, cùng James Ritter, John McCoy và Kerry Moore không?”

Claxson giơ hai tay lên. “Có thể bây giờ tôi nên nói rõ mấy quy tắc. Tôi nhận thức được rằng, chiều hôm qua, các anh đã theo đõi một trong các nhân viên của chúng tôi, Jim Ritter, với lời buộc tội lố bịch nào đó rằng cậu ta có dính líu đến một âm mưu ám sát Thượng nghị sĩ Porter Smalls. Tôi đã nói chuyện với luật sư của công ty chúng tôi. Chúng tôi quan tâm đến đội ngũ nhân sự của mình, và anh ta sẽ đại diện cho Jim nếu các anh còn bất kỳ câu hỏi nào khác. Luật sư của chúng tôi cũng khuyên tôi đơn giản là không trả lời bất kỳ câu hỏi nào có thể... hình thành các thuyết âm mưu của các anh. Đúng, tôi có bay đến Omaha. Tôi đi công cán đến đấy trong khoảng một tuần gì đấy. Tôi bay bằng máy bay riêng, chẳng có ai bay cùng tôi hết. Tôi sẽ không tiết lộ tính chất công việc vì đó là chuyện riêng tư có khả năng làm lộ bí mật quân sự. Thế nên tôi không tin chúng ta còn chuyện gì để nói nữa.”

“Chúng tôi hiểu rằng John McCoy không có mặt trong tòa nhà này, nhưng Kerry Moore thì có thể. Chúng tôi cần nói chuyện với ngài Moore,” Lucas nói.

“Cậu ta có ở đây, các anh có thể nói chuyện với cậu ta, nhưng cậu ta cũng nhận được lời khuyên từ luật sư đại diện cho tôi. Cậu ta sẽ chẳng nói gì đâu,” Claxson đáp. Ông ta đưa mắt ra cửa, rồi nói, “Kerry sẽ đến đây bây giờ”.

Kerry Moore, có khả năng mới ba mươi nhăm tuổi, cơ bắp lực lưỡng với mái tóc cắt ngắn, mặc kiểu đồng phục bán quân sự được ưa chuộng tại Washington: quần dài túi hộp màu nâu vàng nhạt, đi ủng nhạt màu và áo thun chui đầu dài tay màu sáng. Anh ta gật đầu với Claxson rồi nói, “Ngài cho gọi tôi?”.

Claxson chỉ tay vào họ. “Các cảnh sát Jim kể với chúng ta đây.”

Moore gật đầu chào rồi nói, “Rick Brown bảo tôi rằng nói chuyện về bất kỳ điều gì cũng có thể gây rắc rối, nên tôi nghĩ mình không muốn nói chuyện với các anh. Trừ phi có mặt luật sư”.

“Rick là luật sư của chúng tôi,” Claxson nói với Lucas. Quay sang Moore, Rae bắt đầu, “Anh không phải lo gì hết...”.

“Cưng ơi, em phải biết đó là chuyện ngớ ngẩn,” Moore đáp. “Mấy người bọn em toàn đi săn thú kiểu này rồi cuối cùng tung hết lên CNN, nơi người ta săm soi từng từ rồi móc ra từng ý nghĩa một. Điều tiếp theo em biết là em bị quàng một cái thòng lọng vào cổ, bị máy quay truy đuổi khắp đường phố. Nếu em muốn anh nói, chúng ta phải mời luật sư vào đây.”

“Vậy là anh không sẵn sàng nói chuyện,” Bob nói.

Moore cân nhắc rồi đáp, “Không hẳn là không sẵn sàng, nhưng anh phải biết Rick Brown. Ông ta sẽ lập tức nói không ngay khi anh vừa mở miệng”.

Lucas nhìn hai người bọn họ rồi đáp, “Được thôi. Vậy là ngõ cụt. Nhưng tôi nói cho hai người biết, chuyện này chưa kết thúc đâu. Các người đã âm mưu giết một Thượng nghị sĩ Mỹ, và đã giết chết hai người...”.

“Không! Không! Đừng nói vậy!” Claxson nói, đấm mạnh xuống bàn. “Tôi tuyệt đối phủ nhận bất kỳ ý kiến nào như thế. Anh mà nói một câu nào như thế cho mọi người, chúng tôi sẽ kiện tất cả các người. Chúng tôi kiếm sống bằng danh tiếng, và nếu các anh sỉ nhục chúng tôi theo kiểu đó... Chúng tôi chẳng liên quan đến bất kỳ điều gì hết.”

Lucas nói, “Để rồi xem. Trong thời gian đó, tôi cho hai người biết rằng chúng tôi chưa hề đưa ra bất kỳ ‘lời buộc tội lố bịch’ nào chống lại Ritter - đó chỉ là những gì hai người tự nói. Sẵn cho biết luôn là chúng tôi có bằng chứng vững chắc rằng hắn có dính líu đến âm mưu ám sát. Chúng tôi tin mình biết lý do tại sao; chúng tôi cũng biết những kẻ khác có liên quan. Chúng tôi có bằng chứng ở phòng thí nghiệm đang chờ kết quả, rồi chúng tôi sẽ quay lại kèm lệnh bắt”.

“Cút mẹ mày đi,” Claxson nói.

Lucas, Rae và Bob đứng dậy ra về. Bob hất đầu về phía các khẩu súng lục trên bàn, rồi hỏi Claxson, “Mấy khẩu này nạp đạn chưa đấy?”.

Claxson nhìn cậu ta trừng trừng. “Tất nhiên là rồi. Nếu không chúng đâu phải là vũ khí, mà chỉ là cái chặn giấy thôi.”

Họ đi thang máy xuống nhà. Rae nói với Lucas, “Nhục chưa. Chỉ còn thiếu nước lót lá tống cổ bọn mình ra cửa. Nhưng anh có vẻ vẫn vui nhỉ.”

“Có vui đâu. Tất cả những gì chúng ta có là bằng chứng chống lại Ritter, nhưng hắn lại không phải là kẻ chúng ta cần.” Lucas đáp. “Chúng ta muốn tiến lên nữa từ đó, và giờ chúng ta bỏ một con chồn hôi vào giữa bầy gà. Bằng cách này hay cách khác, chúng sẽ có phản ứng. À... chúng ta cần ngó qua hộ chiếu của chúng nữa, phòng trường hợp một trong số chúng muốn bỏ trốn.”

“Forte có thể lo được chuyện đó,” Bob nói.

“Phải đợi kết quả phòng thí nghiệm à? Thế lúc này chúng ta làm gì bây giờ?” Rae hỏi, khi họ ra khỏi thang máy. “Chơi tú à?”

Lucas đáp, “Bob có cái máy quay chết tiệt, còn cô thì thích nghệ thuật, thế nên Bob có thể đi chụp ảnh và cô có thể đến bảo tàng quốc gia chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nhớ mang điện thoại di động theo”.

“Khi anh đi vắng chúng tôi làm thế suốt rồi,” Rae nói. “Thế anh làm gì?”

“Tôi có buổi mặc thử đồ ở tiệm may,” Lucas đáp.

Cả Bob và Rae cùng dừng bước ngó anh, Rae nói, “Chắc anh đang đùa phải không?”.

“Thôi nào. Chúng ta cũng phải giải lao chứ, cũng hợp lý mà,” Lucas nói.

Bob: “Nếu chết dưới tay một trong mấy thằng khốn kia, anh sẽ được chôn cùng bộ đồ mới nhỉ.”

“Chuẩn không cần chỉnh,” Lucas nói.

Họ quay về khách sạn. Rae lái chiếc Tahoe đi thuê tiến thẳng đến bảo tàng quốc gia. Bob lấy máy ảnh ra nhưng hỏi Lucas có thể bám càng tới hiệu may được không, điều này với anh cũng tốt. Đỗ xe quanh cửa hàng vốn là điều hiếm gặp, nên họ bắt taxi.

Tại tiệm may Figueroa & Prince, đón chào Lucas là Ted. Ông ta mỉm cười, bắt tay anh rồi nói, “Lucas, thật vui được gặp lại anh. Chúng tôi mới cắt sơ... Đang có thảo luận rất thú vị về cách làm sao nhét vừa khẩu súng ngắn...”.

Lucas giới thiệu Bob. Cậu ta ngồi xuống một cái ghế xem thử đồ, vài phút sau, cậu ta đứng dậy rảo bước quanh cửa hàng, săm soi mấy bộ complet được trưng bày, các giá treo phụ kiện rồi cuối cùng là đống vải. Lucas đang thử bộ complet mùa đông bằng len thì thấy Bob nói chuyện với một nhân viên bán hàng khác.

Thử đồ xong xuôi, Lucas thấy Bob đã quàng lên người bộ đồ có chất liệu như bánh kếp màu xanh nhạt, đang ngắm nghía mình trong gương. Ted bước đến bên cạnh và nói, “Hừm, tôi nghĩ chúng ta có thể làm tốt hơn”.

“Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Bob hỏi Lucas.

“Tức là màu sắc này khiến cậu trông như một thằng ngu ấy,” Lucas đáp. “Cậu phải thêu lên đằng sau lưng dòng chữ Burlington Northern mới được.”

“Ý tôi có thể hoàn toàn khác,” Ted nói. Quay sang Bob: “Chúng ta nên dành chút thời gian thảo luận về các mong muốn của cậu”.

“Mong muốn của tôi là một bộ complet thật vừa vặn để diện ở miền nam Louisiana, vì tôi chưa bao giờ được mặc một bộ như thế.”

Ted cân nhắc một lúc, rồi nói với nhân viên bán hàng kia, “Không phải là một bộ đồ - tôi nghĩ là nên có hai bộ...”.

Họ mất ba tiếng trong cửa hàng. Khi quay ra ngoài, Lucas nhìn con phố trước khi đóng cửa lại sau lưng, rồi nói, “Đúng là một cách nhanh gọn để thổi bay sáu nghìn đô. Tôi tự hào về cậu”.

Bob nhún vai. “Tôi có công việc ổn định, tôi không mê xe cộ, không cờ bạc, không gái gú, không nghiện hút... Trong tay tôi vẫn còn vài đồng nữa, và tôi chưa bao giờ có một bộ đồ may tử tế, thế thì sao lại không chứ?”

Lucas vỗ vào lưng cậu ta. “Như tôi đã nói, tôi tự hào về cậu - nghiêm túc đấy. Anh bạn thân mến của tôi, cậu đang sợ chết khiếp kìa. Cậu cần phải ngẩng cao đầu lên, ngay cả ở New Orleans.”

“Tôi thích cái đoạn làm việc với súng ống... Tôi chẳng bao giờ biết đến mấy cái đấy. Nhưng tôi vẫn phải nói tôi không lãng phí bốn nghìn để sắm đôi giày brogue13* đâu nhá.”

chu Thich: 13* Giày đế xuồng đặc trưng bởi phần mũi bằng da chắc chắn, được trang trí bằng nhiều lỗ và răng cưa.

Lucas nói, “Cậu đang đứng trên con dốc trơn trượt đấy, Bob. Tôi dự đoán cậu sẽ chết mê mấy đôi giày brogue, nhưng phải sau... ba năm nữa kìa. Một khi đã dấn bước vào sẽ không quay đầu lại được đâu”.

“Tôi từng nghe ai đó nói thế về tình dục đồng giới,” Bob nói. “Gần giống vậy đó,” Lucas đáp. “Rất giống.”