← Quay lại trang sách

Đại biểu Quốc hội

Chiều hôm ấy, tôi trở về căn nhà cũ, ở đường Gambetta (nay là đường Trần Hưng Đạo) ở Hà Nội.

Từ ngày tôi ra đi, đã ba tháng qua, tình thế đã sáng sủa hơn trước nhiều. Dưới áp lực của hoàn cảnh - trong tháng 11, có nhiều sự kiện rắc rối, làm chết nhiều người - và dưới sự thỏa thuận của hai bên, do Tiêu Văn giật giây, ngày 19 tháng 11 Hồ Chí Minh bắt buộc phải nhượng bộ. Trước hết, là sự giải tán đảng Cộng sản, để chứng tỏ rằng các đảng viên đảng Cộng sản, vẫn tự coi là đảng tiền phong của dân tộc, đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho nền độc lập quốc gia.

Mỗi ngày một lo ngại trước những hành động chính trị của người Tàu, Hồ Chí Minh chỉ còn muốn làm sao rũ được sự có mặt của họ ở miền Bắc Việt Nam. Như vậy, ông ta như sẵn sàng gần người Pháp, như đã từng bóng gió nói cho tôi biết trước kia. Ông ta được biết, có bọn đặc vụ Pháp đã đến Trùng Khánh vào đầu tháng giêng, để điều đình thẳng với Tưởng Giới Thạch, sự thay thế quân Tàu bằng quân Pháp. Bởi vậy, đúng vào ngày bầu cử Quốc hội hôm 6 tháng giêng, ông ta đã ra một bản tuyên ngôn do báo chí Pháp nhắc lại đại để như sau:

“Chúng tôi không có hận thù gì nước Pháp và nhân dân Pháp. Chúng tôi rất khâm phục họ, và chúng tôi không muốn cắt đứt sợi giây từng nối chặt hai dân tộc chúng ta…”

Cũng phải nói thêm rằng, thành phố đầy nhóc người Tàu. Không thể đếm xuể số tướng Tàu, vì nhiều quá. Chiều nào cũng tổ chức tiệc tùng để thết đãi chúng. Nhân viên chính phủ đều đi dự. Và nhiều lần tôi nhận thấy, Chủ tịch đáng kính Hồ Chí Minh không phải rất thanh đạm như người ta thường nói. Ông ta sẵn sàng dự các trò gọi là kempe (thú uống rượu?) và đốt thuốc lá Hồng Kông hết điếu này sang điếu khác.

Mặc dù sự cùng khổ của dân chúng, và có lẽ một phần vì sự khốn khổ ấy, nên thành phố đầy những chợ đen và buôn lậu. Một trong số này là việc đổi tiền Rồng xanh, Rồng vàng. (3)

Một nghị định của viên Cao ủy Pháp ở Sài Gòn, ký vào tháng 11, ấn định sự thâu hồi tất cả giấy bạc 500 đồng, phát hành vào thời kỳ chiếm đóng của quân đội Nhật. Những người Tàu vớ được cả đống giấy này trong thời gian sang miền Bắc, được ưu đãi là nghị định của Sài Gòn không áp dụng cho miền Bắc kể từ vĩ tuyến 16 trở đi. Giấy vứt đi ở miền Nam, đem ra Bắc vẫn đổi y nguyên cùng giá, không thay đổi. Khi ở Sầm Sơn trở về, tôi hoàn toàn hết sạch. Đồng ý là tôi được nuôi ăn và ở, nhưng tôi chẳng có một đồng lương nào. Tôi liền viết thư cho mẫu thân tôi, và khi hồi âm tôi nhận được hai tờ giấy 500 đồng kỳ diệu ấy.

Thế là tôi lúng túng với số 1.000 đồng này, chẳng biết dùng để làm gì. Tôi liền đưa cả cho Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài chánh, và bảo ông ta đổi cho. Hôm sau, người ta mang đến cho tôi một phong bì do Đồng trao lại. Phong bì này đựng 2.000 đồng bằng giấy nhỏ. Tôi nghĩ rằng có thể đã có sự nhầm lẫn. Tôi liền đến bộ Tài chánh để báo, và trả lại chỗ thừa cho Phạm Văn Đồng.

Ông ta đáp:

- Không có lầm đâu, thưa Ngài.

- Sao thế. Tôi đưa cho ông 1.000 đồng mà ông lại đổi cho tôi thành 2000. Nếu như vậy mà ông điều khiển tài chính quốc gia, thì nước Việt Nam làm sao mà giữ quân bình kinh tế được?

- Thưa Ngài, tôi biết rõ tình hình tài chính của Ngài. Ông ta vẫn khăng khăng đáp lại, nhưng đây là một ngoại lệ mà tôi muốn biếu Ngài.

Tôi không rõ cái ngoại lệ này có xảy ra luôn luôn hay không?

Ít lâu sau ngày tôi từ Thanh Hóa trở về, vào dịp Tết, ở Nhà Hát Lớn có cuộc hội họp quan trọng, gần như là một đại nghị. Hồ Chí Minh mời tôi tham dự bên cạnh ông ta. Tôi mới hiểu rằng, trong thời gian tôi vắng mặt, khá lâu, dân chúng đã thắc mắc lo ngại về số mạng của tôi, mà chính phủ thì không thể nói rõ ra được. Vậy tôi nên tham dự buổi biểu dương này. Chung quanh Nhà Hát Lớn, dân chúng đã chen chúc nhau đông đặc. Sau vài bài diễn văn, nhân viên chính phủ giải tán. Tôi bảo người em họ Tường, đi theo tôi:

- Hãy để dân chúng tận bớt đi đã, rồi hãy tìm xe đón.

Nhưng khi tất cả nhân viên chính phủ đã đi hết, dân chúng vẫn đợi, không chịu giải tán. Thì ra họ đợi tôi, họ muốn được nhìn thấy tôi. Khi tôi bước ra, thì đó là cả một sự vỡ bờ. Họ xô nhau tràn đến chỗ tôi, chìa con bé ra để tôi sờ mó, xoa đầu chúng. Mặc dầu đã thoái ngôi, mặc dầu xa vắng, mặc dầu cách mạng, bao giờ cũng vẫn là sự tôn kính của thần dân đối với bản thân của vị Thiên tử của họ.

Trong những ngày kế tiếp, tôi được biết rằng, sự biểu dương kia không được chính phủ hoan nghênh, và họ tự hỏi, sao lại để tôi ở Sầm Sơn lâu như vậy.

Một buổi chiều Hồ Chí Minh bảo tôi:

- Thưa Ngài, trong thời gian Ngài vắng mặt, chúng tôi đã nhân danh Ngài để gửi một thông điệp cho nước Pháp. Đây thưa Ngài bản thông điệp ấy.

Ông ta chìa ra một tờ giấy trên đó, tôi đọc:

“Thông điệp của Hoàng thân Vĩnh Thụy, cựu Hoàng đế nước Việt Nam, gởi cho nước Pháp,

“Đầu tiên, tôi xin tỏ bày cùng chính phả Cộng hòa Pháp Quốc, và tôi trân trọng thông báo rằng, tại Việt Nam, đã thiết lập một nước dân chủ cộng hòa. Năm 1940, chính phủ thuộc địa Đông Dương đã trao hết nước tôi cho phát xít Nhật. Nhưng sau năm năm chiến đẩu dũng cảm với người Nhật, chúng tôi đã giành lại được nền độc lập của chúng tôi, kể từ ngày 20 tháng 8 năm 1945.

“Để quyền lợi của tổ quốc lên trên ngai vàng của tổ tiên tôi, và muốn được làm công dân một nước độc lập hơn là làm vua một nước nô lệ, tôi tự nguyện bằng quyền lực của mình, thoái vị ngày 25 tháng 8 vừa qua. Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam đã tuyên bố sự hình thành và chấp chính vào ngày 26 tháng 8.

“Trước thực tế đó, nước Pháp lẽ ra cử đến nước cộng hòa trẻ tuổi của chúng tôi, những nhà ngoại giao bạn, lại sai những sĩ quan tình báo, có dụng ý rõ rệt là tái đặt trong nước tôi, nền bảo hộ áp bức cũ. Nhiều binh sĩ nhảy dù được thả xuống nhiều nơi trên đất nước tôi, và được lệnh tái chiếm lấy các cơ sở hành chính và các căn cứ quân sự.

“Chính phủ chúng tôi cực lực phản đổi sự khiêu khích đó. Ở vị trí cố vấn của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tôi kêu gọi chính phủ Pháp nên ý thức trách nhiệm về sự có thể xảy ra chiến tranh giữa hai nước chúng ta.

“Tôi xin các nhà di dân cứ muốn bám lấy chủ nghĩa đế quốc lỗi thời, với tất cả thành thật, tôi muốn nói hết sự thật liên hệ đến dân tộc chúng tôi. Nền độc lập này và nền tự do này mà dân tộc này đã thu hồi lại được, nền độc lập mà họ đã phải trả với giá xương máu của họ, nền tự do mà họ đã đoạt lại được sau hai mươi năm tranh đấu không ngừng, dưới nền đô hộ của Pháp; Dân tộc tôi cương quyết bảo vệ nền độc lập và tự do ấy, bảo tồn nó, dù cho phải hy sinh đến đứa con cuối cùng của họ.

“Nhưng tin tưởng trở lại với tôi, khi tôi nghĩ đến dân chúng nước Pháp. Tôi biết dân tộc ấy, dân tộc vốn yêu chuộng tự do, luôn mong mỏi một nền hòa binh cho tất cả thế giới. Tôi đã sống trong suốt thời niên thiếu ở giữa lòng dân tộc cần cù, yêu chuộng độc lập và lẽ công bình ấy. Tôi tin rằng, lời kêu gọi của tôi đối với các người bạn của công bằng, hầu tiết kiệm cho hai nước chúng ta, những điều không may, không phải là vô ích, và lời kêu gọi ấy chẳng phải rơi vào chỗ vắng trong sa mạc.

“Tôi biết rằng, trong suốt tám mươi năm đặt nền đô hộ lên khắp nước tôi, rất nhiều nhà trí thức Pháp, theo tinh thần cao cả của nước Pháp, đã lên tiếng phản đối sự đàn áp vô nhân đạo mà chúng tôi là kẻ nạn nhân.

“Hỡi dân tộc Pháp, con dân của xứ sở tự do, giòng giõi của các bậc anh hùng liệt sĩ, của nền Cách mạng 1789, chúng tôi tin cậy nơi các bạn. Liệu các bạn có tha thứ cho bọn phát xít tà gian bôi đen lên trang sử oai hùng của nước bạn? Hãy đứng cả dậy, và hãy ngăn cản mộng tranh, bá đồ vương của họ. Nếu bạn có bè bạn, anh em, chồng ở trong hàng ngũ thực dân Pháp ở Viễn Đông, chỉ biết mơ tưởng đến chinh phục và đô hộ, hãy kêu gọi họ trở về.

“Hỡi dân chúng Pháp, quí bạn đã hiểu được ý nghĩa của mục đích mà Đồng minh theo đuổi. Quí bạn đã, trong một phần nào, góp phần thực hiện mục đích ấy. Xin quí bạn hãy làm sao để có một ngày nhớ lại trận chiến này, quí bạn có thể coi như là trận chiến để giải phóng cho khắp nhân loại.

“Dù xa cách nhau hàng nghìn cây số, tôi xin mời các bạn cùng tôi, chúng ta tay nắm tay, nhảy hòa bình với nhau để mừng cho nền hòa bình và tình hữu nghị giữa hai dân tộc chúng ta.

“Vĩnh Thụy.

“Ký tên: Hoàng thân Vĩnh Thụy, cựu Hoàng đế Bảo Đại, cố vấn tối cao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.

Tôi không hiểu được ai là người nhận bức thông điệp này, và bằng cách nào để thông điệp được gửi đi. Tôi mong rằng người nhận được bức thông điệp ấy đã hiểu được không khó khăn, đây chỉ là một văn thư ngụy tạo với tên tôi mà thôi. Dù sao nữa, họ sẽ không nhận được cách hành văn của tôi. Tất nhiên là loại thông điệp này thường thường vẫn được gởi tới các tổ chức “dân chủ” của các nước khác… Và tôi tin chắc rằng, tôi không phải là người thứ nhất và độc nhất bị đem ra để lợi dụng.

Vậy thì chính phủ Pháp quyết định cử ông Giáp đi thanh tra các tỉnh, với tư cách là bộ trưởng bộ Nội vụ. Ông ta phải đi đến tận biên giới miền Nam. Tôi đề nghị cùng đi vớì ông ta, nhưng có lẽ họ lo ngại sự hoan hô tôi ở mọi nơi, nên đề nghị trên không được chấp thuận. Giáp liền thưa với tôi rằng:

- Thưa Ngài, khi tôi về, tôi sẽ báo cáo với Ngài sau cũng được.

Một tuần sau, trong khi tôi đang ăn sáng, thì có người gọi cửa. Đó là Giáp, ông ta bảo tôi rằng: Tôi vừa mới đi các tỉnh về…

- Hãy ngồi xuống, ăn đi đã…

Ông ta có vẻ bực bội, cúi xuống ăn và không nhìn tôi. Tất nhiên, xưa nay ông Giáp vốn là người kín đáo, nhưng ngày hôm nay, mặt lại càng xịu xuống. Tôi để yên cho ông ta ăn, và không hỏi gì thêm. Khi ông ăn xong, tỏi hỏi:

- Thế nào?

- Cần phải thực tế, thưa Ngài. Ông ta trả lời nhưng đầu vẫn cúi xuống.

- Anh định nói gì?

- Tôi muốn nói là, cần phải chịu thằng Pháp vậy.

- Dù sao, thì cũng không đến nỗi lại trở lại thời đô hộ cũ, chắc thế?

- Có khi vẫn phải trở lại, nếu cần.

Trước câu trả lời lạ lùng đó, tôi kêu lên:

- Thật tôi không thể hiểu nổi các anh. Tôi nhận độc lập từ tay Nhật. Tôi thoái vị. Tôi rời khỏi quyền hành cho các anh, thế mà bây giờ, các anh lại đi thụt lùi…

- Làm cách nào bây giờ thưa Ngài? Ở miền Nam, bọn Tây đã phá guồng máy mà bọn tôi mất bao công quả để đặt ra. Nay chúng lại nắm lấy lại được hết. Chẳng bao lâu, chúng sẽ đổ bộ ra Bắc. Chúng ta làm cách nào để chống lại đây? Chúng ta có quân đội, nhưng không có đạn.

Được nhẹ nhõm vì lời thú thật đó, Giáp mới kể cho tôi nghe cuộc thanh tra của ông. Khi đến Vinh, có một sự kiện làm ông ta chú ý. Khi ông ta tới đây, nhân viên Uỷ ban có hỏi thăm về tôi. Sau khi trấn an họ là tôi vẫn khỏe, và nói thêm rằng, ông ta là đại diện chẳng những của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà còn là đại diện cả cho tối cao cố vấn chính phủ nữa. Thế là hôm sau, trong một cuộc lễ lạc, ông ta không khỏi ngạc nhiên thấy một người vác một chiếc lọng chạy theo sau để che đầu cho ông ta, Lọng che đầu vốn là một nghi trượng của quyền hành.

Tôi bảo:

- Chẳng có gì là lạ lùng cả. Vì anh nói anh là đại diện cả cho tôi, thì họ phải dùng nghi biểu của Thiên tử để đối với anh, thế thôi.

Mấy ngày sau, tôi thấy sự bối rối của Hồ Chí Minh và phe nhóm của họ. Tôi biết rằng, ông ta cùng với Giáp thường xuyên đến gặp Sainteny, để bàn về việc trở lại của quân Pháp, và đang điều đình để chia xẻ quyền hành giữa hai bên Pháp và Việt. Thật khác xa lúc ban đầu. Thế thì hai chữ “độc lập” sẽ đi đến đâu? Đối với một số người, hành động mới này có thể bị coi là phản quốc, và mặc dù còn chút quyền hành Hồ Chí Minh sẽ gặp phải sự chống đối nặng nề. Sự chống đối này được người Tàu nâng đỡ, và do các đảng đối lập mà ra, là Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Cách Mạng Đồng Minh Hội. Tất cả đều đồng thanh đòi “tống cổ bọn Việt gian, đã bán rẻ nền độc lập” này. Tôi biết rằng tên tôi thường được nhắc đến nhiều lần trong các cuộc điều đình. Một cuộc biểu tình đã được dự trù để mời tôi ra chấp chính, cầm đầu quốc gia.

Ngày 27 tháng 2, mới 7 giờ sáng, tiếng chuông điện thoại reo vang. Đó là Hồ Chí Minh gọi tôi:

- Thưa Ngài, tôi có thể đến gặp Ngài ngay bây giờ?

Thấy tôi bảo được, ông ta đến ngay. Trông ông ta tuyệt vọng ra mặt, và người tiều tụy bé nhỏ hẳn lại hơn thường nhật. Mới vào, ông ta bảo tôi:

- Thưa Ngài, tôi không biết làm thế nào bây giờ? Tình thế rất khó khăn. Tôi biết chắc rằng bọn Pháp không muốn điều đình với tôi. Tôi không được Đồng minh tín nhiệm. Ai cũng thấy tôi quá “đỏ”. Vậy tôi xin Ngài, làm cuộc hy sinh thứ hai là Ngài nhận lại quyền hành như trước.

- Tôi đã nhận thoái vị, và tôi không bao giờ muốn trở lại nữa. Hẳn Cụ biết, tôi không có tham vọng chính trị nào, và tự đặt một cách thành tín dưới quyền điều khiển của chính phủ dân chủ cộng hòa…

Ông ta nài nỉ:

- Ngài thay chỗ cho tôi, và tôi lại trở thành cố vấn thay Ngài…

- Thế nhưng ai trao quyền cho tôi bây giờ?

- Ngài sẽ được Quốc hội tấn phong, y như kiểu tất cả bên chính phủ dân chủ thường làm.

- Thế nhưng tôi có quyền tự do lập chính phủ theo tôi, hay là phải lấy các nhân viên của Cụ?

- Ngài được tự do hoàn toàn để lấy ai, tùy Ngài. Ông ta trấn an tôi như vậy.

- Nếu Cụ cho rằng, quyền lợi và nền độc lập của quốc gia đòi hỏi, thì tôi nhận. Nhưng tôi xin Cụ để cho tôi một chút suy nghĩ và thăm dò các bạn hữu của tôi đã.

Từ biệt ông ta, tôi dùng điện thoại gọi ông Nguyễn Xuân Hà và Trần Trọng Kim và bảo họ rằng:

- Tôi có một đề nghị quan trọng muốn bàn với các ông. Hãy tập họp ngay với các bạn bè, tôi sẽ đến sau.

Đến tám giờ rưỡi, tôi đến nhà họ. Tôi cho họ biết sự nói chuyện giữa Hồ Chí Minh với tôi, đề nghị của họ Hồ. Tôi bảo họ:

- Các ông có cho rằng, đây là một cái bẫy sập?

Không ai nghĩ là thế, và Trần Trọng Kim bảo tôi:

- Ai cũng biết rằng Việt Minh đang thường xuyên gặp gỡ Sainteny, và sự chuẩn bị ký kết với Pháp đang được bàn cãi. Đề nghị của Hồ Chí Minh là thành thực, nếu ông ta không ký được các khoản ẩy. Theo ý tôi, thì thưa Ngài, Ngài nên nhận lời.

Đến 10 giờ sáng, Hồ Chí Minh lại gọi tội, và thúc giục tôi nhận lời.

- Ngài đã gặp các bạn chưa? Xin Ngài đừng để mất thời gian, và xin cho biết danh sách để trình trước Quốc hội.

Đến trưa, tôi gọi cho ông ta và bảo là tôi đồng ý. Trong thời gian chờ đợi này, tôi hiểu là một trong bọn người của họ vừa thảo luận với tôi, đã liên lạc được với Thiếu tá Buckley, của cơ quan OSS. Viên này không tỏ ý ngạc nhiên gì về thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đã hứa là người Mỹ sẽ trung lập về vấn đề này, vì đó là thuộc hoàn toàn nội bộ của Việt Nam.

Đến 13 giờ, thì chuông điện thoại lại reo. Hồ Chí Minh mời tôi đến gặp ông ta.

Khi tôi đến, tôi nhận thấy thái độ khác hẳn của ông ta. Ông có vẻ như bị bất mãn, mà nay đã lấy lại được thăng bằng.

- Thưa Ngài, xin Ngài hãy quên những điều tôi nói ban sáng. Tôi không có quyền từ bỏ trách nhiệm, vì hoàn cảnh khó khăn. Trao trả lại quyền cho Ngài lúc này, có thể coi như sự phản bội của tôi. Tôi xin Ngài tha lỗi cho một phút yếu lòng, và đã nghĩ trong trường hợp này, trả lại trách nhiệm cho Ngài, tôi đã nghĩ đến từ nhiệm, nhất là do sự đối lập của các đảng phái quốc gia, đối với các điều khoản mà tôi sẽ ký với Pháp.

Như vậy thì cái gì đã xảy ra lúc 10 giờ đến 13 giờ?

Tôi nghĩ rằng, sự thay đổi thái độ của họ Hồ, là do được sự bảo đảm của Moscou, qua phái đoàn Ba Lan, thay mặt họ, hiện đóng ở Hà Nội.

Có lý hơn, chắc do Tướng Tiêu Văn đã gây nên trò Lục Sở này. Hẳn là Tiêu Văn được thuyết phục bởi cái chất liệu loảng xoảng mà bọn Việt Minh đã đấm mõm, nên anh ta đã dùng Lư Hán làm áp lực với phe quốc gia - nhất là với Việt Nam Quốc Dân Đảng - để buộc họ phải tham gia vào chính phủ. Như vậy, họ sẽ phải chịu chung trách nhiệm về chữ ký trong bản hiệp định giữa người Pháp và Việt Minh, làm cho Việt Minh khỏi mang một mình trách nhiệm trước công luận.

Kể từ phút ấy, Hồ Chí Minh yêu cầu tôi cùng làm việc với ông ta trong các dự thảo các bản hiệp định quí hóa này. Chiều nào trong một tuần lễ liền, chúng tôi cũng gặp nhau. Ý thức được sự yếu ớt của mình và của Việt Minh, Hồ Chí Minh rất băn khoăn muốn tiến tới một kết quả. Đối với ông ta, nhờ hiệp ước ký với Pháp, ông ta sẽ rũ được bọn Tàu. Đó là mục đích chính và duy nhất mà ông ta theo đuổi: Đuổi Tàu ra, rước Pháp vào. Nhưng trong cùng thời gian, ông lại muốn Tàu hãy cầm chân Pháp, hãy ra chầm chậm, để được bảo đảm nhiều hơn nữa.

Trong những ngày ấy, tình hình khá sôi nổi ở Hà Nội, và đã có nhiều đụng chạm xảy ra. Những sự gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh, với người Tàu, người Pháp tăng mãi lên. Trái với tất cả những điều đã xảy ra tự khi tôi đến Hà Nội, tôi hoàn toàn mù tịt, không tiếp xúc với ai, kể cả Tàu và Pháp.

Hồ Chí Minh vừa được sự đồng tình của các đảng phái, không muốn để mặc sự việc tự ý xảy ra, liền quyết định cử một phái đoàn đến gặp Thống chế Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh. Ông ta mời tôi tới, và yêu cầu tôi nhân danh cố vấn tới cao chính phủ, để cầm đầu phái đoàn, vốn đại diện cho mọi xu hướng chính trị khác nhau. Ông ta sợ bị các tướng quân phiệt Tàu phản bội, và mong rằng sự có mặt của tôi và thành phần của phái đoàn sẽ làm cho Thống chế có thiện cảm với chính phủ lâm thời. Thế mà Trùng Khánh vừa thỏa hiệp cho phép quân đội Pháp được đổ bộ ra Hà Nội. Sainteny đã báo cho Hồ Chí Minh biết. Hơn nữa, Trùng Khánh không bao giờ công nhận chính phủ của chúng tôi. Trong trường hợp ấy, tôi không thể nào nhận được công tác và giải thích với chủ tịch:

- Cụ không nên mạo hiểm thế được. Với hiệp ước vừa mới ký giữa Trùng Khánh và Pháp, Tưởng Giới Thạch sẽ không tiếp tôi. Như vậy, thì cả Cụ lẫn tôi, đều mất mặt.

Hồ Chí Minh cho là đúng, và chúng tôi đến chỗ ấy, nhưng ông ta vẫn cử một phái đoàn không có tôi trong đó.

Ngày hôm sau, khi tôi vừa ra cửa, tôi gặp một viên tướng Tàu, vốn là hàng xóm của tôi ở đường Gambetta. Hình như ông ta đã biết đề nghị của ông Hồ về việc này, ông ta nói, nhanh nhẩu:

- Thế nào, sao Hoàng thượng lại không muốn sang Trung Hoa? Thật đáng tiếc. Hoàng thượng nên lợi dụng cơ hội này, dù chỉ là một chuyến đi chơi.

Thế rồi ông ta nói nửa đùa nửa thật:

- Với tất cả bọn điên này, người ta không hiểu rồi sẽ đi đến đâu?

Điều nhận xét cuối cùng này làm tôi suy nghĩ. Biết đâu cuộc gặp gỡ này, chẳng phải tại lòng trời. Sự can thiệp của ông ta có thể là một lời mời trá hình, của Thống chế Tưởng Giới Thạch.

Cũng ngày hôm ấy, quân đội Pháp đổ bộ Hải Phòng và đã có chạm súng nặng nề; có nhiều người chết. Tôi cần phải giữ mình cho tương lai. Người Pháp đã quyết định điều đình với Hồ Chí Minh, sự có mặt của tôi không nên làm cản trở tình thế. Vì nước Pháp đã tỏ ra tin cẩn bọn cựu tù nhân, rồi người ta sẽ hiểu, còn tôi thì chẳng nên dính líu vào việc này. Tôi liền tự liệu. Ngày hôm sau, tôi đến trụ sỡ của chính phủ, để gặp Hồ Chí Minh và bảo ông ta:

- Cụ chẳng cần đến tôi ở đây. Giáp và Đồng sẽ giúp đỡ cụ. Tôi đi chơi một chuyến sang Tàu.

- Thưa Hoàng thượng, được lắm. Ông ta trả lời tôi với sự hài lòng. Ngài có thể đi chơi, rất bình thản. Đừng ngại gì, vì chúng ta đang làm việc cho hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.

Các chuyến bay với nước Tàu, lúc ấy không nhiều. Cuối cùng, tôi đi cùng với phái đoàn chính phủ. Phái đoàn này gồm sáu người: bốn đại diện cho Việt Minh và hai là người của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Chú thích:

(3) Rồng vàng: Giấy 500$ giữ y nguyên giá trị, Rồng xanh: Giấy 500$ bị hủy bỏ.