← Quay lại trang sách

- 6 -

Con của ba,

Hôm nay, ba sẽ kể con nghe câu chuyện về ba lần dọn nhà của mẹ thầy Mạnh Tử.

Mạnh Tử, tên họ là Mạnh Kha, một nhà triết học người Trung Quốc. Ông là người đã đặt nền tảng cho “Tứ thư, ngũ kinh” với tôn chỉ cho rằng con người sinh ra vốn dĩ đều lương thiện (nhân chi sơ, tính bản thiện). Bên cạnh đó, Mạnh Tử còn đề cao việc phát triển trí tuệ, tư duy là con đường đúng đắn giúp con người trở nên thành công, “Kẻ lao tâm trị người, kẻ lao lực bị người trị.” Học thuyết của ông được gói gọn trong bốn chữ “Lễ, nghĩa, trí, tín” và được người đời tôn làm “Á thánh Mạnh Tử”, ông tổ thứ hai của Nho Giáo sau Khổng Tử.

Một trong những yếu tố giúp Mạnh Tử có được thành tựu đáng để loài người ca tụng như vậy là nhờ vào việc giáo dục nghiêm khắc của mẹ ông. Bà tên Chương Thị, nhưng thường được người đời sau gọi với tên Mạnh Mẫu. Cha Mạnh Tử xuất thân là một nho sinh có tài, để làm rạng danh dòng họ, ông từ biệt vợ con lên đường sang nước Tống gây dựng cơ đồ. Chỉ tiếc rằng ba năm sau đó, hai mẹ con Mạnh Mẫu nhận được hung tin rằng chồng mình đã qua đời nơi đất khách. Từ đó, mẹ góa con côi nương tựa nhau sống tiếp cuộc đời nhiều gập ghềnh, trắc trở. Tự ý thức được bản thân ngoài việc làm mẹ, còn phải đảm đương chuyện dạy con trai thay chồng, Mạnh Mẫu với ý chí quật cường quyết dùng đôi tay lao động cực khổ và khối óc kiên tâm dạy dỗ con thành người.

Theo Mạnh Mẫu, môi trường sống là thứ ảnh hưởng vô cùng lớn lên sự phát triển tư duy của đứa trẻ.

Ban đầu, gia đình Mạnh Tử sống trong một ngôi làng nhỏ dưới chân núi. Phía sau lưng nhà họ có một nghĩa trang của dân trong làng, thời binh đao loạn lạc, ngày nào Mạnh Tử cũng cùng đám trẻ đồng trang lứa chứng kiến cảnh người ta mai táng, khóc thương nhau. Chuyện cũng sẽ không có gì to tát mãi cho đến một ngày Mạnh Mẫu về thấy con mình cùng chúng bạn đang chơi trò “tang ma”, một đứa giả chết nằm trên đất, đắp ngang cái chiếu, đám còn lại quỳ ngồi cạnh bên khóc lóc kêu gào, thảm thương khôn xiết. Mẹ thầy Mạnh Tử nghĩ, nếu để con mình cứ sống nơi đây, e rằng tập nhiễm những điều u ám, đau thương, rồi thì cuộc đời cũng tuyền một màu tang tóc. Bèn theo đó, quyết tâm chuyển con đến một vùng khác sinh sống.

Nơi thứ hai Mạnh Mẫu chọn lưu trú là một làng khác có tên Miếu Hộ Doanh, cách nơi ở trước tầm mười dặm đường. Nơi đây cạnh một khu chợ nhỏ, cứ vài ngày người ta lại tấp nập đem vật phẩm đến để trao đổi, mua bán. Khu chợ lúc nào cũng ồn ào tiếng người mặc cả, trả giá, tiếng những gã lái thương quát nạt bọn phu khuân giác, tiếng chửi mắng, đánh đập nhau của những gã lục lâm bảo kê tứ xứ, tất cả mọi thứ hình thành nên cái bát nháo, xô bồ rất đặc trưng.

Mạnh Tử sống nơi đó, chỉ vài tháng sau đã bắt đầu có thói quen tính toán chi li, mặc cả từng chút trong bất kỳ công việc nào được giao thác. Chưa kể, nếu phật lòng phật ý còn cao giọng nạt nộ đám trẻ con khác, nặng hơn còn thượng cẳng tay, hạ cẳng chân chúng bạn. Mạnh Mẫu thấy con như vậy, lại lắc đầu suy tư, nghĩ đến chuyện lần nữa chuyển nhà đi vì vốn dĩ nơi đây cũng chưa đủ tốt cho một đứa trẻ.

Lần cuối cùng, hai mẹ con dọn đến một căn nhà tuy cũ nát nhưng lại gần trường học, Mạnh Tử ngày ngày thấy chúng bạn say mê chuyên tâm tu học, lại có dịp gần gũi những học giả uyên thâm nên dần tập được cho mình sự hiếu học, truy cầu tri thức. Từ đó, Mạnh Tử học tập được lễ (lễ nghi), nhạc (âm nhạc), xạ (bắn cung), ngự (cưỡi ngựa), thư (thư pháp), số (toán học) và trở thành nhà triết học được đời sau vọng trọng.

Chuyện chọn môi trường cho con mình phát triển, là điều bậc phụ huynh nào cũng phải quan tâm. Nhưng theo thời cuộc, có những lúc con người ta đâu thể thoải mái chọn một chỗ sống theo đúng ý mình. Thế nên, cái khéo của chuyện dạy con là phải giúp con giữ vững bản thân và thói quen học được những điều tốt đẹp từ những thứ có bề ngoài xấu xa.

Khi còn ở Sài Gòn, ba thuê nhà trọ trong một con hẻm sâu, phía trước là khu chợ lớn, chắc hẳn còn tấp nập, ồn ào hơn rất nhiều lần so với khu chợ gia đình thầy Mạnh Tử từng sống năm xưa. Chợ nơi ba sống, người qua lại đông, đủ tất cả những thành phần mà người ta thường dùng mấy chữ hạ cấp để nói về họ.

Đó là thằng nhỏ chạy chiếc xe cà tàng đi giao nước đá, người ốm tong teo, mặc cái quần jeans rách te tua, tóc nhuộm lất phất cọng vàng cọng đỏ, da đen lem lẻm. Ba chưa từng nghĩ rằng nhìn mái tóc sẽ nói lên con người, nhưng thật lòng thì với làn da đen, mái tóc nhuộm vàng sẽ cho người ta rất ít thiện cảm khi đối diện. Thằng nhỏ hay chửi thề, lúc rảnh thấy nó đứng phì phèo điếu thuốc. nhưng được cái tính tình dễ thương, mấy bà bán đồ trong chợ bưng vác gì nặng nó mà thấy cũng te te chạy ra xách giùm, không nề hà, không cau có. Có bữa, ba đi ngang, nghe bà tạp hóa nhắc, mày nghỉ tay ăn cái gì đi, chứ sáng giờ tao thấy chạy cả chục cuốc rồi, không mệt hả mậy. Thằng nhỏ trả lời, thôi để tui ráng chạy kiếm tiền gởi về quê cho bà già mua thuốc, giờ còn trẻ phải tranh thủ kiếm nhiều tiền, chứ lỡ hết sức, ai kiếm tiền nuôi bả. Bà tạp hóa nghe xong, chép miệng, thằng chó, còn nhỏ mà lo xa, tính như ông già. Xong lát, bà chủ tạp hóa đi ra, bưng cho nó ly mỳ gói còn nghi ngút khói.

Người ở chợ, nhiều khi cái bề ngoài của họ cũng chẳng nói lên điều gì đâu con.

Đó là bà chủ hàng rau, bốn giờ sáng đã thấy xắn ống quần, chở theo chiếc xe kéo cả đống rau trên đó để bày biện hàng. Hình ảnh ba nhớ nhất ở bà hàng rau là cái bắp đùi trắng trẻo, điểm trên đó là mấy vết sình lầy màu đen. Nếu con để ý đủ, sẽ thấy đặc điểm chung của những người đàn bà quanh năm ngồi nơi hàng chợ, là bàn chân nứt nẻ và bắp đùi lấm tấm bùn đen. Trong những vết nứt trên tay họ, chảy dọc tình thương dành cho chồng, cho con. Cho những giấc mơ rằng sau này thằng con trai lớn lên sẽ học hành đàng hoàng, “chứ đừng thất học rồi phải đi bán rau như tui”. Bà chủ hàng rau tính hay chửi mắng, càm ràm, ai thiếu tiền, mượn nợ tới kỳ không trả thì bà chửi um lên, đến bạn bán chung mà còn lắc đầu ngán ngẩm, kêu bà bớt bớt cái miệng, chứ dữ vầy rồi sau này cái miệng nó hại cái thân, khẩu nghiệp nặng thì bà chịu chứ ai. Vậy chứ, có bữa sáng thằng nhỏ trong xóm chạy xe đi học trễ, vấp làm sao té ngang vô sạp rau, đổ tung toé, tan tành. Mấy bà ngồi kế bên chắc mẩm kỳ này thằng nhỏ chắc nghe chửi đầy cái lỗ tai. Ai ngờ bà chủ hàng rau đứng dậy, ra hỏi coi thằng nhỏ có sao không, dựng giùm nó cái xe đạp, xuýt xoa nhìn cái áo trắng học sinh lấm lem bùn đất, rồi kêu mày chạy về thay áo đi học kẻo trễ. Nói xong, bà te te dắt thằng nhỏ vô trong nhà nó, nghe đâu bả nói với ba má nó là vì bả để đồ lấn ra ngoài đường làm thằng nhỏ té, nhờ vậy mà nó đỡ bị trận đòn. Con bà hàng rau ở dưới quê, nghe nói đâu cũng trạc tuổi thằng nhỏ.

Người ở chợ, miệng dữ mà tính thì lành, chửi thì chửi đó chứ đụng chuyện vẫn đặt tình người lên trên hết, hơn nhiều kẻ chức trọng quyền cao, nhưng hễ có chuyện không lành thì cứ đổ hết trách nhiệm cho đời, cho người chứ bản thân mình không bao giờ có lỗi.

Hay như chuyện ông xe ôm đầu chợ, ngày nào mười giờ trưa cũng phi chiếc xe tới, mặc quần tây, áo sơ mi đàng hoàng, rồi ngồi đọc báo, vắt vẻo trên chiếc xe máy mới tinh. Hỏi ổng đọc gì, kêu đọc coi giá vàng hôm nay lên hay xuống để chiều chạy xe ghé mua mấy chỉ cất để dành. Ai cũng cười, kêu thằng cha già, ở gầm cầu mà toàn nói chuyện thế giới, mắc mệt hà. Vậy chứ đâu ai biết chiều đó, ổng ghé vô tiệm vàng mua một chỉ vàng thiệt, cũng mấy triệu đồng chứ có ít đâu. Ông xe ôm chạy về nhà tặng lại cái nhẫn vàng một chỉ cho bà vợ cưới đã hơn ba chục năm. Mà nhà ổng đâu có nghèo, thằng con đi làm công ty nước ngoài, cũng lo cho hai người rủng rỉnh tiền xài, nhưng con cho bao nhiêu, ông già để dành ở đó, kêu lỡ nó làm ăn cần gấp thì có cái mà đưa ra cứu nó, mình còn sức khoẻ, tự chạy xe ôm nuôi thân, nuôi vợ được. Thằng con ban đầu đâu có cho ba mình đi chạy xe chịu khổ, nó hoạnh họe ổng đủ điều, nào là ba chạy vậy rồi người ta cười vô mặt con, nói con bất hiếu không lo cho ba được. Nói cho đã rồi cuối cùng ổng cũng cứ tiếp tục chạy, ổng phán xanh rờn, cái thằng vô duyên, mày lo đi làm nuôi vợ mày, tao đi làm nuôi vợ tao, tự dưng mày không cho tao nuôi vợ tao, lãng òm hà. Vợ ổng ngồi nghe, cũng phải bật cười ha hả rồi khuyên thằng con trai, thôi, ba mày quen làm, ngồi không ổng mới dễ đổ bệnh, nên con cho ba chạy xe đi, mỗi ngày chỉ được chạy mấy tiếng, đúng bốn giờ phải về với má, không má giận. Vậy là ông già nghe theo, chiều nào bốn giờ cũng lo chạy về với vợ, có khi ba giờ rưỡi có khách kêu xe ôm mà xa quá là ổng cũng hông đi, sợ lát mắc công về trễ, bả la. Mà ông già dân có tiền, nên chạy xe ôm chứ nhiều khi chảnh lắm, thấy bà nào giàu giàu, vàng đeo đỏ tay đi chợ mà cò kè bớt một ngàn, hai ngàn bó rau muống là lát có kêu xe ổng không chạy. Còn như thằng nhỏ tóc vàng chở nước đá, có bữa về quê, ổng chở ra bến xe miễn phí, khỏi lấy tiền. Ông già kêu, ở với dân chợ vậy mà vui, ít học nhưng được cái thật lòng, nghĩ gì nói đó, yêu ghét phân minh, nhiều khi chửi ào ào xong vậy chứ không để bụng, qua hôm sau gặp nhau cười hề hề dắt đi uống rượu.

Bởi mới thấy, người ở chợ nhưng chưa chắc là thấp hèn, kẻ trên phố huyện cũng chưa hẳn cao sang.

Nên nếu một mai, lỡ như nhà mình phải trong diện “gần chợ xa trường học”, ba sẽ dạy con cách nhìn những điểm tốt đẹp ở con người nơi đây, cái nào xấu, con không nên học, còn chuyện gì tốt lành, mình hãy noi theo. Hướng thiện, trừ gian là điều con người ta vẫn đang ngày ngày thực hiện, nhưng học cách tìm ra những điểm tốt từ những con người “nhìn có vẻ” không tốt để biết cách đối xử tôn trọng họ mới là điều nên làm.

Chúng ta vốn không thể chọn được nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta có thể chọn cách sống, phát triển bản thân và học cách nhìn những điều tốt đẹp từ những con người tưởng chừng như vô cùng xấu xa.

Ba tin rằng, con của ba sẽ làm được dù bài học nhìn người chưa bao giờ là điều dễ dàng với bất kỳ ai.

Con ngủ đi con, đớn đau ngoài kia, mình ba chịu được rồi…