← Quay lại trang sách

Chương 3 Đại lộ công viên

HAI NHÂN VIÊN XÃ HỘI cho tôi ngồi băng sau một chiếc xe hơi hẹp rồi chở tới một quán ăn dưới trung tâm, gần chỗ họ làm, loại quán kiểu sang trọng hão, lấp lánh những mặt gương vát cạnh và những cỗ đèn trần rẻ tiền mua Phố Tàu. An tọa xong (cả hai ngồi một bên, đối diện tôi bên kia), họ rút giấy bút từ cặp táp, tìm cách ép tôi ăn chút gì trong lúc họ nhấp cà phê và hỏi han. Ngoài trời vẫn còn tối, thành phố mới bắt đầu thức dậy. Tôi không nhớ mình có khóc, cũng chẳng nhớ mình có ăn, dù sau từng ấy năm vẫn còn ngửi thấy mùi trứng bác họ gọi ra - cứ nghĩ đến cái đĩa chất đầy ự bốc khói nghi ngút ấy tôi lại quặn cả bụng.

Quán ăn vắng teo. Những cậu hầu bàn ngái ngủ đang mở từng hộp bánh vòng và muffin sau quầy. Một toán thiếu niên ủ rũ, có vẻ vừa đi đàn đúm về, ngồi túm tụm ở bàn gần đấy, chì kẻ mắt đã lem. Tôi còn nhớ mình đã nhìn sang họ nài nỉ đến tuyệt vọng - một cậu mặc áo đại cán tướp mồ hôi, một cô gái tóc nhuộm lai hồng bộ dạng phờ phạc - và sang cả một bà già, phấn son kín mặt, mặc chiếc áo lông quá ngốt so với thời tiết, ngồi một mình bên quầy ăn lát bánh táo.

Hai nhân viên xã hội - họ làm đủ trò hòng bắt tôi nhìn sang, chỉ thiếu có bật ngón tay vào mặt hay lắc người tôi - hình như cũng hiểu đầu óc tôi biểu tình không chịu tiếp nhận những điều họ đang cố truyền đạt. Cả hai thay nhau chồm người qua bàn, nhắc đi nhắc lại điều tôi không muốn nghe. Mẹ chết rồi. Gạch đá rơi xuống đã đập vào đầu mẹ. Mẹ chết tức khắc. Họ rất tiếc phải báo tin này với tôi, đấy thật là phần đáng ghét nhất trong công việc của họ, nhưng họ rất cần tôi nắm được tình hình. Mẹ chết rồi, còn xác mẹ thì ở bệnh viện New York. Tôi có hiểu không?

“Hiểu ạ,” tôi nói sau hồi lâu lặng im khi nhận ra họ chờ mình lên tiếng. Cái chữ chết mà họ nhắc đi nhắc lại không thèm vòng tránh có vẻ tương phản kỳ quái với giọng nói điềm tĩnh, với bộ vét bằng sợi tổng hợp, với tiếng nhạc pop Tây Ban Nha trên đài và những biển hàng tươi hơn hớn sau quầy (Sinh tố hoa quả tươi; Ăn kiêng mà vẫn ngon; Món mới: Hamburger Gà Tây!).

“Fritas?” người bồi xuất hiện cạnh bàn chúng tôi, tay giơ cao một đĩa khoai tây chiên bự.

Cả hai người trước mặt tôi đều giật mình; người đàn ông (cháu cứ gọi chú bằng tên nhé: Enrique) nói mấy câu tiếng Tây Ban Nha và chỉ qua cách đó mấy bàn, nơi đám trẻ ăn chơi kia đang vẫy vẫy.

Ngồi thờ thẫn, mắt đỏ lựng, cái đĩa trứng bác trước mặt nguội đi nhanh chóng, tôi hầu như không để lọt đầu những khía cạnh thực tế của tình hình. Bên cạnh điều vừa xảy ra, những câu họ hỏi về bố tôi hình như lạc đề tột độ, đến nỗi tôi chẳng hiểu vì sao họ phải nằng nặc hỏi về ông.

“Thế lần gần nhất cháu gặp bố là bao giờ?” Bà người Hàn Quốc hỏi; bà ta đã vài lần yêu cầu tôi gọi bằng tên riêng (tôi đã moi óc cố nhớ là gì nhưng không được). Nhưng tôi vẫn nhớ đôi bàn tay mũm mĩm đan vào nhau trên mặt bàn, và cái màu sơn móng tay nhìn gai cả mình: thứ màu tro ánh bạc, đâu đó giữa xanh lam và oải hương.

“Nói đại khái xem?” Ông tên Enrique gợi ý. “Về bố cháu ấy?”

“Tương đối thôi cũng được,” bà Hàn Quốc nói. “Cháu nghĩ mình gặp bố lần cuối là bao giờ?”

“Ờm,” tôi nói - chỉ nghĩ thôi đã khó - “thu năm ngoái gì đó chăng?” Cái chết của mẹ dường như chỉ là nhầm lẫn, có thể giải quyết bằng cách nào đó, chỉ cần tôi xốc mình lên, hợp tác với hai người này.

“Tháng Mười? Tháng Chín?” Bà dịu giọng, khi thấy tôi không đáp.

Đầu vẫn còn đau đến mức mỗi lần ngoảnh qua ngoảnh lại tôi đã muốn khóc nức lên, dù lúc này đau đầu chỉ là một nỗi phiền toái rất nhỏ - “Cháu không biết,” tôi nói. “Lúc ấy đã vào năm học rồi.”

“Vậy chắc là tháng Chín?” Enrique hỏi và ngước lên nhìn, trong lúc ghi chú vào cặp giấy. Tướng mạo ông ta khá dữ tợn - có vẻ không đúng chỗ trong bộ comple cà vạt, như một gã huấn luyện viên thể dục phát phì - nhưng giọng nói lại toát lên âm điệu ngăn nắp của thế giới công sở: của những hồ sơ trong tủ, những sàn lót thảm len xám, những công việc chạy đều theo mạch trong quận Manhattan. “Từ đó đến giờ không có liên lạc qua lại gì hết?”

“Có ai là bạn bè hay qua lại hoặc thân thiết có thể biết cách báo tin cho ông ấy không?” Bà Hàn Quốc hỏi, cúi sát về phía tôi vẻ lo âu săn sóc.

Câu hỏi làm tôi giật mình. Tôi chẳng biết có ai như thế cả. Ngay cả việc mường tượng rằng bố có thể có bạn bè hay qua lại (nói gì đến “thân thiết”) đã cho thấy người ta chẳng biết gì về ông cả, đến nỗi tôi không còn biết đáp ra sao.

Mãi đến sau khi đĩa bát đã dọn đi, trong quãng lặng bứt rứt sau bữa ăn nhưng chẳng thấy ai đứng dậy ra về, tôi mới chợt ngộ ra điều đã sờ sờ ngay từ đầu, tất cả những câu hỏi có vẻ chẳng ăn nhập vào đâu về bố tôi, về ông bà nội (ở Maryland, tôi không nhớ thị trấn nào, một mảnh đất nửa quê nửa tỉnh nào đó sau lưng một cửa hàng Home Depot) cùng những ông chú bà bác không có mặt trên đời rốt cuộc sẽ đến đâu. Tôi là một trẻ vị thành niên không có người giám hộ. Tôi sẽ bị di dời lập tức khỏi nhà (khỏi “nơi cư trú”, như họ cứ không ngớt gọi). Chừng nào còn chưa liên lạc được với ông bà đằng nội, chính quyền thành phố sẽ lãnh trách nhiệm về tôi.

“Nhưng các cô chú định làm gì cháu?” Tôi đã hỏi đến lần thứ hai, ngồi lùi sát vào lưng ghế, giọng càng lúc càng kinh hoảng. Khi tôi tắt tivi đi theo họ ra khỏi căn hộ, để làm chút gì ấm bụng như họ nói, tất cả có vẻ rất bâng quơ. Chẳng thấy nhắc gì đến chuyện tôi phải di dời khỏi nhà cả.

Enrique lại nhìn xuống sổ. “Thế này, Theo...” Ông ta cứ luôn miệng đọc là Tê-ô, cả hai đều đọc sai như thế - “cháu là trẻ vị thành niên đang trong hoàn cảnh nguy ngập cần được giải quyết tức thì. Chúng tôi sẽ phải đưa cháu vào cơ sở giáo dưỡng khẩn cấp nào đấy.”

“Giáo dưỡng?” Chữ ấy làm bụng tôi nhộn nhạo; nó gợi lên những phòng xử án, những căn buồng khóa kín, những sân bóng rổ chăng đầy dây thép gai xung quanh.

“À, thì ta gọi là chăm sóc vậy. Và chừng nào mà nội cháu...”

“Khoan,” tôi nói, choáng người khi thấy sự việc thoắt cái đã diễn tiến mất kiểm soát đến như thế, thấy cái ảo tưởng sai bét về một đôi ông bà thân thiết và trìu mến vang lên qua chữ nội cháu trong miệng ông ta.

“Chỉ là thu xếp tạm thời trong khi chờ gặp được họ thôi,” bà Hàn Quốc lại cúi sát lại gần. Miệng bà ta có mùi bạc hà, nhưng ẩn sâu rất khó phát hiện bên trong lại là mùi tỏi. “Cô biết cháu buồn lắm, nhưng không có gì phải lo đâu. Nhiệm vụ của bọn cô là giúp cháu được an toàn tới khi liên lạc được với những người sẽ yêu thương chăm sóc cháu, đồng ý chứ?”

Chuyện này quá kinh khủng không thể là sự thực. Tôi nhìn chằm chằm hai khuôn mặt xa lạ đang ngồi, vàng bủng trong ánh sáng nhân tạo. Ngay cả giả định rằng Nội Decker và Dorothy là những người yêu thương chăm sóc tôi cũng thật lố bịch.

“Nhưng rồi cháu sẽ làm sao?” Tôi hỏi.

“Điều cốt yếu bây giờ,” Enrique nói, “là trước mắt phải đưa cháu vào một nơi nuôi dưỡng hợp thức. Nơi có ai đó đủ tín nhiệm, có thể phối hợp với Sở Dịch vụ Xã hội thiết lập phương án chăm sóc cháu.”

Thấy họ hợp sức nhau tìm cách xoa dịu tôi - giọng nói bình tĩnh và vẻ mặt thông cảm thấu hiểu - chỉ càng khiến tôi thêm hoảng loạn. “Thôi đi!” Tôi nói và giật người tránh bà Hàn Quốc, tay đang vươn qua mặt bàn tìm cách siết chặt tay tôi ra điều chở che.

“Nào Tê-ô. Để cô giải thích điều này. Bọn cô không hề có ý nói đến trường cải huấn hay trại giam giữ thiếu niên…”

“Thế thì là gì?”

“Nơi giáo dưỡng tạm thời. Cái đó chỉ có nghĩa là bọn cô sẽ tìm cho cháu một nơi ở an toàn, cùng những người đóng vai trò giám hộ do nhà nước chỉ định...”

“Thế nếu cháu không muốn đi thì sao?” Tôi nói to đến nỗi mọi người xung quanh quay lại nhìn.

“Nghe tôi,” Enrique nói, dựa người vào ghế và ra hiệu gọi thêm cà phê. “Thành phố có nhiều viện tạm trú được cấp phép dành cho các bạn trẻ gặp cảnh khó khăn. Đều là những nơi rất tốt. Và trước mắt thì đấy chỉ là một trong số các lựa chọn thôi. Vì trong rất nhiều trường hợp giống như cháu…”

“Cháu không muốn đi làm con nuôi!”

“Hãy chạy như chạy hủi ấy, bé ạ,” cô gái tóc hồng nói khá to ở bàn bên. Dạo này tờ New York Post không ngớt chạy bài về Johntay và Keshawn pens, cặp sinh đôi mười một tuổi bị cha nuôi hãm hiếp rồi bỏ đói suýt chết đằng khu Morningside Heights.

Enrique vờ như không nghe thấy. “Nào, chúng tôi chỉ muốn giúp cháu,” ông ta nói, lại đan tay vào nhau trên bàn. “Và chúng tôi cũng sẽ xem xét các khả năng khác, nếu những người đó có thể cho cháu mái ấm an toàn và chu cấp đủ cho các nhu cầu của cháu.”

“Chú chẳng hề báo trước là cháu sẽ không được về nhà nữa!”

“Ờ, các phòng ban của thành phố đều quá tải - sí, gracias,” ông ta nói với người hầu bàn tới rót đầy cốc cà phê. “Nhưng đôi khi cũng có thể thu xếp kiểu khác nếu chúng ta được chấp thuận có điều kiện, nhất là trong những trường hợp như của cháu.”

“Cháu nghe chú ấy rồi đấy?” Bà Hàn Quốc gõ gõ móng tay trên mặt bàn formica để tôi chú ý. “Luật cũng không bắt ép cháu vào trong hệ thống nếu còn ai có thể đến ở với cháu một thời gian. Hoặc ngược lại cũng được.”

“Một thời gian?” Tôi nhắc lại. Đấy là đoạn duy nhất lọt vào tai tôi trong cả câu ấy.

“Ví dụ như có ai mà cháu thấy có khả năng ở với họ một hai ngày gì đó? Thầy cô giáo chẳng hạn? Một người bạn của gia đình?”

Ngay tức thời tôi chỉ nhớ được và đọc cho họ số điện thoại của đứa bạn cũ Andy Barbour - số máy đầu tiên nảy ra trong đầu tôi, có lẽ vì đấy là số đầu tiên, ngoài số nhà mà tôi thuộc. Mặc dù hồi tiểu học Andy với tôi chơi cực thân (xem phim, ngủ lại nhà nhau, học hè ở Công viên Trung tâm lớp dạy đọc bản đồ và la bàn), tôi vẫn không thật hiểu vì sao tên cậu ta lại bật ra khỏi miệng tôi lập tức, bấy lâu nay chúng tôi còn chơi với nhau mấy đâu. Từ hồi lên cấp hai chúng tôi đã giãn nhau ra; phải đến mấy tháng rồi tôi chưa gặp lại cậu ta.

“Barbour, có chữ u,” Enrique vừa nói vừa viết lại. “Vậy mấy người này là ai? Bạn à?”

Vâng, tôi nói, bảo rằng tôi đã biết họ suốt cả đời mình cũng không sai. Nhà Barbour sống trên Đại lộ Công viên. Andy là bạn thân của tôi từ năm lớp 3. “Bố cậu ấy làm rất to ở Phố Wall,” tôi nói - rồi ngậm miệng. Tôi vừa sực nhớ ra bố Andy từng ở một thời gian không xác định trong viện tâm thần mãi Connecticut vì “lao lực”.

“Còn bà mẹ?”

“Mẹ cậu ấy với mẹ cháu là bạn thân.” (Cũng gần đúng, tuy không đúng hẳn: dù cả hai cư xử với nhau tuyệt đối lịch thiệp, mẹ cũng không đủ giàu hay quen biết rộng để bắt thân với một bà chuyên lên tạp chí giao tế như bà Barbour.)

“Không, ý tôi muốn hỏi bà ấy làm nghề gì?”

“Làm từ thiện ạ,” tôi đáp sau một thoáng bối rối, “Như là buổi Triển lãm Cổ vật ở Kho Quân dụng ấy?”

"Vậy bà ấy làm nội trợ?”

Tôi gật đầu, mừng thầm bà ta đã nghĩ ra một từ tiện dụng như thế, tuy không sai về mặt ngữ nghĩa nhưng những người quen biết sẽ chẳng đời nào dùng chữ đó nói về bà Barbour.

Enrique ký nét chữ rất bay bướm. “Chúng tôi sẽ xem thử. Không hứa trước được gì hết,” ông ta nói, bấm nắp bút rồi nhét trả vào túi. “Nhưng tất nhiên chúng tôi cũng có thể đưa cháu qua chỗ nhà đó nghỉ tạm mấy giờ tới, nếu đúng là cháu muốn ở với họ.”

Ông ta lách khỏi bàn, bước ra ngoài quán. Qua cửa sổ trước, tôi thấy ông ta đang đi đi lại lại trên hè gọi điện thoại, một ngón tay bịt lỗ tai. Rồi ông ta gọi số khác, nói chuyện nhanh hơn nhiều. Chúng tôi ghé qua căn hộ nhà tôi - chưa đến năm phút, chỉ đủ cho tôi vớ cặp và vài món quần áo chọn bừa rất không thích hợp - rồi lại vào xe (“Cháu thắt dây chưa đấy?”), tôi tì má vào kính cửa lạnh, nhìn đèn chuyển xanh suốt dọc Đại lộ Công viên, một khe vực trống tênh lúc bình minh lên.

Andy sống ở quãng đầu phố sáu mươi mấy, một trong mấy tòa nhà sang chảnh trên đại lộ, sảnh vào hệt như trong phim Dick Powell và bảo vệ chủ yếu vẫn là người Ireland. Gia đình ấy đã sống ở đấy từ đời thuở không nhớ nổi, và tình cờ tôi còn nhớ người ra cửa đón chúng tôi: Kenneth, người trực ca đêm. Ông kém tuổi hầu hết những người gác khác, trắng nhợt như xác chết và râu ria lởm chởm, phản ứng có phần chậm chạp vì toàn bị phân ca khuya. Dù ông cũng khá dễ chịu - vài lần còn vá bóng đá cho Andy với tôi, hoặc chỉ bảo nhẹ nhàng cách đối phó với bọn lớn bắt nạt ở trường - nhưng khắp tòa nhà đều biết ông ta hơi có tí rắc rối rượu chè; và khi ông ta bước tránh một bên nhường đường cho chúng tôi qua hai cánh cửa long trọng, ném sang cái nhìn tội nghiệp thằng nhóc quá mà tôi sẽ còn nhận được vô số lần nữa trong những tháng tiếp theo, tôi ngửi thấy mùi chua nồng từ bia và giấc ngủ bốc ra.

“Cả nhà đang chờ quý vị,” ông nói với hai nhân viên xã hội. “Mời mọi người đi lên.”

II

CHÍNH ÔNG BARBOUR ra mở cửa: ban đầu he hé, rồi mở toang. “Chào buổi sáng, chào buổi sáng,” ông nói và lùi lại. Ông Barbour nhìn có một tí chút hơi dị, da tái mà lại óng ánh bạc, cứ như những liệu pháp trong cái “trại chập” Connecticut (như ông gọi) đã khiến ông phát sáng; mắt ông màu xám dao động rất lạ, tóc trắng muốt khiến thoạt nhìn có vẻ già hơn tuổi cho tới khi người ta nhận ra khuôn mặt rất hồng và trẻ trung - như một cậu thiếu niên. Cặp má đỏ đắn và cái mũi dài quý tộc kết hợp với mái tóc bạc trắng khiến ông có dáng vẻ dễ gần, như một bậc khai quốc công thần cấp thấp, một nhân vật cỡ quèn nào đấy trong Quốc hội Lục địa[33] được nhấc lên thả xuống giữa thế kỷ 21. Quần áo ông có vẻ là đồ đi làm tối qua: sơ mi vía nhàu nhĩ, quần âu đắt tiền, vẻ như vừa nhặt đại trên sàn phòng ngủ.

“Vào đi,” ông nhanh nhảu nói, đưa nắm đấm dụi mắt. “Chào cháu yêu, chào cháu,” ông nói với tôi - làm tôi giật bắn người, khi nghe chữ yêu từ miệng ông, dù đầu óc còn đang bối rối.

Ông đi chân đất lạch bạch dẫn đường đằng trước, qua sảnh chờ hoa cương. Sau nữa, trong phòng khách trang hoàng lộng lẫy (khắp nơi là vải hoa trơn bóng loáng và lọ gốm Trung Hoa), ban ngày hình như còn chưa đuổi được nửa đêm: những đèn chụp lụa sáng mờ mờ, những bức tranh lớn tối sẫm miêu tả các trận thủy chiến, những rèm cửa kéo lại che ánh nắng. Ở đó, bên cỗ đàn tiểu dương cầm, cạnh bình cắm hoa to cỡ thùng hàng biển, bà Barbour đang đứng, chiếc váy mặc nhà quết xuống tận sàn, rót cà phê vào mấy tách đặt trên khay bạc.

Khi bà ngoảnh lại cất tiếng chào, tôi cảm thấy rõ hai người bên cạnh đang định vị căn hộ và bà. Bà Barbour xuất thân từ một gia đình danh tiếng với họ Hà Lan rất cổ; bà thật lạnh nhạt, tóc thật vàng, giọng nói đều đều vô sắc tới mức đôi khi gây cảm giác cơ thể không đủ máu. Bà là một mẫu vật trác tuyệt về tính điềm đạm; chưa một lần có gì khiến bà sôi máu hay bực mình, và dù không đẹp, phong thái thư thả của bà có ma lực hớp hồn ngang sắc đẹp - vẻ bình lặng chứa sức mạnh đáng gờm đến mức các phân tử tự động sắp xếp lại vị trí mỗi khi bà bước vào phòng. Như một bức họa thời trang chợt lắc mình sống dậy, bà khiến mọi cái đầu đều ngoảnh lại khi bà lướt qua, dửng dưng không hề chú ý trời nghiêng đất lệch đằng sau; mắt bà ở rất xa nhau, tai nhỏ mọc cao rất sát đầu, eo dài còn thân người nhỏ nhắn, như một chú chồn yểu điệu. (Andy cũng thừa hưởng những đường nét ấy nhưng lại theo tỷ lệ rất cồng kềnh xấu xí, thiếu hẳn nét duyên chồn hương quyến rũ nơi bà.)

Ngày trước, sự dè dặt của bà (hay lạnh nhạt, tùy theo cách người ngoài tiếp nhận) có đôi khi làm tôi lúng túng, nhưng sáng hôm ấy tôi thật lấy làm biết ơn vẻ lãnh đạm ấy. “Chào cháu. Các bác đã quyết định cho cháu ở cùng phòng Andy,” bà nói không rào đón trước sau. “Xin lỗi, giờ này nó vẫn chưa dậy đi học. Nếu cháu muốn nằm nghỉ, cứ tự nhiên dùng phòng Platt.” Platt là anh trai Andy, nay đang đi học xa. “Cháu biết chỗ rồi phải không?

Tôi nói biết.

“Cháu có đói không?”

“Dạ không.”

“Được. Vậy các bác làm được gì cho cháu đây?”

Tôi nhận thấy tất cả đều dồn mắt vào mình. Cái đau trong đầu tôi át hết thảy mọi thứ có trong phòng. Trong cái gương lồi nhỏ treo phía trên đầu bà Barbour, tôi thấy toàn cảnh trong phòng phản chiếu lại, cỡ thu nhỏ rất quái dị: cả lọ gốm, cả khay cà phê, cả nhân viên xã hội luống cuống, tất cả.

Cuối cùng thì chính ông Barbour lại phá vỡ cảnh lúng túng. “Vậy thôi đi nào, ta hãy xếp sắp cho cháu vào chỗ thôi,” ông nói, vỗ lên vai tôi và rắn tay đẩy tôi ra khỏi phòng. “Không - lùi lại, đằng này cơ - cuối, cuối. Ngay đằng này.”

Lần duy nhất trong đời tôi từng thò chân qua cửa phòng Platt, vài năm trước, thì anh ta - một ngôi sao bóng vợt và cũng là một tay bị thái nhân cách - đã dọa sẽ đập cho nát xương Andy và tôi. Lúc ở nhà, anh ta rúc trong phòng cả ngày, cửa khóa ngắc (để hút cần, Andy bảo thế). Giờ thì mấy áp phích đã bị lột đi cả rồi, phòng trông rất sạch và trống trải, vì anh ta đã đi nội trú trường Groton[34]. Trong phòng để tạ, những chồng tạp chí National Geographic cũ, một bể cá cạn. Ông Barbour đóng đóng mở mở các ngăn kéo tủ, miệng liến thoắng liên hồi. “Xem thử trong này có cái gì nhé? Ga giường. Và… lại ga giường. Bác thì chẳng bao giờ vào đây cả, hy vọng cháu bỏ lỗi... à. Quần bơi! Sáng nay chắc chẳng dùng đến rồi, phải không nhỉ?” Lục tới ngăn kéo thứ ba, cuối cùng ông cũng kiếm được mấy bộ pyjama chưa mặc, còn nguyên nhãn giá, xấu như ma lem ma lọ, hình tuần lộc in trên nền flannel xanh chói lọi, chẳng trách không ai muốn xỏ vào.

“Rồi đấy,” ông nói, lùa tay vào tóc rồi đánh mắt lo âu ra cửa. “Bác sẽ để cháu được yên thân nhé. Chuyện xảy ra đúng là khốn nạn, có Chúa chứng giám. Chắc cháu đang nhọc lắm. Ngủ một giấc thật sâu là hiệu nghiệm nhất đấy. Cháu có mệt không?” Ông hỏi, săm soi nhìn tôi.

Tôi có mệt không ư? Tôi đang tỉnh như sáo, nhưng một phần trong tôi lại đang câm lặng và tê liệt, chẳng khác gì đang hôn mê.

“Hay cháu muốn có người ở bên không? Bác nhóm lửa trong phòng bên nhé? Cháu muốn gì cứ nói với bác.”

Nghe câu hỏi này, nỗi tuyệt vọng dồn ứ lên tôi - vì dù tôi đang khổ sở vô cùng nhưng ông cũng chẳng làm gì được cho tôi hết, và nhìn ông, tôi hiểu ông cũng biết vậy.

“Các bác ở ngay phòng bên, nếu cháu cần - ờm thì, tức là, bác sắp đến giờ đi làm rồi nhưng sẽ có ai đó ở đây...” Ánh mắt trắng nhợt của ông đảo khắp phòng, rồi lại đậu trên tôi. “Làm thế chắc cũng không phải lắm, nhưng tình huống này bác nghĩ cũng không hại gì nếu rót cho cháu một miếng tráng họng, như cụ nhà bác vẫn nói. Nếu chẳng may cháu lại muốn thế. Nhưng mà tất nhiên cháu không muốn đâu,” ông vội vã nói thêm khi thấy tôi hoang mang không hiểu. “Không phù hợp tí nào. Bỏ qua đi.”

Ông bước lại gần, và trong một phút khó xử tôi nghĩ có khi ông định chạm vào tôi, hoặc ôm tôi. Nhưng thay vào đó ông chỉ đập tay rồi xoa vào nhau. “Dù sao thì các bác rất mừng được đón cháu và hy vọng cháu sẽ cảm thấy tự nhiên như ở nhà. Nếu cần gì cháu hãy nói ngay, đồng ý chứ?”

Ông chỉ vừa bước ra thì đã vang lên tiếng thì thầm ngoài cửa. Tiếp đó là tiếng gõ. “Cháu có khách,” bà Barbour nói, rồi rút lui.

Và lụi xụi bước vào là Andy: mắt chớp chớp, tay loay hoay cầm kính. Thấy rõ cậu ta vừa bị đánh thức dậy, lôi khỏi giường. Cậu ta ngồi xuống bên tôi trên mép giường Platt, làm lò xo giường kêu kèn kẹt, không nhìn tôi mà nhìn bức tường trước mặt.

Cậu ta hắng giọng, đẩy kính lên sống mũi. Yên lặng rất lâu. Cái lò sưởi dồn dập kêu lạch cạch rồi xì xuỵt: Cả hai vị phụ huynh đã biến mất trong nháy mắt, cứ như nghe tiếng còi báo cháy.

“Hừm,” cậu ta nói, sau một lát, bằng cái giọng vô cảm rờn rợn quen thuộc. “Nhọ thật.”

“Nhọ,” tôi đáp. Và hai đứa tôi ngồi bên nhau lặng yên, vai kề vai, nhìn mấy bức tường màu rêu thẫm trong phòng Platt có những ô vuông dán băng dính ở vị trí các áp phích ngày xưa. Vì biết nói gì hơn nữa?

III

MÃI TỚI BÂY GIỜ, nghĩ đến thời kỳ đó tôi vẫn bị xâm chiếm bởi một nỗi tuyệt vọng hồ như ngạt thở. Cái gì cũng thật kinh khủng. Người ta mời tôi nước ngọt có đá, áo len tôi không cần, thức ăn tôi không nuốt nổi: chuối, bánh kem, xăng-uých ba bốn lớp hay kem. Tôi vâng dạ khi có người hỏi đến, hầu như lúc nào cũng chỉ cắm mắt nhìn xuống thảm để không bị ai thấy mình đang khóc.

Dù rất khổng lồ kể cả so với chuẩn New York, nhưng căn hộ nhà Barbour lại ở tầng khá thấp, gần như không lấy được ánh sáng, ngay cả mặt nhìn sang Đại lộ Công viên cũng vậy. Ở đây không khi nào thực sự là đêm, cũng chẳng hề đích xác là ngày, nhưng ánh đèn trên gỗ sồi đánh bóng vẫn phủ lên tất cả cái không khí hội hè và an toàn như một câu lạc bộ tư. Bạn bè của Platt gọi đây là “ngôi nhà ma”, còn bố tôi sau một hai lần đến đón tôi ngủ đêm tại đây, thì gọi là “nhà Frank E. Campbell”, tức nhà tang lễ nổi tiếng. Nhưng tôi lại thấy được an ủi bởi cái tối ám bệ vệ, sang trọng thời tiền chiến này, rất dễ dàng rút lui vào trong nếu tôi không có hứng muốn nói chuyện, hoặc sợ bị người ta nhìn nhò.

Người ta cũng tới thăm tôi - mấy ông bà công tác xã hội, cố nhiên, rồi một vị bác sĩ tâm thần do thành phố phái đến (miễn phí), nhưng cũng có cả đồng nghiệp cũ của mẹ nữa (nhiều người trong đó, Mathilde chẳng hạn, xưa tôi từng nhại lại giống y như hệt cốt làm cho mẹ cười), rồi cả đống bạn bè từ hồi đại học và hồi mẹ còn làm mẫu. Một diễn viên hơi hơi có tiếng tên Jed mấy lần từng nghỉ lễ Tạ ơn ở nhà tôi (“Mẹ cháu là Hoa hậu Vũ trụ, chú nghĩ thế đấy!”), một bà làm đỏm lối thanh niên lập dị tên Kika, mặc áo khoác màu cam rực rỡ, kể với tôi rằng xưa kia cùng với mẹ, hai cô cháy túi ở East Village, từng mở một bữa tiệc tối tưng bừng cho mười hai người ăn mà chỉ tốn chưa đến hai chục (các món khoản đãi có cả những gói giấy đựng kem và đường cuỗm ở quán cà phê, cùng rau thơm ngắt trộm trên vườn cửa sổ hàng xóm). Annette, vợ góa của một lính cứu hỏa, nay đã ngoài bảy mươi, hàng xóm của mẹ hồi còn ở Lower East Side, cũng mang tới một hộp bánh quy mua ở lò bánh Ý gần nơi mẹ và bà từng sống, chính là món bánh quy bơ nhân hạt thông lần nào bà cũng mang đến chỗ căn hộ Sutton Place của chúng tôi. Rồi cả Cinzia, bà giúp việc cũ, bà òa khóc khi nhìn thấy tôi và xin một bức ảnh mẹ để cất trong ví bà.

Bà Barbour cắt đứt những cuộc thăm viếng nào kéo dài quá đáng, viện cớ tôi chóng mệt, nhưng tôi ngờ còn vì bà không chịu nổi những người như Cinzia và Kika chiếm dụng phòng khách của nhà bà không biết đến bao giờ. Sau khoảng bốn lăm phút gì đó, bà sẽ đến lặng lẽ đứng trong khung cửa. Và nếu họ không biết ý mà rời đi, bà sẽ lên tiếng, cảm ơn họ đến thăm thật quý hóa quá - lời lẽ cực kỳ lịch thiệp, nhưng vẫn đủ cho họ nhận ra họ ở đã lâu rồi và vội vã đứng lên. (Giọng bà giống như giọng Andy, cũng trống rỗng và xa vắng diệu vợi; kể cả khi đứng ngay cạnh, bà vẫn có vẻ như đang truyền lại những tin tức từ sao Alpha Centauri.)

Xung quanh tôi, bên ngoài tôi, cuộc sống gia đình nhà họ vẫn tiếp diễn. Mỗi ngày chuông reo mấy bận: người giúp việc, người trông trẻ, bên cung cấp đồ ăn, gia sư, thầy dạy dương cầm, các bà ở giới giao tế và các ông kinh doanh đi giày lười nơ có việc với các quỹ từ thiện của bà Barbour. Hai em Andy là Toddy và Kitsey chạy đuổi lũ bạn học rầm rập qua những hành lang tối ám. Chiều chiều, các bà thơm nức nước hoa, túi lớn túi nhỏ hàng hiệu ghé vào làm chén trà hay cà phê; tối tối, các cặp vợ chồng mặc đồ dạ tiệc quây quần bên những ly vang và nước có ga trong phòng khách, giữa những bình lọ cắm hoa được mang đến hàng tuần từ một hiệu hoa tươi rất bảnh chọe trên Đại lộ Madison cùng số Architectural Digest và New Yorker mới nhất xòe ra hững hờ trên bàn trà.

Nếu ông bà Barbour có cảm thấy hết sức phiền toái vì bỗng dưng nhận thêm một đứa trẻ nữa trên tay mà chẳng hề báo trước, thì họ cũng rất lịch thiệp không để lộ ra điều gì. Mẹ Andy, giữa những trang sức sang trọng nhưng không phô trương và nụ cười gần như lãnh đạm - loại người nếu cần có thể bắt máy thẳng cho thị trưởng đề nghị ông giúp việc này việc nọ - dường như đứng trên tầm những hạn chế của hệ thống hành chính của thành phố New York. Đang cơn thương khóc và đầu óc tù mù, tôi vẫn ngờ ngợ cảm thấy bà đang giật các loại dây sau cánh gà để tôi được thoải mái hơn, che chắn tôi khỏi những cạnh sắc mũi nhọn trong bộ máy công tác xã hội và cả giới báo chí nữa - như giờ tôi tin chắc. Mỗi cuộc gọi tới chiếc máy điện thoại dai dẳng đổ chuông đều nối trực tiếp đến máy cầm tay của bà. Những cuộc bàn luận thì thầm, những lời dặn dò người bảo vệ. Sau lần bắt quả tang Enrique giữa một trong vô số cuộc căn vặn không biết mệt nhằm dò xem bố tôi ở đâu, những đợt tra vấn lúc nào cũng khiến tôi muốn òa khóc - ông ta có hỏi tôi về vị trí đặt hỏa tiễn ở Pakistan thì cũng thế thôi - bà bảo tôi ra khỏi phòng, và chỉ một câu bằng cái giọng đều đều kiểm soát đã chấm dứt câu chuyện (“À, ông thấy đấy, rõ ràng là cậu bé không biết ông ta ở đâu, bà mẹ cũng không biết... phải, dĩ nhiên, tôi hiểu ông muốn tìm ra ông ta, nhưng hiển nhiên ông ta không muốn ai tìm được mình, ông ta đã làm mọi việc để tránh bị tìm thấy… ông ta không gửi tiền trợ cấp, ông ta để lại nợ nần, ông ta gần như đã cao chạy xa bay không nhắn nhủ một lời, nên thực lòng tôi cũng không hiểu ông sẽ làm được gì nếu liên lạc được với vị phụ huynh mẫu mực, người công dân tuyệt vời đó... phải, phải, đúng rồi, nhưng nếu ngay cả chủ nợ và chỗ làm của ông ta đều không tìm được, thì tôi không hiểu tiếp tục tra khảo thằng bé có ích gì, phải không? Chúng ta đồng ý kết thúc ở đây được chưa?”)

Chế độ thiết quân luật từ khi tôi đến ở có vài điểm đã gây không ít trở ngại cho nhiều người trong nhà, tỷ dụ như các cô giúp việc không còn được nghe kênh thời sự Ten Ten WINS trong khi làm việc nữa (“Không được,” bà bếp Etta sẽ nhỏ giọng và đánh mắt về phía tôi cảnh báo khi có một cô lau bếp định bật radio) và mỗi sáng, tờ Times được mang thẳng vào phòng ông Barbour, không còn để ngoài nhà cho mọi người trong nhà cùng đọc. Rõ ràng đây không phải lệ thường: em gái Andy là Kitsey thường rền rĩ “Lại có ai mang tờ báo đi nữa rồi” trước khi im bặt ăn năn khi nhận một cái nhìn của mẹ - và rồi tôi dần hiểu ra, tờ báo nay mất tích vào phòng làm việc của ông Barbour vì trong đó có những thứ người ta nghĩ tốt hơn hết là tôi không đọc.

Rất may, Andy, qua thời gian sát cánh bên tôi trong nghịch cảnh ngày xưa, hiểu rằng tôi ngán nhất là nói chuyện. Vào mấy ngày đầu tiên, cậu ta được nghỉ học ở nhà với tôi. Trong căn phòng kẻ carô bốc mùi ẩm mốc có chiếc giường tầng tôi từng ngủ lại bao nhiêu đêm thứ Bảy thời tiểu học, chúng tôi ngồi hai bên bàn cờ, Andy chơi cả hai tay, vì trong cơn mụ mị tôi còn chẳng nhớ quân nào đi cách nào nữa. “Ờ,” cậu ta thường nói và đẩy kính lên sống mũi. “Được rồi. Cậu có chắc là mình muốn đi quân đó không?”

“Cái gì?”

“Ờ, hiểu,” Andy đáp bằng giọng yếu ớt đến bực mình đã khiến bao nhiêu thằng đầu gấu xô cậu ta xuống lề đường trước cửa trường tôi qua nhiều năm. “Quân xe của cậu đang bị đe dọa thì đúng rồi, nhưng theo tớ tốt hơn thì cậu nhìn kỹ quân hậu đi - không, quân hậu, ở D5 ấy.”

Cậu ta phải gọi tên thì tôi mới chú tâm. Trong đầu tôi vẫn đang tua đi tua lại cái khoảnh khắc mẹ và tôi cùng nhau chạy ngược lên thềm bảo tàng. Cái ô sọc. Mưa trút xuống, táp vào mặt đôi bên. Điều đã xảy ra không bao giờ còn đảo ngược được nữa, tôi biết, nhưng không hiểu sao cảm giác vẫn phải có một cách gì đấy để tôi quay lại con phố tắm mưa, khiến mọi việc đi theo đường khác chứ.

“Hôm trước,” Andy bảo, “có một ông, tớ nghĩ chắc là Malcolm gì gì đó hay ông nào đó vẫn được coi là uy tín lắm, đại khái là, hôm trước ông ta làm ầm ĩ trên tờ Science Times, chứng minh rằng số lượng ván cờ có thể diễn ra còn lớn hơn cả số hạt cát trên toàn thế giới. Thật ngớ ngẩn là một cây bút khoa học của một tờ báo lớn lại thấy cần thiết phải đay đi đay lại một việc rõ như ban ngày thế.”

“Ờ,” tôi nói, khó khăn lắm mới bắt tâm trí mình quay lại đó.

“Vì ai chẳng biết là số hạt cát trên hành tinh có nhiều đến đâu thì cũng hữu hạn? Thật ngớ ngẩn là lại đi bình phẩm về một chuyện hai năm rõ mười như thế, cậu tưởng tượng xem, Tin giật gân mới nhất! Bày vẽ ra cứ như một chi tiết kỳ bí lắm.”

Andy và tôi đã kết bạn với nhau từ tiểu học, trong một hoàn cảnh có thể gọi là đau thương: đấy là sau khi cả hai được học vượt lớp nhờ điểm số cao. Giờ thì xem ra ai cũng nhất trí rằng việc ấy là sai lầm, với cả hai đứa, dù nguyên do khác nhau. Cả năm ấy - loạng quạng giữa những thằng con trai lớn hơn, to xác hơn, những đứa không ngần ngại ngáng chân hay xô ngã hay dập cửa tủ đồ vào tay chúng tôi, hay xé vở bài tập và nhổ bọt vào sữa rồi gọi chúng tôi là giun sán hay pê đê hay đít còi (cái họ Decker của tôi suy tự nhiên ra tên đó) - suốt cả năm ấy, Cuộc Cầm Tù Babylon của hai đứa như Andy gọi bằng cái giọng thều thào rầu rĩ, chúng tôi lẽo đẽo đi bên nhau như một đôi kiến quặt quẹo dưới tấm kính lúp: cẳng bị đá, bụng bị thụi, bản thân bị tẩy chay, chúi đầu vào xó xỉnh quạnh quẽ nhất ăn trưa để tránh làm bia hứng đạn cho những trận mưa gói tương hay viên gà rán. Suốt gần hai năm liền cậu ta là người duy nhất tôi có làm bạn và ngược lại. Thật chán nản và hổ thẹn khi nhớ lại thời kỳ ấy: những trận chiến Autobot và tàu bay Lego, những mật danh chúng tôi chọn từ Star Trek phiên bản cũ (tôi là Kirk, cậu ta Spock) hòng tìm cách biến nỗi khổ sở của mình thành trò chơi. Báo cáo chỉ huy, dường như lũ người hành tinh đang giam giữ chúng ta trong bối cảnh giả dạng trường học dành cho thiếu nhi loài người trên Trái đất.

Trước khi bị quẳng vào giữa một bầy nam sinh hơn tuổi rắn mặt, ưa đấm đá, với cái nhãn “học giỏi” treo ở cổ, tôi chưa bao giờ là đối tượng bị lọc ra để mắng chửi hay sỉ nhục ở trường. Nhưng Andy tội nghiệp, chưa cần đợi đến năm vượt cấp, đã là mẫu hình truyền đời bị ăn hiếp: gầy gò lỏng khỏng, hay máy giật, dị ứng sữa, lại có làn da trắng đến gần như trong suốt và thói quen nhả ra những chữ như “tà ngụy” hay “thiên kinh địa nghĩa” trong câu chuyện bình thường. Cậu ta thông minh nhưng không bù lại vụng về; cái giọng không âm sắc, thói quen thở bằng miệng vì mũi triền miên bị tắc khiến cậu ta có cái vẻ hơi ngây ngô chứ không phải là trí tuệ vượt trội. Giữa đám anh chị em răng sắc lẻm, dẻo dai uyển chuyển như một bầy mèo con, chạy vù vù giữa bạn bè và đội bóng và những chương trình ngoại khóa hấp dẫn, Andy nổi bật như một đứa đầu đất ngờ nghệch vừa bước nhầm vào sân bóng vợt.

Tôi đã hồi lại phần nào sau năm lớp Năm sóng gió, nhưng Andy thì không. Tối thứ Bảy, Chủ nhật cậu ta ở nhà, không bao giờ được mời liên hoan hay rủ đi lượn công viên. Cứ theo tôi biết, thì đến giờ tôi vẫn là người bạn duy nhất của cậu ta. Và dù, dưới bàn tay mẹ, cậu ta mặc thứ áo quần hợp cách, không khác gì đám con trai nổi nhất trường - thậm chí thỉnh thoảng còn đeo kính áp tròng nữa - vẫn chẳng ai vì thế mà bị lừa cả: đám đầu bò đầu bướu thù địch đã quen từ thuở nhỏ nay vẫn xô đẩy và gọi cậu ta là “3PO”[35], dấu ấn từ một lần cậu ta sai lầm mặc áo Star Wars đến trường.

Andy chưa bao giờ là dạng lắm lời, từ nhỏ đã vậy, ngoại trừ vài lần lên cơn (tình bạn giữa hai chúng tôi chủ yếu có dạng trao đổi truyện tranh không lời). Nhiều năm chịu chọc phá ở trường đã khắc sâu hơn nữa bản tính khép mình ngậm miệng, giờ cậu ta không tung ra những từ ngữ kỳ dị lấy từ sách viễn tưởng nữa mà chỉ vùi thân vào Toán và Tự nhiên nâng cao. Môn Toán chưa bao giờ khiến tôi hứng thú - tôi thuộc loại người “thiên về văn”, như người ta nói - nhưng trong khi tôi đã phụ lòng những triển vọng học đường thời nhỏ trong mọi lĩnh vực, thấy điểm số cao chả có nghĩa lý gì nếu phải vì nó mà bò ra học, thì Andy lại học nâng cao tất cả các thứ và đứng chót vót đầu sổ điểm. (Đáng lẽ cậu ta đã bị đưa tới Groton theo chân Platt, một viễn cảnh đã gây phập phồng lo lắng từ hồi lớp Ba, nếu không vì bố mẹ cậu ta quá sợ - mà cũng hợp lý - phải để xa nhà đứa con từng bị bạn cùng lớp hành hạ đến mức chụp túi ni-lông vào đầu trong giờ chơi để suýt chết ngạt. Và còn những lo âu khác: tôi biết chuyện ông Barbour từng đi “trại chập” chính là vì Andy kể với tôi, với giọng thản nhiên lệ thường, rằng bố mẹ lo cậu ta có thể thừa hưởng phần nào chút gen xấu ấy.)

Trong mấy ngày nghỉ ở nhà với tôi, Andy xin lỗi vì còn phải học, “nhưng than ôi, đấy là điều cần thiết” - cậu ta vừa nói vừa sụt sịt mũi, quệt vào tay áo. Chương trình học nặng kinh khủng (“lò chuyên là lò điên”) và cậu ta không thể chậm dù chỉ một ngày. Trong lúc cậu ta gò mình trên những chồng vở tưởng chừng không có điểm dừng (Hóa-Giải tích-Lịch sử Mỹ-Ngữ văn-Thiên văn-tiếng Nhật), tôi ngồi trên sàn, lưng dựa vào một bên tủ áo, đếm thầm: mẹ còn sống giờ này ba hôm trước, giờ này bốn hôm trước, một tuần trước. Trong đầu tôi điểm lại từng bữa ăn của hai mẹ con trong những ngày trước khi mẹ chết: lần cuối chúng tôi ghé vào quán Hy Lạp, lần cuối chúng tôi vào Shun Lee Palace, bữa tối cuối mẹ nấu cho tôi (mì Ý sốt kem), bữa tối áp chót (một món gọi là gà Ấn Độ, mẹ học của bà từ hồi ở Kansas). Thỉnh thoảng, để tỏ ra bận rộn, tôi lật giở những tập Giả kim thuật[36] cũ, hay một cuốn H. G. Wells có minh họa để bừa bộn trong phòng, nhưng ngay cả những hình vẽ cũng quá sức so với đầu óc tôi. Chủ yếu tôi chỉ trân mắt nhìn lũ bồ câu đập cánh ngoài bệ cửa sổ, trong khi Andy điền vào vô số ô vuông trong cuốn luyện chữ hiragana, đầu gối nhún nhảy dưới bàn.

Phòng Andy, vốn ngày xưa thuộc về một phòng ngủ lớn đã bị chia làm đôi, mở ra hướng Đại lộ Công viên. Bên chỗ qua đường còi xe inh ỏi vào giờ tan tầm, ánh chiều vàng rực trong những cửa sổ đối diện và lụi dần khi dòng xe dần vãn. Đêm trôi đi (ánh đèn đường huỳnh quang, những đêm tím trong lòng thành phố không bao giờ tối hẳn), tôi quật người từ bên này qua bên kia, trần nhà thấp sát trên chiếc giường tầng đè trĩu xuống đến mức đôi khi tôi bừng mở mắt, tin chắc mình đang nằm dưới gầm giường.

Sao con người ta có thể nhớ như tôi nhớ mẹ? Tôi nhớ mẹ đến nỗi tôi muốn chết: một nỗi đòi hỏi nặng mang hình khối, như nỗi khát khí thở khi chìm dưới nước. Nằm thao thức, tôi cố gọi lại mọi ký ức đẹp nhất về mẹ, cố khiến mẹ đứng yên trong trí nhớ để không quên - nhưng thay vì sinh nhật hay những ngày tươi sáng tôi lại toàn nhớ về những lần như, vài ngày trước khi bị giết, mẹ ngăn tôi trên đường ra khỏi cửa để rút sợi chỉ tuột trên áo khoác đồng phục. Không rõ tại sao đấy là một trong những ký ức rõ nét nhất về mẹ của tôi: đôi mày nhíu lại, cử chỉ chính xác khi mẹ đưa tay về phía tôi, đủ hết. Và cũng vài lần, vật vờ giữa mơ và ngủ, tôi ngồi bật dậy trên giường khi nghe tiếng mẹ rõ mồn một trong đầu, nhận xét những câu kiểu như Ném cho mẹ quả táo nào, hay Không biết áo này cài khuy trước hay sau nhỉ? hay Cái xô pha đã rơi vào tình trạng đáng phải tự thấy hổ thẹn.

Ánh sáng ngoài phố quét từng dải đen thẫm qua sàn. Tuyệt vọng, tôi nghĩ tới phòng ngủ trống trải nhà mình chỉ cách vài dãy phố, tới cái giường hẹp đắp tấm chăn chần đỏ đã sờn. Những vì sao dạ quang mua ở trung tâm thiên thể, một tấm bưu ảnh phim Frankenstein của James Whale. Lũ chim đã lại ríu ran trong công viên, thủy tiên đã ngỏng cổ: vào mùa này, khi thời tiết trở đẹp, thỉnh thoảng mẹ con tôi thường dậy từ sáng sớm để đi bộ qua công viên chứ không lên xe buýt tới West Side. Giá như tôi có thể quay lại, thay đổi mọi chuyện đã xảy ra, tìm cách nào đó ngăn nó lại. Sao tôi không nhất quyết đòi ăn sáng chứ không đến bảo tàng nhỉ? Sao thầy Beeman không triệu chúng tôi tới vào thứ Ba, hay thứ Năm chứ?

Không rõ là đêm thứ hai hay thứ ba, sau khi mẹ mất - dù sao cũng là sau hôm bà Barbour đưa tôi đi bác sĩ khám cái đầu đau - gia đình họ mở tiệc lớn ở căn hộ, quá sát ngày nên không hủy được nữa. Người ta thì thầm với nhau, cảnh hoạt náo mà tôi không sao thấm nổi. Trở lại vào phòng Andy, bà Barbour nói: “Mẹ nghĩ con với Theo thích ở lại trong này hơn.” Giọng bà như không, nhưng rõ ràng đây không phải gợi ý mà là ra lệnh. “Ngoài kia rất chán, mẹ tin các con không thấy vui đâu. Mẹ sẽ bảo Etta mang thức ăn trong bếp vào đây.”

Andy và tôi ngồi bên nhau trên giường tầng dưới, ăn tôm nõn và bánh ác-ti-sô trên đĩa giấy - đúng hơn là cậu ta ăn, còn tôi ngồi, đĩa đặt nguyên trên đùi. Cậu ta đang bật DVD chiếu bộ phim hành động nào đấy, robot nổ tung, lửa và kim loại tưới như mưa. Từ phòng khách vọng vào tiếng ly chạm nhau, mùi sáp nến và nước hoa, và thỉnh thoảng, một chuỗi cười trỗi lên trong vắt. Tiếng dương cầm ngân nga réo rắt bài It’s all over now, baby blue[37] dường như từ chiều không gian nào khác trôi về đây. Mất hết rồi, tôi đã rơi ra ngoài thế giới: cảm giác chóng mặt khi ở trong căn hộ không phải nhà mình, với gia đình không phải của mình đang dần hút hết sinh lực, khiến tôi ù đầu, váng vất, gần như muốn khóc, như một tên tù đang kỳ tra vấn bị giữ không cho ngủ suốt mấy ngày rồi. Hết lần này đến lần khác tôi nghĩ, mình phải về nhà, và rồi, lần thứ một triệu, mình không về được.

IV

SAU BỐN NGÀY, mà cũng có thể là năm, Andy chất sách vở vào cái ba-lô đã dão và quay lại trường. Suốt hôm ấy, rồi cả hôm sau, tôi ngồi trong phòng cậu ta, tivi bật kênh Phim kinh điển Turner, là kênh mẹ vẫn xem khi vừa đi làm về. Hiện đang chiếu các phim chuyển thể từ tiểu thuyết Graham Greene: Ministry of fear, The human factor, The fallen idol, This gun for hire. Chiều hôm thứ Hai, trong lúc tôi đang chờ The third man chiếu, bà Barbour (đã bận xong đồ Valentino, chuẩn bị đi dự sự kiện ở bảo tàng Frick) ghé vào phòng thông báo rằng ngày mai, cả tôi cũng phải đi học. “Ai cũng sẽ thấy bức bối,” bà nói. “Nếu ngồi trơ ở đây một mình. Không tốt cho cháu.”

Tôi không biết phải đáp lại ra sao. Ngồi một mình xem phim là thứ duy nhất có vẻ còn hơi hơi bình thường đối với tôi từ khi mẹ chết.

“Đã đến lúc cháu cần quay lại một nếp sống nào đó rồi. Ngày mai. Bác biết là cháu không thấy vậy, Theo ạ,” bà nói khi thấy tôi không đáp, “nhưng kiếm việc để làm là cách duy nhất sẽ khiến cháu dần khá lên.”

Tôi cương quyết chỉ cắm mắt vào tivi. Tôi chưa đến trường kể từ hôm trước khi mẹ chết, và miễn là tôi còn ở nhà, thì có vẻ như cái chết của mẹ còn chưa chính thức. Nhưng chỉ cần tôi trở lại, đấy sẽ là một sự kiện công khai. Tệ hơn nữa, ngay ý nghĩ trở lại một nếp sống bình thường dù ở bất kỳ dạng nào dường như đã là phản bội. Điều ấy vẫn khiến tôi choáng váng mỗi lần nhớ đến, như một cái tát lại giáng xuống từ đầu: mẹ chết rồi. Mỗi sự kiện mới, mỗi điều tôi làm từ giờ cho đến hết đời, sẽ chỉ càng khiến tôi và mẹ thêm tách biệt: đấy là những ngày không còn hình bóng mẹ, là khoảng cách cứ ngày một rộng thêm giữa chúng tôi. Cứ mỗi ngày qua, từ giờ đến hết đời tôi, mẹ sẽ lại càng xa thêm một ít.

“Theo.”

Giật mình, tôi ngước lên nhìn bà.

“Cứ đi từng bước. Không có cách khác ra khỏi chuyện này đâu.”

Ngày hôm sau tivi đang chiếu liên hoàn một chuỗi phim tình báo Thế chiến thứ hai (Cairo, The hidden enemy, Code name: Emerald) mà tôi rất muốn ở nhà xem. Thay vào đó, tôi lê mình khỏi giường khi ông Barbour ló đầu vào đánh thức cả hai dậy (“Dậy mà đi hỡi hai chàng ơi!”) và cùng Andy đi ra bến xe buýt. Hôm ấy trời mưa, lạnh đến mức bà Barbour ép tôi mặc cái áo khoác len thô cũ rất xấu xí của Platt ra ngoài. Kitsey, em gái Andy, bước chân sáo đằng trước trong chiếc áo mưa hồng, chụm chân nhảy qua từng vũng nước đọng và giả vờ không quen biết gì chúng tôi.

Tôi biết sẽ là một ngày khủng khiếp và đúng là thế thật, kể từ giây đầu tiên tôi bước vào hành lang sáng chói, ngửi cái mùi quen thuộc của nhà trường: mùi nước tẩy trùng hương chanh và mùi thứ gì đó như tất bẩn. Những tấm biển viết tay khắp hành lang: bản đăng ký lớp tennis và nấu ăn, mời thử vai vở Một cặp kỳ khôi[38], dã ngoại đến đảo Ellis, vé thừa cho buổi hòa nhạc Chào Xuân, thật khó tin rằng thế giới đã chấm dứt mà không hiểu sao những hoạt động chuối củ này vẫn nhởn nhơ chạy tiếp.

Lạ nhất là: lần cuối cùng tôi ở trong tòa nhà này, mẹ vẫn còn sống. Tôi cứ nghĩ mãi về điều ấy, và lần nào cũng như mới lạ từ đầu: lần cuối cùng tôi mở cánh tủ này, lần cuối cùng tôi động vào cuốn sách ngu xuẩn Sinh học chuyên sâu[39] này, lần cuối cùng tôi thấy Lindy Maisel bôi lên môi cái thỏi son nhựa đó. Thật khó hình dung nổi tôi không thể lần theo những khoảnh khắc ấy, quay về một thế giới nơi mẹ vẫn còn.

“Chia buồn với cậu.” Tôi nghe từ những người quen, và cả những người cả đời chưa bao giờ nói chuyện. Những người khác, đang cười nói trong hành lang, chợt im bặt khi tôi đi qua, mắt đánh sang những cái nhìn nghiêm trọng hay khó hiểu. Những vẫn còn những người lờ tịt tôi đi, như bầy chó đang chơi lờ đi một con chó ốm hay què liệt: không nhìn tôi, tiếp tục đùa giỡn chơi nhởi khắp xung quanh như tôi không có đó.

Hơn ai hết, Tom Cable tránh mặt tôi dứt khoát như tránh một cô gái vừa bị bồ đá. Giờ ăn trưa không tài nào thấy nó đâu. Tiết tiếng Tây Ban Nha (nó lững thững đi vào mãi sau khi vào tiết, bỏ qua cảnh tượng hết sức khó xử khi cả lớp mặt mày nghiêm trọng bu quanh bàn tôi chia buồn), nó không ngồi cạnh tôi như thường lệ mà ở bàn đầu, bò ra bàn, hai chân vắt về một phía. Mưa gõ nhịp trên cửa sổ trong khi chúng tôi vật lộn qua một chuỗi những câu cú kỳ quặc phải dịch, thứ văn chương hẳn Salvador Dalí[40] cũng phải thấy khoái chí: tôm hùm và ô bãi biển, Marisol có hàng mi dài bắt taxi màu xanh lá mạ đến trường.

Hết tiết, trên đường ra khỏi lớp, tôi cố tình đi lên chào trong lúc nó đang thu dọn sách vở.

“Ồ, chào, mày sao rồi,” nó nói, lạnh lùng, người ngả về sau, mày nhướn lên kênh kiệu. “Tao có nghe tin.”

“Ừa.” Đấy là kiểu của chúng tôi: quá ngầu so với đám xung quanh, lúc nào cũng giấu chuyện đùa riêng không ai biết.

“Nhục thật. Tệ cho mày.”

“Cảm ơn.”

“Đáng ra mày phải giả ốm. Nói rồi còn gì! Chuyện ấy cũng làm mẹ tao phát nổ. Nổ tanh bành! À ờ,” nó tiếp, hơi nhún vai trong cái khoảnh khắc câm điếng tiếp theo, nhìn một vòng quanh kiểu ngây thơ vô số tội, như thể nó vừa ném quả bóng tuyết bọc tảng đá.

“Thế đấy. Còn thì,” nó nói, giọng đã lảng ngay sang chuyện khác, “bộ cánh hóa trang này là sao hả?”

“Gì?”

“À,” hơi bước lùi lại làm điệu bộ, mắt tia cái áo khoác carô len thô - “nẫng giải quán quân là chắc, nếu thi Ai Giống Platt Barbour.”

Và cho dù không muốn - đúng là một cú sốc sau bao nhiêu ngày kinh hoàng nín lặng, một cơn máy giật như có bệnh - tôi bật cười.

“Nói hay đó Cable,” tôi lấy giọng lè nhè đáng ghét của Platt. Cả hai chúng tôi đều giỏi bắt chước, và nhiều khi nói chuyện từ đầu đến cuối toàn bằng giọng mượn của kẻ khác: những phát thanh viên xuẩn ngốc, bọn con gái rên rỉ, đám thấy bà ngớ ngẩn khò khè. “Ngày mai tao sẽ mặc giả mày.”

Nhưng Tom không đối đáp hay đẩy xa câu đùa. Nó đã chán. “Ờ, có khi không,” nó hơi nhún vai và khẽ nhếch mép. “Gặp sau nhé.”

“Ờ, sau.” Tôi cáu: tóm lại là nó bị sao? Thế nhưng chúng tôi đã có truyền thống trò hài kịch đen ấy, mà ngoài ra chẳng ai thấy thú vị, tức là thóa mạ chửi bới lẫn nhau, nên tôi tin chắc nó sẽ lại đến chỗ mình sau tiết Ngữ văn hoặc đuổi theo trên đường về nhà, chạy tới sau lưng mà đập cuốn sách đại số vào đầu tôi cái bộp. Nhưng không hề. Tới hôm sau, trước tiết một, nó còn không buồn nhìn trả khi tôi chào, và dáng điệu dửng dưng khi nó lù lù đi qua khiến tôi chết sững. Lindy Maisel và Mandy Quaife đứng bên tủ đồ quay lại nhìn nhau, bật cười hi hí, có phần sửng sốt: xem kìa! Bện cạnh tôi, đứa được phân công làm thí nghiệm chung là Sam Weingarten đứng lắc đầu. “Đúng là khốn,” nó nói, lớn tiếng đến mức cả hành lang quay lại nhìn. “Mày là thằng khốn, Cable ạ, mày biết không hả?”

Nhưng tôi không để tâm - hay ít nhất là tôi không chạnh lòng hay buồn bực. Trái lại tôi nổi khùng. Tình bạn giữa tôi và Tom lúc nào cũng điên rồ, bất kham, hoang dại và tán loạn, có chút chông chênh, mức năng lượng sùng sục ấy vẫn còn nguyên nhưng dòng điện đã đảo chiều, những điện từ ầm ì chảy về phía ngược lại khiến giờ đây thay vì cùng nhau đùa bỡn giữa hành lang nhà trường tôi chỉ muốn nhấn đầu nó vào bồn tiểu, giật cho cánh tay nó gãy rời khỏi vai, dúi mặt nó xuống lề đường lõa máu, bắt nó ăn cứt chó và rác rến ở cống rãnh. Càng nghĩ tôi càng tức điên, tức đến nỗi thỉnh thoảng tôi đi đi lại lại trong nhà vệ sinh và lẩm bẩm. Nếu không phải Cable đã xì đểu tôi với thầy Beeman (“giờ thì, Theo ạ, tôi biết mấy điếu thuốc đó không phải của cậu”)... nếu không phải Cable khiến tôi bị buộc đình chỉ học... nếu không phải mẹ xin nghỉ... nếu không phải mẹ con tôi đã có mặt ở bảo tàng vào cái thời khắc không may đó... hừ, đến cả thầy Beeman còn biết xin lỗi theo một hình thức nào đó. Vì đúng là kết quả học của tôi có vấn đề (cũng như hàng tá thứ khác thầy Beeman không biết), nhưng cái việc điểm hỏa, cái việc khiến tôi bị gọi lên văn phòng, toàn bộ cái vụ hút thuốc trong sân trường ấy - là tại ai? Cable chứ ai. Mà tôi cũng đâu có mong nó xin lỗi. Thực tế là tôi có định nhắc gì vụ đó với nó đâu, mãi mãi về sau. Chỉ có điều - giờ tôi thành kẻ bị ruồng bỏ rồi ư? Thành kẻ không có mặt? Nó còn không định nói chuyện với tôi? Tôi nhỏ con hơn Cable nhưng không nhiều, và mỗi lần nó pha trò cười trong lớp, vì nó không thể ngưng pha trò, hay chạy qua tôi trong hành lang, giữa cặp bạn thân mới Billy Wagner và Thad Randolph (y như hồi nào chúng tôi chạy đua cùng với nhau, lúc nào cũng tràn trề năng lượng, cũng muốn quăng mình vào nguy hiểm và rồ dại) - thì trong đầu tôi chỉ nghĩ được một điều, ấy là tôi muốn đập nó nát nhừ người ra, giữa bọn con gái cười nói chỉ trỏ còn nó thì rúm người trước mặt tôi khóc lóc: ồi, Tom, thương thế cơ! mày khóc cơ à? (Tìm cách gây sự đánh nhau, tôi đã cố ý vô tình làm dập mũi nó bằng cách mở cửa nhà vệ sinh đập thẳng vào mặt nó, rồi đẩy nó vào máy nước uống khiến nó đánh rơi mớ khoai chiên phô mai kinh tởm xuống sàn, nhưng thay vì nhảy xổ vào tôi - như tôi muốn - nó chỉ nhếch mép cười và bỏ đi không một câu.)

Tất nhiên, không phải ai cũng tảng lờ tôi. Rất nhiều người bỏ thư tay hay quà tặng vào tủ đồ của tôi (có cả Isabella Cushing và Martina Lichtblau, hai con bé nổi nhất khóa), và cả kẻ thù truyền khiếp Win Temple hồi lớp Năm cũng khiến tôi giật mình khi xồ tới ôm siết tôi thật chặt. Nhưng phần lớn mọi người đều đối xử với tôi lịch sự một cách thận trọng và gần như sợ sệt. Đâu phải là tôi đi đâu cũng khóc mếu, hay thậm chí tỏ vẻ gì bất thường, nhưng chúng nó vẫn ngừng bặt câu chuyện nói dở nếu thấy tôi ngồi xuống bên cạnh trong giờ ăn.

Ngược lại, người lớn lại chú ý đến tôi một cách quá mức chịu đựng. Tôi được khuyên nào là ghi nhật ký, chia sẻ với bạn bè, làm một cái “sổ dán ký ức” (thật là những lời khuyên tâm thần, theo ý tôi: đám bạn cùng khóa đã đủ lóng ngóng khi ở gần rồi, dù tôi có cố cư xử bình thường cách mấy; chẳng cần phải khiến chúng thêm chú ý bằng cách đem thổ lộ can tràng, hay dùng tiết Mỹ thuật làm nghệ thuật trị liệu). Dường như tôi đã bỏ quá nhiều thời gian đứng trong những phòng học trống hay văn phòng vắng (ngó trân xuống sàn, gật đầu như máy), bên những giáo viên lo âu giữ tôi lại sau giờ giảng, hay yêu cầu tôi tới gặp riêng. Thầy dạy Ngữ văn của tôi là Neuspeil sau khi ngồi trên mép bàn, kể một tràng gay cấn về chuyện mẹ mình phải chết tức tưởi trong tay một gã phẫu thuật gia kém cỏi, đã vỗ vai rồi ấn cho tôi một quyển vở trắng; bà Swanson, giáo viên tư vấn của trường, lại chỉ tôi mấy bài hít thở và gợi ý có lẽ tôi cũng muốn trút bỏ nỗi sầu muộn bằng cách đi ra đường ném đá cục vào cây; ngay cả thầy Borowsky (dạy Toán và đỡ có màn mắt ướt rượt hơn mấy vị kia nhiều) cũng dắt tôi ra một góc trên hành lang, ghé mặt cách mặt tôi không đầy năm phân và với giọng nói nhỏ nhẹ, tâm sự về cảm giác ăn năn sau khi anh trai thầy chết trong tai nạn xe cộ. (Ăn năn là điều xuất hiện thường xuyên trong những cuộc chuyện trò ấy. Chẳng lẽ các thầy cô giáo cũng tin - giống như tôi - rằng chính tôi là kẻ đã gây ra cái chết của mẹ? Xem ra là thế.) Thầy Borowsky đã ăn năn về chuyện để anh mình say khướt lái xe về sau đêm tiệc tùng ấy, đến nỗi trong một khắc ngắn ngủi còn toan tính tự khử mình. Có lẽ tôi cũng đã nghĩ đến chuyện tự tử. Nhưng tự tử không phải là giải pháp.

Mỗi lời khuyên răn tôi đều lễ phép nghe, với nụ cười cứng đờ và cảm giác phi thực cháy bỏng. Rất nhiều người lớn hình như coi vẻ đờ đẫn ấy là dấu hiệu tích cực: tôi nhớ nhất là thầy Beeman (một gã Anh phát âm điệu đàng quá mức, đội cái mũ bê rê vải tuýt rất đần độn, và bất chấp ông ta săn đón, tôi vẫn ghét cay ghét đắng, dù phi lý, coi là tác nhân gây nên cái chết của mẹ) đã khen ngợi sự chín chắn của tôi, cho biết rằng tô