← Quay lại trang sách

Chương 2 Giờ học giải phẫu.

HỒI CÒN BÉ, chừng bốn năm tuổi, điều tôi lo sợ nhất là một hôm nào đó có thể mẹ sẽ không về sau giờ làm. Toán cộng trừ chủ yếu chỉ dùng theo dõi mẹ từng bước chân (còn bao nhiêu phút mẹ sẽ rời công ty? Bao nhiêu phút nữa đi ra tàu điện?) và ngay từ trước khi biết đếm, tôi đã kỹ lưỡng học cách xem đồng hồ, khổ sở ngẫm ngợi cái vòng tròn thần bí vẽ bút sáp trên đĩa giấy, một khi đọc thủng sẽ là câu thần chú “Vừng ơi” mở cánh cửa bí ẩn về nề nếp đi về của mẹ. Thường lần nào mẹ cũng về nhà đúng giờ đã hẹn, nên chỉ cần muộn mười phút là tôi đã đi ra đi vào; muộn hơn nữa là tôi sẽ ngồi bệt trên sàn cạnh cửa ra vào, như con chó con bị bỏ rơi, căng tai chờ tiếng cành cạch khi cỗ thang máy lên đến nơi.

Gần như ngày nào hồi tiểu học tôi cũng nghe đủ thứ tin tức rất đáng ngại trên kênh 7. Nhỡ một ông lang thang mặc áo gió quân sự bẩn thỉu xô mẹ xuống đường ray chờ tàu số 6 thì sao? Hay là đẩy mẹ vào ô cửa tăm tối nhà nào đó, đâm phập con dao hòng giật cái túi xách của mẹ? Nhỡ mẹ đánh rơi máy sấy tóc vào bồn tắm, bị xe đạp đâm ngã ngay trước mũi ô tô, đi khám răng bị phát nhầm thuốc rồi ngộ độc chết - như từng xảy ra với mẹ một thằng bạn cùng lớp?

Tưởng tượng có chuyện gì xảy đến với mẹ lại tăng thêm phần kinh hãi bởi bố tôi thuộc loại rất khó trông cậy. Rất khó trông cậy là cách nói của những người khéo miệng, tôi nghĩ thế. Ngay cả lúc khoan khoái vui vẻ ông cũng vẫn hay đánh mất phiếu lương, hoặc ngủ quên để cửa căn hộ mở toang, vì ông là sâu rượu. Và khi không vui - tức là hầu như lúc nào cũng vậy - mắt ông vằn đỏ, mặt lầm lầm, bộ vét nhàu nhò như thể ông đã mặc nguyên đồ lăn tròn trên sàn, và ông toát ra cái vẻ lặng phắc bất thường như một món đồ bị nén hơi sắp bùng nổ.

Dù tôi không hiểu duyên cớ nào làm cho ông u uất đến thế, nhưng điều này thì rõ: lỗi là ở chúng tôi. Mẹ và tôi làm ông khó chịu. Chỉ tại chúng tôi mà ông phải đeo bám thứ công việc ông không ngửi nổi. Mọi điều chúng tôi làm đều khiến ông cáu. Ông đặc biệt ghét phải ở cạnh tôi, dù cũng chẳng có mấy dịp: Sáng sáng, khi tôi sửa soạn đi học, ông ngồi cù rũ với đôi mắt sưng húp bên cốc cà phê, tờ Wall Street Journal trải rộng trước mặt, cái áo choàng tắm không buộc, tóc dựng đứng từng vệt bò liếm, đôi khi còn run tay đến mức khiến cà phê đổ sánh ra khi đưa cốc lên miệng. Đề phòng, ông nhìn tôi đang đi vào, cánh mũi phồng lên nếu tôi làm ồn khi dùng dao nĩa hay cái bát đựng ngũ cốc.

Ngoại trừ những buổi sáng gượng gạo này thì tôi chẳng mấy khi thấy ông. Ông không ăn tối ở nhà, không đến dự hội hè ở trường; ông chẳng chơi với tôi cũng chẳng nói chuyện gì nhiều khi về nhà; mà thực tế là ông hầu như chỉ về nhà vào cái giờ tôi đã lên giường ngủ; lại có những ngày - chủ yếu là ngày nhận lương, hai tháng một lần vào thứ Sáu - mãi đến ba bốn giờ sáng mới nghe loảng xoảng tiếng ông về: cửa đập sầm, cặp táp rơi đánh xoạch, va đụng tứ tung hết chỗ này đến chỗ khác đến mức nhiều đêm tôi bật dậy kinh hoàng, nhìn chăm chăm lũ trăng sao dạ quang dán trên trần lo có phải kẻ sát nhân nào vừa đột nhập vào căn hộ không. Cũng may là lúc say rồi, bước chân ông chậm lại thành một nhịp điệu giật cục không lẫn vào đâu được - bước chân Frankenstein, tôi thường nghĩ vậy, cẩn thận nện xuống, mỗi bước chân cách nhau lâu đến vô cùng - và lúc nhận ra kẻ va vấp trong bóng tối chỉ là ông, chứ không phải tên sát nhân hàng loạt hay kẻ tâm thần phân liệt nào, tôi sẽ lại thiếp đi chập chờn trong giấc ngủ. Đến hôm sau, ngày thứ Bảy, mẹ và tôi sẽ kiếm cớ chuồn ra khỏi cán hộ khi ông còn chưa kịp tỉnh giấc ngủ bê bối, sũng mồ hồi trên xô pha. Hoặc nếu không, cả ngày chúng tôi rón rén đi quanh nhà, sợ không dám đóng cửa quá mạnh hay động đến ông chút nào cả, còn ông ngồi trước tivi, mặt băng giá, tay cầm chai bia Tàu từ cửa hàng đồ ăn mang về, mắt mờ xỉn, xem thời sự hoặc thể thao nhưng để chế độ tắt tiếng.

Cũng vì thế cả mẹ lẫn tôi đều thấy chẳng việc gì phải cuống lên khi một sáng thứ Bảy tính dậy nhận ra đêm qua ông không về nhà. Mãi đến Chủ nhật chúng tôi mới bắt đầu lo ngại, mà cả lúc đó cũng không phải lo ngại như kiểu những người bình thường; khi đó đã bắt đầu mùa bóng chày giữa các trường trung học; có thể tin chắc ông có đặt cược cho trận nào đó, và chúng tôi nghĩ có lẽ ông đã nhảy xe buýt đến Atlantic City mà không báo về. Phải mãi đến hôm sau, khi cô Loretta là thư ký của ông gọi đến vì không thấy ông đến chỗ làm, chúng tôi mới mang máng thấy vấn đề nghiêm trọng. Mẹ gọi cho cảnh sát vì sợ ông bị cướp hay bị đâm chết khi uống say đi ra khỏi quán nào; mấy ngày tiếp theo, chúng tôi như ngồi trên lửa nóng lòng chờ nghe điện thoại hay người gõ cửa. Rồi đến gần cuối tuần, một mẩu thư sơ sài của bố tôi gửi đến (dấu bưu điện ở Newark, New Jersey), mấy dòng ngoằn ngoèo nét bút căng thẳng thông báo với chúng tôi ông đã bỏ đi để “bắt đầu cuộc đời mới” ở một nơi không nêu tên. Tôi còn nhớ lúc ấy đã ngẫm nghĩ cái chữ “cuộc đời mới”, như thể nó sẽ tiết lộ chút gì nơi ông đã đi; vì sau khi tôi nhì nhèo năn nỉ quấy nhiễu mẹ suốt một tuần, cuối cùng mẹ cũng chịu thua và cho tôi xem thư (“hừ, được thôi,” mẹ cam chịu nói khi mở ngăn kéo lấy nó ra, “mẹ cũng chẳng hiểu bố muốn mẹ bảo con ra sao nữa, thôi thì cứ để con nghe trực tiếp từ bố”). Thư viết trên giấy của một quán trọ Doubletree gần sân bay. Tôi cứ nghĩ trong đó sẽ đầy những đầu mối giá trị cho biết nơi trú chân mới của bố, nhưng thay vào đó ấn tượng nhất chỉ là sự cụt ngủn (bốn năm dòng gì đó) và cái kiểu chữ liến thoắng bất cẩn mặc mẹ chúng mày, cứ như ông chỉ ngoáy vội trước khi chạy ra siêu thị.

Về nhiều mặt, bố tôi biến mất là cả một sự nhẹ nhõm. Đương nhiên tôi chẳng việc gì phải nhớ bố, và xem ra mẹ cũng không, dù trái lại chúng tôi rất buồn khi phải cho bà giúp việc Cinzia nghỉ vì không đủ tiền nuôi bà nữa (Cinzia đã khóc mùi và đòi được ở lại làm không công; nhưng mẹ đã tìm được cho bà chỗ làm bán thời gian cũng trong tòa nhà, ở nhà một cặp vợ chồng có con nhỏ; chừng tuần một lần bà lại ghé qua làm tách cà phê với mẹ, còn nguyên cái choàng bảo hộ bên ngoài quần áo khi lau dọn.) Tấm ảnh bố tôi còn trẻ, da rám nắng đứng trên đỉnh dốc trượt tuyết lẳng lặng biến mất khỏi tường, thay vào đó là ảnh mẹ con tôi ở sân trượt băng Công viên Trung tâm. Đêm đêm mẹ thức khuya, bấm máy tính nhẩm chồng hóa đơn. Dù căn hộ thuê thuộc loại “bình ổn giá”, sống mà bớt đi khoản lương của bố vẫn là cuộc bấp bênh qua ngày đoạn tháng, vì cái “cuộc đời mới” nào đó ổng đã tạo lập cho mình ở chốn nào đó hẳn nhiên không bao hàm khoản trợ cấp nuôi con. Về cơ bản, chúng tôi vui lòng tự giặt đồ dưới hầm, xem phim suất chiếu nửa giá, mua bánh mì nướng qua ngày và đồ ăn Tàu gọi về rẻ tiền (mì hay bánh trứng hấp), dành từng xu từng hào đi xe buýt. Nhưng trong lúc lệt xệt về đến nhà hôm ấy - vừa lạnh vừa ướt, vừa đau đầu muốn rơi cả răng - tôi chợt nhận ra rằng vắng bố, trên đời sẽ chẳng còn ai đặc biệt quan tâm lo lắng đến mẹ và tôi; chẳng còn ai đứng ngồi không yên tự hỏi chúng tôi mất tăm đâu cả sáng, sao vẫn chưa thấy có tin tức gì. Dù có ở đâu trong cái Cuộc Đời Mới đó (xứ nhiệt đới hay đồng cỏ, thị trấn trượt tuyết tí hon hay Đại Đô Thị Hoa Kỳ) thì hẳn ông cũng đeo dính lấy màn hình tivi; cũng dễ hình dung có thể ông còn sốt sình sịch lên và quát tháo nữa, như vẫn hay làm khi nghe những tin tức động trời chẳng can hệ gì đến ông, lốc xoáy hay cầu sập: ở những bang chân trời góc biển nào chẳng hạn. Nhưng có lo đến mức nhấc điện thoại hỏi thăm chúng tôi không? Hẳn là không - cũng như ông sẽ chẳng quan tâm gọi hỏi han cái công ty cũ, dù chắc hẳn ông cũng nghĩ đến các cựu đồng nghiệp ở trung tâm, nghĩ không biết cái đám đó lọ nước mắm đếm củ dưa hành (như ông vẫn gọi những người cùng làm) đang làm ăn ra sao ở 101 Phố Công viên. Liệu đám thư ký có sợ mất vía, vơ hết ảnh chụp trên bàn rồi xỏ giày đi bộ về nhà? Hay là tầng mười bốn đã mở một thứ tiệc lặng lẽ, mọi người gọi bánh xăng-uých về rồi tụm quanh cái tivi trong phòng họp?

Dù đường về nhà dài đến cả tỉ năm, tôi chẳng còn nhớ gì về nó trừ cái vẻ xám lạnh ướp mưa trên Đại lộ Madison - những cái ô nhấp nhô, đám đông trên vỉa hè lầm lũi chạy về trung tâm, cảm giác vô danh của những người co cụm như trong những ảnh đen trắng cũ tôi từng thấy, chup những vụ ngân hàng phá sản hay xếp hàng chờ phát bánh mì trong thập niên 1930. Cái đầu nhức với màn mưa hùa nhau thu hẹp thế giới thành một vòng tròn tắc thở, khiến tôi chẳng thấy gì ngoài cái lưng cong gập của những người đi trước trên vỉa hè. Thực tế là đầu tôi đau đến nỗi hầu như chẳng thấy mình đang đi đâu nữa; một hai lần tôi còn suýt bị xe đụng khi xông xuống lối qua đường mà quên nhìn đèn. Hình như chẳng có ai biết đích xác đã có chuyện gì, dù lọt vào tai tôi mấy chữ “Triều Tiên” ông ổng từ loa một chiếc taxi đậu gần đó, và “Iran” với “al-Qaeda” lầm bầm trên miệng mấy người đi qua. Một cậu da đen gầy khẳng kheo để tóc tết, ướt như chuột lột đang đi đi lại lại trước bảo tàng Whitney, giơ nắm đấm dứ dứ lên trời và hét đổng: “Cài khóa an toàn vào, Manhattan! Osama bin Laden lại cho chúng ta rung chuyển rồi!”

Đầu lả đi chỉ muốn ngồi xuống, nhưng không hiểu sao tôi vẫn khập khiễng đi tiếp được, bước chân cà nhắc như món đồ chơi bị trục trặc nửa phần. Cảnh sát huơ tay múa chân; cảnh sát huýt sáo rồi ngoắc tay. Nước rỉ xuống chóp mũi tôi. Chạy đi chạy lại trong đầu tôi, trong lúc chớp mắt gạt mưa, là ý nghĩ: mình phải về nhà với mẹ càng nhanh càng tốt. Chắc là mẹ đang rối rít cuống cuồng chờ tôi ở căn hộ; chắc mẹ đã bứt tóc bứt tai vì lo lắng, tự nguyền rủa mình sao lại tịch thu điện thoại của tôi. Ai cũng đang loay hoay không gọi điện được, người đi bộ xếp hàng dài cả chục, hai chục người ở vài trạm điện thoại công cộng trên đường. Mẹ ơi, tôi nghĩ, mẹ ơi, tìm cách bắn tin thần giao cách cảm rằng mình còn sống. Tôi muốn mẹ biết mình vẫn ổn, nhưng cùng lúc tôi cũng nhớ đã dặn lòng chỉ đi chứ không chạy, nếu không tôi sẽ ngất xíu khi còn chưa về đến nhà. Thật may mẹ đã bỏ đi chỉ vài phút trước đó! Mẹ đã bảo tôi đi thẳng vào giữa trung tâm vụ nổ; chắc hẳn mẹ nghĩ tôi chết rồi.

Và cứ nghĩ đến cô bé đã cứu mạng mình mắt tôi lại cay cay. Pippa! Cái tên kỹ quái và khô khan, rất thích hợp với một cô tiểu yêu ranh ma tóc đỏ. Mỗi lần nhớ đến ánh mắt cổ nhìn mình, tôi lại thấy chóng mặt vì ý nghĩ chính cô, một người hoàn toàn lạ mặt, đã cứu tôi khỏi khu triển lãm mà bước vào ánh chớp đen trong cửa hang bưu thiếp, vào hư vô, vào tận cùng của mọi sự. Liệu tôi có cơ hội nào cho cô biết cô đã cứu mạng tôi không? Còn ông già nữa: đám cứu hỏa và cứu hộ đã tràn khỏi tòa nhà chỉ vài phút sau khi tôi ra, tôi vẫn hy vọng có ai đã lộn trở lại cứu ông ấy - cửa đã được nậy, họ biết có ổng ở trong mà. Liệu tôi, có còn cơ hội nào trông thấy một trong hai người bọn họ?

Khi rốt cuộc cũng về đến nhà, tôi đã lạnh tận xương tủy, đầu nôn nao, đi loạng choạng. Nước chảy ròng từ trên quần áo ướt lướt thướt, ngoằn ngoèo sau lưng thành một đường zigzag ngang sàn sảnh vào.

Vừa đi qua đám đông trên phố, cảnh cô quạnh ở đây khiến tôi rùng mình. Mặc dù trong phòng kho cái tivi xách tay vẫn bật, và đâu đó trong tòa nhà máy bộ đàm đang léo nhéo, tôi chẳng thấy chú Golden cũng như Carlos hay Jose, hay bất cứ ai trong số bảo vệ quen.

Xa hơn nữa ở đằng trong, buồng thang máy để đèn đứng ngoác miệng chờ đợi, như chịếc tủ trên sân khấu ảo thuật chờ biến mất người. Những bánh răng bắt vào nhau rùng mình; từng cái một, những con số trang trí cũ màu ngọc trai nhấp nháy trôi qua trong lúc tôi lên tới tầng bảy. Bước vào hành lang tối mờ trước nhà mình, tôi nhẹ người đến phát khóc - vẫn sơn tường màu nâu lông chuột, vẫn cái mùi nước tẩy sàn bí bức như mọi khi.

Chìa khóa vặn xoành xoạch trong ổ. “Mẹ ơi?” Tôị gọi lớn và bước vào bóng mờ tối trong nhà: rèm kéo hết, rất tĩnh lặng.

Tiếng tủ lạnh rì rì trong lặng yên. Trời ạ, tôi nghĩ và giật nảy người, mẹ vẫn chưa về à?

“Mẹ?” Tôi lại gọi. Tim trĩu xuống, tôi đi thật nhanh qua hành lang giữa, rồi vào giữa phòng khách đứng bối rối.

Không có chìa khóa mẹ trên móc bên cửa, không có túi mẹ trên bàn. Chân giày ướt kêu lép nhép trong tĩnh lặng, tôi đi vào tận trong bếp - cũng không ra dáng bếp lắm, chỉ là hốc tường vừa đủ đặt cái lò hai vòng, quay ra lối thông gió. Ở đó có cốc cà phê của mẹ, bằng thủy tinh xanh lá, mua ở chợ đồ cũ, vành còn dấu son môi.

Tôi đứng tận mắt nhìn chiếc cốc chưa rửa, đáy còn một tấc cà phê nguội, nghĩ xem phải làm gì. Tai tôi vẫn khi ù khi ong, đầu đau đến nỗi không tập trung nghĩ được: từng đợt sóng tối om dội vào mép trường nhìn của tôi. Tôi đã quá mải nghĩ xem mẹ sẽ lo lắng thế nào, mải cố về đến nhà cho mẹ biết mình vẫn ổn, đến nổi còn chẳng hề nghĩ ra có thể chính mẹ lại không ở nhà.

Mỗi bước đi một nhăn mặt, tôi bước dọc hành lang tới phòng ngủ của bố mẹ: về cơ bản vẫn không thay đổi sau khi bố bỏ đi, nhưng có lắm đồ đạc hơn và có vẻ nữ tính hơn vì chỉ còn mình mẹ. Máy trả lời điện thoại trên bàn, bên cái giường ngổn ngang bừa bãi vẫn tối đen: không có tin nhắn.

Đứng giữa cửa, váng vất vì đau, tôi cố tập trung. Cảm giác chao đảo vì những chuyển động ban ngày chạy xuyên người, cứ như vừa ngồi quá lâu trong xe.

Việc gì trước phải làm trước: tìm điện thoại, kiểm tra tin nhắn. Có điều là tôi không biết điện thoại mình ở đâu. Mẹ đã tịch thu máy sau khi tôi bị đình chỉ học; mới tối qua khi mẹ tắm, tôi đã gọi vào số mình tìm thử, nhưng có vẻ mẹ đã tắt máy rồi.

Tôi nhớ mình đã vọc tay vào ngăn trên cùng tủ ngăn kéo của mẹ, đào bới qua một lũ khăn choàng tanh bành: hết lụa lại nhung, lại khăn thêu của người da đỏ.

Rồi vận hết sức mình (dù nó cũng không nặng lắm), tôi lôi cái ghế dài để cuối giường lại, trèo lên nhìn tầng tủ trên cùng. Sau đó tôi ngồi xuống thảm, người đờ đẫn, má áp vào chiếc ghế dài, ong ong như muốn điếc.

Có gì không ổn rồi. Tôi nhớ mình đã giật bắn người nhỏm dậy, thình lình tin chắc lò bếp đang hở gas và tôi đang hít đầy khí độc vào người. Nhưng không ngửi thấy mùi gì cả.

Cũng có thể tôi đã đi vào cái buồng tắm nhỏ thông với phòng mẹ, tìm trong tủ thuốc xem có aspirin hay thuốc gì chữa đau đầu không - cái đó tôi không biết. Điều tôi biết là có một lúc tôi ở trong phòng mình mà không biết đã vào bằng cách nào, một tay chống tường đứng cạnh giường, cảm giác sắp nôn ọe. Và rồi mọi thứ rối tung lên chẳng phân tách rành mạch ra được nữa cho tới khi tôi ngồi bật dậy trên ghế xô pha phòng khách, ngơ ngác nhìn quanh khi nghe thấy âm thanh tựa như tiếng cửa mở.

Nhưng không phải cửa nhà tôi, là nhà khác trên hành lang. Phòng tối mò, tôi nghe tiếng xe cộ giờ chiều, giờ tắc đường dưới kia. Trong cảnh chạng vạng, tôi lặng phắc mất một hai giây đứng tim khi các âm thanh rời nhau ra, những đường nét quen thuộc dần hiện lên - cái đèn bàn, cái ghế tựa hình câỵ đàn lia - trên nền cửa sổ mở ra trời chiều. “Mẹ à?” Tôi nói, và nỗi hoảng sợ nghe mồn một trong giọng tôi.

Tôi đã thiếp ngủ mặc nguyên bộ đô ướt dính bụi cát; xô pha, cũng ẩm luôn rồi, hằn rõ vệt hình người dính nhớp chỗ tôi vừa nằm. Luồng gió lạnh ngắt khua lọc xọc mấy cái rèm sáo, hồi sáng mẹ để cửa ngỏ trước khi đi.

Mặt đồng hồ chỉ (6 giờ, 47 phút). Càng lúc càng sợ hãi, tôi bước cứng nhắc quanh nhà, bật sáng trưng các loại đèn - cả đèn trần phòng khách chẳng mấy khi bật vì nó sáng gắt nhức mắt quá.

Đứng giữa ô cửa vào phòng mẹ, tôi thấy ánh đèn đỏ nhấp nháy trong bóng tối. Cảm giác nhẹ nhõm tuyệt trần ập lên người, tôi phóng tới quanh giường, mò mẫm tìm nút trên máy trả lời tự động, và phải vài giây sau tôi mới nhận ra không, không phải giọng mẹ, chỉ là giọng một bà làm cùng chỗ mẹ, hớn hở đến phi lý. “Ê! Audreỵ, Pru nè, gọi điện hỏi thăm tí thôi. Ngày khốn nạn nhỉ? Nè, mầy bản in cuối của Pareja về rồi đó, lúc nào gặp nhau nói chuyện tí, nhưng hạn dời lại rồi nên không lo, chưa cần ngay đâu. Hy vọng là nàng vẫn ổn, rảnh gọi lại nhé.”

Tôi đứng sững, hồi lâu nhìn cái máy, cả khi nghe tiếng tít hết tin. Rồi tôi vén rèm cửa sổ, ngó xuống đường.

Đang là cái giờ ấy; giờ dân chúng về nhà. Tiếng còi xe thấp thoáng dưới phố. Đầu tôi vẫn nhức muốn vỡ toác ra, lại thêm thứ cảm giác (lúc ấy còn mới, nhưng đến giờ, không may thay, đã quá quen rồi) như vừa tỉnh dậy sau cơn rượu chè túy lúy, cảm giác có nhiều việc vô cùng quan trọng đã bỏ bẵng không làm.

Tôi quay lại phòng mẹ, bàn tay run rẩy bấm số di động của mẹ, luýnh quýnh bấm nhầm số, phải gọi lại từ đầu. Nhưng không thấy mẹ trả lời, chỉ thấy tiếng tổng đài. Tôi để lại lời nhắn (Mẹ ơi con đây, con lo quá, mẹ ở đâu?) rồi ngồi xuống giường mẹ, hai tay ôm lấy đầu.

Mùi nấu nướng từ mấy tầng dưới bắt đầu bay lên. Những giọng nói lí nhí không rõ từ mấy căn hộ bên cạnh: những tiếng thậm thịch không rõ nghĩa, ai đó đóng mở các loại tủ. Tối rồi, mọi người bắt đầu về nhà sau giờ làm, thả túi cặp xuống, vò đầu chó mèo và trẻ con, bật tivi nghe thời sự, chuẩn bị ngồi vào bàn ăn. Mẹ ở đâu? Tôi cố nghĩ ra mọi thứ lý do có thể khiến mẹ kẹt lại đâu đó, nhưng chẳng ra cái nào dù ai mà biết, có thể khúc đường nào đó bị chặn nên mẹ không về được. Nhưng nếu thế thì sao không gọi?

Hay mẹ đánh rơi điện thoại chăng? Tôi nghĩ. Hay bị hỏng rồi? Hay mẹ đưa cho ai đó cần hơn?

Vẻ tĩnh lặng trong căn hộ làm tôi sợ. Nước chảy khòng khọc trong đường ống, gió giật lách tách rèm sáo nghe rất hắc ám. Thấy mình chỉ ngồi vô tích sự trên giường, cảm thấy phải làm gì đó, tôi lại gọi, nói thêm một tin nhắn nữa, lần này không ngăn được giọng run lên. Mẹ, con quên mất, con về nhà rồi. Mẹ gọi lại nhé, ngay khi được, OK? Rồi tôi gọi đến cả hộp thư thoại ở công ty mẹ nữa cho chắc ăn.

Cái lạnh chết chóc bắt đầu bò lan ra giữa ngực, tôi trở lại phòng khách. Đứng đó một lúc, tôi lại ra bảng tin trong bếp xem mẹ có nhắn gì không, dù đã biết rõ là không. Quay về phòng khách, tôi ghé mắt ra cửa sổ nhìn đường phố nườm nượp bên dưới. Hay mẹ đã chạy ù ra hàng thuốc hoặc quán ăn vì không muốn đánh thức tôi dậy? Một phần trong tôi chỉ muốn bỏ ra phố tìm mẹ, nhưng họa là điên mới nghĩ sẽ thấy mẹ giữa đám đông giờ cao điểm, thêm nữa nếu rời căn hộ, mẹ gọi về sẽ không gặp.

Đa quá giờ thay ca bảo vệ trực dưới nhà. Tôi gọi điện xuống, hy vọng gặp Carlos (người lớn tuổi nhất, oai vệ nhất trong số bảo vệ) hoặc Jose thì tốt nữa: đấy là anh người Dominica to con hớn hở mà tôi ưa nhất. Nhưng chẳng thấy ai trả lời, có đến hàng thiên niên kỷ sau mới thấy một giọng ngoại quốc nheo nhéo ngắc ngứ cất lên: “A lô?”

“Có chú Jose không ạ?”

“Không,” giọng kia nói. “Không. Gọi lại xau đi ”

Tôi đã nhận ra giọng cái anh châu Á có vẻ khiếp nhược, lúc nào cũng đeo kính bảo hộ và găng tay cao su, chuyên đánh bóng sàn và dọn rác cùng đủ thứ việc lặt vặt khác trong tòa nhà. Mấy, người bảo vệ (hình như cũng chẳng biết tên anh ta) chỉ gọi là “thằng mới”, rồi kêu ca ban quản lý sao lại đưa vào một tay tiếng Anh chẳng biết, tiếng Tây Ban Nha cũng không. Bất cứ chuyện gì xảy ra trong tòa nhà, họ cũng đổ tội cho anh ta: cái thằng mới lại không dọn tuyết trên lối đi cho tử tế, thằng mới không bỏ thư vào chỗ cần bỏ, không quét sân sạch như cần sạch.

“Gọi lại xau đi” Thằng Mới đang khấp khởi đề nghị.

“Không, chờ đã,” tôi nói khi anh ta định dập máy. “Cháu cần gặp ai đó”

Im lặng không hiểu.

“Xin chú, có ai ở đó không?” tôi nài nỉ. “Chuyện khẩn cấp lắm”

“OK,” giọng kia thận trọng đáp, nhưng vẫn có vẻ đợi nghe khiến tôi lại nhen hy vọng. Tôi nghe rõ tiếng thở ra hít vào trong lặng yên.

“Cháu là Theo Decker,” tôi nói. “Căn hộ 7C, cháu gặp chú dưới nhà nhiều lắm? Mẹ cháu vẫn chưa về nhà, cháu không biết phải làm gì.”

Im lặng dài và bối rối. “7,” anh ta lặp lại, cứ như cả câu chỉ hiểu mỗi phần đó.

“Mẹ cháu,” tôi nhắc lại. “Bác Carlos đâu? Không có ai khác ở đấy à?”

“Xin lỗi, cốm on?” anh ta cuống quýt nói rồi cúp máy.

Tôi cũng dập máy, kích động kinh khủng, rồi sau vài giây đứng hóa đá giữa phòng khách, liền ra bật tivi. Thành phố rối tung; cầu dẫn ra các quận ngoại ô đều đã bị chặn hết, chắc vì thế mà Carlos và Jose không vào đi làm được, nhưng tôi chẳng thấy có lý do nào mẹ lại bị kẹt ở ngoài. Trên màn hình hiện số điện thoại để gọi nếu có người mất tích. Tôi chép lại vào mẩu báo, tự thỏa thuận, nếu đúng ba mươi phút nữa chưa thấy mẹ về, sẽ gọi.

Chép lại số đó làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Không hiểu sao tôi tin rằng bản thân việc ấy đã là hành vi thần kỳ đưa mẹ bước qua cửa vào nhà. Nhưng bốn mươi lăm phút đã qua, rồi một tiếng, vẫn chẳng thấy mẹ, rốt cuộc tôi cũng đầu hàng và nhấc máy gọi (đi đi lại lại, mắt sốt ruột dán vào tivi suốt trong khoảng đợi bên kia nhấc máy, suốt trong khoảng mấy chờ, quảng cáo đệm giường, quảng cáo dàn loa, giao hàng nhanh miễn phí không xét điểm tín dụng). Cuối cùng cũng có một bà vẻ hoạt bát nhấc máy, giọng hết sức sự vụ. Bà ta hỏi tên mẹ, hỏi số của tôi, bảo mẹ "không có trong danh sách” nhưng tôi sẽ được báo ngay nếu thấy có tên mẹ xuất hiện. Mãi tới khi dập máy tôi mới nhận ra quên không hỏi thứ danh sách bà ta nói là danh sách gì; và mất một hồi lo lắng dằn vặt không biết là bao lâu, đi vòng vòng vật vã qua hết bốn căn phòng, mở ngăn kéo, nhặt sách lên rồi bỏ xuống, bật máy tính của mẹ xem Google ra được gì không (chẳng ra gì cả), tôi gọi lại hỏi.

“Bà ấy không có tên trong danh sách tử vong,” người đàn bà thứ hai tôi gặp đáp, giọng thản nhiên đến kinh ngạc. “Cũng không có trong danh sách bị thương.”

Trái tim tôi nở rộ “Vậy là mẹ cháu ổn phải không?”

“Ý tôi chỉ là chúng tôi chưa có thông tin gì cả. Cậu đã để lại số điện thoại chưa? Nếu cần chúng tôi sẽ gọi lại.”

“Rồi”, tôi nói, “họ đã bảo sẽ gọi lại cho tôi.”

“Miễn phí giao và vận chuyển,” tivi vẫn nói. “Hãy nhớ hỏi về chương trình miễn lãi sáu tháng của chúng tôi.”

“Vậy chúc may mắn,” bà kia nói rồi dập máy.

Sự tĩnh lặng trong căn hộ thật thiếu tự nhiên; ngay cả tiếng ồn ào phát ra từ tivi cũng không xua tan được. Hai mươi mốt người chết, “hàng chục người khác” bị thương. Tôi hoài công dùng mấy con số ấy trấn an mình: hai mươi mốt thì cũng không quá nhiều, phải không? Hai mươi mốt chỉ là một nhúm người trong rạp phim, thậm chí trên xe buýt. Lớp Ngữ văn của tôi còn đông hơn con số đó ba người. Nhưng chẳng mấy chốc, nghi ngờ và lo sợ mới lại chen chúc quanh tôi, và phải khó khăn lắm tôi mới không chạy ào ra khỏi nhà hét gọi tên mẹ.

Dù cực kỳ muốn ra ngoài phố tìm mẹ, tôi cũng biết mình cần ở yên. Mẹ con tôi phải hẹn nhau ở căn hộ: đấy là thỏa thuận, là quy ước đã đúc thành sắt kể từ hồi tiểu học, hồi tôi mang từ trường về nhà cuốn Dự Phòng Thảm Họa Cho Trẻ Em, vẽ những chú kiến hoạt hình đeo khẩu trang phòng độc, thu vén đồ dự trữ cho một tai họa không định rõ. Tôi đã giải hết các ô chữ, các bảng câu hỏi tù mù (“Em nên bỏ loại quần áo nào vào Ba-lô Dự Phòng Thảm Họa? A. Đồ bơi. B. Đồ nhiều lớp. C. Váy nhảy Hawaii. D. Giấy nhôm.”) và, cùng với mẹ, đã vẽ ra một Kế Hoạch Dự Phòng Thảm Họa Gia Đình. Kế hoạch ấy rất đơn giản: chúng tôi hẹn nhau tại nhà. Và nếu một trong hai người không về được đến nhà, thì sẽ gọi điện. Nhưng thời gian trôi đi mà điện thoại thì không đổ, và tổng số thiệt hại về nhân mạng trên bản tin lên đến hai mươi hai rồi hai mươi lăm người, và tôi lại gọi cho số điện thoại khấn cấp.

“Phải,” người đàn bà nhấc máy đáp, cái giọng điềm nhiên làm tôi muốn phát điên, “tôi thấy là cậu đã gọi đến đây rồi, tôi đã ghi tên bà ấy vào danh sách?

“Nhưng mà... có thể mẹ đang nằm bệnh viện hay gì đó chăng?”

“Cũng có thể. Nhưng rất tiếc là tôi không thể xác nhận điều đó được. Cậu nói tên cậu là gì nhỉ? Cậu có muốn nói chuyện với tư vấn viên của chúng tôi không?”

“Người ta đưa nạn nhân đến bệnh viện nào?”

“Xin lỗi, thực sự tôi không thể... ”

“Beth Israel? Lenox Hill?”

“Vấn đề là, điều đó còn tùy thuộc tình trạng thương tích nữa. Nhiều người bị tổn thương mắt, bị bỏng, đủ thứ. Khắp thành phố ngay lúc bây giờ đây có biết bao người đang phải phẫu thuật...”

“Còn những người vừa kết luận tử vong mấy phút trước thì sao?”

“Thế này, tôi rất hiểu, tôi cũng rất muốn giúp cậu, nhưng tiếc là không thấy Audrey Decker trong danh sách của tôi.”

Mắt tôi lo lắng phóng quanh phòng. Cuốn sách của mẹ Jane và Prudence, của Barbara Pym úp mặt trên lưng xô pha; một trong mấy chiếc áo len cashmere mỏng vắt trên tay ghế dựa. Mẹ có một bộ sưu tập đủ các màu; cái này màu lam nhạt.

“Có thể cậu nên đi xuống Kho Quân dụng xem. Ở đó người ta có sắp xếp chỗ nghỉ cho các gia đình - có đồ ăn, có rất nhiều cà phê nóng, có cả nhiều người để nói chuyện nữa.”

“Nhưng cháu đang hỏi cô, có người chết nào mà cô không biết tên không? Hoặc người bị thương nữa?”

“Thế này, tôi rất hiểu tâm trạng của cậu lúc này. Tôi thật sự, vô cùng muốn có thể giúp gì được cho cậu, nhưng mà tôi không thể. Cậu sẽ được gọi lại ngay khi chúng tôi có thông tin cụ thể.”

“Cháu cần tìm mẹ! Làm ơn đi! Chắc mẹ cháu đang nằm ở bệnh viện nào đó. Cô không thể gợi ý cháu nên tìm ở đâu được ư?”

“Cậu bao nhiêu tuổi?” người đàn bà nghi ngờ hỏi.

Im lặng kinh ngạc một lúc, rồi tôi dập máy. Mất vài giây choáng váng tôi nhìn điện thoại, thấy nhẹ lòng nhưng đồng thời cũng hối hận, cứ như vừa va vấp làm đổ vỡ vật gì. Lúc nhìn xuống thấy hai bàn tay run rẩy, tôi nhận ra, dửng dưng như thể nhận ra pin iPod đã cạn, rằng lâu lắm rồi mình không ăn gì. Cả đời trừ cái hồi bị nhiễm khuẩn dạ dày chưa bao giờ tôi nhịn đói lâu như thế. Thế nên tôi ra tủ lạnh, tìm hộp giấy đựng mì xào hải sản thừa từ tối qua rồi ăn ngấu nghiến bên kệ bếp, yếu đuối phơi mình trước ánh chói lòa từ bóng đèn trên đầu. Vẫn còn cả trứng hấp và cơm, nhưng tôi để lại cho mẹ phòng trường hợp mẹ về đến nhà đang đói ngấu. Đã gần nửa đêm rồi: thêm chút nữa là các quán đồ ăn sẵn sẽ đóng cửa. Ăn xong tôi rửa nĩa cùng mấy món pha cà phê từ sáng, lau cả kệ bếp để mẹ không phải làm gì thêm khi về nhà: chắc mẹ sẽ vui lắm, tôi nghiêm khắc tự nhủ, khi thấy tôi đã lau kệ bếp. Mẹ cũng sẽ vui nữa (hoặc ít ra tôi nghĩ vậy) khi thấy tôi đã cứu được bức tranh của mẹ. Hoặc mẹ sẽ tức điên. Nhưng tôi sẽ giải thích.

Theo bản tin tivi, thì giờ người ta đã biết kẻ chịu trách nhiệm vụ nổ là ai: những nhóm mà bản tin khi thì gọi là “bọn cực đoan cánh hữu” khi lại gọi “bọn khủng bố nội sinh”. Chúng đã cấu kết với một công ty chuyển đồ và lưu kho; nhờ những đồng phạm chưa biết tên trong nội bộ bảo tàng, chúng giấu chất nổ trong giá trưng bày rỗng thuê đóng ngoài, bày bưu thiếp và sách hội họa trong cửa hàng lưu niệm. Trong số những kẻ thủ ác vài tên đã chết, vài tên khác bị bắt giữ, số còn lại đã tẩu thoát. Một vài chi tiết được nói kỹ hơn, nhưng tôi không thể nạp hết vào đầu được.

Lúc này tôi đang loay hoay với cái ngăn kéo bếp bị kẹt, nó đã bị đóng quá mạnh đâm ra kẹt tư đời nào trước cả khi bố bỏ đi; ở trong chẳng có gì, chỉ có khuôn làm bánh quy với xiên nhúng hoa quả và bàn xắt chanh chẳng bao giờ đụng đến; Mẹ đã mất hơn cả năm cố tìm trong tòa nhà xem có ai chữa được ngăn kéo (lại thêm cả nắm đấm cửa hỏng, vòi nước rỉ và nửa tá những thứ lặt vặt dở hơi khác). Tôi lấy dao cắt bơ, thử bẩy mép ngăn kéo, cố không làm trầy thêm lớp sơn vốn đã sứt sẹo. Lực ép từ vụ nổ vẫn còn âm sâu trong cốt tủy, như vọng âm của tiếng ù ù trong tai nay đã lặn sâu vào trong; nhưng tệ hơn nữa là tôi vẫn còn ngửi thấy mùi máu, nếm thấy vị mặn và tanh trong miệng. (Tôi sẽ còn ngửi thấy nhiều ngày nữa, dù lúc ấy còn chưa biết.)

Trong lúc kỳ cạch bên cái ngăn kéo, tôi nghĩ xem có nên gọi cho ai nữa không, mà nếu có thì là ai. Mẹ là con một. Và mặc dù chính ra tôi vẫn còn một cặp ông bà còn sống nữa - ông nội và vợ hai, ở Maryland - tôi cũng không biết làm sao để liên lạc với họ. Quan hệ giữa bố tôi và bà mẹ kế Dorothy chỉ vừa ở mức chịu nhìn mặt nhau, bà ta vốn là dân nhập cư Đông Đức chuyên dọn vệ sinh thuê cho các văn phòng trước khi gặp ông nội. (Vốn là một tay bắt chước cừ, bố tôi từng nhại Dorothy nực cười và ác độc hết sức: một thứ hausfrau [nội trợ] chạy pin, môi mím chặt, điệu bộ giật cục, giọng lơ lớ như Curt Jurgens trong Battle of Britain.[31]) Nhưng dù bố có không ưa Dorothy đến mấy, thì cũng không sánh được với nỗi thù hằn dành cho ông nội: một hình nhân vừa cao vừa béo, bộ dạng đáng sợ, má đỏ hồng, tóc đen nhánh (tôi nghĩ chắc là tóc nhuộm), ưa mặc jacket và đồ caro màu chóe, chủ trương yêu cho roi cho vọt bằng thắt lưng với trẻ con. Chẳng phải chuyện chơi là cụm từ chủ yếu hiện lên trong đầu khi tôi nghĩ đến ông nội Decker - ví như khi bố tôi bảo “Sống với lão khi đó chẳng phải chuyện chơi” hay “Giờ ăn tối ở nhà đó thật chẳng thể coi là chuyện chơi được đâu”. Tôi mới giáp mặt ông nội với Dorothy có hai lần trong đời, hai dịp căng thẳng tột độ, mẹ chồm người về phía trước trên xô pha, mặc nguyên áo khoác, ví bỏ trong lòng, những nỗ lực dũng cảm gợi chuyện theo nhau ngắc ngứ rồi rơi tõm xuống đáy hố. Điều chính yếu tôi còn nhớ là những nụ cười gượng từ các phía, mùi thuốc lá hút tẩu gỗ anh đào nồng nặc và lời phủ dụ không quá thân mật của ông nội rằng nhớ rụt bộ móng khỉ khỏi mô hình tàu hỏa của ông (một cái làng núi cao Alps choán nguyên một phòng trong nhà họ, trị giá hàng vạn đô-la theo lời ông).

Tôi đã làm cong lưỡi dao phết bơ vì găm nó quá chặt vào thành ngăn kéo bị kẹt - Một trong bộ dao tốt của mẹ, bộ dao bạc của bà để lại ngày xưa. Kiên cường, tôi tìm cách uốn ngược trở lại, cắn môi và dồn toàn ý chí vào mục tiêu này, trong lúc các hình ảnh xấu xí lúc ban ngày chớp nhoáng dâng lên giáng vào mặt tôi từng cú. Cố tránh nghĩ về chuyện đó cũng không khác gì cố tránh nghĩ về con bò tía. Đầu chẳng nghĩ được chuyện gì khác ngoài con bò.

Bất đồ cái ngăn kéo bật mở. Tôi nhìn xuống đống hổ lốn ở trong: những cục pin gỉ, cái bàn bào phô mai gãy, khuôn bánh quy hình bông tuyết mẹ đã bỏ không dùng từ tận hồi tôi học lớp Một nhét chúng với những thực đơn đồ ăn mang đi lem nhem của Viand hay Shun Lee Palace và Delmonico. Tôi cứ để nguyên ngăn kéo mở toang - để mẹ sẽ nhìn thấy ngay khi bước vào - và lượn ra ghế bành, quấn mình trong chăn, ngồi thẳng lưng cho dễ quan sát cửa chính.

Đầu tôi đang quay mòng mòng. Một hồi lâu tôi ngồi run rẩy, chùi đôi mắt đỏ trong ánh sáng từ tivi, trong lúc những bóng xanh chập chờn khó chịu hết ra lại vào. "Thực tế là chẳng có tin mới gì; hình ảnh cứ trở lại bảo tàng ban đêm (giờ trông đã bình thường lại hoàn toàn, ngoại trừ cái băng cảnh sát, vàng vẫn còn căng trên hè phố, đằng trước các bảo vệ cầm súng, từng đám khói chốc chốc phụt lên trên mái tỏa vào bầu trời sáng đèn pha).

Mẹ ở đâu? Sao mẹ còn chưa về nhà? Hẳn là mẹ sẽ giải thích cặn kẽ; mẹ sẽ xua tan nỗi sợ của tôi rồi tôi sẽ thấy mình thật ngố vì đã lo lắng đến thế.

Để tạm gạt mẹ ra khỏi đầu, tôi tập trung thật lực vào đoạn phỏng vấn từ đầu buổi tối đang phát lại. Một ông giám tuyển đeo kính, mặc áo khoác vải tuýt có nơ con bướm, rõ là đang choáng váng - đang nói thật đáng xấu hổ là người ta không cho Các chuyên gia vào trong bảo tàng; chăm sóc cho các tác phẩm nghệ thuật. “Phải” ông ta nói, “tôi biết đấy là hiện trường tội phạm, nhưng tranh rất nhạy cảm với các thay đổi trong không khí và nhiệt độ. Tranh có thể bị hỏng vì nước, hóa chất hay khói. Có thể chúng đang tan ra ngay giữa lúc chúng ta đứng đây mà cãi cọ. Điều cực kỳ quan trọng là để cho các giám tuyển và chuyên gia bảo tồn vào những khu vực quan trọng để đánh giá mức độ thiệt hại càng sớm càng tốt…”

Bỗng thình lình điện thoại réo vang - vang một cách bất thường, như tiếng chuông báo thức lay tôi khỏi giấc mộng đáng sợ nhất đời. Khó mà diễn tả nỗi cảm giác nhẹ nhõm trong tối lúc ấy. Tôi vấp, suýt ngã dập mặt xuống đất khi nhào tới chộp điện thoại. Tôi tin chắc đấy là mẹ gọi, nhưng dòng tên người gọi làm tôi ngưng phắt: SGĐTENY.

Sở gì đó tại New York - nhưng sở gì? Sau một giây bối rối, tôi cũng bốc điện thoại. “A lô?”

“A lô, xin chào,” một giọng nói dịu dàng như ru gần như mẹ mìn cất lên. “Xin hỏi tôi đang nói chuyện với ai đây?”

“Theodore Decker,” tôi nói, giật mình. “Ai gọi thế?”

“Chào cháu, Theodore. Cô là Marjorie Beth Weinberg, cô là nhân viên xã hội ở Số Gia đình Trẻ em?”

“Đấy là chỗ nào? Cô gọi về chuyện mẹ cháu à?”

“Mẹ cháu là bà Audrey Decker? Đúng vậy không?”

“Mẹ cháu! Mẹ ở đâu? Mẹ có sao không?”

Im lặng hồi lâu - lâu đến kinh hoàng.

“Có chuyện gì?” tôi thét lên. “Mẹ cháu đâu?”

“Bố cháu có ở đấy không? Cho cô nói chuyện với bố cháu được không?”

“Bố cháu không nghe điện được. Có chuyện gì thế?”

“Cô xin lỗi, nhưng đây là chuyện khẩn cấp. Cô e rằng bố cháu nhất thiết phải tới nghe điện ngay bây giờ.”

“Thế mẹ cháu làm sao?” tôi hỏi và đứng dậy. “Xin cô! Chỉ cần nói cho cháu mẹ ở đâu thôi! Có chuyện gì thế?”

“Cháu không ở một mình chứ, Theodore? Có người lớn ở với cháu không?”

“Không, họ ra ngoài uống cà phê hết rồi,” tôi đáp, hoảng loạn nhìn quanh phòng khách. Giày ba-lê nằm nghiêng dưới ghế. Hoa đinh hương tím biếc trong chậu bọc giấy bạc.

“Cả bố cháu cũng đi à?”

“Không, ngủ rồi. Mẹ cháu đâu? Mẹ có bị sao không? Có chuyện gì thế?”

“Cô e rằng phải nhờ cháu đánh thức bố dậy thôi, Theodore à.” “Không! Không được!”

“Cô e đây là chuyện rất quan trọng.”

“Bố cháu không nghe điện được! Sao cô không nói luôn với cháu là cô chuyện gì?”

“Ờ, thế thì nếu bố cháu không nói được bây giờ, có lẽ tốt hơn cả là cô để lại số điện thoại cho cháu nhé.” Giọng nói trong tai tôi dịu dàng thông cảm, nhưng vẫn khiến tôi nhớ tới cỗ máy Hal trong Chuyến du hành không gian - 2001.[32] “Nhờ cháu nói với bố gọi lại cho cô ngay khi có thể. Đây quả thật là chuyện hết sức quan trọng”

Bỏ máy rồi, tôi ngồi lặng phắc hồi lâu. Theo đồng hồ trên mặt lò từ đây nhìn thấy, thì đã 2 giờ 45 phút sáng. Chưa bao giờ tôi ở một mình và lại thức vào cái giờ này. Phòng khách thông thường rộng mở thoáng khí biết mấy, tưng bừng vì sự có mặt của mẹ, giờ đã rúm lại lạnh lẽo, nhạt nhẽo và khó chịu, như một ngôi nhà nghỉ hè lúc đang đông: vải lụa mong manh, thảm lá thùa thô ráp, chụp đèn giấy mua ở Phố Tàu, ghế ngồi quá nhỏ và nhẹ bẫng. Đồ đạc đều có vẻ gầy gùa, đứng chông chênh vẻ lo âu dè dặt. Tôi cảm thấy tim mình đang đập, nghe thấy từng tiếng cạch, tiếng tích, tiếng xịt của tòa nhà lớn già nua đang lịm ngủ quanh mình. Ai cũng đang ngủ cả. Cả tiếng còi xe xa xăm và tiếng xoành xoạch của những cỗ xe tải thi thoảng chạy trên Phố 57 nghe cũng nhạt nhòa không đáng tin, có lẻ như âm thanh vọng đến từ một hành tinh khác.

Chẳng mấy nữa tôi biết, bầu trời đêm sẽ chuyển sang lam thẫm; những giọt ánh trời lạnh giá dịu dàng đầu tiên của tháng Tư sẽ lọt vào phòng. Xe chở rác sẽ gầm rú hầm hừ dọc đường cáị; chim chóc mùa xuân sẽ véo von trong công viên; chuông báo thức sẽ lanh lảnh trong các phòng ngủ khắp thành phố. Những anh chàng đu sau đuôi xe tải sẽ vứt từng bọc dày cộp New York Times và Daily News rơi bộp trên các vỉa hè ngoài sạp báo. Các ông bố bà mẹ khắp thành phố sẽ lê dép quanh nhà, tóc chưa chải bù xù trên áo choàng tắm hay đồ lót, bật cà phê, cắm máy nướng bánh mì, đánh thức con cái dậy đi học.

Còn tôi sẽ làm gì? Một phần trong tôi đang bất động, câm lặng vì tuyệt vọng, như lũ chuột phòng thí nghiệm đã bỏ cuộc nằm xuống giữa mê cung đợi chết.

Tôi cố thu xếp ý nghĩ cho sáng sủa. Suốt một lúc tôi có cảm giác hình như nếu ngồi thật yên và đợi, có thể mọi việc sẽ tự tìm cách dàn xếp xong xuôi. Những đồ vật trong căn hộ rung rinh trong cái nhọc mệt nơi tôi: các vầng sáng lập lòa quanh đèn bàn; những nét sọc giấy dán tường như run rẩy.

Tôi nhấc cuốn danh bạ, lại đặt xuống. Ý nghĩ gọi cảnh sát làm tôi kính khiếp. Mà cảnh sát thì làm được gì? Xem tivi, tôi đã biết quá rõ phải đợi người ta mất tích đủ hai mươi tư giờ đã. Tôi đang tự thuyết phục mình ra ngoài kia tìm mẹ, dù đang nửa đêm cũng vậy, thây kệ cái Kế Hoạch Dự Phòng Thảm Họa Gia Đình đi, thì một tiếng ré đinh tai (cái chuông cửa) phá tan tành im lặng và tim tôi nảy lên mừng rỡ.

Lê chân chạy nháo chạy nhào về phía cửa, tôi vụng về mở khóa. “Mẹ à?” tôi gọi to và kéo chốt trên cùng, mở cửa toang - rồi tim tôi rụng xuống, rơi vụt sáu tầng lầu. Đứng trên thảm chùi chân là hai kẻ cả đời tôi chưa nhìn thấy: một bà Hàn Quốc mũm mĩm cắt tóc ngắn lởm chởm, một ông có vẻ gốc La tinh mặc sơ mi thắt cà vạt trông giống hệt Luis trong Sesame Street. Trông họ không hề đáng sợ, mà trái lại; thân hình trung niên tròn xoe của họ còn toát ra vẻ trấn an, trong bộ quần áo như hai thầy cô giáo dạy kèm, nhưng dù vẻ mặt cả hai đều rất từ tâm, ngay giây lát nhìn thấy họ tôi đã hiểu cuộc đời mình vẫn sống từ trước đến nay đã kết thúc.