← Quay lại trang sách

Chương 18

Khi thánh Allah muốn can thiệp vào một án mạng hoàn hảo, Người sẽ chẳng chần chừ.

Jasim Nagi, anh chàng Hồi giáo gốc Ả Rập khá sùng đạo sinh trưởng tại thành phố Atlantic, người luôn mang trong mình đức tin cao vời vợi lẫn lợi thế khẩu âm vùng New Jersey, lái xe tải chở rác.

Không phải xe chở rác tầm thường: chiếc này là loại hai năm tuổi, có màu xanh sáng sơn dòng chữ McNeilus, chở được khối rác cao đến bốn mươi thước, và để lái được nó phải cần một số kỹ năng.

Lúc sáu giờ khi ánh bình minh vừa ló rạng, Nagi khéo léo lách qua bãi đỗ xe trống của quán Applejack, nâng thùng rác lên. Khi rác đổ vào trong khoang chứa rác, anh ta nghe thấy một tiếng uỳnh rất to, như thể vật gì to đùng làm bằng kim loại vừa rớt xuống.

Anh ta thốt lên “Ôi... trời ơi” bằng giọng vùng bờ biển Joisey hay nhất, vì anh ta biết nó có thể là gì: một thiết bị văn phòng đã lỗi thời, máy in chẳng hạn. Có thể nó bị quẳng vào thùng rác, vì người chủ không muốn vứt bỏ nó theo cách thân thiện với môi trường.

Như thế cũng có nghĩa là nếu Nagi cố gắng đổ nó xuống hố chôn rác mà không báo cáo và rồi bị bắt quả tang, thì anh ta sẽ bị mắc kẹt với cả khoản tiền phạt lẫn cái máy in.

Nagi tiếp tục lái xe dọc theo lộ trình, thu được mẻ rác đầy ắp đầu tiên trong ngày và đem đi đổ vào lúc chín giờ. Tại bãi rác, anh ta nói với nhân viên giám sát ở cổng rằng trong đống rác có thể lẫn một máy in cỡ lớn. Giám sát viên chỉ cho anh ta đến một bãi đổ chuyên biệt, một công nhân lái máy xúc rác đi cùng anh ta.

Nagi đổ rác xuống, đợi chờ cái vẫy tay của người công nhân. Nhưng thay vào đó, anh ta trông thấy chàng công nhân mặt trắng bệch chạy dọc sườn xe tải, gọi lớn, “Tốt hơn anh nên chạy khỏi đây”.

Chiếc máy in nằm đó, trên đỉnh đồng rác bốc mùi hôi thối. Ngay bên cạnh lộ ra một phần cẳng chân, vẫn còn đang xỏ chiếc giày leo núi Salomon đắt tiền.

Nagi làm dấu thánh giá, dù anh ta theo đạo Hồi, bởi vì đó là việc người ta sẽ làm nếu lớn lên ở New Jersey. Quay sang người công nhân, anh ta nói, “Không hay rồi, gọi sếp đi”.

Cảnh sát đến, tiếp theo là bác sĩ pháp y, và xác chết nằm phơi ra đấy trong hơn hai giờ đồng hồ, cho cảnh sát chụp ảnh và lật đi lật lại. Phần thân trên vẫn trùm trong túi rác nhựa màu đen, túi được mang ra chỗ khác để giám định thêm. Đã ghi nhận không có dấu vân tay, nhóm điều tra xử lý hiện trường lưu ý dấu vân tay có thể in hằn trên cơ thể ở chỗ nào đó, và kẻ sát nhân biết rõ điều này. Nhóm điều tra hiện trường kiểm tra quần áo để tìm thứ gì đó giúp nhận dạng nạn nhận, nhưng không thấy gì cả.

Khi các cảnh sát cho rằng họ đã hoàn thành xong mọi việc tại hiện trường, thi thể được chuyển đến văn phòng pháp y. Tại đây người ta sẽ cởi bỏ quần áo của xác chết, sau đó cho vào túi để giám định riêng, trên thi thể phát hiện hai hình xăm. Một là hình lá cờ Mỹ phổ biến, tuy nhiên hình xăm còn lại liên quan tới lực lượng đặc nhiệm, với phù hiệu ODA 331.

Thông tin này, kèm bức ảnh chụp gương mặt người chết, được gửi đến Bộ Tư lệnh Điều tra Hình sự của quân đội. Do đặc thù quân đội, nó được viết tắt thành “CID,” vì “CIC” nghĩa là “Tổng Tư lệnh15*”.

chu Thich: 15*Bộ Tư lệnh Điều tra Hình sự của quân đội - Criminal Investigation Command, thường được viết là CID vì CIC có thể nhầm với Tổng Tư lệnh - Commander In Cheif.

Hai tiếng sau, CID gửi lại kèm thông tin rằng thi thể này gần như chắc chắn là của cựu thượng sĩ James Harold Ritter, và hai đồng đội trước kia cũng nhận dạng được hắn ngay sau đó. Hắn được giải ngũ một cách vinh dự khỏi lực lượng quân đội vài năm trước.

Các cảnh sát tìm thấy một bằng lái xe ở Virginia đăng ký tên Ritter, khớp với các tấm ảnh. Họ đến địa chỉ nhà hắn tại Arlington, nơi viên quản lý khu chung cư cho biết rằng các cảnh sát tư pháp liên bang vừa lục soát căn hộ này.

Cuối cùng họ cũng tìm được Russell Forte, họ kể cho anh ta nghe về Ritter và hỏi về cuộc khám xét. Forte nói, “Tôi sẽ gọi cho viên cảnh sát phụ trách cuộc khám xét, đưa cậu ta đến gặp các anh”.

Vào lúc đó, cuộc giải phẫu đang được tiến hành tại văn phòng pháp y.

Nagi dẫn đường cho các cảnh sát Alexandria đến bãi đỗ xe của quán Applejack, cho dù anh ta không thể nói chắc được thi thể này đến từ đâu. Quán Applejack là một suy đoán tốt, nhưng nó có thể đến từ một trong hai điểm dừng trước đó của anh ta.

Cảnh sát đã kiểm tra tất cả ba địa điểm nhưng không tìm thấy bằng chừng nào liên quan tới một vụ giết người trong tất cả những thùng rác có ở đó.

Cảnh sát tìm thấy Forte nhanh hơn họ tưởng, vì anh ta đề nghị cung cấp tất cả thông tin có thể về Ritter. Lai lịch của nạn nhân chính là manh mối quan trọng.

Hai phút sau khi nói chuyện xong với cảnh sát, Forte gọi Lucas. “Tin xấu đây anh bạn,” Forte nói khi Lucas bắt máy.

“Chuyện gì thế?” Lucas hỏi. Anh, Bob và Rae đang thong thả đi dọc phố M tại Georgetown, vì chẳng biết còn nơi nào thú vị để đến chơi.

“Kẻ nào đó đã giết chết James Harold Ritter và vùi xác hắn trong thùng rác. Thi thể được phát hiện rất tình cờ. Tại một hố rác. Đang tiến hành khám nghiệm tử thi, nhưng cảnh sát nói rằng hắn bị bắn hai phát vào ngực. Phán đoán tốt nhất vào lúc này là hắn bị giết vào đêm qua.”

“Ôi không. Trời ạ.” Bob và Rae dừng bước khi nghe giọng Lucas. Anh quay sang họ rồi nói, “Kẻ nào đó đã giết Ritter”.

“Hung thủ cắt lìa các đầu ngón tay của Ritter để không cho nhận dạng, nhưng người ta vẫn nhận ra hắn nhờ hình xăm từ hồi còn trong lực lượng đặc nhiệm, sau đó là khớp với ảnh trong bằng lái,” Forte nói. “Đến giờ vẫn chưa có thêm thông tin mới nào, trừ phi kết quả khám nghiệm cho biết điều gì đó. Có vẻ như phải chờ dài cổ đây.”

“Tốt hơn hết chúng tôi nên tới đó. Chúng tôi sẽ cần địa chỉ phòng giải phẫu.”

“Có cho anh luôn đây,” Forte đáp. “Và cảnh sát muốn nói chuyện với anh đấy.”

“Nghe này, gọi lại cho đám cảnh sát bảo họ kín mồm kín miệng về vụ án mạng... trong hai ngày. Hãy đề nghị họ hợp tác với chúng ta. Tốt nhất là đừng lập hồ sơ vụ này cho đến khi chúng tôi biết cần phải làm gì.”

“Tôi làm được mà,” Forte nói.

“Có chuyện gì với hắn thế?” Rae hỏi.

“Kẻ nào đó đã bắn chết hắn,” Lucas đáp. Anh kể cho họ nghe phần còn lại, họ đứng đó, lắc đầu khi nghe câu chuyện.

Bob nhìn Rae rồi nói, “Vất vả rồi đây, cô em”.

Ba người họ đang chờ điều gì đó diễn ra; họ đã tính đến chuyện đẩy nhanh mọi việc hơn nữa, nhưng rồi quyết định nên chờ đến khi nhận được kết quả từ phòng thí nghiệm ở West Virginia, có thể đến vào bất kỳ lúc nào. Họ đã dành cả buổi chiều hôm qua và sáng nay để đọc mọi tài liệu mà FBI, Cục Cảnh sát Tư pháp và quân đội có thể có về Ritter, Parrish và các nhân viên khác của Heracles.

Khi đến chỗ xe Evoque của Lucas, Forte nhắn tin địa chỉ nơi đang tiến hành giải phẫu.

“Manassas,” Lucas nói. “Tôi còn chả biết nó ở đâu.”

“Ở Virginia,” Bob nói. “Tôi nghĩ quanh đấy từng diễn ra trận nội chiến dữ dội.”

Rae: “Tôi còn tưởng nó là thứ mà người da trắng hay giữ trong bình, để trong tủ lạnh cơ.”

Chuyến đi đến Manassas mất một giờ đồng hồ. Cơ sở vật chất của phòng giám định pháp y trông như trường cấp một, viên thám tử có tên là Roger Clark từ Phòng Cảnh sát Trưởng hạt Frederick gặp họ ngoài lối vào. Anh ta nói rằng cuộc giải phẫu sắp kết thúc.

“Dù là kẻ nào làm chuyện này thì có vẻ hắn không biết về hình xăm, vì nó cho phép chúng tôi nhận dạng còn nhanh hơn cả dấu vân tay,” anh ta nói.

“Đã biết được thời điểm tử vong chưa?” Lucas hỏi.

“Vẫn chưa, nhưng vài phút nữa thôi chúng ta sẽ biết. Nếu các anh có thời gian thì hãy đợi ở phòng họp dưới sảnh nhé. Tôi muốn bổ sung phần trình bày của các anh vào báo cáo.”

“Được mà,” Lucas đáp. “Chúng tôi muốn biết tường tận phát hiện này. Tại một hố rác à? Có biết chiếc xe tải đó từ đâu đến không?”

Clark cung cấp thông tin cho họ rồi đề nghị Lucas trình bày. Anh đồng ý, bắt đầu từ vụ tai nạn của Whitehead và suýt giết chết Smalls, cho đến cuộc tấn công nhằm vào Weather và vụ giết Douglas Last. Anh còn mô tả thông tin cơ bản về Ritter và việc hắn dính líu đến Heracles.

“Chà. Anh nghĩ rằng Ritter nhúng tay vào tất cả mọi chuyện à?” Clark hỏi.

Lucas gật đầu. “Theo những gì tôi biết thì vụ giết người này khẳng định điều đó. Những kẻ sắp đặt vụ này biết bọn tôi đang theo sát hắn, chúng không thể mạo hiểm để bị hắn phản bội.”

“Anh có những nghi phạm...”

“Đúng. Một số kẻ cộng tác với Heracles. Chúng là dân chuyên nghiệp, và tôi không nghĩ có thể khai thác chúng nhiều, nhưng tôi có thể cho anh mấy cái tên nếu muốn nói chuyện với chúng.”

KHI CLARK đã hài lòng và bỏ đi kiểm tra tiến độ cuộc giải phẫu, Rae nói, “Nếu dân địa phương đến nói chuyện với bọn Heracles, sẽ khiến chúng vò đầu bức tóc đấy”.

“Tôi đang mong đợi điều đó,” Lucas nói. “Nhưng sẽ còn hữu ích hơn nhiều nếu dùng Ritter làm chất xúc tác.”

“Hắn có thể bị giết vì cái ý tưởng lợi dụng hắn của chúng ta theo kiểu đó đấy,” Bob nói. “Tôi có linh cảm xấu về chuyện này.”

Lucas đáp, “Đúng. Tôi nghe lời cậu”.

Vài phút sau Clark quay lại và nói, “Bác sĩ sẽ nói chuyện với chúng ta ngay bây giờ”.

Nhà nghiên cứu bệnh học Benjamin Woode, người béo ị, với máu tóc thưa màu đỏ, lên tiếng hỏi, “Tại sao cảnh sát liên bang các anh lại truy đuổi người này?”.

“Vì chúng tôi được đề nghị làm thế và có thẩm quyền,” Lucas đáp. “Ông có phát hiện ra điều gì hữu ích không?”

“Có, hai điều,” Woode đáp. Từ người ông ta phả ra thứ mùi riêng biệt của các phòng giải phẫu, giống mùi của cửa hàng thịt, nhưng có lẫn mùi hóa chất. “Nạn nhân bị bắn hai phát, các viên đạn đều xuyên qua xương ức, một viên cách tim một phân hoặc hơn, viên còn lại xuyên thẳng qua tim. Hai viên bắt đầu tách nhau ra ngay sau khi trúng người nạn nhân. Chúng là những viên đạn giết người, được thiết kế chỉ dành riêng cho mục đích này. Một viên hoàn toàn xuyên qua người. Lõi của viên đạn thứ hai vẫn còn bám vào da trên lưng nạn nhân. Mà anh ta bị bắn từ phía trước mặt, trên áo sơ mi và xung quanh điểm xâm nhập của viên đạn còn dính khá nhiều thuốc súng, thế nên kẻ nổ súng có khả năng đứng cách anh ta tối đa không quá mét rưỡi hoặc ba mét.”

“Có nhận diện được các viên đạn không?” Bob hỏi.

“Đó không phải việc của tôi; mà là của chuyên viên pháp y... Nhưng chúng đã tan thành từng mảnh, và một lõi đạn đang bị mất. Một chuyện có thể khiến các anh hứng thú đó là trong khi một lõi đạn không xuyên qua được cơ thể, thì vài mảnh nhỏ đã cắt đứt các mạch máu và xuyên qua cơ thể, da nạn nhân và áo sơ mi. Nếu các anh có thể tìm ra hiện trường vụ nổ súng, ở đâu đó trong nhà, thì một phòng thí nghiệm hiện trường tốt có thể sẽ phát hiện ra các mảnh đạn nhỏ đó trong tường. Anh không thấy được hết chúng đâu trừ phi phải tìm thật kỹ. Chúng nhỏ xíu, giống những mảnh móng tay bị cắt rời. Hung thủ có thể không dọn sạch hết chúng đi được... ngay cả khi hắn biết điều đó. Nếu chi tiết này quan trọng.”

“Có thể đấy,” Lucas nói. “Ông có biết được thời điểm tử vong hay không?”

“Về vấn đề này chúng tôi không nói chắc được, cho đến khi nhận kết quả từ phòng thí nghiệm.”

“Tôi biết, nhưng ý ông thì sao?”

“Anh ta vẫn đang cho thấy những dấu hiệu cứng đờ. Anh ta bị bắn vào đêm qua, chết chưa quá hai mươi tư tiếng đâu.”

CÒN NHIỀU THÔNG TIN NỮA nhưng vẫn chưa đủ giúp nhận diện hung thủ. Nói chuyện với bác sĩ pháp y xong, họ xem xét quần áo của Ritter đã được nhét vào túi riêng. Ví của hắn bị mất, đồng hồ và một chiếc nhẫn cũng không thấy đâu: họ chỉ biết về những thứ đồ đó nhờ vệt trắng chúng để lại trên làn da rám nắng của Ritter. Chi tiết duy nhất họ biết từ trang phục đó là Ritter thường xuyên mặc đồ, đi giày dành cho hoạt động ngoài trời rất sành điệu, rằng hắn đeo thắt lưng da nặng nhằm đỡ bao súng: Bob biết vì cậu ta cũng có cái tương tự.

“Khác biệt duy nhất là hắn viết tên mình bằng bút lông Sharpie đằng sau thắt lưng hay sao đó,” Bob nói, xoay chiếc thắt lưng trong tay. “Có lẽ vì hắn từng có thời gian ở trại lính, ai cũng đeo thắt lưng giắt súng; đắt tiền đấy.”

Lucas liếc nhìn cái thắt lưng, có dòng chữ “James Ritter” tinh tế được viết bằng mực đen, có thêm các chấm trang trí phía trước họ và theo sau tên kéo dài đến hết thắt lưng. Ngoài ra còn một chữ “S”.

“Ngồi tỉ mẩn thiết kế nghệ thuật trang trí thế này,” Rae nói, “chắc công phu lắm đây”.

Lucas nói với Clark, “Chúng tôi sẽ xem qua căn hộ của hắn, làm một vòng nữa xem. Giờ thì chẳng cần lệnh khám xét nữa. Xe hắn đang lái hoặc là chiếc Ford F-250 hoặc là con gà trống Mazda Miata. Chúng tôi biết cả hai biển số rồi. Chúng tôi cần toàn bộ các cảnh sát tuần tra địa phương tìm kiếm nó.”

“Bọn này sẽ triển khai luôn, nếu tìm thấy chúng tôi sẽ gọi,” Clark nói. “Nhưng tôi phải có mặt khi các anh lục soát căn hộ.”

“Rất hân hạnh,” Lucas đáp.

Lucas, Bob và Rae đến căn hộ của Ritter cùng Clark. Trên đường đi, Bob nói, “Chiếc xe tải trông có vẻ chưa chạy được nhiều. Có thể chúng ta nên tìm kiếm ADN trên xe luôn. Có khả năng Ritter là người lái; vậy chúng ta nên tìm các dấu vết trên ghế hành khách, để xem ai có thể là người ngồi đó”.

Rae nói, “Giờ FBI phân tích ADN pháp y nhanh lắm. Nếu chúng ta nhờ được một đội đến đây, ngay ngày mai là có kết quả rồi”.

“Ý hay đấy,” Lucas nói. “Thứ chúng ta cần là một đội khám nghiệm hiện trường FBI tại căn hộ của Ritter, để xem hắn có bị giết ở đó không. Tôi sẽ gọi cho Forte xem anh ta có cử một đội đến được không. Sau đó họ có thể kiểm tra chiếc xe tải.”

Bob nói, “Chúng ta cần một Ritter mới. Bây giờ ta lại quay về điểm xuất phát rồi”.

“Luôn là Moore và McCoy,” Rae nói.

“Phải, chúng hợp đấy,” Lucas nói.

“Mẹ kiếp Ritter,” Bob nói.

Bốn mươi lăm phút sau, xe họ tiến vào khu chung cư nhà Ritter, vòng ra đằng sau. Không thấy chiếc Miata đâu cả.

“Có khả năng hắn không bị bắn ở đây. Hung thủ chắc sẽ không lái xe đi đâu,” Lucas nói. Forte gọi. Chase đã điều một đội khám nghiệm hiện trường đến.

Trong khi chờ đợi nhóm FBI xuất hiện, anh nhận được cuộc gọi từ Armstrong. “Có thể anh sẽ phải thẩm vấn Ritter cứng đầu một lần nữa đấy,” anh ta nói. “Chúng tôi nhận lại kết quả xét nghiệm các mẫu vải lấy từ xe tải, hoàn toàn khớp với các mẫu vải lấy từ các súc gỗ. Đây là loại vải bạt dùng cho các thảm tập võ. Nó không phổ biến.”

“À, tôi có vài thông tin về Ritter cho anh...” Lucas bắt đầu.

Armstrong kinh ngạc trước vụ án mạng, Lucas cho biết rằng các mẫu vải vẫn đóng vai trò quan trọng nếu chúng có thể lấy được ADN từ chiếc xe tải. “Đừng bỏ quên nó nhé, Carl. Chúng tôi sẽ gọi lại cho anh.”

“Tôi cảm thấy như chúng ta đang lăn ấy, nhưng tôi không biết là lăn lên đồi hay xuống đồi,” Bob nói khi Lucas kể cho họ nghe các kết quả xét nghiệm của Armstrong.

NHÓM FBI xuất hiện, viên quản lý dẫn họ vào căn hộ của Ritter để tiến hành khám xét tạm thời, trong khi các cảnh sát liên bang cùng Clark tụ tập trong sảnh. Một tiếng sau, trưởng nhóm, Jake Ricardo, bước ra và nói, “Chúng tôi không tìm thấy bất kỳ dấu hiệu nào của vụ nổ súng ở đây. Tôi không tin hắn bị giết trong căn hộ này”.

Không phải là hiện trường vụ án mạng. Lần đầu tiên các cảnh sát tư pháp khám xét nơi này, họ đã bị hạn chế bởi lệnh khám xét - họ phải tuân theo danh sách cụ thể những gì được phép lục soát vì thẩm quyền của họ khá mỏng. Với việc Ritter bị sát hại, nhóm FBI có thể thoải mái xới tung căn hộ.

Họ đã làm thế.

Phát hiện quan trọng đầu tiên là hai cuốn hộ chiếu, được giấu dưới mép một tấm thảm ghim xuống sàn bằng băng dính hai mặt. Một là hộ chiếu Anh cấp cho Richard Carnes, có ảnh Ritter. Một là hộ chiếu Mỹ, cấp cho David Havelock cũng có ảnh Ritter.

Phát hiện đáng kể thứ hai, và cũng là phát hiện cuối cùng, là laptop của Ritter, đang nằm trên bàn cà phê. Họ không thể xâm nhập vào máy vì nó được bảo vệ bằng mật khẩu. Lucas hỏi nhóm FBI xem họ có thể mang laptop đến phòng thí nghiệm máy tính để bẻ khóa hay không.

“Có một nơi khác, ở Quantico,” Ricardo nói. “Tôi sẽ gọi xem họ có nhận vụ này không. Di động của hắn thì sao?”

“Không tìm thấy,” Lucas đáp. “Chúng tôi biết hắn có một cái vì chúng tôi biết số di động của hắn, chúng tôi biết hắn để điện thoại ở vài nơi nhưng không tìm ra.”

“Hắn bị giết khi nào?”

“Có thể là đêm qua,” Lucas đáp.

“Của hãng nào?”

“Verizon.”

“Được rồi. Verizon sẽ lần tìm dữ liệu về hắn ngược về khoảng thời gian trước, các đoạn tin nhắn ít nhất từ vài ngày trước. Anh nên cử người theo sát.”

“Anh làm được không?”

“Người của chúng tôi có thể. Để tôi gọi một cậu.”

Anh ta gọi cho một chuyên gia máy tính tại Quantico, có tên là Roger Smith. “Tôi sống gần chỗ các anh,” Smith nói. “Tôi có thể ghé qua trên đường về nhà và xem thử một chút. Nếu không làm gì được, ngay sáng mai tôi có thể mang nó đến phòng thí nghiệm.”

“Tuyệt đấy,” Lucas đáp.

“Trong khi đó thì tìm mật khẩu đi. Nó có thể được viết ở bất kỳ đâu, nếu hắn thực sự viết nó ra. Mà có khả năng là không. Có khả năng là tên lót của mẹ hắn.”

“Chúng tôi sẽ tìm,” Lucas nói.

Clark, thám tử hạt Frederick, bỏ cuộc trước tiên. “Nếu còn bất kỳ thứ gì khác ở đây, tôi sẽ bị nguyền rủa nếu biết nó là cái gì. Tôi không nghĩ hắn bỏ lại một mảnh giấy viết ‘Tôi sắp đến nhà Joe, và hắn có thể bắn chết tôi.’”

“Không, nhưng hắn có thể để lại dấu vết dẫn tới căn nhà,” Lucas nói. “FBI đang tìm kiếm thông tin từ điện thoại của hắn. Chờ thêm chút nữa đi, chúng ta cần nghe tin từ họ.”

Họ đợi, nhưng chưa quá một tiếng. Chuyên viên kỹ thuật FBI gọi cho Lucas và hỏi, “Anh có di động hoặc iPad không?”.

“Có iPad để trong xe,” Lucas đáp.

“Cho tôi địa chỉ email của anh, tôi sẽ gửi anh đường liên kết. Chúng tôi đã lập bản đồ vị trí của hắn trong 24 giờ trước khi di động của hắn mất liên lạc.”

“Nó mất liên lạc vào lúc nào?”

“Khoảng bảy giờ tối qua, tại Virginia.”

“Ở đâu tại Virginia cơ?”

“Có một nơi tên là Applejack cái gì đó...”

“Đó là nơi xác của hắn bị vùi,” Lucas nói. “Mất bao lâu tôi mới thấy được vị trí?”

“Khoảng ba mươi giây sau khi cho tôi địa chỉ email.”

Lucas ra xe mình, lấy chiếc iPad rồi quay lại căn hộ của Ritter, vừa đi vừa mở thư điện tử. Hồ sơ FBI là một bản PDF của Google map, với vị trí được thể hiện bằng đường kẻ đỏ vắt ngang bản đồ, các con số bé bằng con kiến gắn kèm vào vị trí. Một chú thích bản đồ chỉ rõ thời gian cho từng con số.

Vị trí bắt đầu từ căn hộ của Ritter trong tám giờ đồng hồ - hắn đang ngủ - sau đó là đến văn phòng Heracles, lưu lại đấy vài tiếng, tiếp theo là một đường kẻ dài vào bữa trưa - ra ngoài ăn trưa, Lucas nghĩ. Tín hiệu quay về văn phòng vào buổi chiều, đi tiếp đến một địa điểm ở Arlington, về văn phòng, đến Georgetown vào buổi tối, và cuối cùng là hướng về Virginia, nơi tín hiệu biến mất.

Lucas quay vào căn hộ, Bob, Rae và Clark đều nhìn anh. “Đêm qua Ritter ở nhà, hắn lái xe đến một nhà hàng cách nhà Parrish một dãy phố,” anh nói. “Có mấy đường ngoằn nghèo trên bản đồ, có thể là hắn đi bộ đến nhà Parrish. Tín hiệu lại băng qua sông đến nhà hàng đó, nơi thi thể có khả năng bị vùi. Parrish đã giết Ritter rồi mang hắn băng qua sông sau đó vùi xác.”

“Nghe cũng ổn đấy,” Clark nói. “Ổn hơn giả thuyết trên đường lái xe quay về nhà, Ritter ghé mua cái gì đó để ăn thì bị mấy thằng trấn lột bắn chết sau nhà hàng rồi vùi xác trong hố rác.”

“Chủ nghĩa hoài nghi không thích hợp.” Rae nói.

“Chỉ vì các luật sư giỏi nhất nước đều ở Washington, vì nơi này cần họ,” Clark đáp.

Đang nhìn qua vai Lucas, Rae nói, “Gọi cho anh chàng FBI, nhờ lần theo vị trí của Parrish đi”.

“Tất nhiên,” Lucas nói.

Trong khi Lucas đang nói chuyện về điện thoại, thì Smith, chuyên gia máy tính, xuất hiện. Ban đầu cậu ta ngắm Rae thật lâu, rồi lấy mấy cái hộp điện tử gì đó xâm nhập vào laptop của Ritter. Vài phút sau, máy bật lên. Nhìn qua vai cậu ta, Lucas nói, “Cảm ơn nhé”.

“Anh đừng vội cảm ơn,” Smith đáp. “Mọi thứ trong máy dường như đã được mã hóa hết rồi. Mọi thứ. Toàn bộ thư điện tử và hơn hai mươi tài liệu. Loại mã hóa thương mại tiêu chuẩn đấy...” Cậu ta chỉ vào biểu tượng một ứng dụng tên là SanderCrypt trên màn hình. “Như thế nghĩa là không thể nào đọc được cái món này nếu không biết mật mã.”

“Chết tiệt, mật mã trông như thế nào?” Bob hỏi.

“Có thể là bất kỳ cái gì. Thậm chí có thể nó chẳng tồn tại, nếu hắn ghi nhớ nó và tất nhiên giờ thì hắn chết rồi.”

“Nếu hắn viết nó ra thì sao?” Rae hỏi. “Nó sẽ là bao nhiêu con số... hay bao nhiêu chữ cái... hay là bất kỳ cái gì?”

Smith lắc đầu. “Không thể biết được. Nó có thể là bất kỳ cái gì, có thể chỉ là vài chữ cái, con số hoặc biểu tượng...”

“Các anh không thể bẻ được à?”

“Không. NSA cũng bó tay thôi. Chẳng ai làm được đâu.” “Vậy giả sử hắn viết ra đi? Chúng tôi nên đi tìm cái gì?”

“Bất kỳ cái gì không thuộc về nơi này,” Smith đáp. “Hầu hết mọi người không viết theo kiểu, ‘Này, hãy hình dung, hình dung con ếch, cây đàn violon và mặt trăng nhảy qua máy cày’ trên bàn phím của máy tính để bàn. Nếu các anh tìm được thứ gì kiểu như thế, nó chính là mật mã.”

“Chúng tôi đã lục soát khắp chỗ này, từng phân một, mà chẳng tìm thấy thứ gì như thế cả,” Lucas nói. “Phải chăng nó là một câu có nội dung hoàn chỉnh thay vì ngẫu nhiên?”

“À còn tùy thuộc vào hiểu biết của hắn về máy tính. Nếu là ‘Này, hãy hình dung, hình dung con ếch’ chẳng hạn, xem nào, dài ba mươi chữ cái, gần như bất kỳ máy tính nào cũng đều không thể bẻ khóa nổi. Đồng thời lại rất dễ nhớ,” Smith đáp. “Hầu hết dân mù công nghệ không biết điều đó, thế nên họ tạo ra một chuỗi dài ngẫu hứng. Tuy nhiên các chuỗi dài ngẫu hứng rất khó nhớ, thế nên họ phải viết ra. Đó là thứ anh nên tìm - những chữ số và chữ cái ngẫu hứng không thuộc về nơi này, chẳng liên quan đến cái gì hết.”

“Cũng chưa từng thấy bất kỳ cái gì như thế luôn,” Lucas nói.

“Thế thì anh đen rồi,” Smith đáp. “Tôi sẽ mang cái máy này về - tìm được gì tôi sẽ báo. Có thể hắn giấu mật mã trong két an toàn, hoặc thứ gì đó anh sẽ tìm ra sau.”

“Có vẻ không có mùa xuân đó đâu,” Bob nói.

Smith nhún vai. “Anh nói đúng. Với tất cả các thư điện tử mã hóa, có vẻ như hắn sử dụng chúng khá nhiều.” Cậu ta ngừng lại rồi nói thêm, “Tôi có một anh bạn dùng các số series trên các tờ tiền - mười số, hai chữ cái; một lần gửi đi, một lần nhận về. Anh ta bảo rằng anh ta gần như phải sử dụng nó vài lần. Cuối cùng anh ta kẹp nó vào ngăn trống trong ví để chắc chắn không quên”.

“Ngay cả nếu có ví của Ritter trong tay còn chả xem nổi, huống hồ không có,” Rae nói.

Lucas lắc đầu. “Phải có cách bẻ gãy nó chứ...”

Smith lắc đầu. “Xin lỗi anh bạn. Không có cách nào đâu. Đời là vậy đấy.”

Smith đang gói ghém đồ đạc thì kỹ thuật viên điện thoại của FBI gọi đến, nói rằng điện thoại của Parrish cho tín hiệu tại nhà gã suốt buổi tối hôm đó. Vài phút sau, các cảnh sát Arlington gọi đến cho biết đã tìm thấy xe của Ritter cách quán Applejack một dãy phố. Bốn cửa xe đều khóa, nhưng trong xe trống trơn, không có hiện tượng phai màu giống như có vết máu trên vải ghế ngồi. Họ đã kéo xe về và mở thùng xe, tuy nhiên một viên cảnh sát nói rằng thùng xe trông giống cái hộp thức ăn trưa hơn là ngăn chứa hàng, chẳng ai nhét vừa một thi thể vào trong đó, bất kể có để lại dấu vân tay hay không.

“Nhưng có thể có tài liệu gì đó,” Lucas nói. “Tôi muốn cậu gọi lại ngay sau khi mở thùng xe.”

“Chúng tôi sẽ gọi,” viên cảnh sát nói.