De Lattre tới
Trong những ngày đầu tháng chạp 1950, chính phủ Pháp cử Tướng De Lattre nắm quyền Tổng tư lệnh ở Đông Dương. Ông ta cũng đảm nhiệm luôn chức vụ chính trị của Cao ủy nữa. Nghĩa là ông ta thay Tướng Carpentier lại vừa thay Cao ủy Pignon. Đó là một hình thức tốt, bởi vì trong chiến tranh sự chia xẻ quyền hành thường gây ra nhiều trở ngại không mấy tốt đẹp. Ngày 17 tháng chạp, ông ta đến Sài Gòn cùng với toàn thể bộ Tham mưu. Cũng trong thời gian ấy, Việt Minh loan tin Hồ Chí Minh sẽ ăn tết ở thủ đô Hà Nội.
Tướng De Lattre đến với danh tiếng là người rất khó khăn. Tôi nghe trong các cơ cấu đầu não là lại có một luồng gió mới của sự hoang mang thổi đến. Nhiều người tìm cơ hội để trở về Pháp, họ đã sắp sẵn hành trang. Người ta cũng nói đến một số đề nghị. Trước khi rời Paris, Tướng De Lattre đã đi thăm tất cả những ai đã hay đương có liên hệ đến Đông Dương, từ De Gaulle đến Decoux, và ông ta nghe như đã tuyên bố:
- Chủ tịch (Liên hiệp Pháp) Albert Sarraut từng khuyên tôi nên tận tình giúp đỡ Hoàng đế Bảo Đại, vì Ngài là Vua chân truyền của dân tộc, cần phải giúp đỡ Ngài trong việc trị quốc, nhất là giúp Ngài thành lập dần dà một đạo quân hoàn toàn Việt Nam để có thể thay thế chúng ta chiến đấu chống lại Việt Minh.
Sự kiện ấy làm tôi chú ý. Ông tân Cao ủy muốn cùng tôi cùng chung ý kiến. Như vậy, điều mà tôi không bao giờ đạt được cạnh Tướng Carpentier và ông Pignon thì có thể tôi sẽ đạt được với ông chăng: Đó là việc thành lập nổi một đạo quân hoàn toàn Việt Nam. Vậy tôi không nên cứng rắn với ông quá đáng, mặc dù vẫn phải cần tỏ cho ông hiểu chính tôi là Quốc trưởng. Ông ta đến đây với rất nhiều sự hiểu biết sai lầm. Trước hết, do các sĩ quan luôn luôn bị ám ảnh bởi nước Tàu, mà quên mất bọn Việt Minh. Sau đến bọn công chức hành chính Pháp. Ông ta đã đem hai viên chức kỳ cựu của Toàn quyền Decoux là ông Gautier và ông Aurillac. Tôi biết rõ vị thứ hai này, khi ông ta còn ở Huế dưới thời Khâm sứ Graffeuil. Bọn này chẳng hiểu gì về tình hình trong năm năm qua. Có thể họ đã nói xấu tôi cạnh De Lattre, tả tôi như một thứ kỳ đà cản mũi, chỉ biết phá ngang.
Chẳng lâu lắm tôi hiểu hết. Muốn ra Hà Nội vào dịp ngày 19 tháng chạp, kỷ niệm của Việt Minh, De Lattre đã dừng lại vài giờ để lên Đà Lạt chào tôi. Bề ngoài thì thế, nhưng có dụng ý bề sâu nữa.
Đại tướng De Lattre tất nhiên là một người mã thượng. Chúng tôi rất tương đồng. Tôi cảm thấy ngay tự phút đầu có nhiều sự hiểu lầm của ông về tôi đã được giải tỏa. Tuy nhiên ông vẫn còn nhiều kiêu ngạo, như vẫn chẳng được gọi là Vua Jean đấy ư? Sau bữa ăn, câu chuyện hiện ra rõ rệt.
- Thưa Hoàng thượng, tôi đến đây để củng cố nền độc lập cho Ngài, và tôi chẳng phải là một tay thực dân. Ông ta nói với tôi như vậy. Tôi ước mong rằng sẽ được trông thấy một nước Đại Việt Nam, xứng đáng với các bậc tiên đế của Ngài.
- Thưa Đại tướng, người miền Bắc Việt Nam đã hiểu rõ tôi.
Thế là vị Cao ủy cho thấy một dụng ý. Trên chiếc máy bay ra Hà Nội có Trần Văn Hữu mà ông ta đã kéo theo, cùng với đoàn tùy viên của ông ta. Dụng ý đã rõ rệt, theo đúng câu châm ngôn cổ là “chia để trị,” và Tướng De Lattre muốn chơi trò bắt cá hai tay. Người ta lập tức hiểu ngay đã có kẻ lưu ý ông ta Chính phủ Sài gòn và Chính phủ Đà Lạt…
Làm ra bộ cấp tốc, bỗng nhiên ông ta nói với tôi:
- Thưa Hoàng thượng, chiều nay tôi sẽ ở Hà Nội, và tôi sẽ duyệt binh vào ngày kỷ niệm 19 tháng chạp của Việt Minh. Xin Hoàng thượng đi với tôi. Chúng ta sẽ cùng xuất hiện trước dân chúng miền Bắc Việt Nam và Hoàng thượng sẽ cùng duyệt binh với tôi.
Tôi trả lời tức khắc:
- Thưa Đại tướng, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng nơi Đại tướng. Tốt lắm, đi theo Đại tướng trong trường hợp này là một sự vụng về mà chúng ta đều hỏng việc cả hai. Tôi thì mang tiếng là tù nhân của Đại tướng, còn Đại tướng thì giảm hết giá trị của mình. Vì vậy, tôi không theo Đại tướng ra Hà Nội.
Ông ta không tỏ vẻ gì là thất vọng, cũng không nói một lời, và rút lui. Chắc hẳn ông ta đã hiểu rằng tôi rất khó bảo như người ta đã nói với ông. Để đánh dấu quyết định này, ngay chiều hôm ấy, tôi đến biệt thự thứ hai của tôi ở Ban Mê Thuột.
Là võ tướng, De Lattre phải tỏ ra xứng đáng đứng đầu quân đội. Đó là sự cần thiết nhất là Cao ủy, ông cần phải có nhiều cuộc tiếp xúc để tăng cường cho uy tín cá nhân. Ông phải đóng đủ các vai trò trên sân khấu, dùng sự lịch sự khả ái để chinh phục, cũng như sự nghiêm khắc, tạo nên những tiếng vang, hầu nuôi dưỡng huyền thoại. Ông bị dính liền vào sân khấu.
Sự đó khác xa với vì Thiên tử. Trong văn hóa cổ truyền ở nước tôi, tính chất thiêng liêng của ngôi vua, không cần phải trình diễn kiểu ấy. Ngược lại, tính chất thiêng liêng này nằm trong sự huyền vi. Khi Hoàng đế đi qua, thì thần dân cúi đầu, nhắm mắt. Quyền năng của vị Thiên tử tỏa ra từ cung cấm cô đơn, sau bức bình phong tịch mịch.
Tướng De Lattre cần phải hiểu sự dị biệt đó. Nhưng chúng tôi mớỉ chớm vào có một chút ban đầu, và tôi không mong muốn một sự đổ vỡ. Ông Cao ủy là một người thuộc chủng tộc khác với các vị tiền nhiệm của ông ta. Ông có thể rất quí báu cho Việt Nam. Mặc dù cố gắng giữ điều cách biệt, tôi cũng không nên chứng tỏ là một kẻ địch mà là một đồng minh, mà ông ta có thể được coi trọng ngang hàng.
Dịp may đã đến vào mấy ngày sau, khi ký thỏa hiệp Paris ở Sài Gòn ngày 23 tháng chạp. Tất nhiên, thỏa hiệp đã được ký kết tại chỗ do đại diện của chúng tôi ký ngày 12 tháng chạp, nhưng chúng tôi còn thiếu một chữ ký nữa. Ngày hôm đó, Tướng De Lattre ở bên phải tôi, Trần Văn Hữu ở bên phải Bộ trưởng Letourneau. Thành ra đã có sự vô tình quí báu, nằm trong ngôn ngữ ý nhị của ngoại giao
Chưa tới một tuần sau, đây là một tiếng sét. Như Hồ Chí Minh đã loan báo trước, các sư đoàn của tướng Giáp đánh vùng đồng bằng. Sau một trận nghi binh đánh cạnh biên giới Trung Hoa ở Tiên Yên, cuộc tấn công được nổ ra ở chân núi Tam Đảo. Trận chiến Vĩnh Yên bắt đầu. Tôi để cho De Lattre trọn quyền quyết định.
Ngày cuối năm, trước khi ra Bắc mà tình hình rất nghiêm trọng, ông ta tìm tôi ở Ban Mê Thuột. Tôi tiếp ông ta ở bên lầu thủy tạ. Ông Cao ủy lại trở lại vấn đề muốn lôi kéo tôi, ông nhất định mời tôi đi cùng với ông ta. Tôi vẫn từ chối. Để chứng tỏ rằng tôi không lầm, trước khi chia tay, tôi hỏi ông ta nghĩ sao về Trần Văn Hữu, nếu ông này cầm đầu chính phủ. Ông ta trả lời một cách lơ là, nhưng tôi cảm thấy là sự nghi ngờ đã đúng. Viên Cạo ủy không muốn ai đoán trước được ý định của mình…
Buổi sáng ngày 17, tướng Giáp ra lệnh rút lui, và dồn quân về phía bắc. Hồ Chí Minh không được ăn tết ở Hà Nội. Chiến thắng ở Vĩnh Yên đã đạt, và đây là chiến thắng đầu tiên của Đại tướng De Lattre ở Đông Dương.
Hai hôm sau, ông ra tìm tôi ở Huế, mà tôi mời ông ta đến dự một buổi lễ dành cho tổ tiên tôi. Ông đã đi cùng với bà De Lattre, mới sang Việt Nam. Tất cả ngoại giao đoàn có mặt ở Việt Nam đều đông đủ, nhất là ông Heath, Đại sứ của Hoa Kỳ. Tôi hành lễ bằng phẩm phục đại trào. Tướng De Lattre theo dõi cuộc hành lễ với tất cả sự chú ý. Các quí khách sau đó được đưa đến cung của Đức Thái hậu để dự yến. Vị quí khách của tôi không biết cầm đũa. Sau một sự cố gắng mà không đạt, ông ta đành lấy đồ ăn để trước mặt mình bằng một chiếc tăm. Đức bà Thái hậu trông thấy sự lúng túng này, nên cho đem lại cho ông một chiếc nĩa và con dao nhỏ.
Sau bữa ăn, ông phải đi ngay Hà Nội, nhưng đã kéo tôi ra một chỗ vắng, ông cố gắng nài nỉ:
- Thưa Hoàng thượng, xin Hoàng thượng theo tôi ra Hà Nội. Cuộc chiến thắng ở Vĩnh Yên tôi xin dâng Hoàng thượng. Chúng ta sẽ đến tại chỗ để ngợi khen binh sĩ và chia xẻ với họ sự chiến thắng này.
Chống lại tất cả sự đợi chờ, tôi vẫn từ chối. Ông Cao ủy đã sửa soạn sẵn cho trường hợp này: Vậy thì Trần Văn Hữu sẽ đi Vĩnh Yên để nghe chính người dự trận trình bày cuộc chiến. Chắc chắn, hai tên nịnh thần Gautier và Aurillac vẫn tiếp tục bầy mưu tính kế cho De Lattre… Chúng thúc đẩy viên tướng này nên dựa vào Trần Văn Hữu để cân bằng ảnh hưởng của tôi. Tôi cần phải chứng tỏ xem ai mới thật sự là chủ ở Việt Nam, và cầm quyền thật sự tại đây.
Nhân dịp ngày Tết, vào ngày 6 tháng 2 tây, tôi gửi cho dân chúng Việt Nam một bức thông điệp.
Sau khi nhắc lại những chặng đường đã qua trong năm, tôi nhấn mạnh đến nền độc lập vừa thu hồi được, giúp cho nước nhà tự đảm trách lấy nền cai trị của mình. Tôi công bố một chương trình chính trị, xã hội, kinh tế mà chúng tôi cần phải thực hiện trong những tháng tới:
“Trên địa hạt chính trị, khẩu hiệu là Bảo tồn. Bảo tồn lý tưởng cổ truyền Việt Nam ở trong nước, bảo tồn đất đai của quốc gia đối với những đe dọa bên ngoài.
“Tôi xin cám ơn tất cả mọi người đã có công, trong hành động, mặc dù gặp nhiều khó khăn to lớn, để gìn giữ và tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam. Tôi cần phải nói thêm rằng, kể từ nay, nước Việt Nam cần phải mở rộng chính phủ trong mọi địa hạt cai trị, từ xã hội, chính trị đến địa hạt chuyên môn. Ban hành pháp trung ương cần phải sáng suốt, đối với nhiệm vụ quốc gia cũng như đối với tinh thần phục vụ công ích.
“Chúng tôi thật sự đang cương quyết bảo tồn nếp sống ngàn xưa của chúng tôi trong đời sống cá nhân và tập thể.
“Trên địa hạt hành chánh, chính phủ cố gắng đem lại mọi nỗ lực vào việc vãn hồi trật tự.
“Quốc gia Việt Nam đã cử đến ba miền ba vị Thủ hiến để thay mặt mình. Như vậy, các sáng kiến địa phương, tại miền Bắc, miền Trung và miền Nam, có thể được trình bày thẳng lên trung ương, để chính phủ có thể giải quyết mọi việc mà bảo tồn được tính chất chính đáng, đặc biệt của địa phương mình…
“Trong những khu vực xã hội, có nhiều công nhân được các hãng, xưởng thu hút, qui chế công nhân khá cao, thường cao hơn ở các nước lân bang, qui chế ấy, cần được bồi bổ và củng cố. Việc áp dụng toàn diện, y như hệt, sẽ được tất cả các nhà kinh doanh tiếp tục thi hành.
“Nhưng mọi tiến bộ xã hội, chỉ thực hiện được qua những trách nhiệm hỗ tương. Một mặt, thợ được tự do ra vào nghiệp đoàn, mặt khác các nghiệp đoàn phải có sự hợp tác liên tục và bắt buộc với nghiệp đoàn của chủ, hầu cố một hoạt động hoàn toàn xã hội.
“Cuối cùng, việc đảm bảo tiền tệ là một điều chính của chương trình. Chính phủ là kẻ thù nhất định của sự phá giá tiền tệ, nó luôn đánh vào giới thợ thuyền, công tư chức bằng cách làm giảm đông lương thực sự của họ.
“Sự tiến bộ xã hội, phải phù hợp với sự phát triển kinh tế.
“Việc trang bị kinh tế tốt đẹp cho Việt Nam do viện trợ của Pháp quốc, đang được phục hồi và phát triển.
“Một nỗ lực tức khắc đang được hình thành để đào tạo những chuyên viên cho Việt Nam trên mọi lãnh vực. Các kỹ thuật gia và vốn đầu tư của Pháp cũng như của ngoại quốc rất được hoan nghênh. Nước Việt Nam không phải là cái lò “đốt các vốn đầu tư ấy…”
“Đó là những nét chính của chương trình của chúng tôi, chương trình mà tôi gọi là đất đai màu mỡ.
“Hỡi đồng bào,
“Tôi mong rằng đồng bào sẽ hiểu tôi, khi nói thẳng với đồng bào như vậy.
“Thay vì nhận những lời mừng tuổi đầu năm cổ truyền, tôi muốn đưa ra một chương trình xây dựng, mà những nét lớn nằm trong sự phú cường của quốc gia, hạnh phúc của đồng bào. Những điều mong ước của tôi, chính là đĩều mong ước của đồng bào. Chương trình của tôi là của đồng bào. Vì thế, tôi mới yêu cầu đồng bào góp phần vào nỗ lực của tôi…”
Chủ tịch Albert Sarraut, do Cao ủy mời, đã đến thăm Việt Nam mấy hôm, rất tán thành bản thông điệp này, và nhất là đối với chương trình mà tôi nhấn mạnh ở trên. Cụ đến thăm tôi ở Đà Lạt, và bảo tôi như vậy.
Thông điệp ấy cũng gây được nhiều cảm tình đối với các cường quốc, nói về Đông Nam Á. Tôi chỉ còn khuất phục Tướng De Lattre nữa mà thôi.
Từ ngày gặp ở Hà Nội Thủ hiến Nguyễn Hữu Trí, Tướng De Lattre tưởng đã tìm ra được một thứ ngọc Biên Hòa. Không thể chối cãi, viên lãnh tụ Đại Việt này, có thừa hình thái sang trọng đối với viên Cao ủy, có điệu bộ rất lương thiện và thành tích chống Cộng hăng say. Tôi dùng ông ta để đưa Trần Văn Hữu vào vị trí đúng của mình.
Nhưng hai vị này lại không ưng nhau, việc đặt họ cạnh nhau đang gặp thất bại.
Tôi liền sai viên Chánh văn phòng của tôi là Nguyễn Đệ, gửi cho Trần Văn Hữu một công điện, yêu cầu Hữu từ chức Thủ tướng, và cùng lúc đó, lại trao lại cho ông ta nhiệm vụ lập tân chính phủ. Đó là ngày 21 tháng giêng, công tác đạt đích hoàn toàn. Tất cả mọi sự vận động của Trần Văn Hữu đều thất bại. Trong các vị được vời làm bộ trưởng, chẳng ai còn muốn liên hệ với một người mà Quốc trưởng đã bất tín nhiệm, khi yêu cầu ông từ chức. Cuộc khủng hoảng nội các kéo dài, không một triệu chứng gì tiến tới. Thế là Đại tướng De Lattre liền đề nghị với tôi yêu cầu Trần Văn Hữu lấy Nguyễn Hữu Trí làm Phó thủ tướng kiêm nhiệm bộ trưởng bộ Quốc phòng. Đấy là cái bẫy. Thủ tướng Hữu biết như vậy, liền kêu lên là không thể được. Không ai có thể hợp tác được với bọn Đại Việt, họ đã đặt một cái gông lên toàn thể nước Việt Nam. Về phần Nguyễn Hữu Trí, từ khi tên tuổi mình được Cao ủy biết đến, thì ông ta lại lùi bước. Ông lảng xa, tự nấp sau lưng của đảng ông. Họ chỉ đưa ra các quyết định vào những ngày sau.
Để chứng tỏ thiện chí, tôi cho vời Nguyễn Hữu Trí, và khuyên ông ta nên hòa giải với Trần Văn Hữu. Vô ích. Tôi không có tin tưởng gì nữa. Còn Trí cũng không thiết tha gì. Sự đòi hỏi của Đại Việt không thể chấp nhận được. Theo sự tham gia của họ vào chính phủ, họ muốn đưa chế độ vào một xu hướng độc đảng. Tất cả mọi sự hòa giải của Trí với Hữu coi như bất khả thực hiện.
Trí xác nhận với tôi khi từ Sài Gòn lên Đà Lạt:
- Thưa Hoàng thượng, tôi không thể nào hợp tác được với Thủ tướng Trần Văn Hữu. Trong trường hợp đó, tôi xin trở về Hà Nội, đảm trách chức vụ của tôi.
- Theo như việc vừa xảy ra, tôi bảo ông ta, không thể được nữa rồi. Ông không thể làm Thủ hiến, khi ông đã chống lại với Thủ tướng công khai như vậy.
Bỏ vào chỗ của ông ta, tôi đặt Đặng Hữu Chí làm Thủ hiến Bắc Việt, lúc ấy đang giữ bộ Y tế như trong nội các cũ.
Thế là tưởng rằng sẽ ngồi vào chỗ của Trần Văn Hữu, như các bạn ông đã báo cho biết, Nguyễn Hữu Trí cảm thấy như vừa bị gạt. Sự mất quyền của ông đáp ứng đúng điều tôi muốn. Dụng ý của tôi đã đi đúng đường.
Ngày 15 tháng 2, Cao ủy đến Đà Lạt với bà De Lattre và con trai là Trung úy Bernard và rất đông nhân viên của văn phòng. Khi ông đến, tôi mời ông ăn sáng. Ăn xong, ông nói thẳng với một giọng rất thành thực. Ông bảo tôi:
- Không ổn rồi, thưa Hoàng thượng. Tất cả những gì mà tôi dự định, đều sụp đổ. Tôi đã hiểu lầm Ngài. Tôi đã nhầm, tôi đã nhầm hết… Vậy Ngài có muốn giúp cho Trần Văn Hữu lập xong chính phủ?
- Nhưng thưa Đại tướng, tôi cười trả lời ông ta, Đại tướng đã đi sâu vào nội bộ nước Việt Nam. Đại tưởng đã can thiệp trực tiếp vào nền chính trị của chúng tôi, không phải là điều mà các Ngài đã hứa.
Tướng De Lattre cũng cười và đáp, vẻ ngượng ngùng:
- Tôi muốn chơi trò Á Đông, nhưng đã thất bại. Nếu Hoàng thượng muốn, ta bỏ qua đi xóa hết đi, và bắt đầu làm lại từ đầu.
Tôi lặng im, De Lattre tiếp:
- Để chứng tỏ tôi thực tình. Thưa Hoàng thượng, tôi xin vì Hoàng thượng mà xây dựng một đạo quân hoàn toàn Việt Nam, xứng đáng với Hoàng thượng, xứng đáng với nước Việt Nam, một đạo quân tối tân, chưa từng có ở Viễn Đông, và Ngài sẽ là Tổng tư lệnh đạo quân đó.
Lập tức, tôi tin chắc là ông ta thực hiện đúng lời hửa… thế nhưng cần phải năm năm mới có thể đi tới chỗ đó. Đại tướng liền giãi bày:
- Quân đội Việt Nam cần phải đại diện cho ý chí toàn thể dân chúng muốn thắng Cộng sản. Nó cần phải là đạo quân Quốc gia, nghĩa là các chiến sĩ phải từ các tầng lớp nhân dân mà ra, và họ chiến đấu là vì bổn phận chứ không phải vì lương bổng. Quân đội Pháp sẽ huấn luyện và tình nguyện đóng vai chỉ huy, trong khi chờ đợi các cấp chỉ huy người Việt khi đến lượt mình đế rồi lại huấn luyện cho những lớp mới. Như vậy, cứ tuần tự như vậy tiến rất nhanh chóng. Tôi đòi hỏi mỗi một cấp chỉ huy tiểu đoàn tự lập ra một tiêu đoàn Việt Nam trong một thời gian sáu tháng. Như vậy, người ta lập ra ngành võ cho giới thiếu niên Việt Nam, như tôi đã làm từ 1944 cho Mặt trận FFI (Mặt trận Pháp quốc Tự do) của đệ nhất quân đoàn Pháp…
Sau lần nói chuyện ấy, sự liên lạc giữa chúng tôi theo một chiều hướng mới. Chúng tôi nay trở thành đồng minh. Về phần tôi, tôi cần phải giữ sự trao đổi này. Đại tướng De Lattre sẽ cho tôi một đạo quân, tôi phải cho Đại tướng một chính phủ. Chưa phải là một chính phủ của chiến tranh, như ông từng mong muốn, nhưng tôi cần phải giúp đỡ cho Trần Văn Hữu. Ông này biết rằng không có tôi, thì ông chẳng làm gì được. Thời gian đã đến để ông có thể ra thoát sự bế tắc này. Lập tức, kể từ đó, các khó khăn của ông từng gặp, lần lượt rơi xuống. Ngày 21 tháng 2, chính phủ của ông được thành lập (16).
Đại tướng De Lattre đóng đô ở Đà Lạt, trong dinh Khâm sứ cũ, cùng với toàn thể nhân viên của ông. Hàng ngày chúng tôi vẫn gặp nhau. Sau hôm tấn phong nội các Trần Văn Hữu, tôi mở đại tiệc. Đến lúc uống cà phê, chúng tôi ngồi chung với nhau có Tướng De Lattre, ông Aurillac và Nguyễn Đệ.
Cao ủy trở lại vấn đề tham gia chính phủ của Nguyễn Hữu Trí và cách thức mà tôi loại ông ta ra khỏi vị trí Thủ hiến. Tôi dùng dịp này để nói cho ông ta hiểu tình hình trong xứ. Nó không còn giống như thời của nền hành chánh cũ, như hai ông Gautier và Aurillac đã nghĩ. Tôi là Quốc trưởng, chỉ có tôi là giữ quyền hành, và chỉ có một mình tôi thôi… Trong dịp chuyện trò, tôi cũng được Đại tướng hứa là sẽ che chở cho đất “Hoàng triều cương thổ” tức đất vùng sơn cước. Vì vậy mới thành lập ra quân đoàn thứ tư lính thổ, mà quyền chỉ huy giao cho Thiếu tá Lecoq.
Tại Pháp đang có sự khủng hoảng nội các. Sự về Paris của Đại tướng, để tường trình về ba tháng đầu tiên cầm quyền Tổng tư lệnh ở Đông Dương, và để xin thêm tiếp viện, người và vũ khí, phải hoãn lại. Ngày 2 tháng 3, chúng tôi trở về Sài Gòn. Nhân dịp này có đặt đại tiệc. Chủ tịch Albert Sarraut, nhớ đến kỷ niệm cũ, thấy cả một thế hệ mới, đã tỏ ra rất có cảm tình với tôi. Cao ủy cũng đọc một bài diễn văn, chúng tôi sau đó có sự trao đổi riêng tư.
Ngày hôm sau, ở dinh La Grandière (sau này là dinh Độc Lập), trước mặt một số quan khách ngoại quốc, nhất là Đại sứ Heath của Hoa Kỳ, và Đại sứ Gibbs của Anh quốc, đó là sự tấn phong chính thức của chính phủ Hữu. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Ông Cao ủy tuyên bố trong bài diễn văn của ông như vậy, và ông kết luận, đó là cái mà chúng tôi gọi là “độc lập theo kiểu Pháp...” Đến buổi chiều, bà De Lattre đặt một tiệc trà lộ thiên mà tất cả các nhân vật Sài Gòn đều có mặt.
Sau một thời gian cố gắng quá độ ở Đông Dương, Tướng De Lattre rất mệt mỏi và cần phải nghỉ ngơi mấy ngày. Tôi liền lợi dụng cơ hội để rủ con trai của ông ta, Trung úy De Lattre đi săn cọp. Bernard De Lattre là một thanh niên khả ái và dù có ít tuổi, anh ta đã tỏ ra là một sĩ quan ưu tú. Anh ta sẵn sàng giữ chức chỉ huy một đại đội Việt Nam đang thành hình. Bởi vậy, sau khi hết phép, anh ta sắp lên đường nhận chức ở miền Bắc, tôi đề nghị anh ta vào võ phòng của tôi, mà tôi đang thiết lập. Đại tướng liền trả lời một cách rất cương quyết:
- Khi người ta đã đeo danh họ De Lattre, người ta ở tiền tuyến chỗ đang đánh nhau.
Tôi không nài nỉ nữa. Việc thành lập một võ phòng là vấn đề quan trọng mà tôi chú ý cực độ. Nhiệm vụ của nó là liên lạc trong suốt thời gian đang thành lập đạo quân Việt Nam. Người đầu tiên giữ chức vụ chánh võ phòng là Nguyễn Văn Hinh, một phi công trẻ của Pháp, đã từng dự chiến ở Âu châu trong thời gian từ 1944 đến 1945. Đó là con trai của Nguyễn Văn Tâm. Hinh xuất thân từ quân đội Pháp. Trong thời gian ở Pháp, anh ta lấy một người vợ Pháp. Do tình phụ tử với Tâm, anh ta giữ mối liên lạc với nước Việt Nam. Tôi liền bổ anh ta làm Đại tá Chánh võ phòng. Với Hinh, tôi tìm thấy một cộng sự viên xuất sắc, tận tâm và trung tín.
Tại Pháp, đã hết khủng hoảng nội các. Bác sĩ Henri Queuille cầm đầu chính phủ mới và ông Letourneau vẫn giữ bộ Quốc gia Hải ngoại.
Trước khi về Pháp, tôi mời Tướng De Lattre đến chơi với tôi hai ngày trên du thuyền sông Hương, trong vịnh Nha Trang. Tôi giải nghĩa cho ông ta rất lâu về địa vị của mỗi người mà chúng tôi phải giữ, tôi nhấn mạnh đến chỗ quân đội quốc gia Việt Nam không phải mở cuộc chiến tranh với nước Tàu, mà chỉ để chống Cộng sản… Tôi kết luận:
- Thưa Đại tướng, thật khác lạ với điều mà Đại tướng nghĩ khi mới bắt đầu cầm quyền tư lệnh ở đây. Người bênh vực độc nhất cho nước Pháp, chính là tôi vậy.
Tối ngày 14 tháng 3, ông ta bay đi Pháp.
Ngày 27 thì ông ta trở lại. Một sự đe dọa mới của Việt Minh đang thành hình ở vùng châu thổ sông Hồng. Các sư đoàn thiện chiến của tướng Giáp là 308, 312, 316 đã được báo xuất hiện ở mạn Đông Triều. Nhưng cuộc tấn công hỏng ở Mạo Khê, hai Đại úy Toàn và Thọ nổi bật trong một trận đương đầu oanh liệt.
Cuộc thăm thú ở Pháp của Cao ủy bị thất bại. Ông ta chỉ được một số viện trợ cỏn con. Vì vậy, ông ta muốn gây một tiếng vang tâm lý, và khai thác trên địa hạt chính trị một điểm thất bại của Việt Minh. Ông ta báo tin tôi biết, mà Tướng Salan phó tư lệnh của ông ta tự tay đem đến Đà Lạt trao cho tôi. Tôi yêu cầu vị này chuyển sự đồng ý hoàn toàn của tôi cho Tướng De Lattre được toàn quyền hành động.
Tất cả chính phủ Việt Nam do Trần Văn Hữu dẫn đầu, đều đến Vĩnh Yên, coi như nơi điển hình của sự thất trận của Hồ Chí Minh. Tại đó, trước mặt các viên chức văn cũng như võ, De Lattre nói với các vị bộ trưởng vào chiều ngày 19 tháng 4:
- Thật là một sự vui mừng lớn cho tôi, được đưa các quí vị tới đây, như tôi đã từng đưa quí vị trước kia, ra mặt trận, mà lực lượng quân đội Việt Pháp đã thắng trận, để tôi có thể kể lại trên đất này, một chiến công của trận đánh, để được trình diện trước quí vị những binh sĩ đã từng thắng trận, và để cho quí vị trông thấy công tác đang thực hiện để bảo vệ đồng bằng. Trên phần đất Việt Nam này, giữa binh sĩ của Liên hiệp Pháp, thưa ông Thủ tướng, thưa các ông Bộ trưởng, quí vị đã hai lần đang ở trên đất nước mình…
Chiến thắng đạt được ấy, là nguồn hy vọng lớn lao của nước Việt Nam. Nó chứng tỏ giá trị và sự hữu hiệu của binh sĩ của xứ sở của quí vị. Trường hợp đau thương của cuộc chiến tranh này, đã làm nổi lên những đức tính cao quí và giá trị của dân tộc quí vị đang tô điểm trang sử vẻ vang của dân tộc, và giúp đỡ họ trong cuộc chiến đấu họ phải đương đầu trong hàng thế kỷ để giữ lấy sự tự do của nước mình. Tất cả các binh sĩ Việt Nam từng nổi bật ở Vĩnh Yên, ở Mạo Khê, ở Bến Tắm, chứng tỏ lời tôi nói, đặt niềm tin vào nước Việt Nam ngày mai, bởi vì thanh niên Việt Nam phục vụ ngày hôm nay dưới sự chỉ huy của sĩ quan Pháp, cũng vẫn là giới trẻ Việt Nam sẽ phục vụ trong quân đội Việt Nam. Nó chứng tỏ trước mắt thế giới, là sự cuồng tín Cộng sản chẳng phải nắm giữ độc quyền về can đảm, và nắm được chìa khóa của mọi thành công… Sự vui mừng của tất cả chúng ta, là được trông thấy những người lính Việt Nam ấy, mỗi ngày mỗi nhiều, từ các tỉnh, các làng, đổ xô vào quân đội Việt Nam, đang hình thành và đặt then chốt vào cán cân chiến đấu cho tổ quốc mình thêm nặng và giá trị. Quân đội của Liên hiệp Pháp của chúng ta, thưa ông Thủ tướng, đã đủ sức đảm trách nhiệm vụ thiêng liêng của sứ mạng, nước Việt Nam là cột trụ chiến lược ở Đông Nam Á châu…
Tôi đến đây là để hoàn tất nền độc lập của quí vị, chứ không phải để hạn chế nền độc lập ấy. Quân đội Pháp chỉ tới đây để bảo vệ nó…
Thế rồi, sau khi nhắc lại trong trường hợp nào, nền độc lập này được thực hiện, Đại tướng De Lattre đã nhắc đến một đoạn tuyên ngôn của tôi đọc trong dịp Tết về chương trình mà tôi muốn thực hiện, ông tiếp:
- Những sự hoan nghênh nồng nhiệt mà thưa ông Thủ tướng, ông Thủ tướng đã nhận được của dân chúng, đến chào mừng ông, chứng minh một cách hùng hồn rằng dân chúng ủng hộ và đặt niềm tin vào Ngài cũng như mọi sự hoạt động của Ngài. Không có lý gì mà tiếng vang của sự hoan nghênh ấy, lại không vượt quá làn ranh này sang phía bên kia. Qua làn ranh giới này, chỉ vài cây số khỏi đây thôi, nhiều người đã đau khổ. Phần đông, họ bị giữ trái với ý muốn của mình, trong gọng kìm của khủng bố. Có một số đã tin vào lời tuyên truyền bịp bợm, và đã chọn một con đường xấu để thực hiện những nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam.
Những nguyện vọng ấy, chính phủ của Ngài, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đức Hoàng đế Bảo Đại, đã đạt được bằng một con đường khác. Nước Việt Nam đã tự do, nước Việt Nam đã độc lập. Nước Việt Nam độc lập, nước Việt Nam là chúa tể của mình. Nước Việt Nam đứng vào khối các quốc gia dân chủ thân hữu, để được giúp đỡ trong tương lai, một khi hòa bình lập lại, là một nước sung sướng và thịnh vượng. Thật không có lý gì mà người Việt Nam lại không ý thức như vậy, và đứng vào hàng ngũ kháng chiến chính đáng, hàng ngũ của tự do chống lại độc tài và đàn áp, dưới sự lãnh đạo của Đức Hoàng đế Bảo Đại và của chính phủ của Ngài.
Được khuyến khích, Trần Văn Hữu hăng hái lao mình. Trong phần đáp từ, ông xác nhận:
- Trong khung cảnh của tấn bi kịch này, tất cả mọi việc, hàng ngày đều làm cho mọi người nghẹt thở. Tôi xin nhắc lại công khai và long trọng rằng chính phủ của tôi, và toàn thể dân chúng Việt Nam đặt niềm tin vào Đại tướng trong công cuộc chống kẻ thù chung này. Tôi nói thật sự rằng đây là kẻ thù, bởi cái họa đang buộc chúng tôi phải đương đầu này, không cho phép chúng ta được trì hoãn đối với những xảo quyệt mà chúng ta phải trả giá đắt bằng máu xương của thanh niên Việt Nam, và cả xương máu của thanh niên Pháp nữa. Liệu họ có thể nói rằng, họ là ái quốc được nữa không, khi mà họ đã tự đặt dưới sự điều khiển của ngoại bang, để tuyên truyền cho một lý tưởng mà hễ mở mồm ra là chối bỏ tổ quốc và dân tộc. Như vậy, thật không còn nghi ngờ gì nữa, Việt Minh là kẻ thù của dân tộc, Việt Minh không thực hiện nguyện vọng của dân chúng, mà nó muốn đặt dưới sự độc tài đô hộ của ngoại bang…
Tiếng vang về ngày hôm ấy thật to lớn, chẳng những ở Việt Nam mà còn ở khắp Ẩ châu, và cả ở Hoa Kỳ nữa. Tất nhiên, tại Pháp tiếng vang ấy rõ ràng hơn cả.