← Quay lại trang sách

Chương 17

Parrish đến nhà Grant. Khi Grant ra mở cửa - bà quản gia đã được cho về nhà - gã hỏi, “Ai đang ở đây thế?”.

“George,” Grant đáp. “Bọn tôi đang ở trong SCIF.”

Parrish theo mụ đi ngang nhà, qua cánh cửa trượt nặng nề xuống tầng hầm, nó câm lặng đóng lại sau lưng họ; rồi cả hai xuống cầu thang. Claxson đang ngả ngốn trên sô pha. Lão ta đeo cặp kính phi công, mặc bộ complet vải sọc màu xanh thẳng thớm; chiếc cặp da mòn xơ khá hợp thời nằm dưới chân.

Parrish ngồi xuống ghế rồi hỏi, “Có chuyện gì thế?”.

Grant nhìn Claxson, nói, “Thiết bị dò tìm cho thấy anh mang theo đồ kim loại lớn nhưng không phải đồ điện tử, di động không tính nhé”.

“Cậu ta có súng,” Claxson nói.

“Lạy Chúa,” Parrish nói. Rồi, “Sao chứ?”.

Grant mở ngăn kéo bàn làm việc, lấy ra khẩu 9 li, đặt lên bàn. “Rất vui được biết điều đó.”

Parrish lắc đầu. “Tôi sẽ không bắn ai hết... Tôi nghĩ các người sẽ quay phim hoặc ghi âm; tôi hy vọng các người sẽ để nó ở định dạng dễ xóa.”

“Đúng vậy,” Grant đáp. “Tất nhiên rồi.”

Parrish: “Được rồi. Chuyện gì thế?”

“Ritter, đó là chuyện gì đấy,” Claxson đáp. “Có vẻ như Cảnh sát Tư pháp thu được quá đủ bằng chứng chứng minh hắn đã ngồi trong chiếc xe tải đâm trúng Smalls.”

“Và giết chết Whitehead,” Grant nói thêm. “Như thể tôi đang bị mắc kẹt trong rạp xiếc vậy. Tất cả nghe có vẻ hay lắm, cho đến khi những thằng hề xuất hiện.”

“Làm sao ông biết chuyện này?” Parrish hỏi. “Rằng bên Cảnh sát Tư pháp đã...”

“Tôi có bạn trong DOJ14*,” Claxson đáp.

chu Thich: 14* Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.

“Vậy chúng ta làm gì bây giờ? Đưa Ritter rời khỏi đây à?” Parrish hỏi.

Cả Grant lẫn Claxson đều nhìn gã không nói câu nào. Cuối cùng Parrish lên tiếng, “Các người đang nghĩ đến giải pháp... lâu dài hơn à?”.

“Không chỉ thế,” Claxson đáp, “chúng tôi đang nghĩ rằng một trong ba chúng ta phải làm việc đó. Thượng nghị sĩ Grant và tôi đã bỏ phiếu rồi, cậu thắng”.

“Chờ đã!” Parrish rít lên. “Tôi chưa từng làm thế.”

“Phải, nhưng cậu làm được. Có thể cậu chưa từng có cơ hội,” Claxson nói. “Tôi từng thấy cậu ở trường bắn. Có vấn đề gì không?”

“Chỉ là... tôi chưa làm thế bao giờ.”

“Tất cả chúng ta ở đây cùng gặp phải rắc rối nghiêm trọng,” Claxson nói, đứng dậy, vươn người sang phía Parrish. “Jim là người tốt nhưng hắn sắp phải lĩnh cái án chung thân nếu bọn cớm lần ra. Và chúng đã ở rất gần. Chúng muốn hắn, nhưng chúng muốn tóm chúng ta nhiều hơn đấy. Nếu chúng khuất phục được hắn, đạt được thỏa thuận nào đó với hắn, cả lũ xem như xong. Hắn phải biến đi. Thượng nghị sĩ Grant cần phải xuất hiện công khai trong khi hắn phải biến đi, và tôi cũng thế. Tất cả tùy thuộc ở cậu.”

“Mẹ kiếp, không tin nổi,” Parrish nói. “Hẳn phải có cách nào khác chứ.”

Grant nói, “Không còn cách nào khác nữa, cả với George hay với tôi. Mà nếu cậu bị bắt thì tình hình quá tệ. Claxson và tôi sẽ nói rằng cậu là thằng lừa đảo, rằng chúng tôi cóc biết cậu định làm cái gì. Nếu cậu không bị bắt, chúng ta xem như giải quyết xong một rắc rối hiện hữu. Một rắc rối có thể giết chết tất cả chúng ta”.

“Nhưng mà...”

“Không nhưng nhị gì hết. Đã quyết rồi,” Claxson nói. “Phải tiến hành ngay. Cố gắng đừng để bị tóm. Bằng không, ngay cả cậu chúng tôi cũng không cứu nổi đâu.”

Parrish tranh cãi, nhưng Grant và Claxson vẫn kiên quyết: đây là việc phải làm. Gã cảm thấy mồ hôi vã ra như tắm.

Gã chưa bao giờ phải làm “phận tay chân,” gã từng làm hậu cần, vận chuyển quân nhu ngay cả khi làm việc cho CIA. Nếu người ta cần một nghìn khẩu M4 đến Iraq vào ngày thứ Hai, gã sẽ làm ngay, cho dù có thể bị rơi rớt một vài thùng trên đường vận chuyển.

Nhưng gã quen biết rất nhiều tay chân thực sự, đã cung cấp rất nhiều chuyến hàng quân nhu khẩn cấp cho các đơn vị đặc nhiệm. Cả tá tay chân cũ từng lảng vảng quanh Heracles, đến rồi đi hầu như chẳng nói năng gì. Gã thích ý nghĩ rằng mình có thể la cà với chúng.

Claxson đã trông thấy gã tại trường bắn: Parrish thích bắn súng vả bắn rất giỏi. Gã thích toàn bộ nghi thức xử lý vũ khí, thích lau súng cho sạch, thích cái mùi đặc trưng của loại nước rửa súng Hoppe, thích cái mùi cay sè của bàn chải lau súng bằng đồng.

Gã rời khỏi SCIF vừa thấy khiếp sợ vừa phấn khích. Việc này phải làm cho xong; và giờ gã sẽ tìm hiểu con người thật của mình.

Còn một chuyện khiến gã thận trọng: nếu họ thực sự muốn giải quyết rắc rối, gã có thể trở thành mục tiêu tiếp theo. Một chuyện đáng lo ngại.

Gã gọi cho Ritter. “Có thể chúng ta gặp rắc rối tại St. Paul. Ta cần nói chuyện.”

“Ở đâu?”

“Nhà tao.”

Khi mua nhà ở Georgetown, Parrish đã chọn căn nhà tốt nhất mình có thể kiếm được, ấy là căn nhà phố từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trông ổn về kết cấu nhưng bên trong thì đúng là một mớ hỗn độn. Gã phải theo học các khóa dạy sửa chữa nâng cấp nhà cửa tại một trường cao đẳng cộng đồng ba năm trước khi xắn tay áo nâng cấp căn nhà đâu vào đấy.

Kế hoạch khiến gã tự hào nhất có liên quan đến một cái tủ. Nó nằm trong phòng ngủ, vốn được gã cải tạo thành phòng làm việc. Gã lột bỏ toàn bộ ván khuôn bao quanh cánh cửa ban đầu, thay bằng tấm ván lõi kim loại nặng chịch, gắn chặt vào tường. Gã sơn phết tấm ván này tông xoẹt tông với tường, gắn kèm tủ sách làm mặt tiền.

Cánh cửa mới này có một ổ khóa, cách mặt sàn xấp xỉ hai mét, với một chốt khóa nặng nề bảo đảm tủ sách sẽ không suy suyển, bất chấp kẻ ngoài kia có đẩy hay kéo mạnh cỡ nào. Bởi ổ khóa nằm ngay phía trên một trong các giá tủ sách, không ai có thể trông thấy nó trừ phi người đó đứng trên ghế hay là vận động viên bóng rổ NBA. Một khi mở khóa, tủ sách sẽ tránh sang bên làm lộ ra cái tủ khác.

Một cái tủ chứa đầy hàng nóng. Parrish tự nhận thấy bản thân là kẻ chuẩn bị tốt, một kẻ có khả năng sống sót. Gã thích cái ý tưởng có căn phòng ẩn náu riêng trong nhà.

Gã có hai khẩu súng trường bắn phát một dùng trong chiến đấu, một khẩu súng trường màu đen trong tủ, cùng một tá súng lục, bao gồm hai khẩu lắp ống giảm thanh. Gã còn sở hữu cả một ngăn kéo chứa toàn dao găm, một ngăn kéo đầy đạn dược, hai cung tên trợ lực cùng một trăm mũi tên bằng sợi carbon, áo giáp bảo vệ cơ thể, mũ sắt phong cách lực lượng DELTA, hai cặp kính hồng ngoại nhìn trong đêm, hai ba lô chiến thuật, ba loại đồng phục ngụy trang khác nhau, rất nhiều ba lô đồ nghề, một mặt nạ chống khí gas, thậm chí cả chiếc mũ cao bồi bằng rơm. Phần nhiều trong số này - trừ chiếc mũ cao bồi - là do gã ăn cắp trong thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự ở Trung Đông. Vì có tham gia công tác hậu cần, gã không gặp vấn đề gì khi mang chúng quay về Mỹ.

Không thứ nào trong đống vũ khí này được đăng ký tại Washington, thế nên việc sở hữu chúng là trọng tội; dẫu vậy gã không lo lắng quá nhiều, vì súng ống bán đầy rẫy ở hạt này. Mặc dù thế, nếu bọn cớm muốn tóm gã vì chuyện khác và lục tung căn nhà này, việc sở hữu súng ống có thể khiến gã mọt gông.

Gã chọn một trong các khẩu súng lục giảm thanh, Kimber cỡ đạn 45, khẩu gã ưa dùng. Gã sẵn sàng rồi.

Nhưng rất căng thẳng.

Ngày xưa ở Iraq, Parrish từng đi hộ tống ngoài Baghdad đến căn cứ không quân Balad về phía bắc. Một giờ đồng hồ trôi qua, đoàn xe đang băng qua một thôn nhỏ, một xe tải cách xe gã ba xe trúng đạn pháo - là thiết bị nổ tự tạo. Chỉ có một trạm gác ở gần đó - tòa nhà hai tầng xây bằng gạch bùn, nằm khuất trong bóng râm của đám cây cọ - hai tên tay chân thực thụ chạy về phía đó, trong khi hai tên còn lại núp dưới những ô cửa sổ chìa ra.

Một lúc sau, một tràng tiếng súng vang lên từ phía sau tòa nhà, khi hai tên tay chân chặn đứng một kẻ đang chạy trốn. Xuống xe tải, Parrish có thể thấy rằng không còn nhiều việc để làm nữa. Tất cả mọi người cùng xuống xe, một y tá đang lo chăm sóc người bị thương phía trước. Gã trông thấy hai tên kia vòng ra sau tòa nhà. Gã đi theo hướng đó, nơi gã thấy chúng đang đứng quanh một kẻ đã bị hạ.

Parrish khựng lại, bước đến gần nhìn người đàn ông đang chảy máu từ vô số vết thương trên bụng và một bên chân. Gã hỏi, “Hắn định bỏ trốn à?”.

Một trong hai tên tay chân đáp, “Tao không nghĩ vậy”. Tên thứ hai hỏi, “Mày từng giết ai chưa Jack?”.

Parrish đáp, “Chưa”.

Tên này trao cho Parrish khẩu M4 của mình. “Này. Làm đi.”

Parrish cầm lấy khẩu súng, nhìn kẻ bị thương đang nằm dưới đất. Hắn đang nhìn lại gã, người hắn đung đưa tới lui, hai chân co lên đến tận ngực.

Parrish hỏi, “Có phải thằng vừa nãy ném đạn pháo không?”.

“Có thể,” tên tay chân đáp. “Hắn đã cố gắng vứt di động đi, ném ra đằng kia kìa.” Hắn hất đầu về phía bụi cây cọ cao ngang eo lưng. “Bọn tao đã tìm thấy nó.”

Thằng thứ nhất giơ lên chiếc điện thoại rẻ tiền. “Chả có lý do gì phải làm thế, trừ phi thằng này dùng nó để kích nổ quả bom.”

Parrish nói, “Được rồi”. Gã bước lùi lại, chĩa khẩu súng trường về phía người đàn ông bị thương. Anh ta nói, “Không,” và khi Parrish tập trung vào điểm hồng tâm, tên thừa hành giật lại khẩu súng trên tay gã.

“Lạy Chúa, Jack, bọn tao đùa thôi mà. Chúa ơi.”

Các nhân viên y tế chăm sóc tất cả những người bị thương trong đoàn hộ tống, nhưng lúc họ đến nơi người đàn ông kia đã chết. Cũng xem như hắn bớt đau đớn, Parrish nghĩ, khi chiếc trực thăng y tế Black Hawks khuấy tung đám bụi mù quanh khu vực đánh bom và thẳng tiến đến bệnh viện tại Balad.

Thực tế là chẳng có cái quái gì gợi tình trong hoàn cảnh này, nhưng Parrish lại cương cứng khi nghĩ đến nó. Giá mà gã có cơ hội để bóp cò.

Parrish dặn Ritter đỗ xe cách hai khu phố rồi đi bộ vào, trên đường đi nhớ để ý xem có bị theo dõi không. “Luôn có bãi đỗ xe đằng sau quán cà phê, mày có thể đi vào rồi đi ra mà không bị ai thấy.”

“Tại sao lại đến nhà đại ca?”

“Vì toàn bộ căn nhà này do tao thiết kế nên nó an toàn. Chúng ta cần nói chuyện mà không để ai nghe thấy. Với tất cả đống hổ lốn bốc mùi mà chúng mày vãi ra tại Heracles, tao sẽ ngạc nhiên lắm nếu không có cái máy nghe lén nào giấu trong ghế văn phòng.”

“Gặp đại ca lúc chín giờ,” Ritter nói.

Ritter là một gã lực lưỡng có chiều cao trung bình, đôi mắt đen, mái tóc đen cắt ngắn và nước da vùng Địa Trung Hải. Tại Somalia, ở khoảng cách gần và quàng khăn rằn, hắn có thể bị nhầm là dân bản xứ, và quả thực thế. Parrish được biết rằng Ritter và em trai song sinh của hắn từng đứng nhất nhì giải vô địch việt dã trung học toàn bang Nebraska.

Ritter bỏ lại xe trong bãi đỗ phía sau quán cà phê Jitterbug; Parrish nói đúng, ở đó rất tối. Nếu hắn có định cướp của ai đó, hắn sẽ chọn nơi này để ra tay, Ritter nghĩ. Quán cà phê này tiếp đón toàn khách là đại gia tay cầm Macbook Pros, toàn dân cổ cồn.

Rất dễ ra tay.

Ritter mất mười lăm phút đi bộ đến nhà Parrish, vòng quanh khu phố hai lần. Hắn nghĩ sẽ tốt hơn nhiều nếu có một con chó; hắn tự hỏi Washington có chỗ nào cho thuê chó Pitbull không.

Hắn chẳng trông thấy vật nào chuyển động. Thực tế là nếu bọn cảnh sát tư pháp đang theo dõi Parrish, có khả năng chúng sẽ nấp trên mái nhà ở đâu đó, hoặc trong căn hộ đối diện bên kia phố. Chúng sẽ không đỗ xe ở nơi bọn cớm khác có thể quấy rầy.

Mười lăm phút sau khi rời khỏi Jitterbug, hắn bấm chuông cửa nhà Parrish.

Khi Parrish mua căn nhà này, sàn nhà được làm bằng gỗ hoặc được phủ thảm. Thảm sẽ thấm hết máu như miếng bọt biển, nhưng sàn gỗ luôn được bọc sáp rất tốt, sẽ khó thấm máu. Sàn gỗ trong bếp được hoàn thiện lại để dễ bán; đã bị ăn mòn nhưng vẫn bóng loáng sắc vàng óng của hạt dẻ già, đây chính là nơi Parrish quyết định sẽ giết Ritter.

Parrish không nấu ăn nhưng gã có ba cuốn sách dạy nấu ăn trên giá sách dưới tủ bếp. Gã nhét khẩu súng vào giữa hai cuốn sách, ở tư thế nghiêng, chốt an toàn đã bật, một viên G2 RIP 9 milimét nằm sẵn trong ổ đạn.

Đợi chờ chẳng ích gì, gã nghĩ.

Khi Ritter bấm chuông cửa, Parrish đặt một đĩa bánh bao nhân thịt gà vào lò vi sóng, ấn nút quay rồi ra mở cửa. Mùi bánh bao thơm phức tỏa khắp căn bếp sẽ xua tan bất kỳ nghi ngờ nào có thể gợi lên trong tâm trí Ritter. Parrish cảm thấy căng thẳng hơn gã tưởng. Khi chuẩn bị súng, gã nhận ra là nếu làm hỏng chuyện, Ritter sẽ giết chết mình.

Ritter lẻn vào trong, Parrish đóng chặt cửa lại sau lưng rồi hỏi, “Có thấy ai không?”.

“Không, nhưng nếu đại ca bị dân chuyên nghiệp theo dõi thì em chịu. Đại ca có nghĩ đến thằng nào không?”

“Không hẳn, nhưng từ tuần trước... chúng ta đã gặp rắc rối. Tao đang làm bữa tối rồi đấy. Quay vào bếp đi, tao sẽ nói cho mày nghe.”

Ritter đi theo Parrish qua hành lang xuống bếp. Gã cảm thấy chỗ giữa hai bả vai đau nhức theo từng bước chân khi Ritter theo sát phía sau, nhưng gã vẫn tập trung vào việc phải làm. Món bánh bao trong bếp đang bắt đầu nóng lên. Ritter nói, “Mùi thơm quá”.

Parrish vừa mở cửa lò vi sóng vừa nói, “Có sữa, nước, bia và Pepsi trong tủ lạnh đấy. Lon Pepsi cho tao còn mày thích gì thì tự lấy”.

“Rồi... Chuyện gì thế?” Ritter hỏi. Hắn miệng hỏi tay mở tủ lạnh, cánh cửa mở ra rất rộng, ngăn giữa Parrish và chính hắn. Parrish lấy khẩu súng giấu giữa mấy cuốn sách ra, và khi Ritter vừa đóng cửa tủ lạnh, trên tay cầm hộp carton đựng hơn hai lít sữa cùng lon Pepsi, gã nã liền hai phát đạn trúng ngực Ritter, một trong hai viên bắn xuyên hộp carton, sữa bắn tung tóe lên mặt và ngực hắn.

Ritter lảo đảo, nhìn Parrish bằng đôi mắt trống rỗng, tay buông rơi lon Pepsi cùng hộp sữa, xoay người ngã sấp mặt xuống sàn, nằm co giật vài giây rồi bất động.

Cho dù xung quanh vạn vật tĩnh lặng, hai phát súng vẫn vang rền trong căn bếp nhỏ. Chưa đủ to để hàng xóm nghe thấy, nhưng vẫn đủ khiến Parrish ù tai một lát.

Gã nhìn xuống cái xác, cảm thấy dòng hóa chất nào đó đang tràn khắp cơ thể. Không phải adrenaline, mà là thứ gì đó khác, một thứ thậm chí còn nguyên thủy hơn, một dạng hoóc-môn khiến gã nín thở, có thể là biến thể của testosterone. Không cần biết là gì nhưng nhờ nó các chiến binh cảm thấy hả hê khi giết người.

Nó tạo ra một... sự hưng phấn. Parrish đứng yên đó, nhắm mắt lại, để bản thân trải nghiệm cảm giác tuyệt vời đó.

Trước khi rời khỏi nhà Grant và SCIF, Parrish, Grant và Claxson đã bàn bạc xem nên giải quyết xác của Ritter như thế nào. Claxson gợi ý mang nó vào đâu đó sâu trong rừng rồi lấp đi. Grant nói rằng mụ sẽ để mấy tay chuyên nghiệp làm việc ấy, nhưng còn thêm rằng mụ từng biết một vụ tương tự và rất hiệu quả.

Parrish nói rằng gã nghĩ ra vài cách, nhưng thật ra gã đã có ý tưởng từ lâu rồi: xét đến chuyện mấy tên cớm lởn vởn quanh D.C. và vùng nông thôn lân cận, gã sẽ không di chuyển cái xác đến bất kỳ đâu quá xa, và gã chắc chắn sẽ không luẩn quẩn ở trong rừng, trong bóng tối, với bao tải và một cái xẻng.

Gã đã tính xong chuyện phải vứt cái xác đi đâu trước cả khi rời khỏi SCIF.

Parrish nhanh chóng lột bỏ hết mọi thứ có thể giúp người ta nhận dạng cái xác của Ritter như ví, điện thoại, đồng hồ Rolex, một chiếc nhẫn quân đội có viên đá màu xanh. Gã lấy túi đựng rác từ trong tủ bếp ra, quỳ xuống luồn vào phần thân trên của Ritter. Hắn lại bắt đầu run lên như lúc nãy: các tế bào não đang hấp hối. Gã luồn một cái túi khác vào hai chân Ritter, lật xác chết lại để xem xét mặt sàn. Có vết máu hồng trộn lẫn với sữa. Parrish dùng nước tẩy rửa gia dụng lau sàn, cố gắng chùi sạch máu và sữa bằng giấy vệ sinh, đảm bảo rằng gã không để lại dấu vết gì. Gã không quên nhặt các vỏ đạn 45 lên: khi ra đường cao tốc gã sẽ quẳng chúng ra ngoài cửa xe.

Xong xuôi gã nhìn lại cái xác trong túi. Tiếp theo là công việc tồi tệ nhất. Vụ giết người được tiến hành khá sạch sẽ và chẳng có gì kịch tính. Tuy nhiên nếu xác chết được tìm thấy, cần phải làm chậm quá trình nhận diện càng lâu càng tốt. Gã rút con dao phay ra khỏi cánh cửa rồi cắt lìa khớp thứ ba khỏi từng ngón tay Ritter, nhăn nhó trước âm thanh vang lên khi lưỡi dao phay nghiến qua xương và dây chẳng.

Gã để các đầu ngón tay đứt lìa xuống miếng giấy gói thực phẩm Saran Wrap trải bên cạnh, rồi mang vào phòng tắm. Gã vứt xuống bồn cầu cứ ba ngón một, và lần cuối gã vứt nốt bốn ngón rồi xả nước. Hài lòng, gã kéo lê xác Ritter xuống cầu thang vào ga-ra, nhét vào phía sau xe Jeep, bằng sức mạnh và năng lượng vẫn còn tràn trề không biết do loại hoóc môn nào vừa khuấy lên.

Gã suýt quên mất điện thoại. Gã gọi cho Grant. Mụ nhấc máy, và cả hai không ai nói gì. Một phút trôi qua, gã ngắt cuộc gọi, mang điện thoại lên gác đặt trên quầy bếp.

Gã lái xe băng qua sông đến một quán bia có tên là Applejack's Burger & Beer, vô tình lại nằm gần một tuyến tàu điện ngầm. Quán này không có máy quay nhìn ra phía thùng rác, không có cửa sổ. Gã đỗ xe cạnh một thùng rác, trông chừng người đi bộ, và trong mười giây căng tràn năng lượng tiếp theo, gã nhấc Ritter khỏi xe Jeep quẳng vào thùng rác, hắn rớt xuống gần như không một tiếng động trên một chồng bìa cứng và rác rưởi. Gã đã lột chìa khóa xe và điện thoại của Ritter từ trước. Gã nghiền nát điện thoại dưới gót giày, lấy pin ra, ném các mảnh vỡ vào thùng rác. Năm giây sau, xe gã đã rời bãi đỗ, bon bon trên đường quay về Georgetown. Gã ném pin điện thoại ra ngoài cửa xe, cùng các viên đạn cỡ 45. Quay về ga-ra, gã xem xét sau thùng xe có vương lại vết máu nào không, rồi đi bộ đến quán cà phê Jitterbug, bấm chìa khóa điều khiển từ xa, và nhận ra ánh đèn nhấp nháy từ chiếc Mazda của Ritter.

Gã thận trọng lái chiếc xe đến ga tàu điện ngầm, gần nơi phi tang xác chết. Parrish dừng xe lại rồi bắt chuyến tàu quay ngược về Washington, đến Foggy Bottom. Từ đây gã cuốc bộ về nhà, hơn một dặm một chút.

Một dặm chẳng thấm vào đâu.

Gã vừa đi vừa huýt sáo gần như suốt chặng đường, kiềm chế chất adrenaline đang trào dâng khắp cơ thể, vừa hình dung lại cảnh nổ súng trong từng khung hình thoáng qua.

Nhất định chẳng còn ai làm tốt hơn mình, gã nghĩ.

Về nhà gã gọi vào di động của Claxson. Lão ta không trả lời, đúng như kế hoạch. Cuộc gọi chỉ đến từ số của Parrish cho thấy mọi thứ đã diễn ra suôn sẻ.

Gã không thích phải xuống tay loại bỏ Jim, nhưng chúng đã quyết chặn đứng rắc rối, và gã sẽ sống trong hồi hộp từ giờ đến hết đời. Gã hy vọng ngày nào đó gã sẽ lại làm thế.