PHẦN 3- Chương 7- Cửa hiệu đằng sau cửa hiệu (tiếp)
Chúng ta đã quá quen nguỵ trang dưới mắt người đời, rốt cuộc cuối cùng, chúng ta cũng chỉ thấy chính mình trong vỏ bọc.
_Francois De LaRochefoucald_
INỖI KINH HOÀNG VÀ LO ÂU về bức tranh lớn đến nỗi gần như tất cả bức thư khi nó đến: tôi đã được nhận vào chương trình đại học sớm học kỳ xuân này. Cái tin choáng người tới mức tôi bỏ phong bì vào ngăn kéo bàn, và nó đã nằm đó bên chồng giấy viết thư in chữ đầu tên Welty mất hai ngày rồi tôi mới đủ can đảm đi ra đầu cầu thang (tiếng cưa tay xoẹt xoẹt vọng lên từ dưới xưởng) và gọi: “Hobie?”
Tiếng cưa ngừng.
“Cháu được nhận rồi.”
Khuôn mặt lớn trắng nhợt của Hobie xuất hiện nơi chân cầu thang. “Cái gì thế?” Ông hỏi, vẫn còn chưa ra khỏi cơn mộng mị khi làm việc, chưa thật ý thức về xung quanh, chùi tay vào cái tạp dề đen để lại những vệt trắng xóa - rồi thay đổi hẳn nét mặt khi nhìn thấy cái phong bì trong tay tôi. “Đấy có phải là thứ bác nghĩ không?”
Không nói một lời, tôi đưa cho ông. Ông nhìn nó, rồi nhìn tôi - rồi cười, cái tiếng cười mà tôi thầm gọi là tiếng cười Ireland của ông, gắt và chừng như ngạc nhiên vì chính mình.
“Cháu giỏi lắm!” Ông nói, cởi tạp dề vắt qua tay vịn cầu thang. “Bác mừng thật lòng, không dối gì cháu. Bác rất ghét phải gửi cháu lên đấy một mình. Mà cháu định đợi đến lúc nào mới thông báo đấy hả? Ngày đầu tiên đi học à?”
Tôi áy náy kinh khủng khi thấy ông vui mừng đến mức ấy. Trong bữa tối ăn mừng - có tôi, Hobie và bà DeFrees trong một quán Ý nhỏ gần nhà đang trên đường xuống dốc - tôi nhìn sang đôi vợ chồng uống rượu vang, khách duy nhất trong quán ngoài chúng tôi, và thay vì vui mừng như từng hy vọng, tôi chỉ thấy cáu bẳn và tê dại.
“Vui lên!” Hobie nói. “Phần khó khăn nhất đã qua rồi. Giờ thi cháu dễ thở hơn rồi.”
“Chắc cháu phải mừng lắm,” bà DeFrees nói; suốt buổi tối bà đã khoác tay tôi, chốc lại bóp nhẹ hay thốt lên những tiếng ríu rít vui thích. (“Trông bà thật bien élégante.[114] ” Hobie đã nói khi ghé người hôn lên má bà: tóc xám bới cao trên đỉnh đầu, nơ nhung tết qua những mắt xích trên chiếc lắc tay kim cương.)
“Một người chăm chỉ mẫu mực!” Hobie nói với bà. Ông còn khiến tôi áy náy hơn khi kể với bạn bè rằng tôi đã học hành chăm chỉ đến thế đó, và là một học trò giỏi giang như thế kia.
“Tuyệt quá đi mất. Cháu không vui ư? Mà lại kịp thời đến mức đó! Cố gắng làm vẻ mặt vui vẻ hơn chút nào, cưng ơi. Bao giờ thì câu bé vào học?” Bà hỏi Hobie.
IICÓ MỘT BẤT NGỜ THÍCH THÚ là, sau cơn vật vã để chui vào, chương trình ở lớp đại học sớm lại chẳng hề khắc nghiệt như tôi đã sợ. Ở một vài mặt nào đó, đây còn là cái trường nhẹ nhàng nhất tôi từng đi qua: không có lớp nâng cao, không sà sã suốt ngày về điểm SAT và đại học Ivy League đang chờ, không có các yêu cầu toán và ngoại ngữ muốn nổ óc - mà thực tế là chẳng có bất kỳ yêu cầu gì. Càng lúc càng hoang mang, tôi ngơ ngác nhìn thiên đường mọt sách mình đã lọt vào và nhận ra lý do tại sao bao nhiêu đứa cấp ba giỏi giang trong khắp năm quận đã đánh nhau vỡ đầu để tìm cách vào đây. Không thi cử, không kiểm tra, không điểm số gì cả. Có những lớp học để cho người ta lắp các tấm kính năng-lượng mặt trời hoặc dự xê-mi-na với những nhà kinh tế học đoạt giải Nobel, có những lớp khác cả ngày chỉ nghe đĩa Tupac hoặc xem các tập Twin Peaks cũ. Nếu muốn, học sinh có thể tự chế ra những tập hướng dẫn về Rô-bô học hay Lịch sử game. Tôi có toàn quyển chọn lựa trong số các tín chỉ rất thú vị chỉ yêu cầu vài bài luận giữa kỳ làm ở nhà và một bài tập lớn cuối kỳ. Nhưng dù biết mình may mắn vô cùng, tôi vẫn không tài nào cảm thấy vui sướng, hay chỉ là biết ơn, về vận may ấy. Cứ như chính tinh thần tôi đã trải qua là một biến đổi hóa học: cứ như mức cân bằng axit trong tâm thể tôi đã thay đổi, khiến sự sống chảy ra ngoài về những mặt không cách nào sửa chữa, đảo ngược được, như một cành san hô sống dần hóa xương.
Tôi vẫn làm những việc bắt buộc phải làm. Điều này tôi đã từng trải qua rồi: tắt điện trong mình, dấn tới từng bước. Mỗi tuần bốn lần tôi dậy lúc tám giờ sáng, tắm vòi sen trong cái bồn chân móng trong phòng tắm cạnh phòng ngủ của Pippa (rèm tắm hình hoa bồ công anh, mùi nước gội đầu hương dâu nâng tôi trôi vào một màn sương cợt nhạo, có hình bóng cô mỉm cười khắp quanh tôi). Rồi, đột ngột ngã rụp xuống mặt đất, tôi rời khỏi quầng mây hơi nước rồi lặng lẽ mặc đồ trong phòng, và - sau khi đã lôi Popchik một vòng quanh tòa nhà, trong lúc nó nhảy nhót và gào thét vì sợ hãi - sẽ thò đầu vào xưởng, tạm biệt Hobie, quăng cái balo lên vai rồi lên tàu hỏa đi hai bến vào trung tâm.
Hầu hết lũ bạn học đều theo năm, sáu lớp, nhưng tôi chỉ học bốn, mức yêu cầu thấp nhất: Mỹ thuật thực hành, Tiếng Pháp, Đại cương điện ảnh châu Âu, Văn học Nga qua bản dịch. Tôi muốn học Tiếng Nga giao tiếp, nhưng Tiếng Nga cơ bản phải đợi đến mùa thu mới có lớp. Lạnh lẽo giật cục, tôi tới học đúng giờ, trả lời khi có ai hỏi đến, hoàn thành hết bài tập, rồi đi về nhà. Thỉnh thoảng sau giờ học, tôi ăn ở những quán Mễ hay Ý rẻ tiền gần Đại học New York, có máy chơi pinball và cây cảnh giả bằng nhựa, tivi màn hình rộng chiếu thể thao, bia giá một đô-la vào các giờ Happy Hour (dù tôi không được uống bia: thật kỳ dị phải điều chỉnh lại cho hợp với cuộc đời một đứa vị thành niên, cảm giác không khác nào trở lại vườn trẻ vẽ bút màu sáp). Tiếp đó, đầu hừng hực vì chất đường trong những cốc Sprite rót thoải mái, tôi đi bộ về lại nhà Hobie qua Công viên quảng trường Washington, đầu cúi gằm, iPod bật thật lớn. Nỗi lo lắng ấy (bức Rembrandt được tìm lại vẫn còn là chủ đề xôn xao báo chí) khiến tôi khó ngủ ban đêm, và mỗi lần chuông cửa nhà Hobie reo bất ngờ là tôi lại giật bắn như một đám cháy cấp độ năm.
“Em đang bỏ lỡ nhiều thứ đấy Theo,” Susanna, giáo viên tư vấn của tôi nói (ở đây ai cũng dùng tên riêng: bạn bè cả), “hoạt động ngoại khóa mới là thứ khiến sinh viên ờ đây được gắn bó trong một môi trường học tập thành thị. Đặc biệt là các học sinh trẻ hơn. Nếu không rất dễ mất phương hướng.”
“À...” Cô ta nói đúng: ở trường rất buồn. Đám mười tám, mười chín tuổi không kết thân với bọn nhỏ hơn, và dù có đẩy học sinh tuổi tôi trở xuống (cả một đứa mười hai tuổi ẻo lả nghe đâu có IQ 260), cuộc sống của chúng cũng quá khép kín, những nỗi lo quá ngớ ngẩn và xa lạ đến nỗi tôi thấy như chúng dùng một thứ ngôn ngữ trường cấp hai xưa rích nào đó mình đã quên. Chúng sống ở nhà cùng bố mẹ, lo âu về những thứ như tăng điểm phẩy và đi Ý học tiếng và thực tập ở Liên Hiệp Quốc mùa hè; chúng phát hoảng nếu thấy người ta châm thuốc lá trước mặt; chúng hăm hở, trong sáng, nguyên vẹn, ngây ngô. Xét theo những điểm chung giữa tôi với chúng, thật chẳng khác gì tôi xuống chơi cùng lũ tám tuổi ở trường tiểu học số 41.
“Tôi thấy em đang học tiếng Pháp. Câu lạc bộ tiếng Pháp họp tuần một lần, ở một nhà hàng Pháp trên Phố University Place. Thứ Ba thì họ đến Alliance Française xem phim tiếng Pháp với nhau. Có thể em sẽ thích hoạt động đó chăng?”
“Có thể.” Trưởng khoa Pháp, một ông thấy già nua người Algeria, đã kịp đến gặp tôi (khiến tôi giật nẩy mình - khi bàn tay lớn rắn rỏi của ông đặt lên vai, tôi đã nhảy nhổm như gặp cướp) và nói luôn không mào đầu rằng có một xê-mi-na ông dạy chắc tôi sẽ thích, về các căn nguyên của chủ nghĩa khủng bố hiện đại trong Mặt trận giải phóng dân tộc và Quân đoàn Algeria - ghét một nỗi là hình như giáo viên khắp trường đều biết tôi là ai, nói chuyện với tôi về “bi kịch của em”, như bà giáo lớp điện ảnh Lebowitz (“cứ gọi cô là Ruthie”) gọi. Cả bà nữa - Lebowitz - cũng đã nhằng nhẵng đi theo tôi, rủ vào Câu lạc bộ Điện ảnh sau khi đọc bài luận tôi viết về Kẻ cắp xe đạp[115], ; bà cũng gợi ý tôi nên ngó nghiêng Câu lạc bộ Triết xem sao, ở đó hàng tuần họ thảo luận cái mà bà gọi là ‘Những câu hỏi lớn’. “ừm, để xem sao ạ,” tôi lễ phép đáp.
“À, từ bài viết của em, cô thấy có vẻ em quan tâm đến cái mà, vì không có từ gì chuẩn hơn, cô sẽ gọi là lãnh địa siêu hình. Ví dụ như, tại sao người tốt thường chịu thiệt” bà ta nói khi thấy tôi vẫn trân mắt ra nhìn. “Và, liệu số phận có phải là ngẫu nhiên hay không. Chủ để bài viết của em thực ra không phải khía cạnh điện ảnh của De Sica, mà là sự hỗn độn và bất trắc nằm ở căn bản thế giới ta đang sống.”
“Em không biết nữa,” tôi nói trong quãng im lặng khó chịu tiếp theo. Thực sự bài viết ấy nói về những vấn đề ấy ư? Tôi còn chẳng thích Kẻ cắp xe đạp (hay Kes, hay Con mòng biển[116], hay Lacombe Lucien, hay bất kỹ phim nào trong số những phim nước ngoài cực kỳ thê thảm mà bà Lebowitz chiếu ở lớp).
Bà Lebowitz nhìn tôi hồi lâu đến mức tôi thấy ngượng nghịu. Rồi bà điều chỉnh cặp kính đỏ chói, đáp: “À, phần lớn những phim trong lớp Điện ảnh châu Âu thuộc loại khá nặng nề. Vậy nên cô đang nghĩ hay là em nên chuyển sang một trong mấy lớp chuyên ngành điện ảnh cô dạy: ‘Hài kịch screwball[117] thập niên 30’, hay thậm chí là ‘Phim câm’. Có chiếu Dr. Caligari nhưng cũng cả mấy phim Buster Keaton nữa, mấy phim Charlie Chaplin - cũng là hỗn độn, em biết đấy, nhưng trong một khung khổ không gây đe dọa. Tụng ca cuộc sống, vân vân.”
“Có thể ạ,” tôi đáp. Nhưng tôi không có ý định rước thêm vào mình một mẩu công việc ngoài đòi hỏi nào, có ca tụng cuộc sống đến mấy cũng không. Vì, gần như ngay từ giây phút bước được chân qua cửa, cái nguồn nâng lượng giả tạo đã khiến tôi lao được vào chương trình đại học sớm lập tức xẹp hẳn. Nhìn những món ngon vật lạ chào mời trong đó mà lòng tôi lạnh lẽo; tôi chẳng muốn phải động chân động tay một ly một leo nhiều hơn mức tuyệt đối cần thiết. Tôi chỉ muốn qua ngày mà thôi.
Hậu quả là sự chào đón nhiệt thành của các thầy cô giáo chẳng mấy chốc đã xẹp theo, chuyển qua cam chịu, và một nỗi hối tiếc mơ hồ, không xác định. Tôi không tìm kiếm thử thách, phát triển kỹ năng, mở rộng tầm mắt, khai thác hàng bao nhiêu nguồn lực dọn sẵn trước mắt. Tôi không “thích nghi với chương trình”, như Susanna đã tế nhị miêu tả. Thực tế là, học kỳ càng trôi qua, và các giáo viên càng lảng xa cùng một thái độ có vẻ hằn học hơn càng lộ rõ (“những cơ hội về học thuật ở đây có vẻ không khiến Theodore bỏ công sức nhiều hơn, trên bất cứ mặt trận nào”), tôi càng ngờ vực rằng lý do duy nhất đưa tôi vào chương trình học này là cái “bi kịch” kia. Ai đó đã đánh dấu đơn xin học của tôi ở phòng tuyển sinh, trao nó cho cấp lãnh đạo, Chúa ơi, xem cái thằng bé tội nghiệp này, nạn nhân khủng bố đấy, vân vân và mây mây, trách nhiệm của nhà trường, còn thừa bao chỗ, có nhét được vào không? Hẳn nhiên tôi đã cướp cơ hội của một đứa đầu to mắt cận nào đó xứng đáng hơn ở quận Bronx, một thằng hay con nhỏ chơi clarinet nghèo ở nhà xã hội hôm nay vẫn bị đánh đập để cướp bài làm đại số, và mai sẽ bấm vé trong ghi-sê thay vì dạy cơ học chất lưu ở Caltech, vì chỗ của nó bây giờ tôi đã ngồi.
Đây là một sai lầm hai năm rõ mười. “Theodore rất ít tham gia vào bài trên lớp, dường như không hề muốn bỏ nhiều hơn mức tuyệt đối cần thiết vào việc học hành,” đấy là lời nhận xét của giáo viên tiếng Pháp trong một lời phê giữa kỳ gay gắt, mà nhờ không có một người lớn giám hộ sâu sát nào bên cạnh, chỉ mình tôi được đọc. “Chỉ có thể hy vọng rằng những thất bại sẽ thúc đẩy em chứng tỏ bản thân tốt hơn, để em khai thác được cơ hội của mình trong nửa sau học kỳ.”
Nhưng tôi chẳng hề có ý muốn khai thác cơ hội của mình, nói gì đến chứng tỏ bản thân. Như một kẻ mộng du tôi đi qua các phố, và thay vì làm bài tập về nhà hay đến lớp ngoại ngữ hay vào một trong mấy câu lạc bộ đã có lời mời - ngồi tàu điện ngầm đến những ga cuối như luyện ngục, lang thang giữa những quán rượu và những tiệm uốn tóc sang chảnh. Nhưng chẳng mấy chốc ngay cả trò chơi xê dịch mới kiếm được này cũng làm tôi chán - hằng trăm dặm đường ray, đi chỉ để mà đi - và thay vào đó, như hòn đá lặn không tiếng động xuống đáy sâu, tôi vùi mình vào những giờ tê dại trong tấng hầm của Hobie, một không gian gà gật dưới vỉa hè, nơi tôi được cách ly khỏi tất cả ánh lóa của thành phố, những nhà chọc trời và tòa nhà văn phòng vươn lên không như những sợi lông lởm chởm, nơi tôi toại nguyện với việc đánh bóng mặt bàn và nghe nhạc cổ điển trên kênh WNYC hàng giờ liền.
Suy cho cùng, tôi có quan tâm quái gì đến thì quá khứ hoàn thành hay là các tác phẩm của Turgenev? Có gì sai khi muốn ngủ muộn, chăn trùm kín đầu, rồi dậy đưa bước chân qua một căn nhà yên ả, có những vỏ sò cũ trong ngăn kéo bàn và giỏ mây đựng vải may nệm ghế đã gấp lại cất trong ngăn tủ bàn viết, ánh chiều tà rơi qua quạt thông gió trên đầu cửa trước thành những nan hoa san hô ấn tượng trên mặt sàn? Chẳng mấy chốc, giữa trường học và xưởng, tôi đã được ru trong cơn mơ màng quên lãng, một phiên bản của cuộc sống trước nhưng đã biến dạng như trong mơ, đi trên những phố quen thuộc mà sống trong những cảnh lạ kỳ, giữa những gương mặt không quen; và dù trên đường tới trường tôi thường nghĩ đến cuộc sống đã mất bên mẹ - ga Phố Canal, những thùng đựng hoa sáng đèn ở chợ Hàn Quốc, bất cứ cái gì cũng có thề gợi nhắc tôi nhớ lại - thì dường như một bức màn đen đã hạ xuống, che khuất quãng đời Vegas trong tôi.
Chỉ có thỉnh thoảng, trong những giây phút mất cảnh giác, cuộc đời ấy lại xói qua thành từng đợt tráo trở, khiến bước chân trên vỉa hè sững lại. Hiện tại hình như đã thu nhỏ thành thứ có vẻ chật hẹp hơn, kém hấp dẫn hơn rất nhiều. Có thể là vì tôì đã tỉnh táo hơn, không còn lóa mắt trước cái hoành tráng dặt dẹo thường kỳ của hai kẻ nghiện ngập bé con tung hoành ngày trước, của bộ lạc chiến binh hai người dọc ngang khắp sa mạc; hoặc có thề đời vẫn luôn như vậy khi người ta thêm tuổi, dù thực tình khó có thể hình dung Boris (ở Warsaw, Karmeywallag, New Guinea hay bất cứ đâu) lại sống cuộc đời tiền người lớn mê ngủ như kiểu tôi bấy giờ. Andy và tôi - ngay cả Tom Cable và tôi - đã từng nói chuyện mải mê về việc muốn làm gì khi lớn lên, nhưng Boris hình như chưa bao giờ nghĩ đến tương lai xa hơn bữa ăn tiếp theo. Tôi không thể hình dung nó chuẩn bị làm việc kiếm ăn bằng bất kỳ cách nào, hay làm một thành viên hữu ích trong xã hội. Tuy thế, ở bên Boris nghĩa là biết rằng cuộc đời mở ra vô số những triển vọng tuyệt vời, lố bịch - vượt xa những thứ người ta dạy trong trường. Tôi đã từ lâu thôi không tìm cách gọi điện hay nhắn tin cho nó nữa; các tin nhắn tới số Kotku chẳng bao giờ được đáp lại, còn số điện thoại nhà ở Vegas thì đã cắt rồi. Tôi không hình dung nổi, trong cái trường dịch chuyển mênh mông của nó, rằng có bao giờ chúng tôi còn gặp lại nhau. Thế mà ngày nào tôi cũng nghĩ đến nó. Những cuốn tiểu thuyết Nga phải đọc ờ trường làm tôi nghĩ đến nó, và cả Bảy cột thông thái[118] và cả Lower East Side - những tiệm xăm mình, những quán bánh gối kiểu Đông Âu, mùi cỏ trong không khí, những bà già Ba Lan bước chân xộc xệch, người trĩu xuống vì giỏ đồ, tụi trẻ đứng hút thuốc trong khung cửa quán rượu dọc Đại lộ 2.
Và - đôi khi, không định trước, buốt nhói đến gần như đau - tôi nhớ đến bố. Khu Phố Tàu đánh thức trong tôi cảm giác về cái lòe loẹt phô trương nhưng lại tầm xàm, cái tâm trạng thoắt vui thoắt buồn không cách nào hiểu được: gương, bể cá, cửa sổ hiệu bày hoa giả và các chậu trúc phát lộc. Thỉnh thoảng khi đi dọc Phố Canal làm việc gì đó cho Hobie, mua đá nhám và nhựa thông Venice ở Pearl Paint, tôi lại lạc bước qua Phố Mulberry tới một hiệu ăn ngày xưa bố thích, cũng không quá xa tuyến E, đi tám cầu thang xuống hầm có những bàn formica ố bẩn và mua bánh xèo giòn tan, thịt lợn cay xé, những món phải dùng tay chỉ vì thực đơn toàn tiếng Hoa. Lần đầu tiên mở cửa nhà Hobie xách theo những bọc giấy chảy mỡ, tôi sững lại trước vẻ mặt ngơ ngác của ông, và đứng giữa phòng như một kẻ mộng du vừa tỉnh giấc, không hiểu mình rốt cuộc lại vừa nghĩ đến điều gì - dĩ nhiên không phải đến Hobie, ông đâu có phải kẻ luôn chợt thèm đồ ăn Tàu bất kể sáng tối.
“Ồ, bác thích lắm chứ,” Hobie vội vã đáp, “chỉ có điều bác thực tình chưa bao giờ nghĩ đến nó.” Và chúng tối ăn dưới nhà, ngay trong xưởng, để nguyên hộp giấy mà ăn, Hobie ngồi trên ghế đẩu, mặc tạp dề đen, tay xắn đến khuỷu, đôi đũa trong mấy ngón tay to trông nhỏ đến lạ.
IIINGAY CHUYỆN Ở ĐÂY MỘT CÁCH rất không chính thức thế này cũng khiến tôi lo lắng. Dù bản thân Hobie với lòng nhân từ lơ đễnh của ông có vẻ chẳng nể hà gì chuyện có tôi trong nhà, thì ông Bracegirdle hẳn nhiên coi đây chỉ là dàn xếp tạm thời, và cả ông ta lẫn giáo viên tư vấn ở trường đã khổ sở giải thích cho tôi rằng ký túc xá ở trường vốn dành riêng cho các sinh viên lớn tuổi thật đấy, nhưng trường hợp tôi hẳn có thể tìm được cách thu xếp. Nhưng cứ khi nào họ động đến đề tài nơi sống, là tôi chỉ lặng im nhìn xuống chân. Mấy khu nhà trọ đó vừa bừa bộn vừa lắm ruồi, thang máy hộp vẽ bậy đầy tường và kêu xình xịch như thang máy bệnh viện; tường thì dán kín các tờ rơi của ban nhạc, sàn dính nhớp vì suốt ngày đổ bia, những đám sinh viên to vật vã quấn chăn gà gật trên ghế bành trong phòng tivi không khác gì xác sống, những gã bí tỉ để râu trên mặt - đối với tôi họ là người lớn cả rồi, những gã lớn xác, đáng sợ, đã ngoài 20 - ném những chai cả lít rỗng vào nhau trên hành lang, “ừ, đúng là cháu còn hơi nhỏ,” ông Bracegirdle nói, khi tôi bày tỏ những ngại ngần ấy lúc đã bị dồn vào đường cùng, dù lý do thực cho chuyện ngại ngùng lại là một thứ tôi không thể nói ra - trong hoàn cành này làm sao mà tôi sống chung phòng với một kẻ nào được? Còn vấn đề an ninh thì sao? Hệ thống phun nước chống hỏa hoạn thì sao? Trộm cắp thì sao? Nhà trường không chịu trách nhiệm về tài sản cá nhân của sinh viên, đấy là câu trong cuốn sổ tay phát cho tôi. Đề nghị các sinh viên mua bảo hiểm kỷ túc xá cho bất kỳ đồ vật có giá trị nào có khả năng được mang đến trường với mình.
Mê man vì lo lắng, tôi dành toàn lực biến mình thành cánh tay phải không thể tách lìa của Hobie: chạy việc, rửa bàn chải, giúp ông kê sổ các món phục chế và tìm kiếm trong số những phụ kiện, những mảnh gỗ cứu từ tủ ly cũ. Khi ông đẽo các thanh trục và tiện chân ghế mới cho khớp với chân ghế cũ, thì tôi đun sáp ong và nhựa cây trên bếp điện xách tay làm xi đánh bóng đồ: 16 phần sáp ong, 4 phần nhựa cây, một phần nhựa thông Venice, tạo nên một chất óng màu nâu vàng rất thơm, sền sệt như kẹo, quấy trong chảo rất sướng tay. Chẳng mấy chốc ông đã dạy tôi cách tô màu đỏ lên nền trắng chuẩn bị mạ: lúc nào vàng cũng mòn đi một chút nơi bàn tay bình thường hay chạm vào, rồi một chút sơn lót đen dùng muội than xoa vào các kẽ hở và lưng ghế. (“Tạo nước bóng lúc nào cũng là một trong các vấn đề lớn nhất khi phục chế. Gỗ mới mà muốn tạo cảm giác cũ thì nước bóng trên mạ là cách lừa con mắt dễ nhất.”) Và nếu đã dùng muội than rồi mà lớp mạ vẫn còn quá bóng, quá mới, ông dạy tôi cách “để sẹo” bằng đầu mũi kim - vạch những vết nhẹ nhưng không đều, độ nông sâu khác nhau - rồi lắc nhẹ xâu chìa khóa cũ đập vào mặt, sau đó xả máy hút bụi một vòng khiến nó xỉn đi. “Những món đã bị phục chế nặng tay - không để lại một góc mòn hay một vết sẹo danh dự nào, thì cháu phải tự mình trao cho chúng vài miếng. Mẹo cần nhớ là,” ông giải thích và đưa cổ tay quệt trán, “không bao giờ được ve vuốt quá.” Ve vuốt quá có nghĩa là “đều quá”. Những chỗ mòn quá đều là lời tố giác rành rành; tuổi tác đích thực, như tôi dần dà hiểu ra nhờ những món đồ cổ thật đã qua tay mình, thể hiện qua sự bất thường, cong queo, gàn dở, long lanh bên mờ xỉn, những vệt sắc đậm bất đối xứng trên cái tủ ly bằng gỗ cẩm lai dưới một tia nắng xéo, trong khi nửa bên kia vẫn tối như ngày mới thành hình. “Cái gì khiến gỗ già đi à? Mọi thứ. Nóng, lạnh, tro bếp, nhà nuôi nhiều mèo, hoặc - nhìn đấy,” ông nói và lùi lại, để tôi đưa ngón tay rà trên bề mặt xù xì đóng cáu của cái tủ gỗ dái ngựa. “Cháu nghĩ cái gì làm hỏng mặt tủ như vậy?”
“Trời ơi…tôi ngồi xổm nhìn chỗ nước sơn phủ bắn tóe - đen, dính, như vỏ bánh cháy từ lò Easy-Bake khiến người ta chẳng muốn bỏ vào mồm - chuyển thành ánh bóng bẩy trong veo.
Hobie cười lớn. “Keo xịt tóc. Hàng thập niên keo xịt tóc. Tưởng tượng nổi không?” Ông nói và đưa móng tay cậy mép làm tróc ra một sợi đen quàn quăn. “Quý nương xinh đẹp đã dùng cái này làm bàn trang điểm. Qua nhiều năm, nó dày lên như sơn mài. Bác không hiểu họ pha cái gì vào trong đó, nhưng cọ sạch thứ này quả là một ác mộng, nhất là những thứ từ những thập niên 1950 - 1960. Đáng ra đây là một hiện vật cực kỳ nếu không phải người đẹp đã phá hỏng lớp sơn phủ. Chúng ta chỉ còn cách cọ sạch hết lớp trên cùng, để lộ ra gỗ bên dưới, có thể đánh một lớp xi nhẹ nữa. Nhưng đây thật là một cô bé xinh đẹp, phải không?” Ông âu yếm nói, đưa ngón tay rà dọc sườn cái tủ. “Nhìn độ cong ở chân, và cái vân này, cái đốm hình này - thấy bông hoa không, ở đây, đây nữa, nó khớp với nhau tuyệt hảo?”
“Bác định tháo rời nó ra à?” Dù Hobie coi là việc chẳng đặng đừng, tôi lại rất thích cảnh phẫu thuật cấp tập khi một món đồ bị tháo tung ra rồi lắp lại từ đầu - phải làm việc thật nhanh trước khi keo khô lại, như các bác sĩ trên tàu vội vã thực hiện một ca cắt ruột thừa giữa biển.
“Không...” Gõ gõ tay, áp tai vào gỗ “có vẻ khá cứng cáp, nhưng rãnh trượt có vấn đề,” ông nói và lôi một ngăn kéo, có tiếng ken két, nó bị kẹt. “Đấy là vì nhồi nhét quá nhiều thứ dớ dẩn đấy cả ngăn. Chúng ta sẽ lắp lại mấy cái này...” kéo ngăn nhấc ra, nhăn mặt khi nghe tiếng gỗ cà vào nhau “bào những chỗ bị cấn. Thấy ở đây mòn đi không? Cách sửa tốt nhất là khoét rãnh thành hình vuông - làm thế rãnh sẽ bị rộng ra, nhưng bác nghĩ không cắn phải bẩy thanh trượt ra khỏi rãnh đuôi én đâu - cháu nhớ mình đã làm cái tủ gỗ sồi thế nào chứ? Nhưng…- ngón tay miết trên mép - “gỗ dái ngựa thì hơi khác. Óc chó cũng vậy. Cháu sẽ ngạc nhiên nếu biết bao nhiêu lần gỗ bị bào ở những điểm không thực sự gây vấn đề. Nhất là với gỗ dái ngựa, vân gỗ thường rất mịn, đặc biệt là đến tuổi này, rất không nên bào trừ khi thực sự không còn cách nào khác. Bởi ít sáp nến lên thanh trượt là cô nàng lại ngon lành ngay thôi.”
IVCỨ THẾ, THỜI GIAN TRÔI. Ngày nào cũng như ngày nào, hầu như tôi không nhận ra tháng theo nhau trôi qua nữa. Xuân chuyển sang hè, mùi ẩm và mùi rác, trên phố đầy người, những cây thanh thất trổ lá mỡ màng tối sẫm; rồi hè sang thu, cô đơn, lạnh run. Hàng đêm tôi đọc Evgeni Onegin hoặc giở một trong vô vàn cuốn sách về đồ nội thất của Welty (cuốn tôi thích nhất là Đồ nội thất Chippendale: Thực và hão, trọn bộ hai tập, siêu cổ) hoặc bộ Lịch sử nghệ thuật của Jason, dày múp, đọc sướng cả người. Dù thỉnh thoảng làm việc với Hobie dưới hầm đến cả sáu bảy tiếng, hầu như không nói lời nào, nhưng tôi không bao giờ cô độc khi đứng trong bầu không khí ân cần tỏa ra từ ông: có một người lớn không phải mẹ mà lại thấu hiểu và nhanh nhạy, lại dành trọn chú ý cho tôi như vậy, là một điều khiến tôi kinh ngạc. Khoảng cách tuổi tác khá lớn khiến chúng tôi vẫn thường giữ kẽ với nhau; vẫn có quy phạm và lễ nghĩa trên kính dưới nhường; nhưng giữa chúng tôi cũng đã mọc lên một thứ thần giao cách cảm khi trong xưởng, khiến tôi có thể đưa ngay cho ông cái bào hay đục ông đang cần mà chẳng cần đợi ông cất lời hỏi. “Đồ dán keo epoxy” là từ ông dùng chỉ các sản phầm làm ẩu tả, hay là đồ rẻ tiền nói chung; ông từng cho tôi xem vô số món cổ, mối ghép hơn 200 năm không xảy ra chuyện gì, trong khi tình trạng chung của rất nhiều hàng tân thời là khớp nối quá chắc, gỗ cắn quá chặt vào nhau, khiến nó vỡ ra, không cho nó thở. “Cháu phải nhớ rằng khán giả của chúng ta là người sẽ nhận phục chế món này sau đây cả trăm năm. Chúng ta phải đặt mục tiêu gây ấn tượng cho người đó.” Mỗi khi ông dùng keo dán món gì đó, việc của tôi là xếp ra tất cả số bàn kẹp cán dùng, mỗi cái ở đúng mối ghép, còn ông đặt từng mảnh ra theo trật tự chính xác, mộng dương trước, mộng âm sau - công việc chuẩn bị hết sức cầu kỳ trước khi thực sự bắt tay vào dán và kẹp, là quy trình sẽ diễn ra trong vài phút cuống cuồng trước khi keo kịp khô. Bàn tay Hobie chuẩn xác như bác sĩ phẫu thuật, tóm lấy đúng miếng cần thiết khi tôi lúng túng, vì việc của tôi chủ yếu chỉ là áp chắc các mảnh vào nhau trong khi ông kẹp (không chỉ bằng thứ kẹp chữ G hay chữ F thông thường, mà còn cả một lô những dụng cụ kỳ khôi mà ông để sẵn dùng riêng cho việc này, như lò xo đệm, kim băng, khung thêu cũ, săm xe đạp, và đè bằng những túi cát lắm màu khâu bằng vải hoa và đủ loại đồ đạc nhặt nhạnh khác, như cái chặn cửa chì cũ hay lợn ống đựng tiền bằng sắt đúc). Nếu ông không cần tôi loanh quanh trợ giúp, tôi sẽ đi quét mạt cưa và treo dụng cụ lên giá, và nếu thực sự không còn việc gì làm, thì tôi rất bằng lòng ngồi ngắm ông mài đục hay hơ gỗ để uốn trên bát nước đặt lên bếp xách tay. OMG dưới đó hôi kinh, Pippa nhắn. Mùi ghê vậy sao chịu dc? Nhưng tôi yêu cái mùi ấy - độc đến tỉnh người - và yêu cảm giác cầm gỗ trăm tuổi trong tay mình.
VSUỐT TRONG THỜI GIAN ẤY tôi vẫn thấp thỏm theo dõi tin về đồng môn ăn trộm của mình ở quận Bronx. Tất cả đều nhận tội - cả bà mẹ vợ - và đã phải chịu mức án cao nhất trong khung hình phạt: khoản tiền phạt hàng trăm nghìn đô-la, án tù từ 5 đến 15 năm không ân xá. Quan điểm chung đều cho rằng tất cả đám đó vẫn sẽ sống đời vui vẻ ở Morris Heights và ăn những bữa Ý ê hề ở nhà bà má nếu không có quyết định ngớ ngẩn là tìm cách bán bức Wybrand Hendriks cho một tay buôn tranh, tay này đã phôn cho cảnh sát ngay tắp lự.
Nhưng điều đó cũng chẳng khiến tôi dịu lòng. Đã có một hôm từ trường về nhà, tôi thấy tầng trên nghi ngút khói còn lính cứu hỏa thì đi lại rầm rầm trên hành lang ngoài cửa phòng mình - “chuột,” Hobie nói, mắt mở to, mặt tái mét, mặc cái yếm thợ và đội kính bảo hộ trên đỉnh đầu đi khắp nhà như một lão khoa học gia khùng, “bác không chịu được bẫy dính, tàn nhẫn lắm, và bác cứ hoãn mãi không muốn gọi đội diệt chuột nhưng trời ạ, thế này thì thật quá quắt, không thể để chúng nó cứ nhai dây điện mãi được, nếu không có chuông báo động thì cả nhà này chắc đã nổ tung lên rồi, anh này” (nói với người lính cứu hỏa) “tôi đưa cháu lại đây được chứ?” - bước tránh các thiết bị - “cháu phải nhìn mà xem,” - đứng lùi tít ra đằng sau chỉ vào một lô bộ xương chuột cháy đen còn đang ngún khói đằng sau lớp ván chân tường. “Nhìn kia kìa! Cả một ổ!” Dù nhà Hobie lắp còi báo động đến tận hang cùng ngõ hẻm, không chỉ báo cháy mà còn báo trộm, và vụ cháy này cũng không ảnh hưởng mấy trừ một đoạn ván chân tường trên hành lang, nhưng cú đó vẫn khiến tôi run lẩy bẩy (nhỡ hôm đó Hobie không có nhà? nhỡ phát cháy ở phòng tôi?) và kết luận rằng từng ấy chuột sau một khúc ván 50 cm chỉ có nghĩa là còn nhiều chuột nữa (và nhiều dây điện bị gặm nữa) ở nơi khác, tôi nghĩ không biết bất chấp thói ghét bẫy chuột của Hobie, tôi có nên tự mình đặt vài cái không. Khi tôi đề xuất nuôi mèo, dù cả Hobie và bà DeFrees nghiện mèo đều nhiệt liệt hưởng ứng và bàn thảo hào hứng, nhưng đề nghị không được đem ra thực thi và nhanh chóng chìm vào quên lãng. Rồi chỉ mới vài tuần sau, đúng khi tôi đang nghĩ có nên xới vấn đề mèo trở lại, thì tôi suýt đứng tim mà chết khi đi vào phòng thấy ông đang quỳ trên thảm gần giường tôi, thò tay vào gầm giường - như tôi nghĩ, tuy thực tế chỉ là thò tay nhặt con dao bả mát tít trên sàn; ông đang sửa tấm kính dưới cùng bị nứt ở cửa sổ phòng ngủ.
“A, chào cháu,” Hobie nói và đứng dậy phủi quần. “Xin lỗi! Không định làm cháu giật mình đâu! Bác đã định lắp tấm mới từ hồi nào khi cháu đến. Tất nhiên là mấy cửa sổ cũ kiểu Bendheim này, bác thích dùng kính sần hơn, nhưng nếu pha thêm vài miếng kính trong cũng không hại - này, cẩn thận,” ông nói, “cháu có sao không?” khi thấy tôi đánh rơi cặp và ngồi sụp vào ghế bành như một tay trung úy bị sốc bom vừa lảo đảo từ chiến trường về.
Thật muốn vỡ đầu, như mẹ thường nói. Tôi không biết phải làm sao nữa. Dù biết quá rõ thỉnh thoảng Hobie vẫn nhìn mình lạ lùng, biết mình cư xử như thằng rồ trước mắt ông, nhưng tôi vẫn sống trong một màn sương nội tâm lúc nào cũng âm ỉ báo động: giật mình mỗi lần có ai gõ cửa, nhảy nhổm như bị bỏng khi có điện thoại, rùng mình bởi những “linh cảm” điện giật thường khiến tôi giữa giờ học đứng bật dậy khỏi bàn chạy bắn về nhà kiểm tra cho chắc bức tranh vẫn còn nguyên trong vỏ gối, chưa có ai làm xô lệch lớp quấn ngoài, hay tìm cách gỡ băng dính. Khi ngồi vào máy, tôi lùng khắp mạng tìm các luật quy định tội ăn trộm tác phẩm nghệ thuật, nhưng những gì ít ỏi bới ra được thì nói đủ cách khác nhau, chẳng đưa ra được quan điểm mạch lạc hay liên quan nào. Rồi sau tám tháng êm ả (trừ vụ đó) ở nhà Hobie, một giải pháp bất ngờ xuất hiện.
Tôi chơi khá thân với tất cả những anh chàng chuyển đồ hay lưu kho của Hobie. Phần lớn là dân gốc Ireland ở New York, những anh chàng khuềnh khoàng nhưng vui tính đã vì lý do nào đó không vào được sở cẩm hay sở cứu hỏa: Mike, Sean, Patrick, Frank nhỏ (mà thực ra chẳng nhỏ tí nào, anh phải to cỡ chiếc tủ lạnh), nhưng cũng có hai anh Israel tên Raviv và Avi, và người tôi khoái nhất, một anh Do Thái người Nga tên là Grisha. (“‘Do Thái người Nga là cách nói mâu thuẫn,” anh giải thích với tôi, phả một ngụm khói vị bạc hà lồng lộng, “ít ra là với người Nga. Bởi những kẻ bài Do Thái đều coi ‘Do Thái’ không phải dân Nga đích thực - và dân Nga khét tiếng là nghĩ như thế.”) Grisha sinh ra ở Sevastopol và kêu vẫn còn nhớ nơi ấy (“nước đen và muối”) dù cha mẹ anh đã vượt biên từ hồi anh lên hai. Tóc vàng, mặt đỏ lựng, mắt sáng rực màu xanh trứng sáo, anh sở hữu một cái bụng bia và một đức tính không thể cẩu thả hơn về quần áo, nhiều khi mấy khuy dưới cùng áo sơ mi để há hoác, nhưng nhìn dáng đi thoải mái, ngông nghênh thì thấy rõ anh tin rằng mình rất đẹp trai (và, ai biết đâu, có thể đã một thời như vậy). Khác với thầy Pavkikovsky mặt mày khắc khổ, anh ta thuộc loại lắm lời, suốt ngày đùa bỡn kể chuyện hài hay anekdoty như anh nói, bằng cái giọng lè nhè liến thoắng. “Cậu nghĩ cậu giỏi nói tục lắm hả, mazhor” một lần anh nói, dễ dãi, từ góc xưởng anh thỉnh thoảng buổi chiều vẫn ngồi chơi cờ cùng Hobie. “Mời. Cứ nói đến thủng tai tôi xem.” Và thế là tôi đã tuôn ra cả một tràng tục tĩu bỏng cả miệng khiến đến cả Hobie, dù không hiểu lấy một chữ, cũng phải ngửa mặt cười lớn, tay bịt tai.
Một chiều trời xầm xì, chẳng mấy lâu sau khi bắt đầu học kỳ thu đầu tiên ở trường, tôi đang ở nhà một mình thì Grisha ghé qua gửi mấy món đồ đạc. “Này, mazhor,” anh nói và vẩy đi mẩu tàn thuốc lá kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái lắm sẹo. Mazhor - một trong mấy biệt danh giễu cợt của anh dành cho tôi - nghĩa là “thiếu tá” trong tiếng Nga. “Động tay động chân chút. Ra đây giúp chuyển mớ rác trong thùng xe coi.” Mọi món đồ lớn bé với Grisha đều là “mớ rác”.
Tôi nhìn ra cái xe đằng sau anh. “Anh có cái gì đấy? Nặng không?”
“Nếu mà nó nặng, poprygountchick[119] ạ, thì tôi hỏi cậu làm cái gì?”
Chúng tôi bê các món vào - gương mép mạ vàng, quấn bọc cẩn thận; một cỗ chúc đài; một bộ ghế ăn - và ngay khi vừa mở hết ra, Grisha tựa lưng vào cái tủ búp phê Hobie đang sửa dở (sau khi chạm thử bằng đầu ngón tay để biết chắc là không dính) và châm cho mình một điếu Kool. “Hút không?”
“Thôi cảm ơn.” Thực ra là tôi muốn, nhưng sợ Hobie sẽ ngửi thấy.
Grisha phẩy bàn tay móng rất bẩn gạt khói đi. “Thế cậu làm gì?” anh ta hỏi. “Chiều nay giúp tôi không?”
“Giúp thế nào?”
“Xếp cái quyển đàn bà ở truồng của cậu lại” (cuốn Lịch sử nghệ thuật của Janson) “và đi Brooklyn với tôi.”
“Để làm gì?”
“Tôi phải mang một mớ rác nữa ra kho chứa, có thêm người giúp thì tốt. Đáng ra là Mike, nhưng hôm nay anh ta ốm. Hà! Đêm qua đội Khổng lồ chơi, thua, anh ta thì bỏ một gia tài vào trận đó.
Đảm bảo là đang nằm bẹp trong giường đằng Inwood chưa tỉnh cơn say và ôm mắt thâm.”
VITRÊN ĐƯỜNG ĐI BROOKLYN với một xe đầy đồ đạc, Grisha duy trì bài ta thán nhịp nhàng về một đằng là các phẩm chất tuyệt hảo của Hobie và đằng kia là việc ông đang gióng hồi chuông báo tử cho sự nghiệp của Welty. “Một người trung thực trong một thế giới lường gạt? Sống ẩn dật nữa chứ? Tim tôi nhức lên, ngay đây này, vì chứng kiến ông ngày ngày ném tiền ra cửa sổ. Không, không,” anh nói và giơ một bàn tay nhớp bẩn lên chặn lời tôi, “việc ông làm, mất thời gian, phục chế kiểu ấy, làm bằng tay như các danh họa ngày xưa - tôi hiểu chứ. Ông là nghệ sĩ - không phải dân buôn. Nhưng vậy thì làm ơn giải thích cho tôi, sao ông phải mãi bỏ tiền thuê cái kho ở Sân Hải quân Brooklyn chứ không cho hàng chạy để chi trả cho các hóa đơn? Ý tôi là, nhìn xem, trong hầm cả mớ bà lằng! Những món Welty mua đấu giá - tuần nào cũng thêm một đống. Trên lầu thì cửa hàng chật ních! Ông đang ngồi trên một gia tài - phải trăm năm mới bán hết đi được! Dân tình nhìn vào cửa sổ, tiền trong tay, muốn mua ngay, xin lỗi bà nhé! Biến phắn cút xéo! Đóng cửa rồi! Còn ông thì ở dưới nhà, cầm đồ thợ mộc, miệt mài cả chục giờ để cắt cái miếng gỗ bé tẹo” (giơ hai ngón tay ước lượng) “từ cái ghế bà già chuối củ nào đấy.”
“Vâng, nhưng bác cũng có khách hàng mà. Tuần trước bác vừa bán được một lô.”
“Gì?” Grisha tức giận đáp, đang nhìn đường quay ngoắt đầu trừng mắt nhìn tôi. “Bán gì? Cho ai?”
“Nhà Vogel. Bác ấy mở cửa cho họ - họ mua một cái tủ sách, một bàn chơi bài...”
Grisha cau mặt. “Mấy người đó. Bạn của ông, thế đấy. Biết sao họ mua của ông ấy không? Vì họ biết có thể vắt ra giá tiền rẻ mạt - mở cửa theo lịch hẹn ấy à! Tốt hơn là đóng cửa cho chặt trước mấy con kền kền ấy. Ý tôi là” - đặt nắm đấm lên ngực - “cậu biết rõ trái tim tôi. Hobie như là gia đình của tôi. Nhưng… anh ta xoa ba đầu ngón tay, một cử chỉ của Boris ngày xưa. Tiền! Tiền “rất không có đầu óc buôn bán. Ông ấy sẵn sàng bỏ que diêm cuối cùng, mẩu bánh cuối cùng, bất cứ cái gì, cho bất cứ thằng lừa đảo nào. Cứ nhìn mà xem, chỉ cần bốn năm năm nữa thôi, ông ấy sẽ phá sản ra đường trừ khi kiếm được ai đó trông cửa hàng cho ông.”
"Ví dụ ai?”
“À... anh ta nhún vai “ai đó như bà chị Lidiya của tôi chẳng hạn. Bà đó có thể bán cả nước cho người đang chết đuối.”
“Thế anh nói với bác ấy đi. Tôi biết là bác ấy cũng tìm người.”
Grisha cười độc địa. "Lidiya hả? Làm ở cái ổ đấy hả? Nghe đây này - Lidiya bán vàng, Rolex, kim cương Sierra Leone. Đưa đón từ nhà bằng xế sang. Quần da trắng... đầm đen chạm sàn... móng tay dài đến đây. Không đời nào bà đó ngồi trong tiệm hầm bà lằng giữa một mớ rác bụi bặm cả ngày đâu.”
Anh cho xe dừng, tắt máy. Chúng tôi đang đứng trước một căn nhà vuông vức màu xám tro, giữa một vùng hoang vắng giáp biển, những khu đất trống, những tiệm phụ tùng xe, đại khái như những khu mà trong phim bọn găng tơ vẫn đưa nạn nhân tới để cắt cổ.
“Lidiya - Lidiya, quyến rũ lắm,” anh ta tư lự nói. “Chân dài - ngực bự - mặt đẹp. Ngồn ngộn sức sống. Nhưng làm ăn kiểu này - không nên dùng những người choáng lộn như bà đó.”
“Thế phải dùng gì?”
“Những người như Welty. Ông có cái vẻ chân thành, hiểu không? Như là học giả. Hoặc thầy tu. Như ông nội của mọi người. Nhưng đầu óc kinh doanh sắc bén. Được thôi, dễ thương, tử tế, bạn tốt với mọi người, nhưng một khi có khách hàng tin tưởng, rằng giá tốt nhất, thì phải kiếm lời chứ, hà! Bán lẻ là thế, mazhor ạ. Thế giới là thế.”
Khi đã vào trong, khi được bấm cửa cho vào, có một cái bàn với duy nhất một anh người Ý ngồi đọc báo. Trong lúc Grisha ký sổ, tôi xem tờ rơi trên giá bên cạnh màng xốp hơi và băng dính khổ lớn:
KHO TRỮ ĐỒ NGHỆ THUẬT ARISTON
NHÀ XƯỞNG CỰC XỊN
CHỐNG LỬA, MÔI TRƯỜNG
ĐIỀU HÒA, AN NINH 24/24
TRUNG THỰC - CHẤT LƯỢNG - AN TOÀN
Mọi YÊU CẦU VỀ NGHỆ THUẬT ĐỀU ĐƯỢC ĐÁP ỨNG
GIỮ GÌN TÀI SẢN CHO QUÝ KHÁCH TỪ 1968
Ngoài bàn tiếp đón, nơi này vắng tanh. Chúng tôi chất đồ vào thang máy chở hàng, dùng thẻ chìa khóa và mã số bấm đi lên tầng sáu. Qua những dãy hành lang dài không bản sắc, chúng tôi bước đi giữa những máy quay gắn trần và các cửa đánh số vô danh, Dãy D, Dãy E, không cửa sổ như tàu Sao Chết của Darth Vader, những bức tường hình như kéo dài về vô tận, cảm giác như kho trữ đồ quân sự dưới lòng đất hoặc có thể là tường để tro cốt trong một nghĩa trang vị lai nào đó.
Hobie thuê một phòng thuộc loại lớn - cửa đôi, rộng đủ để phi xe tải qua. “Đây rồi,” Grisha nói và loạch xoạch chìa trong ổ khóa, đẩy tung cánh cửa sắt đánh rầm. “Nhìn xem ông tha đủ thứ củ chuối vào đây.” Bên trong lèn chật ních đồ nội thất và đủ thứ khác (đèn, sách, đồ sứ, đồ đồng nhỏ; những túi B. Altman cũ đầy giấy tờ và giày mốc meo) đến nỗi thoạt nhìn, luống cuống, tôi chỉ muốn lùi lại và đóng cửa, như vừa đi nhầm phải căn hộ của một lão già ưa tích trữ nào đó mới qua đời.
“Hai nghìn một tháng cho mớ này,” anh ta lầm lầm nói khi chúng tôi tháo lớp bọc ghế rồi đặt vào, rất chênh vênh, trên đầu một cái bàn gỗ anh đào. “Là 24.000 đô mỗi năm! Thà ông ấy dùng tiền đó đốt thuốc lá còn hơn trả tiền thuê cái lỗ này.”
“Còn mấy chỗ bé hơn thì sao?” Có nhiều cánh cửa bé tí - chỉ vừa cỡ cái vali.
“Con người ta điên lắm,” Grisha thở dài nói. “Một khoảng bằng cái cốp xe? Trả vài trăm đô một tháng?”
“Ý tôi là...” Tôi không biết phải đề cập thế nào “làm sao mà ngăn người ta bỏ đồ bất hợp pháp vào đây?”
“Bất hợp pháp à?” Grisha lau mồ hôi trên trán bằng cái khăn tay rất bẩn, rồi với tay ra đằng sau thấm mặt trong cổ áo. “Ý cậu là sao, súng à?”
“Vâng. Hoặc đồ ăn cắp, chẳng hạn.”
“Làm sao ngăn à? Nói cho cậu nghe. Chẳng làm sao ngăn được cả. Vùi cái gì đó ở đây là chẳng ma nào tìm ra, trừ khi cậu bị khử đẹp hay nhập kho nên không trả phí. 90% mớ này - ảnh cũ của cu con, đồ vớ vẩn trên nóc nhà cu lớn. Nhưng nếu mà tường biết nói, nghĩ xem? Phải đến triệu đô-la giấu trong này nếu biết chỗ kiếm. Đủ thứ bí mật. Súng, nữ trang, xác người bị giết - đủ thứ rồ dại. Này...” anh ta đóng cửa đánh sầm, đang loay hoay với cái chốt - “giúp tôi xử cái thằng khốn này coi. Tôi ghét chỗ này, giời ạ. Cứ như nấm mồ, hiểu không?” Anh ta làm hiệu chỉ hành lang vô trùng trông như bất tận. “Mọi thứ đều bị nhốt kín, khóa kín bên ngoài sự sống! Lần nào đến đây tôi cũng có cảm giác khó thở. Còn khốn nạn hơn cả thư viện.”
VIIĐÊM ĐÓ TÔI LẤY CUỐN Trang Vàng trong bếp nhà Hobie, mang lên phòng xem mục Kho hàng: Đồ nghệ thuật. Có hàng chục nơi ở Manhattan và các quận ngoại thành, nhiều nơi đăng cả những quảng cáo long trọng chi tiết giới thiệu dịch vụ: găng tay trắng, đón đưa tận cửa! Một tay quản gia như trong truyện tranh bưng khay bạc chìa danh thiếp: BLINGEN VÀ TARKWELL, Từ 1928. Giải pháp trữ đồ tuyệt hảo, kín đáo, tuyệt mật cho quý khách, dành cho mọi loại khách hàng công ty và cá nhân. ArtTech. Heritage Works. Archival Solutions. Nhà kho đặt dưới sự theo dõi của các thiết bị ẩm kế và nhiệt kế. Duy trì nhiệt độ tùy chỉnh theo tiêu chuẩn của Hiệp hội bảo tàng Hoa Kỳ là 70 độ F và 50% độ ẩm tương đối.
Nhưng những trò này thì quá rắc rối. Tôi chẳng hề muốn người ta để ý rằng mình đang cất trữ một tác phẩm nghệ thuật. Chỉ cần cái gì đó an toàn và không bị chú ý thôi. Một trong những chuỗi cửa hàng lớn nhất, được ưa chuộng nhất mở đến 20 nhà kho ở Manhattan - một cái ở khu 60 Đông cạnh sông, là khu tôi ở ngày xưa, chỉ cách căn hộ cũ của mẹ và tôi có mấy phố. Các kho của chúng tôi được bảo vệ nhờ trung tâm chỉ huy được thiết kế riêng có người trực 24/24, sử dụng công nghệ nhận biết khói lửa hiện đại nhất.
Hobie ngoài hành lang đang hỏi cái gì đó. “Sao ạ?” tôi khàn khàn hỏi, giọng the thé giả dối, đóng ập sách lại trên ngón tay.
“Moira đến đấy. Muốn chạy sang nhà bên làm cái hamburger với bọn bác không?” “nhà bên” tức là cách ông quen gọi quán White Horse.
“Hay quá, đợi cháu một phút.” Tôi quay lại với quảng cáo trong cuốn Trang Vàng. Hãy dành không gian cho giải trí mùa hè Giải pháp đơn giản cho các dụng cụ thể thao giải trí của bạn! Nghe họ tả thì có vẻ đơn giản làm sao: không cần thẻ tín dụng, cọc tiền mặt là xong.
Hôm sau tôi không đến lớp, mà lấy vỏ gối dưới giường, dùng băng dính vải dán chặt, bỏ vào túi nâu của Bloomingdale, bắt taxi đến cửa hàng đồ thể thao ở Quảng trường Thống nhất, và sau khi ngó nghiêng một lúc, mua cái lều bạt rẻ tiền rồi lại bắt taxi về Phố 16.
Trong văn phòng vách kính như thuộc thời đại du hành vũ trụ của công ty trữ đồ, chỉ có một khách hàng duy nhất là tôi; và dù tôi đã chuẩn bị cả một câu chuyện hỏa mù (mê cắm trại, bà mẹ ghét nhà bừa) thì mấy người ngồi bàn có vẻ hoàn toàn dửng dưng trước cái túi thể thao lớn thương hiệu đầy đủ, nhãn của cái lều vắt vẻo rất hữu ý bên ngoài. Cũng chẳng ai thấy có gì kỳ cục hay đặc biệt về chuyện tôi muốn trả trước tiền thuê ngăn tủ một năm, tiền mặt - hay là hai năm nhỉ? Thế có được không? “ATM ngay ngoài kia,” anh Puerto Rico trông máy tính tiền nói và đưa tay trỏ, mắt còn chẳng thèm rời khỏi miếng bánh kẹp trứng và thịt xông khói.
Dễ thế thôi sao? Tôi nghĩ trên đường đi thang máy xuống. “Nhớ ghi lại số tủ đồ,” anh chàng tính tiền đã bảo, “mã số tủ nữa, cất vào nơi an toàn,” nhưng tôi đã kịp thuộc lòng cả hai - tôi đã xem lắm phim James Bond và thuộc lòng mọi mánh khóe và khi ra đến ngoài, lập tức vứt mảnh giấy vào thùng rác.
Thoát khỏi tòa nhà, khỏi cái tĩnh lặng như hầm chứa bạc và làn gió hôi tanh phả ra từ những ống thông gió rù rù, tôi thấy choáng váng, như vừa mở mắt, và bầu trời xanh cùng ánh nắng dội váng óc, cái màn sương khí thải buổi sáng quen thuộc cùng những tiếng còi xe cái trầm cái bổng hình như đi theo dọc con lộ thả dài vào một trật tự thế giới mới lớn hơn, hoan hỉ hơn: một vương quốc nắng tràn những đám đông và vận may. Đây là lần đầu tôi ở đâu đó gần Sutton Place từ khi về lại New York, và cảm giác cứ như trở lại một giấc mơ xưa thân thiết, chồng mờ giữa quá khứ và hiện tại, những lỗ hổng mặt vỉa hè và cả những vết nứt cũ ngày xưa tôi luôn nhảy qua trên đường chạy về nhà, cúi rạp mình, tưởng tượng mình đang ngồi trong máy bay, nghiêng cánh, con tới đây, quãng đường cuối, thun thút đổ về phía nhà - vẫn còn rất nhiều nơi cũ còn đang mở: quán đổ ăn sẵn, quán ăn Hy Lạp, quán rượu, bao nhiêu khuôn mặt láng giềng đã quên nay lại chen chúc trong trí tôi, cô Sal bán hoa và bà Battaglina ở nhà hàng Ý và anh Vinne ở hiệu giặt khô lúc nào cũng đeo thước dây quanh cổ, quỳ trên mặt đất gắn kim băng vào váy mẹ tôi.
Chỉ còn cách nhà cũ của mẹ con tôi có vài ngã tư, và khi nhìn về Phố 57, con phố nhỏ ngời sáng thân quen với ánh mặt trời khéo lựa chỗ chiếu ánh vàng nảy bật trên các ô cửa sổ tôi đã nghĩ: chú Vàng! Jose!
Nghĩ thế, tôi rảo bước. Đang buổi sáng, hẳn một trong hai hoặc cả hai chú đều đang trực. Tôi chưa bao giờ gửi bưu thiếp từ Vegas về như đã hẹn: hẳn hai người thấy tôi sẽ mừng lắm, sẽ xoắn xuýt xung quanh, ôm lấy hay vỗ vai, háo hức muốn nghe kể tất cả những chuyện đã xảy ra, cả chuyện cái chết của bố nữa. Họ sẽ mời tôi quay vào phòng gửi đồ, có thể còn gọi cả ông quản lý Henderson nữa, rồi cập nhật cho tôi tất cả những chuyên vặt vãnh trong tòa nhà. Nhưng sau khi rẽ vào góc phố, giữa luồng xe cộ rùa bò và tiếng còi, còn cách khối nhà khoảng nửa quãng đường tôi đã thấy mặt tiền đầy giàn giáo còn các cửa sổ đóng kín dán thông báo của chính quyền.
Tôi dừng lại băn khoăn. Rồi ngỡ ngàng, tôi tiến lại và đứng sững kinh hoảng. Cánh cửa theo lối Art-Deco đã mất, tiền sảnh mát rượi mờ tối với mặt sàn đánh bóng và gỗ ốp kiểu hoa ngàn cánh nay chỉ là một cái động há hoác toàn đá dăm và những khối bê tông, công nhân đội mũ cứng đẩy từng xe gạch đá từ trong ra.
“Có chuyện gì ở đây thế?” tôi hỏi một người đội mũ cứng đất phủ khắp người đứng cách đó một quãng, gập người uống cà phê vẻ lén lút.
“Cậu biểu có chuyện gì là sao?”
“Em...” Khi đứng lùi lại và nhìn lên, tôi nhận ra không chỉ tiền sảnh mới vậy; cả tòa nhà đã bị moi ruột nên có thể nhìn ra tận sân đằng sau nhà, mặt tiền khảm tráng men vẫn còn nguyên, nhưng những cửa sổ đều cáu bụi và trống trơn, không có gì bên trong cả. “Em từng sống ở đây. Có chuyên gì vậy?”
“Chủ nhà bán rồi.” Anh ta phải hét lên át tiếng búa máy trong hành lang. “Người thuê đi hết vài tháng rồi.”
“Nhưng mà...” Tôi nhìn lên cái vỏ rỗng không rồi lại ngó vào bên trong đổ nát bụi bặm ngập ánh sáng - tiếng người hò hét, dây dợ lủng lẳng. “Người ta làm gì ở đây?”
“Chung cư cao cấp. Năm triệu hơn - bể bơi mái nhà - cậu tưởng tượng coi!”
“Ôi trời.”
“Ừa, cứ nghĩ phải có ai đó bảo vệ chứ, phỏng? Chỗ xưa mà hay lắm - hôm qua phải chạy búa máy trên cầu thang đá hoa trong tiền sảnh, nhớ chứ phỏng? Bố khỉ. Giá mà bê được ra nguyên khối. Ngày nay chẳng còn thấy đá hoa xịn vầy đâu, trong khi ngày xưa đâu cũng có. Mà,” anh ta nhún vai, “ở thành phố thì chịu thôi.”
Anh ta đang hét gọi ai đó trên đầu - người kia đang hạ xô cát trên dây xuống - còn tôi bước tiếp, lảo đảo, ngay dưới cửa sổ phòng khách cũ nhà tôi, hay đúng hơn là cái vỏ đã bị moi gan của nó, quá phiền muộn không muốn ngước lên. Khuất mắt luôn nhé, Jose đã nói khi ấn cái vali của tôi lên ngăn trên cùng phòng giữ đồ. Có nhiều người thuê nhà như ông Leopoid đã sống trong đó hơn bảy chục năm. Ông đã đi về đâu? Chú Vàng, Jose nữa? Cinzia...? Cinzia khi nào cũng làm công việc quét dọn ở cả tá nơi một lúc, bà chỉ đến nhà này làm mỗi tuần vài tiếng, mà tôi cũng chẳng hề nghĩ đến Cinzia cho tới bây giờ, nhưng tất cả dường như có vẻ quá chắc chắn, quá bền vững, cả cải cấu trúc xã hội trong tòa nhà, một mạng lưới mà lúc nào tôi cũng có thể ghé vào gặp gỡ mọi người, chào hỏi, hàn huyên những chuyện xảy ra gần đây. Những người từng biết mẹ. Những người từng biết bố.
Và càng đi xa, tôi càng bức bối, vì đã mất đi một trong rất ít bến tàu bền vững không biến đổi mà tôi đã nghĩ là vĩnh viễn trong thế giới của mình: những khuôn mặt thân quen, những lời chào hồ hởi: ê manitol Vì tôi đã tưởng ít nhất cũng có điểm mốc quá khứ cuối cùng này ở lại nơi tôi đã rời đi. Thật kỳ quái khi nghĩ rằng sẽ không bao giờ tôi có dịp cảm ơn Jose và chú Vàng đã cho tôi món tiền đó - hoặc hơn nữa, rằng tôi sẽ chẳng bao giờ được cho họ biết bố đã qua đời: vì trong nhăng người tôi quen còn ai khác từng biết ông? Hay thèm màng đến?
Đến cả vỉa hè cũng dường như muốn vỡ vụn dưới chân, đẩy tôi lọt qua Phố 57 mà rơi xuống một cái hố không bao giờ chạm đáy.