
Con Sẻ Vàng
Tổng số chương: 12
Đại diện Ban Quản Trị Group “Hội Những Người Thích Đọc Sách Bằng Kindle” xin chân thành cảm ơn tất cả các bạn đã cùng tham gia hoàn thành nên quyển Ebook này. Tuy rằng có tới gần 1.000 trang nhưng các bạn đã không bỏ cuộc và cùng chúng mình hoàn thành.
Các thành viên trong nhóm Ebook “Con Sẻ Vàng” gồm có:
1. Nguyễn Ngọc Thuỷ - Leader Team
2. Phạm Vũ Hoà
3. Trịnh Thanh Phương
4. Nguyễn Tuấn Thành
5. Ryder Nguyễn
6. Duyên Bích
7. Kiều Anh
8. Lê Minh Tâm
9. Thái Huỳnh
10. Võ Hoàng Nhật An
11. Nguyễn Ngọc Sơn
12. Hà Tiến Thành
13. Trịnh Minh Hiếu
14. Nguyễn Trần Anh Văn
Rất mong các bạn tiếp tục đồng hành với chúng mình để làm thêm các dự án ebook mới trong tương lai.
“Ebook được làm hoàn toàn phi lợi nhuận với mục đích - được mang theo những quyển sách hay, hot đi theo bên mình qua những chiếc Kindle. Mọi hình thức sao chép, kinh doanh đều trái với nguyên tắc làm việc của nhóm”
Cái phi lý không giải phóng mà trói buộc [1]
—ALBERT CAMUS—
1Cậu bé cầm đầu lâu
I.
TRONG NHỮNG NGÀY CÒN Ở AMSTERDAM, tôi mơ thấy mẹ lần đầu tiên sau nhiều năm. Tới lúc ấy tôi đã ở lì trong khách sạn hơn một tuần liền, chẳng dám gọi cho ai cũng không dám ra ngoài, tim nảy thình thịch trước những âm thanh dù hết sức vô hại: tiếng chuông thang máy, tiếng lạch xạch khi xe thức ăn đi qua, thậm chí tiếng chuông điểm mỗi giờ ở nhà thờ - de Westertoren hay Kritjberg[2] cũng nhuốm màu u ám, như tiếng chuông báo tử trong truyện cổ. Ban ngày tôi ngồi ở đầu giường, vắt óc tìm cách giải mã bản tin thời sự trên tivi (một việc vô vọng, vì nửa chữ Hà Lan tôi cũng chẳng biết) rồi tới khi bỏ cuộc, lại đến ngồi bên cửa sổ nhìn ra phía con kênh, trùm thêm cái áo khoác lông lạc đà ngoài quần áo thường - vì tôi vội vã rời New York, đồ mang theo chẳng đủ ấm, kể cả khi ngồi trong nhà.
Ngoài kia, đâu đâu cũng rộn rã náo nhiệt. Giáng sinh tới nơi rồi, đêm đến đèn lấp lánh khắp các cây cầu bắc qua con kênh; các dames en hem[3] 2 má đỏ, khăn quàng bay bay trong luồng gió lạnh cóng người, lao xe đạp tưng tưng trên mặt phố rải sỏi, đuôi xe chẳng cây thông. Chiều chiều, một nhóm nhạc nghiệp dư chơi những bản Giáng sinh nghe run rẩy lí nhí, lơ lửng trong làn khí mùa đông.
Những khay thức ăn gọi lên phòng vứt bừa phứa; thuốc lá đốt văng mạng; rượu vodka hâm hẩm mua ở cửa hàng miễn thuế. Trong mấy ngày giam lỏng chôn chân, tôi dần dà thuộc từng phân căn phòng này như kẻ tù nhân thuộc xà lim của hắn. Đây là lần đầu tôi đến Amsterdam; tôi chưa thăm thú gì mấy trong thành phố, thế mà bản thân căn phòng, cùng vẻ đẹp ảm đạm gió lùa nắng gọi, đã gợi lên sắc ngọt vị Bắc Âu, như mẫu hình cả nước Hà Lan thu nhỏ: màu vôi trắng lành mạnh ngay thẳng kiểu Tin lành, sánh cùng vẻ xa hoa rực rỡ theo tàu buôn từ phương Đông đưa lại. Tôi tần ngần ngắm lâu đến mức vô lý cặp tranh sơn dầu tí xíu khung mạ vàng treo trên tủ ngăn kéo, một bức vẽ những người nhà quê trượt trên mặt hồ đóng băng bên nhà thờ, bức kia vẽ tàu buồm lướt phăm phăm trên biển mùa đông dợn sóng: chí là tranh chép trang trí, không có gì đặc biệt, nhưng tôi săm soi nghiên cứu như thể mã hóa bên trong bức tranh đó là chìa khóa đi vào trái tim bí mật của các danh họa Flanders. Ngoài kia mưa tuyết gõ vào kính cửa và lun phun trên dòng kênh; và dù tấm chăn thêu kim tuyến trông thật ấm cúng, còn thảm đi rất êm chân, thì ánh nắng mùa đông vẫn tô lên cái vẻ lạnh lẽo thời 1943, thời đói kém thắt lưng buộc bụng, món trà loãng không đường và những tối ôm bụng lép đi ngủ.
Mỗi sớm lúc ngoài trời còn tối đen, trước khi khách sạn đổi ca và tiền sảnh dần đầy người, tôi lại đi xuống lấy báo. Nhân viên khách sạn đi lại lặng lẽ thì thầm trò chuyện, mắt bình thản trượt qua như không nhận thấy tôi, cái ông khách Mỹ phòng 27 chẳng bao giờ ló mặt xuống lúc ban ngày; và tôi gắng trấn an mình rằng người trực đêm (vét tối màu, đầu húi cua, kính gọng sừng) hẳn sẽ cố làm mọi cách để tránh phiền hà hay ầm ĩ.
Tờ Herald Tribune không nhắc đến điều đang vò xé lòng tôi; trái lại, nó tràn lan trên các mặt báo Hà Lan, những khối chữ in sin sít bằng thứ tiếng xa lạ nhởn nhơ trêu ghẹo khó mà hiểu được. Onopgeloste moord. Onbekende[4]
Tôi lên lầu chui lại vào giường (mặc nguyên quần áo, vì phòng quá lạnh) rồi xòa đống báo trên mặt chăn: ảnh chụp xe cảnh sát, dải băng vàng ngăn hiện trường, cả chú thích ảnh cũng không luận ra được, và mặc dù có vẻ chưa đi đến dược cái tên, nhưng họ có bản mô tả nhân dạng tôi không thì chịu, không cách nào biết được, hay có khi họ đang ém thông tin chưa công bố.
Căn phòng. Máy sưởi. Een Amerikaan met een strfblad[5]. Nước kênh xanh ô liu.
Vì tôi đang ốm, bị cảm, và nói chung là không có việc gì làm (không chỉ quần áo ấm, tôi còn quên cả sách), hầu như cả ngày tôi chỉ nằm trên giường. Đêm hình như xuống từ giữa chiều. Chốc chốc - giữa sột soạt giấy báo xung quanh - tôi lại chập chờn ngủ, và phần lớn những cơn mơ đều vẩn lên cái nỗi lo mơ hồ đã thấm ra ngoài thế giới lúc tỉnh: trát tòa án, vali bầy tung trên đường nhựa làm áo quần vung vãi khắp nơi, những sảnh sân bay dài vô tận, còn tôi chạy thục mạng tới những chuyến bay mình biết sẽ không bắt kịp.
Cơn sốt mang đến những giấc mơ quái dị và sống động hết sức, những trận tắm mồ hôi vật vã không biết đang đêm hay ngày, nhưng tới đêm cuối cùng - đêm tệ nhất - tôi mơ thấy mẹ: một giấc mơ chóng vánh và kỳ bí, giống như thấy vong hiện về. Tôi mơ thấy đang đứng giữa cửa hiệu của Hobie - chính xác hơn là giữa một không gian ma mị trong mơ dựng sơ sài mô phỏng theo cửa hiệu - thì bỗng nhiên mẹ đột ngột hiện ra sau lưng, cho phép tôi nhìn thấy bóng mẹ trong gương. Nhìn thấy mẹ, tôi sững người vì sung sướng: đúng là mẹ rồi, đứng đến từng chi tiết nhỏ nhất, từng chấm tàn nhang trên mặt, mẹ đang mỉm cười với tôi, mẹ đẹp hơn mà vẫn chẳng già đi, mái tóc đen nhánh, cái nét nhếch lên ngồ ngộ ở khóe miệng, không phải mơ mà là sự hiện diện có thực choán đầy căn phòng: bản thân mẹ là một lực, một tha tính đang sống thực. Và dù muốn lắm, tôi cũng biết mình không được quay lại, biết rằng nhìn mẹ trực diện sẽ vi phạm giới luật của cả hai cõi, của mẹ lẫn của tôi; mẹ đã đến với tôi bằng đường duy nhất mẹ có thể, và mắt chúng tôi gặp nhau trong gương một hồi lâu lặng yên; nhưng vừa lúc mẹ định cất lời - trong vẻ vừa buồn cười, vừa trìu mến vừa phiền muộn rất đỗi lạ lùng - thì một màn sương cuộn lên giữa đôi bên và tôi tỉnh dậỵ.
IIMỌI CHUYỆN HẲN ĐÃ TỐT ĐẸP HƠN nếu mẹ còn sống. Nhưng thực tế là, mẹ mất từ khi tôi còn nhỏ; và dù tất cả những điều xảy ra từ lúc đó đến giờ hoàn toàn là lỗi của tôi, thì khi mất mẹ, tôi đã mất đi tấm biển chỉ đường dẫn tới nơi chốn hạnh phúc, tới một cuộc đời đông đủ hay đầm ấm hơn.
Ngày mẹ mất là dấu mốc chia đôi ngả: Trước và Sau. Và dù thật thảm khi thú nhận điều này sau chừng ấy năm, nhưng chưa có ai làm tôi cảm thấy được yêu thương như mẹ. Ở bên mẹ mọi thứ đều sinh động hẳn lên; mẹ như bừng tỏa vầng sáng sân khấu khiến bất kỳ điều gì qua đôi mắt mẹ cũng tươi tắn sắc màu hơn thường lệ - tôi còn nhớ vài tuần trước khi mẹ mất, cùng ngồi ăn tối muộn trong nhà hàng Ý dưới Làng Greenwich[6], mẹ đã chộp lấy tay áo tôi, khi đột ngột và đáng yêu đến mức gần như đau đớn, chiếc bánh sinh nhật thắp nến được bưng trên tay đoàn phục vụ đi từ bếp ra, vòng ánh sáng rung rinh vẽ một đường trên trần nhà tối, và rồi chiếc bánh đặt xuống, lung linh giữa gia đình kia, tô rạng khuôn mặt một cụ bà, những gương mặt tươi cười chụm lại, bồi bàn lùi lại tay chắp sau lưng - bữa tiệc sinh nhật bình thường như vẫn thấy trong bất kỳ nhà hàng cỡ trung nào trên phố, và chắc chắn tôi cũng chẳng nhớ nó nếu không phải vì mẹ mất ít lâu sau đó; nhưng sau khi mẹ ra đi, tôi cứ nghĩ hoài nghĩ mãi về buổi tối hôm ấy, và hẳn sẽ còn nghĩ đến nó suốt đời: vòng ánh nến, hoạt cảnh về niềm vui giản dị đời thường đã mất hẳn khi tôi mất mẹ.
Mẹ cũng đẹp nữa. Điều ấy không quan trọng lắm; nhưng đúng là vậy. Hồi mới chân ướt chân ráo từ Kansas tới New York, mẹ làm người mẫu không chuyên, mẹ nhát máy ảnh nên không mấy thành công; mọi nét đẹp ở mẹ đều không chuyển được lên phim.
Thế nhưng mẹ lại trọn vẹn là mình: một điều hiếm có. Tôi không nhớ nổi đã bao giờ gặp ai thực sự giống mẹ chưa. Tóc mẹ đen, da mẹ trắng, đến hè thì nổi tàn nhang, mắt xanh màu sứ rực sáng; và gò má cao trộn lẫn dị thường chất da đỏ và chất Hoàng hôn Celt[7] khiến thỉnh thoảng mẹ bị nhầm là người gốc Iceland. Thực tế thì mẹ lai Ireland và Cherokee[8], sinh ở thị trấn nhỏ bang Kansas giáp ranh Oklahoma; và mẹ thích chọc cười tôi bằng cách tự nhận là dân “Okie”, dù mẹ chải chuốt, mau xúc động và duyên dáng như một chú ngựa đua. Cái chất ngoại lai ấy tiếc thay lại hiện lên quá cứng và khắc nghiệt trong ảnh - tàn nhang đã bị xóa hết bằng phấn, tóc túm đuôi ngựa sau gáy như một lãnh chúa Nhật trong Truyện kể Genji[9] và không thể hiện được chút nào hết về sức ấm, tính khí vui tươi khó đoán tôi yêu nhất ở mẹ. Có thể thấy rõ qua vẻ bất động trong các bức ảnh là mẹ không tin tưởng ống kính chút nào: mẹ toát ra sự cảnh giác, như con hổ gồng mình chuẩn bị đỡ đòn tấn công. Nhưng ngoài đời mẹ đâu có thế. Mẹ di chuyển thoăn thoắt mê hồn, cử động thanh thoát đột ngột, lúc nào cũng ngồi mớm mép ghế như một chú chim đầm lầy thân dài duyên dáng sắp giật mình vù bay. Tôi yêu mùi nước hoa gỗ đàn hương của mẹ, gắt và bất ngờ, yêu tiếng sột soạt áo sơ mi hồ cứng mỗi lần mẹ bất đồ thụp xuống hôn lên trán. Và tiếng mẹ cười khiến cho người ta chỉ muốn quẳng ngay việc đang làm dở mà lẽo đẽo theo mẹ khắp phố phường. Mẹ đi đâu cũng có đàn ông liếc nhìn, vài kẻ đôi khi còn nhìn theo kiểu khiến tôi hơi khó chịu.
Mẹ chết là lỗi của tôi. Mọi người thường hơi quá sốt sắng khi cam đoan rằng không phải thế; mà đúng vậy, trẻ con mà, ai biết được, tai nạn kinh hoàng, số đen, trời kêu ai nấy dạ, tất cả đều tuyệt đối đúng và tất cả tôi đều không mảy may tin.
Chuyện xảy ra ngày 10 tháng Tư ở New York, cách đây đã mười bốn năm. (Tay tôi như chùn lại trước cái ngày ấy; tôi phải ép nó viết ra, ép bút chạy trên mặt giấy. Đấy từng là một ngày hết sức bình thường, nhưng giờ thì ngày ấy chĩa ra trên lịch như đầu đinh gỉ.)
Nếu ngày ấy đã diễn ra đúng theo dự kiến, nó sẽ lặn không vết tích vào nền trời, mất tăm theo toàn bộ năm lớp Tám của tôi. Liệu giờ tôi còn, nhớ gì về nó? Chẳng mấy, hoặc không chút nào. Nhưng lúc này ký ức về buổi sáng hôm ấy còn sắc nét hơn hiện tại, rõ đến cả cảm giác ướt và dấp dính trong không khí. Đêm hôm trước vừa mưa, dông bão kinh hồn, hàng hiệu ngập nước, vài ga tàu điện ngầm phải đóng cửa; còn hai mẹ con tôi đang đứng trên tấm thảm lép nhép ngoài cửa chung cư đợi chú Vàng, người bảo vệ mẹ ưa nhất và cũng tôn sùng mẹ, đang đi giật lùi trên Phố 57 một tay giơ cao, huýt sáo gọi taxi. Xe vùn vụt lao qua quạt nước bẩn sang hai bên; những đám mây bứ nước sà xuống ngay trên đầu các tòa nhà chọc trời, dạt trôi ngang, chiếm chỗ những mảng trời xanh trong, và ở dưới này, trên mặt đường, dưới tầng khói xăng dầu, gió ẩm và dịu như mùa xuân.
“ Ài, có khách mất dồi chị ạ,” chú Vàng kêu vọng lại trong tiếng xe cộ, ồn ào, vừa bước tránh sang bên, khi có chiếc taxi tạt quành góc đường và tắt đèn trên nóc. Chú là người nhỏ con nhất trong đội bảo vệ: gầy gò, xanh xao nhưng hoạt bát, gốc Puerto Rico nhưng da sáng màu, xưa có hồi đấm bốc ở hạng lông. Dù mặt phì lên vì rượu (thỉnh thoảng vào ca đêm chú còn bốc mùi J&B.), chú vẫn dẻo dai, cơ bắp và nhanh nhảu - lúc nào cũng hoặc, đang, trêu đùa cà kê, hoặc đang kiếu ra góc đường hút thuốc chuyển tư thế trên hai chân và hà hơi vào đôi tay đi găng trắng khi trời lạnh, hoặc pha trò bằng tiếng Tây Ban Nha khiến mấy chú bảo vệ khác cười nôn ruột.
“Sáng nay chị vội nắm hả?” chú hỏi mẹ. Tên ghi trên thẻ là BURT D. nhưng ai cũng gọi chú là Vàng, vì chú có một chiếc răng bịt vàng và vì họ chú - de Oro - nghĩa là “vàng” theo tiếng Tây Ban Nha.
“Không, vẫn còn nhiều thời gian, không sao đâu.” Nhưng trông mẹ yếu lả và tay mẹ run rẩy khi thắt lại chiếc khăn vừa tuột ra, phất phơ trong gió.
Chắc cả chú Vàng cũng nhận thấy, vì chú liếc nhìn ra chỗ tôi (đang lần đằng sau tựa vào bồn cây xi măng trước chung cư, một mực cố tránh nhìn mẹ) có phần chê trách.
“Hai mẹ con không đi tàu điện à?” chú hỏi tôi.
“Ờ, chúng tôi phải chạy mấy việc,” mẹ nói, hơi ngập ngừng, khi nhận ra tôi không biết đáp lại thế nào. Bình thường tôi ít khi để ý đến quần áo mẹ, nhưng trang phục của mẹ sáng hôm ấy (áo khoác dài trắng, khăn hồng mỏng như tơ, giày lười hai màu đen trắng) đã hằn kỹ vào ký ức đến nỗi bây giờ tôi khó mà nhớ nổi mẹ theo cách nào khác.
Tôi mới mười ba. Tôi ghét phải nhớ lại chuyện sáng hôm ấy chúng tôi gượng gạo với nhau đến nỗi cả chú bảo vệ cũng nhận thấy; lệ thường mẹ con tôi vẫn trò chuyện rôm rả, nhưng sáng ấy cả hai không biết phải nói gì vì tôi vừa bị đình chỉ học. Ngày hôm trước trường vừa gọi cho mẹ ở công ty; mẹ về tới nhà lặng thinh, giận dữ; và kinh khủng nhất là tôi còn không biết mình bị phạt vì cớ gì, dù tin chắc đến bảy tám phần là thấy Beeman (trên đường từ phòng thầy tới phòng nghỉ giáo viên) đã nhìn ra cửa sổ chiếu nghỉ tầng hai vào đúng thời điểm không nên nhìn và thấy tôi đang hút thuốc trong sân trường. (Hoặc đúng hơn, thấy tôi đứng lớ ngớ bên thằng Tom Cable trong lúc nó hút thuốc, nhưng ở trường tôi như thế là tội ngang nhau.) Mẹ ghét thuốc lá. Ông bà ngoại - trong những chuyện mẹ kể vẫn thường khiến tôi tròn mắt nghe, và đã mất trước khi tôi có dịp được gặp, thật bất công- xưa là những người dạy ngựa mát tính, chu du khắp miền Tây và kiếm sống từ việc nuôi giống ngựa nòi Morgan[10], những người hoạt bát, yêu cocktail và chơi bài canasta, năm nào cũng đi xem giải đua Kentucky và trữ thuốc lá trong các hộp bạc để khắp nhà. Rồi một hôm bà ngoại vừa từ chuồng ngựa bước vào nhà thì gập người ho ra máu; và từ đó tới hết thời niên thiếu, cuộc sống của mẹ có thêm máy thở oxy đặt ở hiên trước và những phòng ngủ cả ngày buồng kín rèm.
Nhưng - điều tôi sợ, và cũng không phải không có lý - vụ thuốc của Tom mới chỉ là phần nổi của tảng băng. Ở trường, tôi sa vào rắc rối cũng kha khá lâu rồi. Tất cả đã bắt đầu, hoặc đúng hơn là đã sầm sập đổ xuống từ lúc bố tôi cuốn gói, rũ bỏ mẹ con tôi trước đó vài tháng; cả hai mẹ con nhìn chung không ưa bố lắm, và không có ông chúng tôi sống vui hơn nhiều, nhưng người ngoài ai cũng có vẻ choáng váng và xót xa khi biết ông rũ tuột chúng tôi đột ngột như vậy (không tiền, không trợ cấp nuôi con, cũng không thèm nhắn địa chỉ mới), còn các thầy cô giáo ở trường, bên Upper West Side, thì thương hại tôi, sốt sắng muốn tỏ ra cảm thông và trợ giúp tới nỗi dành cho tôi - tuy tôi đi học bằng học bổng - đủ thứ ưu tiên, được nộp bài trễ hạn, được gia hạn thêm cơ hội lần sau, rồi lần sau nữa: cuộn dây cứ dần dà nhả trong vài tháng trời, đến khi tôi đã tuột xuống tận đáy hố rất sâu.
Thế là cả hai - mẹ và tôi - bị triệu tập đến họp ở trường. Giờ hẹn mãi tận mười một rưỡi, nhưng vì đằng nào mẹ cũng phải xin nghỉ cả buổi sáng nên chúng tôi xuất phát sang West Side sớm - để ăn sáng (kèm với, như tôi đoán, một cuộc “cạo đầu” ra trò) và để mẹ mua quà sinh nhật cho ai đó ở công ty. Đêm hôm trước mẹ thức đến hai rưỡi sáng, vẻ mặt căng thẳng trong ánh sáng từ màn hình, viết email và thu xếp công việc để sáng còn nghỉ.
“Chả biết chị thấy sao,” chú Vàng đang nói với mẹ, khá sừng sộ, “chứ tôi xin đủ với cái thứ xuân ướt nhách này dồi. Mưa với chả miếc…” Chú rùng mình, làm điệu bộ kéo cổ áp kín lại và liếc nhìn trời.
“Hình như dự báo nói đến chiều sẽ tạnh đấy.”
“Vơng, tôi biết, nhưng tôi thì ham hè lắm dồi.” Xoa tay vào nhau. “Ai cũng đi sạch, ghét hè, kêu hè nóng, nhưng úi chà, tôi nà con chim nhiệt đới. Càng nóng càng khoái. Nóng ơi đến đi!” Vỗ tay, bước lùi trên gót chân dọc phố. “Mà tôi nói chị nghe nhá, biết tôi thích gì không, thích nhất là ở đây nặng phắc, tháng Bảy ấy...? nhà nào cũng vắng, như đang ngủ, chả ai ở nhà, chị biết không?” Bật ngón tay, xe vẫn vụt qua. “Đấy là lúc tôi được nghỉ hè.”
“Nhưng đứng ngoài này anh không chết cháy à?” Ông bố khó gần của tôi vẫn ghét cái thói quen ấy của mẹ - sẵn sàng trò chuyên với phục vụ ở quán, người gác cổng, mấy ông già ho hen ở hàng giặt khô. “Mùa đông ít nhất thì anh cũng có thể mặc thêm áo khoác...”
“Chị nhá, gác cửa mùa đông á? Nói chị nghe, nạnh chết thôi. Chị mặc thêm cả đống áo mũ cũng vậy. Chị đứng đây quãng tháng Một tháng Hai, xong gió thổi vào từ sông? Hóa đá nuôn.”
Vừa nhấp nhổm gặm móng tay, tôi vừa theo dõi đám taxi chạy qua vèo vèo mặc kệ cánh tay chú Vàng giơ lên. Tôi đã chuẩn bị tinh thần sẽ phải khốn khổ chờ cho tới buổi họp mười một rưỡi, và cố lắm mới đứng yên được mà không buột ra những câu hỏi tai hại. Tôi hoàn toàn không tưởng tượng nổi họ định chụp cái gì xuống đầu mẹ con tôi, một khi đến văn phòng; chỉ nghe chữ “họp” là tôi đã hình dung một buổi hội đàm giữa các loại quan chức, các kiểu kết tội và đối đầu, và khả năng bị đuổi học. Bị cắt học bổng sẽ là thảm họa; nhà tôi đã cạn tiền từ hồi bố bỏ đi; cả tiền thuê nhà cũng chỉ vừa đủ trả. Trên hết: tôi lo đến thắt ruột là làm cách nào mà thầy Beeman đã phát hiện ra Tom Cable với tôi vẫn thường phá cửa vào các nhà nghỉ mùa hè vắng chủ hồi tôi tới ở với nó ngoài khu Hampton[11]. Tôi nói “phá cửa” dù thực ra chúng tôi không bẻ khóa, cũng không đập phá cái gì hết (mẹ Tom làm văn phòng nhà đất; chúng tôi mở cửa bằng chìa dự phòng nhón từ bảng móc khóa trong văn phòng). Chủ yếu chúng tôi chỉ ngó nghiêng các tủ và lục lọi các ngăn kéo, nhưng cũng lấy vài thứ: bia trong tủ lạnh, vài đĩa game XBox với một DVD (Chó Danny của Lý Liên Kiệt) và tiền, tổng cộng đâu chừng 92 đô-la: những tờ 5 và 10 đô nhàu nát bỏ trong lọ bếp, những vốc tiền lẻ trong phòng giặt.
Mỗi lần nghĩ đến chuyện này tôi lại thấy chóng mặt. Mấy tháng rồi tôi không đến chỗ Tom, nhưng dù tôi cố tự trấn an rằng thấy Beeman không biết chúng tôi lén vào mấy nhà đó đâu - làm thế quái nào biết được? - thì trí tưởng tượng trong nỗi kinh hoàng vẫn hoạt động hết công suất. Tôi hạ quyết tâm không xì Tom ra (dù không chắc nó có xì tôi hay chưa) nhưng vì thế lại há miệng mắc quai. Làm sao tôi lại ngu đến cỡ đó cơ chứ? Phá cửa vào nhà người khác là phạm pháp; cả đống người đã phải ngồi tù vì vụ đó rồi. Đêm hôm trước tôi thức chong chong hàng giờ, vật vã trăn trở, nhìn mưa quất từng đợt tả tơi vào cửa sổ và suy tính xem nói gì nếu bị truy hỏi. Nhưng bào chữa bằng cách nào đây nếu thậm chí tôi còn không biết họ đã biết những gì?
Chú Vàng thở dài đánh sượt, bỏ tay xuống và bước giật lùi bằng gót chân về chỗ mẹ đứng.
“Bó tay nuôn, ” chú nói với mẹ, một mắt vẫn nhìn ra phố mệt mỏi. “Đằng SoHo ngập, chị nghe chưa, mà Carlos còn bảo đầu kia mấy phố bị Niên Hợp Quốc cấm đường nữa.”
U ám, tôi nhìn đám công nhân lục tục bước xuống khỏi xe buýt xuyên Manhattan, buồn tẻ như một bầy ong vò vẽ. Nếu chịu khó đi bộ về phía tây một hai phố sẽ dễ gặp may hơn, nhưng tính chú Vàng chúng tôi đã thuộc quá rõ, thế nào chú cũng phật lòng nếu chúng tôi: chủ động đi. Nhưng đúng lúc ấy - đột ngột khiến cả ba giật bắn - một xe còn để đèn nóc cắt làn lạng vèo tới chỗ chúng tôi, làm bắn vọt lên một cánh nước mùi xí- thải.
“Ầy chà!” chú Vàng kêu lên, nhảy vội tránh trong lúc cái xe hãm lại - rồi nhận ra mẹ không có ô. “Chờ tí,” chú nói, dợm chân định chạy vào sảnh chung cư, tới bộ sưu tập ô bỏ quên hoặc lạc chú cắm trong ống đồng bên lọ sưởi đợi các ngày mưa đem ra phân phát.
“Đừng,” mẹ gọi với, mở trong túi tìm cái ô gập nhỏ xíu sọc xanh đỏ như kẹo Giáng sinh, “không cần đâu anh Vàng ơi, tôi có rồi.”
Chú Vàng nhảy lại ra vệ đường, đóng cửa xe cho mẹ. Rồi chú cúi mình gõ lên cửa sổ.
“Chúc chị một ngày may mắn nhé,” chú nói…
IIITÔI VẪN THÍCH coi mình là người tinh nhạy (chúng ta ai mà chẳng thế), và khi chép lại những chuyện này thật khó cưỡng lại ý muốn vẽ thêm bóng đen lơ lửng trên đầu. Nhưng lúc ấy tôi mù và điếc trước tương lai; mối lo duy nhất đang bóp nghẹt tôi là cuộc họp ở trường. Lúc tôi gọi Tom báo mình bị đình chỉ học (thì thầm qua điện thoại bàn; di động đã bị tịch thu), nó chẳng tỏ ra ngạc nhiên mấy tí. “Theo,” nó ngắt lời tôi, “đừng nói ngu nữa, không ai biết gì đâu nếu mày chịu khó khóa mõm lại”; và trước khi tôi kịp thốt thêm lời nào, nó bảo “Giờ tao phải đi đã” rồi dập máy.
Ngồi trong xe, tôi cố vặn cửa sổ xin tí gió: không ăn thua. Xe bốc mùi như có người vừa thay tã bẩn trong đấy, hay có khi ai đó bĩnh ra thật cũng nên, rồi tìm cách khỏa lấp đi bằng cách phóng tay xả nước xịt phòng mùi dừa ngửi như mùi dầu thoa chống nắng. Mặt ghế nhờn, dán đầy băng dính, bộ giảm xóc thì gần như đơ hẳn. Mỗi lần vấp phải gờ giảm tốc răng tôi lại gõ vào nhau, cả mớ đồ thờ cúng tạp nhạp móc trên gương chiếu hậu cũng gõ vào nhau: mấy mặt dây chuyền, cái gươm cong tí hon nhún nhảy trên sợi xích nhựa, một thầy tu râu dài vấn khăn trên đầu đưa cặp mắt sắc lẻm nhìn xoáy vào băng ghế sau, lòng bàn tay giơ lên làm phước.
Dọc Đại lộ Công viên, từng dãy tulip đỏ đứng nghiêm chào chúng tôi phóng qua. Nhạc phim Bollywood - vặn nhỏ chỉ còn nghe nhèo nhẽo gần như ma mị - khi cuộn xoáy khi khuấy động một cách mê hoặc, vừa đủ ngưỡng tôi nghe thấy. Lá non bắt đầu nhú trên cây. Mấy người giao hàng cho các tiệm D’Agostino và Gristede đẩy những xe trĩu nặng thực phẩm; các bà công sở mặt cáu bẳn gõ gót giày xăm xăm trên vỉa hè, lôi theo bọn nhóc mẫu giáo trì níu; một công nhân mặc đồ bảo hộ vun rác trong rãnh nước vào xẻng cán dài; dân luật sư và chứng khoán ngửa bàn tay nhìn trời mày cau nhăn tít. Trong lúc xe lạng trên đại lộ (mẹ trông vẻ rất khổ sở, bám chặt tay ghế làm điểm tựa) thì tôi ngó ra cửa sổ nhìn những bộ mặt đau bao tử giờ làm việc (những bóng lo âu trùm áo mưa, nhô nhúc từng bầy tăm tối chỗ qua đường, những người uống cà phê trong cốc giấy, nói điện thoại và lén lút đánh mắt sang hai bên), cố không nghĩ tới những tương lai kém dễ chịu có lẽ đang rình đón: vài cái trong đó là tòa án thiếu niên, hay nhà tù.
Chiếc xe đột ngột đảo vòng rất gắt, quành vào Phố 86. Mẹ trượt sang đâm sầm vào tôi rồi chộp lấy tay tôi; tôi thấy mẹ đã dính mồ hôi và trắng nhợt như cá tuyết.
“Mẹ bị say à?” Tôi hỏi, trong thoáng chốc quên bẵng mối lo riêng. Mẹ có cái vẻ đăm chiêu khổ não, cái vẻ tôi quá quen: môi mím chặt, trán dấp nước, đồng tử mở to trong cặp mắt mờ đi.
Mẹ mở miệng định nói - rồi bụm chặt tay lên miệng khi chiếc xe dừng khựng chỗ đèn đỏ, làm chúng tôi ngã nhào tới trước rồi lại ra sau, đập mạnh vào ghế.
“Cố đợi chút,” tôi nói với mẹ, rồi nhoài tới gõ vào tấm kính nhựa dẻo nhớp nháp, làm bác tài (một ông người Sikh đội khăn) giật mình ngạc nhiên.
“Ông ơi,” tôi nói qua lưới mắt cáo, “tới đây được rồi, cho nhà cháu xuống đây.”
Ông người Sikh - trong cái gương quấn tràng hoa - chăm chú nhìn trả. “Mấy người muốn xuống đây?”
“Vâng, cho cháu xuống.”
“Nhưng đây không phải địa chỉ mấy người nói.”
“Cháu biết. Nhưng xuống đây cũng được,” tôi nói và nhìn lại mẹ - mascara đã lem ra mặt, vẻ lả đi, đang bới tìm ví trong túi.
“Bà ấy có sao không?” Bác tài băn khoăn hỏi.
“Không, không, không sao cả. Cho chúng cháu ra là được, cảm ơn ông.”
Tay run rẩy, mẹ chìa ra một nắm tiền ẩm ướt rồi đẩy qua lưới. Trong khi ông Sikh thò tay qua nắm lấy (với vẻ cam chịu, mắt nhìn chỗ khác) thì tôi bước ra, giữ cửa xe cho mẹ.
Mẹ hơi loạng choạng khi bước lên vỉa hè, tôi nắm lấy tay mẹ. “Mẹ không sao chứ?” Tôi lí nhí hỏi khi chiếc xe chạy đi. Chúng tôi đang ở nửa trên Đại lộ 5, trước cửa mấy đại dinh thự nhìn ra công viên.
Mẹ hít một hơi thật dài, rồi quệt trán và bóp chặt tay tôi. “Phù,” mẹ nói, phe phẩy bàn tay quạt mặt. Trán mẹ vẫn còn bóng và mắt còn hơi lạc thần; mẹ có cái vẻ xơ xác của con chim biển bay lạc vào cơn gió thổi bạt. “Xin lỗi con, vẫn còn hơi lảo đảo, ơn Chúa ra khỏi cái xe ấy rồi. Mẹ không sao đâu, cần chút khí trời thôi.”
Dòng người tuôn chảy quanh chúng tôi trên góc đường lộng gió: những cô bé mặc đồng phục, vừa cười vừa chạy đuổi nhau vòng tránh chúng tôi; những bà vú em đẩy xe nôi lộng lẫy, trong xe ngồi từng đôi hoặc ba bé con. Một ông bố dáng luật sư cáu bẳn vượt qua rất sát, nắm tay đứa con trai lôi đi. “Không được, Braden,” tôi nghe ông ta bảo nó, còn nó thì đang lót tót cố bắt kịp, “con không được tư duy như thế, quan trọng là phải kiếm việc nào mình thích...”
Chúng tôi bước sang bên tránh dòng lũ bọt xà phòng khi người lau dọn đổ ụp cái xô trên vỉa hè trước cửa tòa nhà.
“Nói xem,” mẹ bảo, đầu ngón tay ấn thái dương, “là mẹ tưởng tượng thôi, hay đúng là cái xe ấy đáng sợ một cách… ”
“Rất là ẹo? Theo kiểu dầu Nhiệt đới Hawaii pha phưn trẻ con?”
“Thật ra là... ” - quạt tay trước mặt - “cũng không sao nếu không phải hơi tí lại cà gật cà gật. Mẹ đang hết sức bình thường thì tự dưng gục luôn.”
“Sao mẹ không lên ngồi ghế trước?”
“Con nói cứ y như bố con.”
Tôi nhìn đi chỗ khác ngượng chín - vì cả tôi cũng nghe thấy, thấy cái điệu gì cũng biết đáng ghét của bố trong giọng mình. “Mình đi lại đằng Madison, kiếm chỗ nào cho mẹ ngồi đi,” tôi nói. Tôi đang đói ngấu, mà ở đó lại có một quán tôi kết.
Nhưng - gần như rùng mình, cơn buồn nôn lại ập qua thấy rõ - mẹ lắc đầu. “Khí trời.” Quệt vội mascara nhòe dưới hai mắt. “Khí trời mới dễ chịu!”
“Cũng được,” tôi nói hơi vội quá, sốt sắng muốn tỏ ra chiều ý- “Tùy mẹ thôi.”
Tôi đang rất cố gắng tỏ ra dễ thương, nhưng mẹ - còn đang hổn hển váng vất - đã nghe ra giọng đó; mẹ chăm chú nhìn, cố đoán tôi đang nghĩ gì. (Đây lại một thói quen xấu nữa chúng tôi đã nhiễm phải, sau hàng năm trời sống bên bố: cố tìm cách đọc ý nghĩ người khác.)
“Sao?” mẹ hỏi. “Con muốn đi chỗ nào à?”
“A không, không hẳn,” tôi nói, lùi một bước và nhìn xung quanh hơi rầu lòng; dù đói thật nhưng tôi thấy mình cũng không có quyền đòi hỏi.
“Mẹ không sao đâu. Chờ một phút thôi.”
“Hay là...” chớp mắt bứt rứt, mẹ muốn gì, làm sao cho mẹ vui? “hay mình qua công viên ngồi?”
Tôi nhẹ người thấy mẹ gật đầu. “Cũng được,” mẹ nói bằng giọng tôi vẫn gọi thầm là giọng Mary Poppins của mẹ, “nhưng ngồi tới lúc mẹ lại sức thôi nhé,” và chúng tôi đi về phía ngã tư giao với Phố 79: qua những bụi cây xén hình thú trồng chậu đá kiểu ba rốc, những cửa nặng nề trang trí sắt uốn. Ánh nắng đã phai thành sắc xám công nghiệp ảm đạm, gió nồng như hơi bốc từ vòi ấm đun. Bên kia đường trong công viên, các họa sĩ đang dựng quầy, mở toan, treo lên những bức màu nước chép hình nhà thờ Thánh Patrick và cầu Brooklyn.
Chúng tôi im lặng đi bên nhau. Đầu óc còn đang bận rộn tính toán những rắc rối của mình (bố mẹ Tom có bị gọi không? Sao tôi không nghĩ ra mà hỏi nó?) cũng như tính sẽ gọi gì ăn sáng chừng nào kéo được mẹ tới quán kia (trứng tráng trộn hành ớt và khoai áp chảo, thêm thịt hun khói; còn mẹ sẽ ăn như mọi khi, bánh mì lúa mạch nướng với trứng chần và cốc cà phê đen) nên tôi hầu như không để ý đang đi về đâu thì chợt nhận ra mẹ vừa nói gì đó. Mẹ không nhìn tôi mà nhìn sang bên công viên; nét mặt mẹ khiến tôi nhớ lại một bộ phim Pháp nổi tiếng không nhớ tên, có những người lơ đãng đi lại trên những con phố bạt gió và nói rất nhiều, nhưng có vẻ không phải nói chuyện với nhau.
“Mẹ vừa bảo gì cơ?” Tôi nói sau vài giây ngắc ngứ, rảo bước để bắt kịp mẹ. “Hỏng...?”
Mẹ giật mình, cứ như đã quên có tôi ở đấy. Cái áo khoác trắng - lật phật trong gió - càng tôn thêm dáng cò quăm dài cẳng, cứ như mẹ sắp xòe cánh bay mất qua công viên.
“Hỏng cái gì cơ?”
“À.” Mẹ hơi ngơ ngác rồi lắc đầu cười, tiếng cười khanh khách quen thuộc. “Không. Mẹ bảo là lỗ hổng thời gian.”
Dù đây là một cụm từ lạ lùng nhưng tôi hiểu mẹ muốn nói gì, hoặc tôi tưởng rằng mình hiểu - cái rùng mình tách rời thế giới, những giây vụt mất trên vệ đường như cú nấc nuốt thời gian, hay một vài khung hình bị cắt khỏi bộ phim.
“Không có gì, cún con ạ, chỉ là do khu này thôi.” Vò xù tóc tôi, khiến tôi mỉm cười xấu hổ: cún con là tên ở nhà hồi bé, giờ tôi không thích nữa và cũng chẳng thích bị vò xù tóc; nhưng dù ngượng nghịu tôi cũng mừng khi thấy mẹ đã vui lên. “Lúc nào cũng ở đúng chỗ này. Mỗi lần đến đây mẹ cứ ngỡ như mình trở về tuổi mười tám, vừa bước chân xuống xe đò vậy.”
“Ở đây sao?” Tôi nghi ngờ hỏi và cho phép mẹ nắm tay, dù bình thường không có chuyện đó. “Lạ thế.” Tôi thuộc làu thời kỳ mẹ mới tới Manhattan, cách Đại lộ 5 một quãng kha khá - ở Đại lộ B, sống trong căn hộ một phòng trên đầu quán rượu, bên dưới dân dạt vòm ngủ chắn ngang cửa và ẩu đả trong quán tràn cả ra đường, với một bà già khùng tên Mo nuôi hơn chục con mèo trái phép, trong cầu thang tầng trên cùng đã xây bít lại.
Mẹ nhún vai. “Ừ, nhưng chỉ có trên này là vẫn y như lần đầu mẹ thấy. Như hầm xuyên thời gian. Bên phía Lower East Side - ở con biết dưới đó thế nào mà, lúc nào cũng có gì đó mới, nhưng với mẹ thì cảm giác như vừa ngủ trăm năm tỉnh dậy ấy, mỗi lúc một thêm xa, Có những hôm mẹ mở mắt mà tưởng trong đêm người ta đã đến xáo trộn các cửa hàng hết cả. Mấy nhà hàng cũ đóng cửa, rồi thì quán bar mới tinh đúng mốt chiếm chỗ cửa hàng giặt khô ngày xưa.
Tôi im lặng tỏ ý thông cảm. Dạo gần đây mẹ cứ nhắc mãi về thời gian trôi, có thể vì sinh nhật mẹ sắp đến rồi. Mẹ già quá rồi mà cứ phải làm chuyện này, mới mấy hôm trước mẹ vừa nói khi cả hai cùng bới tung căn hộ, lục tìm dưới đệm xô pha rồi dốc ngược mọi túi áo choàng áo vét cho đủ tiền lẻ trả cậu giao hàng ở quán ăn.
Mẹ cắm sâu hai tay vào túi áo. “Trên này thì yên ổn hơn,” mẹ nói. Giọng mẹ tưng tửng, nhưng tôi vẫn nhìn thấy sương kéo đến trong mắt mẹ; hẳn nhiên đêm qua mẹ không ngủ được, vì tôi. “Công viên Upper Park là một trong vài nơi hiếm hoi vẫn thấy được thành phố trong dáng vẻ thập niên 1890. Cả Công viên Gramercy, và Làng Greenwich nữa, một góc của nó. Hồi mới đến New York mẹ nghĩ khu này cứ như đủ cả Edith Wharton với Franny và Zooey[12] với Bữa sáng ở Tiffany[13] trộn vào làm một vậy.”
“Franny và Zooey là ở West Side chứ.”
“Ừ, nhưng hồi đó mẹ ngố quá đâu có biết. Chỉ biết một điều là ở đây khác hẳn dưới Lower East toàn dân lang thang thích phóng hỏa thùng rác.Trên này đến cuối tuần là cứ như cổ tích - vơ vẩn trong bảo tàng - long nhong một mình quanh Công viên Trung tâm,..”
“Long nhong á?” Phần lớn những chuyện mẹ nói tôi nghe thật lạ lẫm, còn long nhong nghe có vẻ một thuật ngữ luyện ngựa hồi mẹ còn trẻ: có thể là nước chạy nhởn nhơ nào đó, dáng đi nào đó của họ nhà ngựa giữa phi nước kiệu và chạy bước nhỏ,
“Ừ, con hiểu mà, lượn vòng chơi rong như mẹ vẫn làm ấy. Tiền không có, tất thủng gót, sống bằng cháo yến mạch. Con có tin vài lần mẹ còn đi bộ lên tận đây vào cuối tuần không? Để dành tiền đi tàu về. Đấy là hồi còn dùng vé xèng chứ không dùng thẻ nhựa. Với lại mặc dù vào cửa bảo tàng phải trả tiền? Cái gọi là ‘mức gợi ý đóng góp’ ấy? Ờ, chắc hồi ấy mẹ táo gan hơn nhiều bây giờ, hoặc có thể chỉ là do họ thấy tội nghiệp mẹ, vì là... Ôi không,” mẹ chợt đổi giọng và đứng sững lại, làm tôi bước quá vài bước mà không nhận ra.
“Sao?” Tôi quay lại. “Sao thế ạ?”
“Cảm thấy gì ấy.” Mẹ ngửa bàn tay nhìn trời. “Con thấy không?”
Và vừa khi câu ấy thốt ra, ánh sáng như sầm xuống. Trời tối lại rất nhanh, mỗi giây mỗi tối hơn; gió khua lao xao cây trong công viên, những lá non mảnh dẻ vàng óng nổi hằn trên nền mây đen kịt.
“Trời, ai mà ngờ được,” mẹ nói. “Sắp dông to rồi.” Mẹ nghiêng người ra phía đường, nhìn hướng bắc: chẳng thấy xe.
Tôi lại nắm tay mẹ. “Đi nào,” tôi nói, “sang bên kia đường sẽ may hơn.”
Sốt ruột, chúng tôi đứng đợi vài giây cuối cùng cái đèn đi bộ nhấp nháy báo Xin Chờ. Từng mẩu giấy đang xoay vòng trong không khí, lả tả lăn trên phố. “Mẹ, xe kìa,” tôi nói khi nhìn theo Đại lộ 5, nhưng vừa lúc đó một ông có vẻ doanh nhân giơ cao tay chạy ra lề, và đèn xe tắt ngúm.
Bên kia đường, các họa sĩ chạy kéo bạt nhựa che tranh. Xe bán cà phê cũng bắt đầu hạ vách cuốn. Chúng tôi vội vã sang đường và vừa qua đến nơi, một hạt mưa to bự vỗ đánh bộp xuống má tôi. Những chấm tròn nâu lác đác - cách xa nhau, to như đồng mười xu - bắt đầu nở xòe trên lề đường.
“Ôi khỉ thật!” mẹ kêu lên, loay hoay tìm ô trong túi - cái ô nhỏ che một người còn chưa đủ, nói gì hai.
Rồi mưa rơi, từng vạt lạnh buốt tạt xéo vào trong, từng bụm gió lồng lộn trên đỉnh cây, phần phật trên mái bạt các hàng quán bên kia đường. Mẹ thì đang loay hoay không mấy thành công với cái ô con đỏng đảnh không chịu bật. Người đi trên phố hay trong công viên giơ báo hoặc cặp táp lên che đầu, lúp xúp theo cầu thang chạy lên hiên cổng bảo tàng, cả phố chẳng có chỗ trú mưa nào khác. Và náo nức như đi hội, mẹ con tôi hối hả lên cầu thang, núp dưới cái ô lẩy bẩy sọc xanh đỏ, nhanh nhanh nhanh, giống như đang dắt nhau chạy khỏi thứ gì khủng khiếp chứ không phải đâm đầu vào nó.
IVCÓ BA ĐIỀU QUAN TRỌNG xảy đến với mẹ sau khi khăn gói quả mướp đáp xe đò từ Kansas lên New York, không bạn bè, gần như không xu dính túi. Điều số một là Davy Jo Pickering, một tay săn người của làng giải trí đã để lọt vào mắt xanh cô gái chạy bàn trong quán cà phê ở Greenwich: một cô bé còm nhom đi giày Doc Martens, mặc đồ hàng tầm tầm, bím tóc sau lưng dài đến nỗi ngồi lên được. Khi cô bé bưng cà phê tới, ông ta đã đặt giá ban đầu bảy trăm, sau đó một nghìn đô-la để trám chỗ một cô gái khác cúp việc ngày hôm ấy, trong buổi chụp hình làm ca-ta-lô ngay bên kia đường. Ông ta đã chỉ cô thấy cái xe studio di động, dụng cụ chụp ảnh đang dựng trong công viên quảng trường Sheridan; ông ta đã đếm các tờ tiền, trải ngay lên mặt quầy. “Chờ tôi mười phút,” cô đã đáp, dọn ra nốt các món trong bữa sáng ông ta gọi, rồi treo tạp dề lên móc và bước thẳng ra ngoài.
“Tôi chỉ làm mẫu cho đơn đặt hàng ấy mà,” mẹ lúc nào cũng cẩn thận giải thích cho mọi người xung quanh - thế có nghĩa là mẹ chưa bao giờ đi chụp cho các tạp chí hay bộ sưu tập thời trang hoành tráng, mà chỉ chụp tờ rơi cho các chuỗi cửa hàng, những bộ đồ giản dị vừa tiền nhắm tới các cô gái nhỏ ở Missouri hay Montana. Mẹ nói thi thoảng cũng vui lắm, nhưng chủ yếu thì khá cực: diễn đồ bơi vào tháng Một, rét run vì cúm, hoặc vải tuýt hay len giữa hè nắng gắt, mất hàng giờ xông hơi giữa lá vàng giả làm thu trong lúc quạt giữa trường quay thổi gió nóng hầm hập, một anh trang điểm cứ dứt mỗi phiên chụp lại chạy vào dặm phấn thấm mồ hôi cho mẹ.
Nhưng những năm tháng khoe dáng giả đò sinh viên ấy - giữa những bối cảnh hóa trang giả vờ làm sân trường đại học, từng nhóm hai hay ba cô đứng cứng đơ, áp chặt sách vào người - đã giúp mẹ tích cóp đủ để thực hiện ước mơ làm sinh viên thực sự: mẹ vào học lịch sử hội họa ở Đại học New York. Mẹ chưa bao giờ được nhìn thấy bức danh họa nào tận mắt, trước khi chuyển đến New York sống năm mười tám tuổi, và mẹ háo hức muốn bù lại quãng thời gian đánh mất của mình - “hân hoan tột độ, thiên đàng thần tiên”, mẹ đã tả như thế về thời kỳ chìm lút đầu trong sách hội họa và dính mũi vào những phim chiếu cũ (Manet, Vuillard) tới lúc hoa cả mắt. (“Nghe thì cũng dở hơi thật,” mẹ thường bảo, “nhưng mẹ thấy chẳng có gì hạnh phúc cho bằng được cứ thế ngồi ngắm chỉ nửa tá tranh ấy từ giờ đến hết đời. Muốn hóa điên thì chẳng còn cách nào hay hơn.”)
Trường đại học là điều quan trọng thứ hai đến với mẹ ở New York - và hẳn là điều quan trọng nhất, theo ý mẹ. Và nếu không phải vì điều thứ ba (gặp rồi lấy bố tôi - một điều thua xa hai cái đầu) thì hẳn mẹ đã xong bằng thạc sĩ và tiếp tục lên tiến sĩ rồi. Cứ lúc nào được vài giờ rảnh là mẹ lại phi thẳng đến mấy cái bảo tàng hoặc Frick, hoặc Nghệ thuật hiện đại, hoặc Bảo tàng Trung tâm - vì thế tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên khi đứng dưới hàng hiên nhỏ giọt, nhìn qua bên kia Đại lộ 5 nhòa nhạt những giọt mưa trắng nảy tưng tưng trên mặt đường, thì mẹ rũ ô và bảo: “Hay là mình vào trong ngó nghiêng một chút, đợi tạnh mưa. ”
“Ừm...” Tôi thì chỉ muốn đi ăn thôi.- “Cũng được ạ.”
Mẹ liếc nhanh đồng hồ. “Cũng nên. Trời này khó gọi taxi lắm.”
Đúng là thế. Nhưng tôi thì đói mềm người. Lúc nào mình mới được ăn đây? Tôi bực dọc nghĩ khi theo mẹ lên cầu thang. Rất có thể hết buổi họp mẹ cáu tôi đến nỗi chẳng thèm dắt đi ăn trưa nữa, tôi sẽ phải về nhà ăn bột ngũ cốc hay gì đấy.
Nhưng bảo tàng thì lúc nào cũng như đang mở hội; và khi đã vào đến trong, chìm giữa tiếng ồn ào hoan hỉ của khách tham quan khắp xung quanh, tôi có cảm giác lạ lùng như đã bị tách rời khỏi bất kỳ điều gì đang chực chờ tôi trong ngày hôm nay. Sảnh Lớn rất ồn, hôi mùi áo khoác thấm mưa. Một đám đông các ông bà già người châu Á ướt như chuột diễu qua, có một cô hướng dẫn lùa họ đi; mấy cô bé Hướng đạo sinh lem luốc chụm đầu rì rầm gần quầy gửi áo; bên bàn hướng dẫn xếp một hàng dài học viên trường võ bị mặc quân phục xám, không mũ, tay chắp sau lưng.
Đối với tôi - một đứa trẻ thành phố lúc nào cũng bưng kín trong bốn bức tường - bảo tàng thú vị chủ yếu là vì cái mênh mông của nó, như một cung điện có các phòng nối nhau chạy mãi không ngừng, càng đi xa càng quạnh vắng. Một vài buồng ngủ không có khách hay phòng tiếp khách chăng dây cấm, tít sâu trong khu Nội thất châu Âu, dường như chìm trong giấc ngủ huyền bí do phù phép nào đấy, như từ hàng trăm năm nay chưa có bước chân ai ghé qua. Kể từ hồi được phép đi tàu điện không cần người lớn, tôi thích đến đây một mình, đi vơ vẩn tới khi lạc lối, càng lúc càng tiến sâu trong mê lộ những gian trưng bày tới khi, thi thoảng, thấy mình đứng giữa những sảnh bị lãng quên bày binh khí hay gốm sứ cả đời chưa thấy bao giờ (và dăm ba cái chẳng bao giờ tìm lại được).
Trong lúc lơn tơn xếp hàng sau lưng mẹ, tôi ngửa đầu nhìn vòm trần cao hai tầng lừng lững trên đầu: nếu nhìn thật lâu, đôi khi tôi tự đánh lừa bản thân rằng mình đang trôi lửng lơ trên đó như một cọng lông tơ; nhưng trò này tôi chơi từ bé, giờ thì đã nhạt rồi.
Trong khi đó, mũi đỏ ửng và còn đang lấy lại nhịp thở sau khi chạy ù qua mưa, mẹ đang lần sờ cái ví, miệng nói: “Có khi xem xong mẹ chạy qua hàng lưu niệm chút. Mẹ tin Mathilde chẳng ưa tặng sách hội họa đâu, nhưng nếu tỏ ra phật ý thì cô ta sẽ có vẻ ngốc nghếch lắm.”
“Èo,” tôi đáp. “Quà cho Mathilde ấy à?” Mathilde là “Giám đốc Nghệ thuật”, trong công ty quảng cáo của mẹ, con gái một đại gia nhập khẩu tơ lụa người Pháp, trẻ hơn mẹ và õng ẹo khét tiếng, hơi tí là làm toáng lên nếu xe cộ hay thức ăn chiêu đãi không vừa ý mình.
“Ừ.” Không nói gì thêm, mẹ chia thanh kẹo cao su cho tôi, tôi cầm lấy, rồi bỏ lại gói kẹo vào ví. “Ý mẹ là Mathilde lúc nào cũng ca bài đó, món quà thích đáng không phải là món tốn cả đống tiền, chẳng có gì bằng cục chặn giấy vừa tiền hoàn hảo kiếm được ở chợ đồ cũ. Và mẹ cũng đồng ý là được vậy thì tuyệt lắm, nhưng đây là nếu có ai trong công-ty thừa thời gian vào phố lục lọi chợ đồ cũ. Năm ngoái đến lượt Pru ấy? Cô ấy phát hoảng lên rồi chạy vào Saks giờ ăn trưa, rốt cuộc phải tự chi thêm năm chục bảng ngoài tiền của công ty, mua kính râm, Tom Ford thì phải, mà vẫn còn nghe Mathilde lải nhải về ‘chủ nghĩa tiêu dùng của người Mỹ'. Mà Pru đâu có phải người Mỹ chứ, người Úc mà.”
“Mẹ đă xin ý kiến Sergio chưa?” tôi hỏi. Sergio - có mặt ở văn phòng thì ít mà trên trang tạp chí giấy bóng, khoác vai các nhân vật như Donatella Versace thì nhiều - là ông chủ đại triệu phú của công ty; nói “xin ý kiến Seigio” cũng tương đương như nói “nghĩ xem Jesus sẽ làm gì?”
“Sách hội họa đối với Sergio là Helmut Newton, hay là cái cuốn bày phòng khách mà Madonna làm trước đây.”
Tôi toan hỏi Heimut Newton là ai, nhưng rồi nghĩ ra ý hay hơn, “Sao mẹ không mua cho cô ấy cái thẻ tàu điện ấy?”
Mẹ đảo tròn mắt. “Kể ra làm được thì cũng hay đấy.” Ở công ty vừa có một trận om sòm khi xe Mathilde kẹt giữa khúc tắc đường, làm cô ta mắc lại ở một xưởng trang sức Williamsburg.
“Tặng... ẩn danh cũng được. Đặt một cái lên bàn cô ấy, cái thẻ cũ vào, không còn tiền. Xem thử cô ấy làm gì.”
“Con muốn biết cô ấy làm gì thật không?” mẹ hỏi trong lúc luồn thẻ thành viên qua cửa soát vé. “Đuổi việc cô thư ký lập tức, sau đó tống cổ thêm nửa phòng Sản xuất.”
Công ty quảng cáo nơi mẹ làm chuyên về phụ kiện trang phục cho phụ nữ. Suốt cả ngày, dưới con mắt kích động và có phần nham hiểm của Mathilde, mẹ điều hành các buổi chụp ảnh có hoa tai pha lê lấp lánh trên nền tuyết. Giáng sinh giả, hay túi xách da cá sấu - nằm vô chủ trên băng sau những chiếc Limousine bỏ không - sáng ửng giữa quầng thiên quang long lanh. Mẹ giỏi việc ấy; mẹ hợp với vị trí sau ống kính hơn là trước; và tôi biết mẹ rất khoái thấy tác phẩm của mình xuất hiện trên tường hầm tàu điện ngầm hay bảng quảng cáo giữa Quảng trường Thời đại. Nhưng bỏ qua một bên bề nổi hào nhoáng bóng bẩy (sâm-panh kèm bữa sáng, những túi quà từ trung tâm Bergdorf), ngày làm việc lúc nào cũng dài, và tận thẳm sâu bên trong công việc là một sự trống rỗng mà tôi biết khiến mẹ buồn. Điều mẹ thực tình muốn là quay lại học tiếp, dù chúng tôi đều biết còn rất ít cơ hội khi bố đã bỏ đi.
Được rồi, mẹ nói, rời cửa sổ bán vé và đưa tôi cái huy hiệu kẹp áo vào cửa, con chú ý giờ giúp mẹ nhé? Lần triển lãm này rất rộng đấy” - mẹ chỉ lên tờ áp phích lớn, CHÂN DUNG VÀ TĨNH VẬT: BẮC ÂU DANH TÁC THỜI ĐẠI HOÀNG KIM - “một buổi hôm nay mình không xem hết được đâu, nhưng có vài thứ…”
Giọng mẹ trượt đi khi tôi lẽo đẽo theo sau một quãng lên Cầu Thang Lớn - giằng xé giữa nỗi rụt rè muốn bám sát mẹ, và ý thích tụt lại đằng sau vài bước, giả vờ không đi cùng.
“Mẹ ghét cưỡi ngựa xem hoa kiểu này lắm,” mẹ đang nói khi tôi dấn lên bắt kịp ở đầu cầu thang, “nhưng đằng nào thì mấy triển lãm kiểu này cũng phải đến hai hay ba lần. Có bức Giờ học giải phẫu[14] chúng ta nhất định phải xem, nhưng cái mẹ muốn thấy thực sự là một bức nhỏ tí xíu, hiếm hoi vô cùng, cửa một họa sĩ là thầy dạy của Vermeer[15]. Một Đại Danh Họa chẳng mấy ai biết đến. Mấy bức Frans Hals cũng khá quan trọng. Con biết Hals đúng không? Tửu đồ vui vẻ? Với các tổng quản viện tế bần[16] nữa?”’
“Vâng,” tôi dè dặt đáp. Trong mấy bức mẹ vừa kể tên, tôi chỉ biết duy nhất có Giờ học giải phẫu. Một trích đoạn của bức tranh được in trên áp phích quảng cáo buổi triển lãm: da thịt tái ngắt, đủ sắc độ của màu đen, những thầy phẫu thuật mắt vằn máu, mũi đỏ cà chua như nghiện rượu.
“Mỹ thuật Đại cương ấy mà,” mẹ nói. “Rẽ trái, đây.”
Lên tới tầng trên lạnh buốt xương, vì tóc tôi vẫn còn ướt mưa. “Không, đầu này cơ,” mẹ túm tay áo tôi nói. Triển lãm ở nơi quá khó tìm, và trên đường chúng tôi đi khắp các gian trưng bày nhộn nhịp (lách vào rồi lại tách ra khỏi từng cụm người, rẽ phải, rẽ trái, lộn lại qua những mê lộ bảng chỉ đường và sơ đồ rối rắm) thì những bản in lớn thùi lùi bức Giờ học Giải phẫu hiện ra vô tội vạ ở những ngã tư bất thình lình, như những biển đường dữ tợn, vẫn cái xác với cánh tay bị lột da, dưới có mũi tên đỏ chỉ hướng: phòng mổ phía này.
Tôi không phấn khích lắm trưởc cái viễn cảnh ngắm một đống tranh vẽ người Hà Lan mặc áo đen sì đứng quanh phòng, nên khi đi qua cánh cửa đôi bằng kính - từ những hành lang âm vang bước vào cái tĩnh lặng của thảm nuốt tiếng chân - ban đầu tôi cứ tưởng lại vào nhầm hành lang nữa. Những bức tường sáng ửng ánh sương mờ trầm ấm và sang trọng, vẻ mềm mịn không cá tính thời cổ xưa; nhưng chỉ giây lát sau tất cả đã vỡ òa thành đường nét rõ rành, thành màu sắc, thành ánh sáng Bắc phương trong vắt -chân dung, nội thất, tĩnh vật, vài bức nhỏ tí xíu, bức khác đường hoàng vương giả: các phu nhân bên các đức ngài, các phu nhân ôm chó nhỏ, những trang nhan sắc u hoài khoác áo choàng thêu tinh xảo, những thương nhân đứng một mình, trang sức và lông thú lộng lẫy. Những bàn tiệc bị phá phách vương vãi táo gọt dở và vỏ quả óc chó; những thảm thêu vắt rủ bên đồ bạc; những bức trompe l’oeil[17] đánh lừa con mắt, côn trùng bò lổm ngổm hay hoa với những vết kẻ sọc trên cánh. Và chúng tôi càng đi sâu, những bức tranh càng thêm lạ lùng tuyệt diệu. Những quả chanh gọt vỏ, mép vỏ chanh hơi se lại nơi lưỡi dao cắt vào; cái bóng xanh xanh trên đám mốc. Ánh sáng lóe trên mép ly rượu vang đã vơi nửa.
“Mẹ cũng thích bức này,” mẹ thì thầm khi tiến đến bên tôi đang đứng trước một bức tĩnh vật nhỏ vừa, đặc biệt ám ảnh: con bướm trắng trên nền màu tối, lửng lơ trên mấy trái cây đo đỏ[18], Cái nền màu đen sô-cô-la ấm cúng tỏa ra sức ấm khó gọi tên gợi lên những nhà kho chật chội và lịch sử, bước đi của thời gian.
“Họ rất giỏi xử lý cái ranh giới này, các danh họa Hà Lan ấy: chín tới độ ngả sang thối rữa. Quả này đã đạt đến độ hoàn hảo, nhưng sẽ không còn được lâu, nó hỏng đến nơi rồi. Đặc biệt là ở đây,” mẹ nói, vươn qua vai tôi đưa ngón tay vạch theo trong không trung, “khúc này này - con bướm ấy.” Cánh dưới như rắc phấn, mong manh như thể chỉ cần mẹ chạm phải là màu sẽ phai ra. “Ông ấy tạo hình đẹp biết bao. Tĩnh lặng, nhưng lại có thoáng run rẩy vô cùng nhẹ.”
“Ông ấy vẽ bức này mất bao lâu?”
Đang đứng hơi sát bức tranh, mẹ lùi lại để ngắm tổng thể - hoàn toàn không để ý anh bảo vệ miệng nhóp nhép kẹo cao su đã để mắt tới mình, đang chăm chăm theo dõi mẹ từ đằng sau.
“À, chính người Hà Lan đã sáng chế ra kính hiển vi,” mẹ nói. “Họ là dân tộc của những thợ trang sức và thợ mài kính. Họ muốn mọi thứ càng chi tiết càng hay, vì cả những thứ tí hon cũng nói lên điều gì đó. Nếu con thấy ruồi hay côn trùng xuất hiện trong tranh tĩnh vật - một cánh hoa tàn hay một đốm đen trên quả táo - thì đấy là thông điệp mật của họa sĩ. Ông ấy muốn nói với con rằng những vật sống không phải là sống mãi - tất cả đều chỉ phù du. Cái chết giữa cõi sống. Chính vì thế mà tranh tĩnh vật được gọi là nature morte - tự nhiên chết. Có thể thoạt nhìn giữa những tươi đẹp và bừng nở, con chưa nhận thấy nó ngay, cái chấm rữa nát nho nhỏ ấy. Nhưng nhìn kỹ, con sẽ nhận ra.”
Tôi cúi lại gần đọc mảnh giấy chú giải, in chữ hoa rất kín đáo trên tường, cho biết tác giả bức tranh - Adriaen Coorte, không rõ năm sinh năm mất - sinh thời không ai biết đến, mãi tới thập niên 1950 người ta mới định danh được tranh của ông. “Mẹ,” tôi nói, “mẹ có thấy cái này không?”
Nhưng mẹ đã đi tiếp rồi. Phòng rất lạnh và trầm lắng, trần hạ thấp, không hề ồn ã âm vang thiên giới như ngoài Sảnh Lớn. Dù lượng người vào đây xem cũng khá đông, căn phòng vẫn mang cái vẻ miên man thiêm thiếp như một vùng nước đọng, lặng lờ như hút chân không, chỉ nghe những tiếng thở rất dài hay tiếng thốt nho nhỏ kịch tính như một phòng kín học sinh trong giờ thi. Tôi theo sau cách một quãng trong lúc mẹ đi chéo từ bức chân dung này qua bức khác, nhanh hơn nhiều lệ thường xem triển lãm, từ hoa tươi sang bàn đánh bài sang hoa quả, bỏ qua khá nhiều bức vẽ (cái vại rượu bạc hay con gà lôi chết thứ tư thứ năm gì đó), đi thẳng đến vài bức khác không do dự (“Còn đây, Hals. Đôi lúc ông khá sáo khi vẽ tửu đồ[19] hay dân nữ[20] nhưng khi nào có hứng, thì ông ấy hứng -thần kỳ- luôn. Không thèm tỉ mẩn nắn nót gì hết, cứ thế trát vào khi nét trước còn đang ướt, soạt, soạt, tay đưa rất nhanh. Khuôn mặt hay bàn tay - vẽ rất chăm chút, ông biết mắt người xem bị hút về đó, nhưng nhìn quần áo kia - thật qua loa - gần như chỉ phác họa. Xem nét bút lông phóng khoáng và hiện đại chưa!”). Chúng tôi đứng khá lâu trước bức chân dung Hals vẽ một cậu bé cầm đầu lâu[21] (“Theo, đừng có nổi đóa nhé, nhưng con có thấy cậu ta giống ai không? Giống ai đó” - giật giật tóc sau gáy tôi - “lâu lắm rồi chưa cắt tóc?”) - và cả hai bức chân dung lớn vẽ các sĩ quan đang tiệc tùng[22] mà mẹ nói là cực nổi tiếng và có ảnh hưởng cực lớn đến Rembrandt.[23] ("Van Gogh cũng mê Hals. Ở đâu đó viết về Hals ông đã bảo, Frans Hals có không dưới hai mươi chín sắc độ xám! Hay là Hai mươi bảy nhỉ?”) Tôi đi theo mẹ, cảm giác hơi mụ mị, mừng rơn thấy mẹ chuyên chú vào tranh, hình như đã quên bẵng mỗi phút đang tuột đi. Có vẻ là nửa tiếng dành ra đã sắp cạn rồi; nhưng tôi vẫn muốn la cà thêm, đánh lạc hướng mẹ, hy vọng một cách rất ấu trĩ là thời gian sẽ trôi vèo đi và chúng tôi sẽ lỡ luôn buổi họp.
“Đây rồi, Rembrandt,” mẹ nói, “Ai cũng bảo bức này nói về lý tính và khai sáng, về buổi bình minh của tính hiếu kỳ khoa học và đủ thứ nữa, nhưng mẹ chỉ thấy đựng tóc gáy vì họ quá đỗi lịch sự và trịnh trọng, đứng chen chúc quanh bàn xác cứ như quanh bàn búp phê ở tiệc rượu ấy. Ngoại trừ..- mẹ đưa tay chỉ - “con có thấy hai ông ngơ ngác ở sau cùng không? Hai người đó không nhìn xuống tử thi - mà nhìn thẳng vào mình. Vào mẹ với con. Cứ như họ thấy mình đang
Danh sách chương
- PHẦN 1 - Chương 1- Cậu bé cầm đầu lâu Nguyên tác: The Goldfinch
- Chương 2 Giờ học giải phẫu.
- Chương 3 Đại lộ công viên
- Chương 4 Kẹo mút tẩm Morphine
- PHẦN 2- Chương 5 - Badr al-Dine
- Chương 6 Gió, cát và những vì sao.
- PHẦN 3- Chương 7- Cửa hiệu đằng sau cửa hiệu (tiếp)
- Chương 8 Cửa hiệu đằng sau cửa hiệu (tiếp)
- PHẦN 04 - Chương 9 Thằng ngốc
- Chương 9 (tt) XVI
- PHẦN 05 -Chương 10 Kênh quý ông
- Chương 11 Điểm Hẹn.