← Quay lại trang sách

Tạm nghỉ ở Trung Hoa

Ngày 16 tháng 3 năm 1946, tôi rời Hà Nội. Chiếc DC-3 chở chúng tôi, đầy nhóc hòm xiểng, có lẽ chứa toàn đồ đã thổ phỉ được, do khoảng mười hai sĩ quan Tàu áp tải kèm. Bọn này chiếm những chỗ tốt trong máy bay, còn phái đoàn của chúng tôi thì bị nhét xuống dưới, gần nơi chứa đồ ở cuối tàu. Sáu người trong phái đoàn này, đều lạ hoắc đối với tôi, trừ có một người, hình như đã gặp được ở đâu rồi. Đây là lần đầu tiên trong đời họ đi máy bay, nên không che dấu được sự e ngại, lo âu.

Máy bay lượn trên những đồng ruộng vuông như bàn cờ, cắt ngang bởi giải sông Hồng, rồi men theo châu thổ sông Lô của vùng thượng du Bắc kỳ. Sau đó, qua dãy núi trọc nhấp nhô, thì đến vùng đồng bằng của tỉnh Vân Nam. Mất ba giờ bay, kể từ lúc ra đi, chúng tôi đáp xuống phi trường Côn Minh, ở trên độ cao 2000 thước.

Trời mát mẻ và khô ráo, khác hẳn khí hậu ẩm ướt của Bắc kỳ.

Chiếc DC-3 này chỉ đi tới đây mà thôi. Chúng tôi phải sang máy bay khác, để đi Trùng Khánh, nhưng phải chờ cả tuần mới có máy bay khác.

Cuối cùng, ngày 23, chúng tôi tới Trùng Khánh nơi có chính phủ trung ương. Cuộc đáp xuống khá vất vả. Phi trường được cất trên một giải đất hẹp giữa sông Dương Tử, và một nhánh của nó là sông Gia Linh (Kialing) để gặp đổ vào nhau ở đầu kia.

Để tránh cho khỏi bị ngập lụt, trong những vụ nước lớn, phi đạo được lát bằng những phiến đá lớn, nên rất sóc khi bánh máy bay chạm đất.

Từ sân phi trường một bệ cao tới 300 bực đưa đến thành phố. Khi vừa đặt chân lên hết bệ đá, thật là một ổ kiến người đông nghẹt chen chúc nhau. Thành phố đông tới ba triệu dân. Qua nhiều phố hẹp, có những cổng xây ngang, chúng tôi được đưa đến khách sạn Tứ Thời là khách sạn sang trọng nhất của thủ đô. Tôi ở một phòng khá rộng, còn sáu vị đồng hành thì chia nhau ba buồng khác vẻ tiều tụy. Danh từ Tứ Thời thường gặp rất nhiều ờ Trùng Khánh vì thời tiết của lục địa để hiển hiện rõ ràng: Mùa xuân về ban sáng, mùa hạ về ban trưa, mùa thu về ban chiều, và mùa đông về ban tối.

Đến ngày hôm sau nữa, viên bí thư Quốc dân đảng đã cho lời mời của Thống chế Tưởng Giới Thạch, đến mời tội dự tiệc ban chiều. Giấy mời được đề là gửi cho Hoàng đế Bảo Đại, và không có nhắc gì đến phái đoàn cả.

Thống chế ngự ở trong Cấm thành, có nhiều tường bao quanh, làm tôi nhớ đến hoàng cung ở Huế. Một chiếe xe ô tô, có tài xế, đến đón tôi ở khách sạn. Bí thư Quốc Dân Đảng là ông Chan tiếp đón tôi. Ông này là cựu sinh viên trường thày dòng ở Đại học đường Bình Minh (Aurore) ở Thượng Hải nói tiếng Pháp rất thạo.

- Kính tâu Hoàng thượng, sự chiếu cố của Hoàng thượng đến ngôi nhà này thật là một điều vinh hạnh lớn, chủ nhân nói nếu được Hoàng thượng ngụ luôn ở đây. Thật là một điều vô cùng quý báu mà tôi nhận được bức điện tín của Tướng Tiêu Văn, và nếu được Hoàng thượng cho phép tôi là kẻ dẫn đường, tôi xin kính đưa Hoàng thượng đến tận nơi dự tiệc.

Trong phòng đại khánh tiết, đã túc trực sẵn một số tướng lãnh và nhân vật cao cấp của chính phủ, ai nấy đều vận lễ phục. Y như một vở kịch được tập dượt rất khéo, đúng lúc tôi vừa đến cửa, thì Thống chế Tưởng Giới Thạch cũng từ phía cửa kia bước ra. Thống chế tiến tới phía tôi, tỏ vẻ vô cùng kính trọng, và rất lịch sự quí phái, trong chiếc áo thêu dài tới gót chân. Người rất là trịnh trọng và lễ độ tuyệt vời. Trong suốt bữa tiệc, ông đã tỏ ra rất thành thạo về tình hình ở Việt Nam. Ông Chan làm thông ngôn.

Trong suốt thời gian ấy, phái đoàn cứ dậm chân tại chỗ, và không ai buồn chủ ý tới. Người trưởng phái đoàn đến yêu cầu tôi can thiệp để được tiếp kiến, vì đợi đã lâu ngày. Tôi đã cố gắng thuyết phục viên bí thư của Quốc dân đảng Tàu xin giúp cho phái đoàn, và tôi giải thích cho ông ta:

- Sự đoàn kết quốc gia hiện nay đã được hình thành ở Việt Nam, và phái đoàn đi chung với tôi, gồm đại diện của tất cả hai đảng lớn đang cầm quyền ở Việt Nam. Ai cũng là những người bạn trung thành của chính phủ Trung Hoa cả.

Ông Chan đáp:

- Thưa Hoàng thượng, phái đoàn này có nhiều người cộng sản, và người cộng sản thì không thể nào bạn với nước Trung Hoa Dân Quốc được…

Cuối cùng, sau nhiều ngày chờ đợi, phái đoàn chỉ được tiếp trong một ngôi chùa ở giữa thành phố.

Nhân viên phái đoàn đã trở về, vô cùng thất vọng, Thống chế Tưởng Giới Thạch chỉ đến đủ để nghe đọc bức thông điệp của Hồ Chí Minh, rồi sau mấy câu cám ơn khô khan, thống chế chỉ nói vắn tắt rằng nước Trung Hoa đã tham chiến cạnh Đồng Minh và đang đứng trong hàng ngũ “Tứ cường” chỉ muốn trông thấy ở giáp biên thùy mình những nước láng giềng thân hữu mà thôi…

Vài hôm sau, Tướng Marshall vừa thay thế Tướng Hurlet được hai tháng, tỏ ý muốn gặp tôi. Tôi liền đến thăm ông ở văn phòng.

Ông rất quan tâm đến vấn đề Việt Nam, và muốn tự tôi nói ra, đầu đuôi cuộc cách mạng đã đưa Việt Minh lên nắm chính quyền. Tôi kể cho ông nghe các tình tiết từ tháng tám và tháng chín vừa qua, và nhấn mạnh rằng cuộc trao quyền không gặp vướng vấp khó khăn nào ở Hà Nội. Tôi cũng nhắc lại cho ông rõ rằng, tôi tự ý lẩn đi mà thoái vị, cho Việt Minh hưởng lợi, chính là để tránh mọi đổ máu mà thôi. Tôi cũng có ý tỏ cho ông biết, tính chất quốc gia, toàn dân tự đặt dưới quyền điều khiển của Hồ Chí Minh, vì tất cả người Việt Nam nào cũng đều mong muốn cho nước nhà được độc lập và thống nhất, đúng như nguyện vọng của họ.

Viên tướng này từng đóng vai trò hòa giải giữa hai lãnh tụ Trung Hoa là cộng sản Mao Trạch Đông với quốc gia Tưởng Giới Thạch, để đem lại hòa bình cho Trung Hoa, mới đặt câu hỏi cho tôi rằng:

- Thưa Hoàng thượng, Hoàng thượng có thể cho tôi biết ý kiến về Quốc dân đảng Tàu?

- Thưa Đại tướng, tôi biết rất ít, và cũng không thành thạo lắm, để có thể đưa ra một ý kiến giá trị được. Nhưng tôi đã trông thấy những hành động của các ông tướng Tàu và binh sĩ của họ khi sang Bắc kỳ, thì tôi thấy cũng không mấy sáng sủa. Tôi e rằng nếu toàn quốc cũng đều như vậy.

Chúng tôi từ giã nhau, sau câu nói đó.

Tôi cảm thấy trước rằng, nước Việt Nam với tân chế độ này, không được cảm tình của cả Tàu và Mỹ. Riêng đối với Trung Hoa, giữa lúc mà Tưởng Giới Thạch phải đương đầu với cuộc nội chiến vừa mở ra đối với phe cộng sản của Mao Trạch Đông, thì lẽ dĩ nhiên ông ta không bao giờ lại mong muốn ở biên giới phía Nam của mình, có một nước cũng theo cùng chủ nghĩa với kẻ thù nội địa của ông. Trước thất bại ấy, phái đoàn chuẩn bị trở về Hà Nội. Tôi cũng quyết định đi cùng một chuyến máy bay ấy. Đã một tháng qua, kể từ khi chúng tôi rời Hà Nội. Ngày 15 tháng 4, chúng tôi lại trở lại Côn Minh. May mắn hơn kỳ đến, lần này đã có một chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh đi Hà Nội ngay.

Trong khi chúng tôi sửa soạn để lên máy bay, thì một mảnh điện tín được mang đến cho tôi. Đây là bức điện của Hồ Chí Minh:

“Thưa Ngài, công việc ở đây đang tốt đẹp. Ngài có thể đi chơi nữa. Hơn nữa, Ngài sẽ rất có ích cho chúng tôi, nếu vẫn ở lại bên Tàu. Đừng lo ngại gì ca. Khi nào sự trở về của Ngài là cần thiết, tôi sẽ báo sau. Xin Ngài cứ tịnh dưỡng để sẵn sàng cho công tác mới.

Ôm hôn thắm thiết.

Ký tên: Hồ Chí Minh”.

Ông chủ tịch không muốn tôi trở về. Tôi chào từ biệt phái đoàn, họ vội lên máy bay ngay.

Máy bay đã chỉ còn là một cái chấm ở chân trời. Trên căn cứ quân sự cũ của Mỹ này, tôi thật cô đơn. Tôi liền ngồi xuống bực lên xuống của phi trường, để định vị trí. Chẳng những tôi cô đơn, thui thủi một mình, mà còn hoàn toàn trơ trụi. Không một xu dính túi. Trong thời gian tôi nghỉ tại đây, chính phủ Trung Hoa lo liệu mọi mặt cho tôi. Nay chiếc va ly đựng hành lý cũng bay theo phái đoàn đi mất. Tôi không còn quần áo để thay nữa. Kể cả giấy tờ tùy thân. Trước hoàn cảnh ấy, tôi bỗng bật cười. Tôi mở tờ điện tín của Hồ Chí Minh ra đọc: “… Ôm hôn thắm thiết”.

Quả nhiên, đây là tay đại hề, đóng kịch rất tài. Khi thì đạo mạo như cha già, khi thì thân thiết, rồi lại ẻo lả, yếu mềm, hay nghiêm trang, trịnh trọng, nhiều khi trào lộng, mỉa mai. Tất cả những ai đã ở gần ông ta, đều tự lừa, hay đã bị lầm. Người Mỹ, rồi Sainteny, thêm tôi nữa, ngay lúc ban đầu cái bản kia nữa. Khi tôi biết được quá khứ của ông ta, sự giao dịch đã rất trơn tru. Tôi biết ở trước mặt tôi, là ai rồi, sau cái mặt nạ này. Một chiến binh mác-xít, một kẻ đã chai đá sau hơn ba mươi năm chiến đấu, bị đảng chi phôi, trói buộc chặt chẽ rồi, một chiến sĩ đầy thủ đoạn. Thừa khả năng chịu đựng, dám tất cả mọi sự lừa lọc, biết người, biết nhược điểm của họ, để khinh bỉ họ, kiên nhẫn cùng cực, và quyết theo đuổi kỳ cùng mục tiêu của mình. Sẳn sàng giả trá mọi mặt, nhưng cuối cùng thì quyết liệt, rắn như sắt. Đầy tế nhị, và thông minh, và bất nhân đến độ bạo tàn. Lúc nào cũng như sẵn sàng ôm ấp, yêu đương mình để bóp chặt kín đáo không ai có thể ngờ.

Theo đảng cộng sản Mác-xít do hoàn cảnh thực tế giai đoạn, bởi chủ nghĩa này trong chiến lược toàn cầu, nhận thấy sự nổi dậy của tất cả các sắc dân bị trị, nên ông ta nhắm mắt tuân theo, không biết đến lý luận hay bàn cãi gì nữa. Khi đã vào đảng rồi, ông ta đã nhìn với nhãn quan của chủ thuyết này qua lăng kính một chiều của nó.

Bây giờ, ông ta cho rằng, sự trở về Hà Nội của tôi sẽ đem đến cho tôi nhiều bất trắc nguy hiểm. Người Pháp trở lại - chính ông ta đã ký kết với bọn này - đưa đến cho tôi những bất trắc ấy. Thật sự, sự có mặt của tôi chỉ làm cho ông ta khó chịu. Những cuộc hoan hô tôi, sự kính trọng của nhân dân vẫn tôn phò tôi như vị thiên tử, chính là trở ngại làm cho ông ta muốn rũ tôi đi cho rảnh mắt. Chính là lý do duy nhất mà ông ta muốn tôi ra Sầm Sơn trước kia, mà nay thì ở nơi đây. Có người đã nghĩ rằng, ông ta muốn thủ tiêu tôi nữa. Có thể thật dễ để tôi sống, tôi còn có thể phục vụ cho quyền lợi và ý đồ của ông ta. Như vậy, thì còn có sự tôn phò nào quí giá hơn…

Tôi đang nghĩ tới đó, thì thấy một người đến đứng phía sau lưng. Ngoảnh đầu trông lại thì đây là một người Trung Hoa, vận âu phục, hơi có vẻ lớn hơn tôi ít tuổi. Ông ta cười và hỏi:

- Ông nói tiếng Pháp ạ?

- Dạ vâng. Tôi đáp, vì sung sướng được nói chuyện với bất cứ ai lúc ấy.

Ông này tự giới thiệu:

- Tôi là Yu, trước luật sư ở Paris.

- Tôi cũng đã theo học ở Pháp. Tên tôi là Vĩnh, sanh ở Việt Nam. Tôi đi du lịch và vừa lỡ chuyến bay…

- Thế ông ở đâu?…

Thấy tôi ngập ngừng, ông hiểu ngay hoàn cảnh của tôi, và nói nhanh:

- Xin mời ông đến nhà tôi ạ. Tôi là con của vị Thị trưởng ở đây. Ông cụ tôi mất được ít lâu nay, chính vì thế mà tôi trở về nước. Rồi ông sẽ thấy nhà tôi khá rộng, và ông sẽ được hài lòng.

Tôi đã đến và được cả gia đình quí trọng. Nhà rộng, xây kiểu xưa, có bà Yu, và cụ nội ông ta, các anh chị em và nhiều gia nhân. Từ khi ông cụ chết đi thì gia chủ ngôi nhà là ông bạn này. Tất cả mọi người đã tỏ ra kín đáo và không ai dám thắc mắc gì.

Trong thời gian tôi đi với phái đoàn ở Côn Minh, tôi không có dịp đi thăm thành phố. Nay thì tôi có thể đi thăm, và Yu tỏ ra là người dẫn đường thành thuộc.

Côn Minh trước kia gọi là Vân Nam phủ, là một tiểu thủ đô về thời trung cổ. Thành phố rất đẹp, đường phố hẹp, nhà cửa mái ngói đỏ tươi, thời kháng chiến chống Nhật đã đóng vai trò quan trọng. Thật vậy, vì nằm ở cuối con đường xe lửa Vân Nam do người Pháp thiết lập, để thông xuyên đến vịnh Bắc kỳ qua cửa bể Hải Phòng, đồng thời cũng là cửa ngõ quan trọng để thông với Miến Điện, mà người Anh lập nên, tốn kém không biết bao nhiêu tiền của. Người Mỹ đã thiết lập ở đây một căn cứ không quân, để tiếp viện cho Trung Hoa Dân quốc rất nhiều dụng cụ viện trợ. Cũng từ căn cứ này, xuất phát các tuyến bay cho mọi phi vụ cho khắp cả vùng Đông Nam Á châu.

Vì vậy, khi các binh sĩ Mỹ vừa bỏ đi, dân chúng cả triệu người vẫn còn sống trong sự phồn vinh, mặc dù giả tạo. Đường xá của tân thành phố còn đầy những xe nhà binh đủ loại: xe GMC, xe Jeeps, cả các xe dân sự nữa. Các cửa hàng cũng tràn ngập hàng hóa.

Nhờ sự hảo tâm của chủ nhân, tôi có thể mua sắm được mấy bộ quần áo để thay đổi. Trong một cửa hàng bán quần áo cũ, tôi đã mua đầy đủ một bộ cánh nhà binh: áo lót, áo sơ mi, quần, áo choàng, và thêm vào đó… sao lại không, chiếc mũ ca-lô đầy huy hiệu sặc sỡ. Thay bộ đồ ngay tại chỗ, tôi lấy làm ngạc nhiên khi ra đường gặp các binh sĩ Trung Hoa nghiêm chào. Khi kể chuyện với ông Yu lúc về nhà, ông này cho biết, tôi đã vô tình vận bộ binh phục của viên Đại tá Không quân Mỹ. Thế là cả nhà reo mừng đùa là tôi mới được thăng chức nhanh chóng.

Ở nhà ông Yu, chúng tôi như sống lại cuộc đời du học sinh khi xưa ở Paris: đi chơi, đi câu và ban tối, xoa mạt chược liên miên. Nhưng sự nghỉ ngơi đó rồi cũng hết. Một hôm, chúng tôi vào một quán giải khát. Trong khi đang tìm chỗ, một thanh niên chạy đến bên tôi, chắp hai tay vái lạy, rồi lắp bắp:

- Tâu Hoàng thượng, Ngài vẫn còn được bình an…

Trước sự hoảng hồn của ông Yu, tôi vội vàng đỡ người này dậy. Đây là một thanh niên xứ Huế, trước kia thuộc phong trào thanh niên của Phan Anh, mà tôi đã có lần gặp gỡ.

Tôi phải giải thích cho ông Yu lý do sự ẩn danh của tôi. Chẳng những ông ta không đổi thái độ, mà còn mời luôn cả Bùi Minh cùng về theo. Người thanh niên này trước đây là đảng viên đảng Đại Việt, đã phải bỏ chạy khỏi Hà Nội, sang Côn Minh, sống đời lưu vong nghèo khổ, nay là bạn đồng hành của chúng tôi. Khi về nhà, Yu đã kể lại cho cả nhà nghe về tông tích của tôi. Ai cũng sung sướng, và lấy làm vinh hạnh được tiếp đón và chiêu đãi tôi, trong khi tôi đang bị thất thế ba đào.

Yu liền mua một chiếc Jeep, và từ đó chúng tôi đi chơi xa hơn, để khám phá ra những vẻ đẹp của vùng ven đô Côn Minh. Rất nhiều hồ rộng, đường đèo, và nhiều kiến trúc cổ xưa. Như vậy, chúng tôi đã thăm nhiều ngôi chùa cổ rất đẹp. Trong một ngôi chùa mà chúng tôi thường đến thăm, tôi làm quen với một vị đại lão hòa thượng, chủ ngôi chùa. Đây là một vị sư già rất đạo mạo, đoán được vị lai. Tôi liền tự giới thiệu là một kẻ giang hồ lãng tử, lưu vong bốn bể không nhà. Phải đâu tôi nói dối? Dù thế nào sư cụ cũng tỏ vẻ hiền từ đối với tôi, và một hôm, sư cụ bảo tôi vào phía trong phương trượng, để đoán số cho tôi. Sư cụ là nhà xem tướng trứ danh, và bảo tôi rằng, tướng của tôi có rất nhiều nét cô đơn rất thích hợp cho cuộc sống tu hành. Rất băn khoăn trước lời đoán đó, tôi tự hỏi. Trước kia mẫu thân tôi chẳng từng bảo, tôi là một vị Phật giáng sanh xuống trần đó sao? Tất cả những biến cố vừa qua há chẳng là những lý do đưa tôi đến chỗ phải thế phát qui y ở ngôi chùa hẻo lánh trong thâm sơn cùng cốc này đó sao? Trong nhiều ngày, tôi đã suy nghĩ đến lời mời của nhà sư, và sắp đến chỗ nhận lời. Khiếu ưa tĩnh, thích suy tư, rất thích hợp cho tôi cuộc sống này. Nhưng, mới ba mươi ba tuổi, tôi e rằng chưa thể khắc phục nổi sự ép xác của nếp sống tu hành, vì tôi nhớ lại thời thơ ấu, đã từng sống trong cô đơn như vậy. Từ thâm tâm, hiện nay tôi rất thoải mái trong tự do, bởi đã thoát được bao điều hệ lụy. Phải chăng, chính là nhờ sự vô danh, tôi không còn phải đeo những nhãn hiệu nặng nề của lễ nghi và những điều phiền toái đầy tràch nhiệm của một vị Quốc trưởng lãnh đạo quốc gia, trong hoàn cảnh đầy chua chát.

Có hai người con trai của Đại tướng Long Vân, tỉnh trưởng Vân Nam cũng thường đến chơi. Hai ông này đều là cựu sinh viên trường Võ bị Saint-Cyr ở Pháp, tôi cũng nói thật cả. Họ đã hứa là giữ bí mật việc này, và chúng tôi thường đi chơi với nhau, họp thành một nhóm thân hữu đáng quí,

Tuy tôi có báo tin cho ông Hồ Chí Minh về chỗ ở hiện tại của tôi, cũng vẫn không có tin tức gì từ Hà Nội gởi đến cho tôi. Bấy giờ, tôi mới chắc chắn rằng, ông ta không mong gì sự trở về của tôi cả.

Cuộc nghỉ ngơi kỳ thú này kéo dài được hơn một tháng, thì tôi nhận được giấy mời của ông Chan, bí thư Quốc dân đảng, mời tôi lên Trùng Khánh. Thật lạ lùng, ông Yu cũng nhận được giấy mời tương tự. Ông ta không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, và giải thích rằng, cũng như Chan, ông là sinh viên của Đại học đường Bình Minh ở Thượng Hải, nên thường được mời lên thủ đô như vậy.

Yu đề nghị đi cùng với tôi, tôi rất thích, nên hôm sau cùng lên máy bay. Như đã từng hứa hẹn trước kia, ở lần gặp gỡ đầu tiên, ông Chan mời tôi đến ở nhà ông ta ở giữa thành phố. Tôi cám ơn, nhưng xin được ra ở riêng ở khách sạn Tứ Thời mà tôi đã từng cư ngụ. Lợi dụng sự bình thản, tôi đọc các sách nói về nước Tàu, và đánh quần vợt, mà tôi đã tạm bỏ chơi, kể từ ngày xa Huế.

Chan dành cho tôi một chiếc ô tô, và tôi không bỏ lỡ dịp đi tắm ở các suối nóng, rải rác xung quanh Trùng Khánh. Những cuộc du ngoạn ấy thường đưa tôi qua vùng đất Tứ Châu (Seu-Tchouen), rất đẹp với những đồi thông mát mẻ, làm tôi xa lánh được sự ồn ào của thành phố, tạm lập làm thủ đô kháng chiến, với đầy đủ cơ sở chính phủ trung ương và người tản cư lánh nạn trong thời chiến tranh, nên không khí thật vô cùng tấp nập. Ngày tạm cư ở Trùng Khánh của tôi, chỉ có ba lần về Côn Minh ngắn ngủi, để thăm ông Yu và hai con Đại tướng Long Vân, trong ngôi nhà nghỉ mát ở vùng quê của họ.

Đầu tháng tám, Quốc dân đảng báo cho tôi biết có người đồng hương tới thăm. Lấy làm ngạc nhiên, tôi ra tận phi trường đón xem ai. Đây là một người khá lạ lùng, tuổi trạc ba mươi nhưng chắc chắn không phải là dân Việt Nam chính cống.

Vừa ngồi vào xe ông ta tiết lộ:

- Thưa Hoàng thượng, tôi là đại tá trong cơ quan tình báo hoàng gia của Thiên hoàng, và tôi có nhiệm vụ tìm hiểu mọi hoạt động của Quốc dân đảng Trung Hoa. Tôi sanh đẻ ở Nhật, cha là người Nhật, mẹ là Việt Nam. Tôi được cử đến đây để làm bí thư cho Hoàng thượng.

Câu chuyện có vẻ hài hước, và tôi không nhịn được để bảo ông ta:

- Tôi tưởng rằng các sĩ quan cao cấp Nhật thường mổ bụng tự sát, theo truyền thống của hiệp sĩ đạo. Tại sao lại không phải là ông?

- Thưa Hoàng thượng, các sĩ quan ngành tình báo thì không, vì bị nghiêm cấm, họ phải sống để làm việc cho tương lai của đế quốc Nhật Bản. Khi sứ mạng của tôi đã xong, tôi sẽ trở về Sài Gòn, qua ngả Manille, lúc ấy sẽ đầu hàng quân đội Anh.

Kể từ ngày ấy, ông ta không rời khỏi tôi nửa gót. Đóng vai bí thư cho tôi, ông ta không để lỡ một dịp nào mà không thu thập tài liệu và tin tức cần thiết. Chan mà tôi thường gặp, báo cho tôi biết Thống chế Tưởng Giới Thạch sắp trở về Nam Kinh và cả chính phủ cũng dời đô luôn. Ông cũng cho biết là Thống chế rất lấy làm hân hạnh, nếu tôi sẵn lòng đi theo về Nam Kinh, ở đó tôi sẽ là thượng khách của Ngài.

Quả nhiên, đến cuối tháng tám, Thống chế rời Trùng Khánh.

Vị “bí thư” trung thành của tôi, cũng từ giã tôi luôn, vì “nhiệm vụ” đã xong. Yu báo cho tôi biết rằng ông ta cũng sẽ theo chính phủ về Nam Kinh, và nài nỉ tôi cùng đi. Tôi còn ngập ngừng, chưa dám nhận lời. Tôi không có một thích thú nào để đi Nam Kinh cả.

Thật sự, tôi đã chán ngấy cái chất mỡ Tàu rồi, và cả sự cô đơn kẹt cứng này nữa. Tôi muốn tìm một chỗ ẩn thân, tạm lánh, nhưng ở một nơi hoạt động, có gió tứ phương đưa tới. Tại sao không là Hong Kong? Tôi tin chắc rằng, tôi sẽ tìm thấy một môi trường thuận lợi hơn, và chắc chắn có màu sắc của Tây phương hơn nhiều. Yu đề nghị theo tôi ít ngày.

Tám ngày sau, này 15 tháng 9, chúng tôi bay đi Hong Kong.