← Quay lại trang sách

Chương 6 Gió, cát và những vì sao.

SUỐT NĂM TIẾP THEO, tôi quá bận rộn tìm cách xóa sạch khỏi đầu mình New York và cuộc đời cũ đến nỗi hầu như không nhận ra bước đi thời gian. Ngày nối ngày trong ánh trắng lóa không mùa: những buổi sáng khật khừ sau đêm say trên xe buýt tới trường, lưng hồng lên rát buốt vì ngủ quên bên bể, mùi vodka hôi như xăng và mùi lông chó ướt lẫn clo muôn thuở trên mình Popper, Boris dạy tôi đếm, hỏi đường và mời nước bằng tiếng Nga cũng kiên nhẫn như dạy tôi chửi thề trước đó. Vâng, xin phép, tôi thích lắm. Cảm ơn, anh tốt quá. Govorite li vy po angliyskiy? Anh có biết tiếng Anh không? Ya nemnogo govoryu po-russki. Tôi có biết tiếng Nga một chút.

Dù đông hay hè, ngày cũng sáng lóa mắt; không khí sa mạc đốt khô lỗ mũi, khiến cổ họng khô rát. Cái gì cũng buồn cười, cái gì cũng khiến chúng tôi bò ra cười. Đôi lúc ngay trước khi mặt trời lặn, khi sắc xanh trên trời chuyển thẫm đổ về tím, chúng tôi thấy những đám mây điên cuồng viền chớp điện kiểu Maxheld Parrish cuồn cuộn vàng và trắng đổ về sa mạc như Thần khải đang dẫn người Mormon đi về tây. Govorite medlenno, tôi nói, nói chậm đi, và Povtorite, pozhaluysta. Xin nhắc lại. Nhưng chúng tôi đã bắt sóng nhau tốt đến mức hoàn toàn không cần nói chuyên nếu không muốn; chúng tôi biết cách đẩy nhau vào cơn cười nghiêng ngả chỉ cần nếp mày khẽ nhướng hay giật giật khóe môi. Đêm đêm, chúng tôi ngồi xếp bằng trên sàn mà ăn, để lại những vết ngón tay nhờn mỡ trên sách học. Chế độ ăn uống khiến cả hai đều suy dinh dưỡng, những vết bầm nâu xuất hiện trên chân tay chúng tôi - thiếu vitamin, y tá ở trường bảo thế rồi cắm phập kim tiêm vào mông chúng tôi, phát cho mỗi đứa một hũ kẹo nhai đủ màu của trẻ con. (“Mông tau đau quá,” Boris vừa nói vừa xoa xoa bàn tọa, lẩm bẩm chửi xe buýt lắp ghế kim loại.) Cả người tôi nổi tàn nhang vì suốt ngày tắm táp dưới bể; tóc tôi (sau này sẽ không bảo giờ còn dài đến thế) xuất hiện những lọn sáng màu vì ngấm hóa chất dưới nước, và nhìn chung, tôi vui, dù khối nặng trĩu trong ngực vẫn không bao giờ tan đi, còn răng thì đang ruỗng từ trong ra vì ăn lắm kẹo. Ngoài ra thì tôi khỏe. Và cứ thế, ngày tháng vui vẻ trôi qua, nhưng rồi - chẳng mấy chốc sau ngày sinh nhật lần thứ mười lăm của tôi - Boris gặp một đứa con gái tên Kotku, và tất cả đã khác.

Cái tên Kotku (kiểu Ukraina là Kotyku) khiến cô ta có vẻ thú vị hơn thực tế, nhưng đấy không phải là tên thật, mà chỉ là biệt danh (“mèo con” trong tiếng Ba Lan) được Boris đặt cho. Họ cô ta là Hutchins, tên thật là Kylie hay Keiley hay Kaylee gì đó, và cả đời cô ta đã sống ở hạt Clark bang Nevada. Dù cũng đi học cùng trường, chỉ trên một khóa, nhưng cỏ ta lớn tuổi hơn nhiều - hơn tôi tận ba tuổi. Xem ra Boris đã để mắt tới cô ta được lâu lâu rồi, nhưng tôi hoàn toàn không biết có tồn tại nhân vật ấy cho đến cái buổi chiều nó quăng mình xuống chân giường tôi, tuyên bố: “Tau đang yêu.”

“Thế cơ hả? Yêu ai?”

“Bả lớp Công dân. Từng cho tau ít cỏ. Ờ, bả mười tám nữa chứ, mi tưởng tượng nổi không? Trời, người đâu mà đẹp”

“Mày có cỏ à?”

Nó đùa cợt nhào tới, túm lấy vai tôi; nó biết đấy là chỗ tối yếu nhất, một điểm ngay dưới xương bả vai nơi nó có thể thọc ngón tay vào khiến tôi la oai oái. Nhưng tôi không có hứng đùa, và nện lại nó thật mạnh.

“Oái! Trời đất quỷ thần!” Boris kêu lên và lăn đi, đưa ngón tay xoa xoa hàm. “Sao mi làm thế?”

“Mày đau thì tốt,” tôi nói. “Cỏ đâu?”

Chúng tôi không nói gì về người trong mộng của Boris nữa, ít ra thì trong hôm ấy, nhưng rồi mấy hôm sau ra khỏi lớp Toán tôi thấy nó đang đứng nhìn xuống một đứa con gái bên dãy tủ. Dù Boris so với tuổi không hẳn là cao, nhưng con bé này thì tí tẹo, dù có vẻ trông già hơn chúng tôi nhiều: ngực lép, hông hẹp, gò má cao, trán bóng, khuôn mặt hình tam giác nhọn hoắt sáng bóng. Mũi xỏ khuyên. Áo hai dây đen. Sơn móng tay đen đã sứt sẹo, tóc đen highlight cam, mắt sáng vô cảm màu xanh clo, vẽ viền đen rất đậm. Hẳn là xinh xẻo - có thể coi là hấp dẫn nữa, nhưng ánh mắt nó đánh qua tôi chỉ tổ gợi lo âu, như một đứa bán hàng thức ăn nhanh cắm cảu hoặc một cô trông trẻ hay quát lác.

“Thế mi thấy sao?” Boris háo hức hỏi khi chạy lại chỗ tôi sau giờ học.

Tôi nhún vai. “Thấy cũng xinh xẻo.”

“Mi nghĩ thế à?”

“Ôi, Boris, nghĩ xem, trông bà đó như kiểu đã hăm lăm.”

“Tau biết! Thế mới tuyệt chứ!” nó nói, trông choáng ngợp. “Mười tám tuổi! Thành niên rồi! Có thể mua rượu thoải mái! Hơn nữa bả đã sống ở đây cả đời, biết rõ chỗ nào không kiểm tra tuổi.”

II

HADLEY, CON BÉ ÁO KHOÁC thể dục lắm mồm ngồi cạnh tôi trong lớp Lịch sử Hoa Kỳ nhăn mũi khi nghe tôi hỏi về người tình già của Boris. “Con đó hả?” nó đáp. “Chúa đĩ.” Chị gái Hadley là Jan học cùng khóa với Kyla hoặc Kayleigh gì đó. “Còn mẹ nó tớ nghe bảo là đĩ có nghề đấy. Bạn cậu cẩn thận đừng mang bệnh vào người.”

“À,” tôi chỉ đáp vậy, ngạc nhiên khi thấy nó hung hăng như thế, mặc dù đáng ra phải đoán trước mới phải. Hadley là con nhà binh, nó tham gia đội bơi và còn hát trong dàn đồng ca trường, nó có gia đình tử tế, ba anh chị em, một con chó giống Weimaraner tên Gretchen mang từ tận Đức qua đây, và một ông bố sẵn sàng phạt nếu nó về tối quá giờ quy định.

“Tớ không nói điêu đâu,” Hadley tiếp. “Nó hôn hít bạn trai của bọn con gái khác - nó còn hôn hít cả bọn con gái khác - ai nó cũng hôn hít được. Chưa kể hình như nó còn hút cần sa nữa đấy.”

“Ổ,” tôi đáp. Đối với tôi, chẳng cái nào trong số đó là nguyên do hợp lý khiến phải không ưa Kylie hay gì đó, nhất là khi cả Boris và tôi đã hào hứng tham gia hút cần mấy tháng qua. Nhưng điều làm tôi bận lòng, bận lòng lắm, đấy là Kotku (tôi sẽ vẫn gọi tiếp bằng cái tên Boris đặt cho vì bây giờ tôi chẳng nhớ tên thật nó là gì nữa) trong chớp mắt đã nhảy vào, gần như chiếm hữu hoàn toàn Boris rồi.

Ban đầu, nó bận vào tối thứ Sáu. Rồi đến nguyên cả cuối tuần - không chỉ tối mà cả ngày nữa. Chẳng mấy chốc đã chỉ toàn nghe Kotku thế này Kotku thế kia, và nháy mắt sau đã chỉ còn tôi với Popper, ăn tối trước tivi một mình.

“Bả tuyệt trần đời không chứ?” Boris hỏi tôi lần nữa, sau hôm đầu tiên nó dẫn cô nàng tới nhà tôi - phải nói là một buổi tối khá tệ, cả bả phê thuốc đến không nhúc nhắc được, rồi hai kẻ đó lán lê trên xô pha dưới nhà còn tôi ngồi trên sàn, quay lưng lại chúng và gắng chú tâm xem The outer limit[89] phát lại trên tivi. “Mi thấy sao?”

“Ờ, tao thì...” Nó muốn nghe gì nhỉ? “Bả thích mày. Hẳn rồi.”

Nó xoay người sốt ruột. Chúng tôi đang ngồi ngoài bể bơi, dù trời lạnh và gió quá không bơi được. “Không, tau hỏi thật đấy! Mi thấy bả thế nào? Nói thật đi, Potter,” nó ra lệnh khi thấy tôi chần chừ.

“Tao không biết nữa,” tôi băn khoăn đáp, và rồi khi thấy nó vẫn nhìn tôi: “Thành thật à? Tao không biết, Boris ạ. Bả có vẻ tuyệt vọng.”

“Ờ? Cái đó xấu lắm à?”

Giọng nó có vẻ tò mò thật tình - không ra bực tức cũng chẳng mỉa mai. “Ờ,” tôi giật mình đáp. “Có thể không xấu.”

Boris, má hồng lên vì vodka, đặt bàn tay lên tim. “Tau yêu bả, Porter à. Tau nói thật đấy. Đây là điều chân thực nhất mà tau từng trải qua từ khi sinh ra tới giờ.”

Tôi ngượng ngùng tới mức phải quay đi chỗ khác.

“Một nàng phù thủy gầy nhẳng!” Nó thở dài sung sướng. “Trong tay tau, bả nhẹ bỗng, da bọc xương! Cứ như không khí.” Thật quái lạ, Boris dường như mê mệt Kotku vì chính những lý do tôi thấy gớm ở cô ả: cái thân thể mèo hoang uốn éo, cái vẻ người lớn gầy khẳng, ỉ eo. “Mà lại thật dũng cảm, khôn ngoan, rộng lượng làm sao! Tau chỉ muốn một điều là bảo vệ bả, canh chừng bả khỏi bị thằng Mike đó quấy rầy. Mi biết chứ?”

Tôi lặng lẽ rót cho mình thêm một cốc vodka, dù không thực sự cần. Vụ Kotku càng thêm khó hiểu, vì như chính Boris đã cho tôi biết, giọng tự hào không lẫn vào đâu được, Kotku đã có bạn trai rồi: một gã 26 tuổi tên là Mike McNatt, có xe mô tô, làm trong hãng vệ sinh bể bơi. “Tuyệt vời,” tôi đã nhận xét khi Boris thông báo tin này trước đó. “Chúng mình cần lôi hắn đến đây giúp làm sạch bể.” Tôi đã phát ngấy việc chăm sóc cái bể bơi (một nhiệm vụ chủ yếu rơi vào đầu tôi), nhất là vì Xandra không bao giờ mang đúng loại thuốc tẩy cần thiết về nhà.

Boris ấn gót tay lên mắt. “Nghiêm trọng lắm, Potter ạ. Tau nghĩ là bả khiếp thằng đó lắm. Bả muốn cắt đứt với hắn, nhưng bả sợ. Bả đang cố thuyết phục hắn đi đăng lính.”

“Mày phải cẩn thận không thằng đó săn mày đấy.”

“Tau à!” Nó khịt mũi. “Tau lo là lo cho bả kìa. Bả gầy nhóc! 37 ký!”

“OK, OK.” Kotku kêu mình mắc chứng “chớm biếng ăn” và lúc nào cũng khiến Boris lo sốt vó khi than cả ngày chưa ăn gì.

Boris bợp vào đầu tôi. “Mi ngồi lì ở đây một mình cả ngày,” nó nói và ngồi xuống bên tôi, thõng chân xuống bể. “Tối nay qua Kotku đi. Mang ai đó theo.”

“Ai giờ?”

Boris nhún vai. “Thế cái con nhỏ tóc vàng đẹp ngời tóc tém kiểu con trai ở lớp lịch sử của mi thì sao? Con nhỏ trong đội bơi ấy?”

“Hadley hả?” Tôi lắc đâu. “Quên đi.”

“Đúng! Mi mang nó đến đi! Nó đẹp! Và thế nào nó cũng chịu!”

“Tin tao đi, không phải ý hay đâu.”

“Để tau hỏi cho! Thôi nào. Nó rất dễ chịu với mi, lúc nào cũng nói chuyện. Mình gọi cho nó luôn nhé?”

“Không! Không phải là... thôi ngay,” tôi chụp lấy ống tay áo khi nó dợm đứng dậy.

“Đồ thỏ đế!”

“Boris.” Nó đã bắt đầu đi vào nhà kiếm diện thoại. “Đừng. Tao nói thật đấy. Nó không đến đâu.”

“Tại sao chứ?”

Giọng nhạo cợt của nó khiến tôi bực mình. “Nói thật nhé? Bởi vì...” Tôi suýt nói vì Kotku là đồ điếm mà đấy là sự thật rành rành, nhưng chỉ nói: “Thế này, Hadley thuộc tốp xếp đầu lớp và đủ thứ nữa. Nó không ham đến chơi ở nhà Kotku đâu.”

“Hử?” Boris thốt lên, quay ngoắt lại, tức giận. “Con đượi con đó. Nó nói gì?”

“Có gì đâu. Chỉ là...”

“Có đấy!” Giờ nó đã lao sầm sầm lại chỗ bể. “Mi nói ngay cho tau.”

“Thôi nào. Không có gì đâu. Bình tĩnh nào, Boris,” tôi nói khi nhận ra nó đang lồng lộn lên. “Kotku lớn hơn cả đống tuổi. Hai người đó còn không học cùng lớp nữa mà.”

“Cái con điên mũi tẹt ấy. Kotku có làm gì nó bao giờ?”

“ Yên nào.” Mắt tôi nhận ra chai vodka, sáng lóng lánh dưới tia nắng trong veo như một lưỡi gươm ánh sáng. Nó đã uống nhiều quá rồi, mà tôi thì chẳng muốn đánh nhau. Nhưng tôi cũng đã say mèm, chẳng nghĩ ra nổi cách nào dễ dàng hay buồn cười để đánh lạc hướng nó.

III

RẤT NHIỀU ĐỨA CON GÁI KHÁC tầm tuổi chúng tôi, đàng hoàng hơn, thích Boris - đáng chú ý nhất là Saffi Caspersen, người Đan Mạch, nói tiếng Anh bằng giọng Anh chói vói, từng diễn vai phụ ở Cirque du Soleil, và là hoa khôi của khóa, vượt xa bọn con gái khác. Saffi học lớp Ngữ văn nâng cao với chúng tôi (từng phát biểu rất hay ho về tiểu thuyết The heart is a lonely hunter[90]) và dù có tiếng là chảnh, nó vẫn thích Boris. Ai cũng thấy sờ sờ. Nó cười khi Boris nói giễu, cư xử kỳ cục trong tổ học nhóm của Boris, và tôi từng thấy có lần nó nói chuyện hào hứng với Boris trong hành lang - Boris đáp chuyện cũng hào hứng không kém, khua tay chân loạn xạ theo kiểu Nga. Nhưng, kỳ bí thay, nó có vẻ chẳng hề để ý đến con bé.

“Nhưng tại sao không?” tôi hỏi nó. “Đấy là đứa xinh nhất lớp.” Tôi lúc nào cũng nghĩ người Đan Mạch phải to cao tóc vàng, nhưng Saffi lại nhỏ nhắn, tóc nâu, phảng phất vẻ tiên sa, càng được tô đậm do lớp trang điểm kiểu sân khấu lấp lánh trong bức ảnh tôi thấy nó chụp hồi diễn.

“Ừ thì có xinh. Nhưng không hấp dẫn lắm.”

“Nó nóng bỏng rãy lên được ấy chứ, Boris. Mày điên rồi à?”

“À, nhỏ đó chăm quá,” Boris đáp và thả người cạnh tôi, một tay cầm bia, tay kia với lấy điếu thuốc của tôi. “Ngoan quá. Lúc nào cũng học hành với chả diễn tập khỉ gió gì đây. Kotku...” nó phà một hơi thuốc rồi trả điếu cho tôi, “Kotku giống tụi mình.”

Tối im lặng. Làm sao mà tôi đã đi từ học vượt lớp đến chỗ bị bỏ chung rọ với một đứa dặt dẹo như Kotku?

Boris huých tôi. “Tau nghĩ là mi thích nhỏ đó. Saffi ấy.”

“Không, đâu có.”

“Mi thích mà. Rủ nó đi chơi đi.”

“Ừ, hay đấy,” tôi đáp, dù biết mình không có gan. Ở trường cũ của tôi nơi học sinh nước ngoài hay lớp trao đổi thường lặng lẽ đứng ngoài rìa, chắc một người như Saffi sẽ dễ tiếp cận hơn, nhưng ở Vegas nó quá nổi tiếng, lúc nào cũng có cả đống người xung quanh - lại còn chưa kể đến vấn đề hơi hơi nghiêm trọng, là đi đâu làm gì. Ở New York thì dễ ợt, tôi có thể dẫn nó đi trượt băng, xem phim, hay đến trung tâm thiên văn. Nhưng ở đây tôi không thể hình dung Saffi hít keo hay uống bia đựng trong túi giấy ở sân chơi, hoặc làm bất cứ thứ gì tôi với Boris vẫn hay làm.

IV

TÔI VẪN THƯỜNG ĐI VỚI BORIS, chỉ có điều không nhiều như trước. Càng ngày nó càng hay qua đêm ở nhà Kotku và mẹ ở dãy căn hộ Hai R - thực tế là một thứ nhà trọ tạm thời, một quán ven đường từ thập niên 1950 đã xập xệ, nằm trên đường lớn dẫn từ sân bay đến Dải, sân trước đầy những người trông như dân nhập cư bất hợp pháp đứng cạnh bể bơi cạn khô, cãi cọ về phụ tùng xe hơi. (“Hai R à?” Hadley hỏi. “Cậu biết nó là viết tắt của cái gì không? ‘Rắn rít’.”) May phước thay, Kotku không cặp kè cùng Boris đến nhà tôi nhiều lắm, nhưng cả khi cô ả không có mặt thì Boris vẫn nói triền miên về ả. Kotku nghe thứ nhạc rất ngầu và đã ghi một đĩa CD tổng hợp đầy những bản hip hop cực thịnh mà tôi không thể không nghe được. Kotku thích pizza chỉ bỏ ớt tiêu xanh và ô liu thôi. Kotku cực kỳ cực kỳ muốn có một cây piano điện - và cả mèo Xiêm nữa, hay có lẽ là chồn, nhưng ở Hai R không được nuôi thú. “Thật đấy, mi đáng phải gặp bả nhiều hơn, Potter ạ,” nó nói và đụng vai vào vai tôi. “Mi sẽ khoái bả cho coi.”

“Thôi đi,” tôi đáp và nghĩ tới cái kiểu trịch thượng của cô ta khi ở gần tôi - cười không đúng lúc và rất khó chịu, hơi một tí là sai tôi ra tủ lạnh lấy bia.

“Không! Bả khoái mi mà! Thề luôn! Ý tau là bả thấy mi như một đứa em trai thì đúng hơn. Bả bảo thế mà.”

"Bả có bao giờ nói gì với tao đâu.”

"Đấy là vì mi không nói gì với bả.”

“Mai đứa mày đã ngủ với nhau chưa?”

Boris khụt khịt một tiếng bực bội, như những lúc mọi chuyện không theo ý nó muốn.

“Đầu óc đen tối,” nó nói, gạt tóc ra khỏi mắt rồi nói thêm: “Sao? Mi nghĩ sao? Mi muốn tau kẻ sơ đồ cho mi chắc?”

“ Vẽ sơ đồ cho mày.”

“Hửm?”

"Nói đúng là như thế. ‘Mày muốn tao vẽ sơ đồ cho mày chắc.’”

Boris đảo mắt. Vung vẩy tay, nó lại bắt đầu một tràng nào là Kotku thông minh làm sao, “khôn phát sợ luôn”, thông thái cực kỳ, đã sống qua bao nhiêu chuyện, và tôi phải bất công lắm thì mới phán xét cô ả, coi thường cô ả dù chưa thèm làm quen để hiểu cô ả; nhưng trong khi tôi ngồi, nửa lắng nghe nó huyên thuyên, nửa xem bộ phim noir cũ trên truyềh hình (Pallen angel có Dana Andrevvs), tôi không thể dừng nghĩ đến chuyện nó gặp Kotku chính là trong lớp có thể gọi là Công dân Bổ túc, lớp riêng dành cho những học sinh không thật sáng dạ (ngay cả trong trường học cực kỳ dễ dãi này) để có thể lên lớp không cần quá cố gắng. Boris có trí thông minh về toán bẩm sinh và giỏi ngoại ngữ hơn bất kỳ ai tôi từng gặp, đã bị ép vào học lớp công dân loại dốt vì nó là người nước ngoài: đấy là quy định của nhà trường, mà nó cực kỳ ghét, (“Để làm chi? Chẳng lẽ hôm nào đấy tau sẽ đi bỏ phiếu bầu Quốc hội à?") Nhưng Kotku - Mười tám tuổi! sinh ra lớn lên ở hạt Clark! công dân Mỹ y như trong phim Cops! - làm gì có cớ nào.

Tôi cứ liên tục bắt gặp trong đầu những ý nghĩ kém khoan dung như thế, và cố hết sức rũ bỏ chúng đi. Quan tâm làm gì? Phải, Kotku đúng là khốn; phải, cô ả quá đần nên mới không qua được lớp Công dân bình thường và lại đeo thứ khuyên tai vòng rẻ tiền mua ở hàng tạp phẩm, lúc nào cũng mắc vào đủ mọi thứ, và phải, dù chỉ nặng có 37 ký thì cô ả vẫn khiến tôi sợ khiếp vía, như là nếu tức điên lên cô ả có thể dùng đôi bốt mũi nhọn đá tôi chết quay. (“Đúng là một nàng da đen thiện chiến,” Boris có lần huênh hoang, đi đâu cũng làm bộ điệu găng tơ, hoặc cái mà nó nghĩ là bộ điệu găng tơ, rồi đãi tôi câu chuyện Kotku có lần giật tóc đứa con gái nào đó rách bê bết máu - đây lại một đặc điểm nữa của Kotku, lúc nào cũng gây sự đánh nhau với đám con gái rất khiếp, chủ yếu là với bọn da trắng dưới đáy xã hội giống như nó nhưng vài lần cũng gặp gái băng đảng thứ thiệt, da đen hoặc gốc La tinh.) Nhưng ai mà quan tâm Boris thích loại con gái vứt đi nào? Không phải chúng tôi vẫn là bạn sao? Bạn thân? Gần như là anh em ruột?

Lại đấy: không có chữ nào có thể diễn tả đích xác Boris và tôi. Trước khi xuất hiện Kotku, tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về chuyện đó. Chỉ là những buổi chiều lờ đờ trong không khí máy lạnh, say mèm, lười biếng, mành kéo xuống chặn ánh lóa, những gói đường dốc hết, những vỏ cam quắt queo vứt trên thảm sàn, Dear Prudence trong Album Trắng[91] (mà Boris mê mệt) hoặc những bài của nhóm Radiohead cũ não nuột bật đi bật lại:

Trong một phút anh đã mất mình, anh đã mất mình...

Thứ keo chúng tôi hít làm dấy lên một tiếng gầm đen của máy móc, như tiếng động cơ phản lực chợt dậy gió: đã bật! Chúng tôi ngã ngửa xuống giường, xuống đêm tối, như những người nhảy dù bật người ra sau rời khỏi máy bay, mặc dù - đã phê đến mức ấy, xỉu đến mức ấy - phải coi chừng cái túi bịt trên mặt, nếu không sẽ phải cậy những mảng keo khô khỏi tóc và chóp mũi khi tỉnh lại. Giấc ngủ kiệt quệ, lưng áp lưng, giữa lớp ga giường bốc mùi tàn thuốc và mùi chó, Popchik nằm phơi bụng ngáy ran, để ý nghe kỹ sẽ thấy những tiếng thì thầm vô thức trong luồng không khí phả vào từ lỗ thông khi trên tường. Hàng tháng trời trôi qua và gió không bao giờ ngừng nghỉ, cát theo gió bay lạo xạo trên mặt kính cửa, mặt hồ bơi nhăn nhúm trông rất nanh ác. Trà đặc vào sáng sớm, sô-cô-la ăn trộm về. Boris nắm tóc tôi mà dứt rồi đá vào sườn tôi. Dậy đi Potter. Dậy chào bình minh coi.

Tôi cứ tự nhủ mình không nhớ nó, nhưng rất nhớ. Tôi say thuốc một mình, xem Chương trình người lớn và kênh Playboy một mình, đọc Chùm nho nổi giận[92] và Ngôi nhà bảy đầu hồi[93] một mình, hai địch thủ có thể tranh giải cuốn sách buồn chán nhất trên đời, và suốt phải đến nhiều nghìn giờ - đủ để học tiếng Đan Mạch hay chơi ghi-ta nếu tôi bỏ công vào đó - vất vơ một mình trên phố với một chiếc ván trượt hỏng nát tìm thấy khi cùng Boris khám xét một ngôi nhà trong dãy bị ngân hàng xiết nợ gần đây. Tôi đi cùng Hadley tới những bữa tiệc của đội bơi - những bữa tiệc không rượu bia, có cả cha mẹ - và tới cuối tuần, dự những bữa tiệc không cha mẹ của bọn trẻ con hầu như không quen, viên an thần Xanax và bia thảo dược Jagermeister, trở về nhà trên chuyến xe buýt CAT rú rít lúc hai giờ sáng, đờ đẫn đến nỗi phải nắm chặt lưng ghế trước mặt mới khỏi ngã lăn ra lối đi. Đến lúc tan học, nếu chán, tôi hoàn toàn có thể ra giao lưu với một trong đám say thuốc phật phờ giữa Del Taco và khu trò chơi cho trẻ con trên Dải.

Nhưng tôi vẫn cô đơn. Boris mới là thứ tôi nhớ, cái thằng lộn xộn bốc đồng là nó: u ám, bạt mạng, nóng đầu, vô tâm đến điên người. Boris tái nhợt như bột, cùng những quả táo lấy trộm và những tiểu thuyết tiếng Nga, những móng tay bị gặm trụi và dây giày lê trong bụi cát. Boris, tên nghiện rượu tập sự, kẻ chửi bậy thành thần bằng bốn thứ tiếng, ưa thó đồ ăn trong bát tôi bất cứ khi nào muốn và lăn kềnh ra say khướt trên sàn, mặt đỏ bầm như bị tát. Và cho dù nó lấy đồ không thèm hỏi, một điều nó làm suốt ngày - các thứ lặt vặt liên tục bị mất, DVD và đồ dùng học tập trong tủ của tôi, mấy lần tôi đã thấy nó lục túi mình tìm tiền - thì những vật sở hữu của nó cũng có quá ít ý nghĩa với nó, đến nỗi cái đó không thể tính là ăn cắp; bất cứ khi nào có tiền nó lại chia đôi sòng phẳng với tôi, bất cứ thứ gì nó có, nó vui lòng biếu ngay khi tôi hỏi (và cả những khi tôi không hỏi, như lần cái bật lửa vàng của ông Pavlikovsky mà tôi từng tỏ lòng hâm mộ đã xuất hiện ở ngăn ngoài ba-lô của tôi).

Một điều kỳ dị là: tôi sẽ chỉ thấy lo ngại nếu chính Boris lại tỏ ra quá âu yếm, nếu âu yếm là từ đúng. Lần đầu tiên nó trở mình trong giường vắt tay qua eo tôi, tôi đã nằm một lúc nửa thức nửa ngủ, không hiểu nên làm gì: nhìn trân trân mấy cái tất cũ trên sàn, những chai bia rỗng không, cuốn The Red Badge of Courage[94] bìa mềm. Cuối cùng, ngượng ngập, tôi vờ ngáp và lăn đi, nhưng nó chỉ thở dài thườn thượt và kéo tôi sát lại hơn, động tác ngái ngủ ôm ấp.

Suỵt, Potter, nó thầm thì vào gáy tôi. Chỉ là tau thôi mà.

Thật kỳ cục. Có kỳ cục không? Vừa có, mà lại vừa không. Mấy giây sau tối đã lại ngủ mất, thiếp đi trong cái mùi bia chua lâu ngày không tắm của nó và hơi thở nó thản nhiên trong tai mình. Tôi biết là mình không thể kể ra mà không khiến chuyện có vẻ to tát hơn sự thực. Trong những đêm tôi choàng dậy, nghẹt thở vì sợ hãi, nó đã ở bên, tóm lấy khi tôi bật dậy kinh hãi trên giường, kéo tôi nằm xuống lại đống chăn bên nó, lầm bầm những từ Ba Lan vô nghĩa, giọng nghèn nghẹt lạc đi giữa cơn ngủ. Chúng tôi lại ngủ thiếp trong vòng tay nhau, cùng nghe tiếng nhạc từ iPod của tôi (Thelonious Monk[95], Velvet Underground[96], những loại nhạc mẹ vẫn thích), và đôi khi tỉnh dậy đang ôm nhau rất chặt, như những kẻ đắm tàu hoặc trẻ con bé tí.

Thế nhưng (đây mới là phần tối ám, đây là phần làm tôi băn khoăn), cũng còn có những đêm khác, bối rối hơn và khốn nạn hơn nhiều, vần vò nhau trong quẩn áo xộc xệch, từ nhà tắm lọt vào ánh sáng yếu ớt, mọi thứ lẫn trong vầng sáng bất định vì không đeo kính: tay chạy trên người nhau, nhanh nhẹn, thô bạo, bia bị đá văng sùi bọt trên thảm - vui và chẳng có gì quan trọng trong lúc đang thực sự diễn ra, rất đáng với tiếng hít mạnh cuối cùng khi mắt dường như đảo điên và quên hết mọi điều; nhưng khi tỉnh lại sáng hôm sau, nằm sấp bụng và rên rẩm ở hai đầu giường, lại rút vào một góc giữa những mảng chập chờn trên nền sáng lộn xộn không mạch lạc, giật cục, mờ tỏ như một cuốn phim thể nghiệm, những méo mó không quen thuộc trên gương mặt Boris đã vội lùi khỏi trí nhớ và chẳng hề tác động đến đời sống thực của chúng tôi hơn gì một giấc mơ. Chúng tôi không bao giờ nhắc đến nó, nó như không có thực, chúng tôi mặc đồ chuẩn bị đi học và ném giày, té nước vào người nhau, nhai aspirin trị cơn đau đầu vì rượu, cười đùa suốt quãng đường đến chỗ chờ xe buýt. Tôi biết, nếu biết được, mọi người sẽ nghĩ điều không nên nghĩ, tôi không muốn ai được biết, và tôi biết Boris cũng không, nhưng không hiểu sao nó vẫn tỏ ra hoàn toàn chẳng bận tâm đến chuyện đó tới nỗi tôi hầu như tin chắc đấy chỉ là cho vui thôi, không có gì phải quá nghiêm trọng hay quá xoắn xít. Thế nhưng, hơn một lần, tôi đã nghĩ giá thử tôi can đảm hơn một chút, nói ra gì đó: vạch rõ một đường, phân tách rạch ròi, chỉ để biết chắc Boris không mang ý nghĩ gì không phải. Nhưng giây phút ấy không bao giờ đến. Giờ thì chẳng ích gì mà nói lên khiến mọi thứ ngượng ngập hết cả, mặc dù làm thế cũng chẳng đem cho tôi chút an ủi nào.

Tôi ghét mình vì nhớ nó đến vậy. Ở nhà tôi rượu chè ngày càng nhiều, ít ra là về phần Xandra, liên tục có tiếng sầm cửa (“Hừ, nếu không phải do tôi thì chắc chắn là do anh,” tôi nghe tiếng cô ta hét), và vì không có Boris ở đó (cả hai đều kiềm chế hơn khi có nó trong nhà), sự tình khó chịu đựng hơn nhiều. Một phần vấn đề là do giờ giấc đi làm của Xandra đã thay đổi, quán bar sắp xếp lại lịch, cô ta bị áp lực rất nhiều, những người làm việc chung nay đã bị đuổi hoặc chuyển ca khác, vào thứ Tư và thứ Hai khi dậy đi học tôi thường thấy cô ta vừa mới đi làm về, ngồi một mình trước tivi mở chương trình yêu thích, quá kích động không ngủ được và tu Pepto-Bismol thẳng từ bình.

“Con mụ già mệt mỏi,” cô ta nói và cố gắng mỉm cười khi thấy tôi đi xuống cầu thang.

“Cô đi bơi một chút đi. Như thế sẽ buồn ngủ đấy.”

“Thôi, cảm ơn, tôi sẽ ngồi đây với Pepto một lúc thôi. Thật là một món thần kỳ. Đây quả là một điều kỳ diệu mang vị kẹo cao su.”

Còn bố tôi, gần đây ông ở nhà liên tục - nói chuyện với tôi, tôi rất thích, dù tâm tính thất thường của ông khiến tôi mệt lả. Đang vào mùa bóng, ông đi lại nhún nhảy trong nhà. Xem BlackBerry xong ông đập tay tôi và gần như múa quanh phòng khách: “Bố có phải là thiên tài không? Sao hả?” Ông nghiên cứu những bài phân tích tỷ lệ cược, những bảng kết quả trận đấu, và thỉnh thoảng, còn cả một cuốn sách bìa mềm tên là Thiên Yết: Dự đoán năm của bạn trong thể thao. “Lúc nào cũng phải tìm ưu thế,” ông nói khi tôi bắt gặp ông đang dò xem bảng biểu và bấm máy tính bỏ túi tanh tách như đang tính thuế thu nhập cá nhân. “Chỉ cần đạt khoảng 53, 54% là có thể sống nhòe bằng thứ này - hiểu không, baccarat chỉ thuần là giải trí mà thôi, không có kỹ năng nào cả, bố đặt giới hạn trên để không bao giờ vượt quá, nhưng cá cược thể thao thì hoàn toàn có thể ra tiền nếu thực hành có kỷ luật. Phải chơi bằng tư duy nhà đầu tư. Chứ không phải người hâm mộ, con bạc cũng không được, bởi bí mật ở đây là đội giỏi hơn thường thắng và người ra kèo rất giỏi chọn tỷ lệ đúng. Nhưng người ra kèo cũng có hạn chế, đấy là dư luận. Hắn ta không dự đoán vì nghĩ đội nào sẽ thắng, mà dự đoán vì công chúng nghĩ rằng đội nào sẽ thắng. Vậy nên khoảng chênh lệch ấy giữa tình cảm yêu chuộng và kết quả thực tế - mẹ kiếp, thấy cái thằng bắt bóng trong vùng cấm địa không, khác gì mở cửa mời bọn Pittsburgh vào xơi, giờ mà chúng nó ghi bàn thì chúng ta chỉ có tạch - được rồi, bố đang nói đấy, nêu bố thực tình ngồi làm toán chứ không bắt chước thằng Joe Bò Viên chọn đội cá bằng cách đọc mục thể thao năm phút? Ai có lợi hơn? Này nhé, bố không thuộc vào lũ trẻ nít chỉ thích mơ màng về đội Khổng lồ New York dù nắng hay mưa - hừ, đến cả mẹ con cũng có thể bảo con biết thế. Bọ Cạp ưa nắm kiểm soát, bố là thế đấy. Bố rất thích cạnh tranh. Muốn thắng bằng bất kỳ giá nào. Tài diễn của bố là xuất phát từ đó, hồi bố còn diễn. Mặt trời ở cung Bọ Cạp, Sư Tử đang mọc. Có hết trong tử vi rồi. Còn con, con là Cự Giải, một con cua, lúc nào cũng chỉ thích bí mật rúc kín trong hang, phương thức hành động; trái ngược hẳn. Không xấu cũng không tốt, chỉ là thế thôi. Được rồi, dù sao đi nữa, lúc nào bố cũng xem xét tỷ lệ tấn công phòng thủ, nhưng thế nào thì cũng không hại nếu chú ý đến các hành tinh đi qua nhau và vị trí mặt trời trên đường hoàng đạo vào ngày đấu...”

“Xandra đã khiến bố quan tâm đến mấy thứ này à?”

“Xandra gì? Một nửa số bầu thể thao ở Vegas có đường dây nóng trực tiếp đến một thầy chiêm tinh. Dù sao thì như bố vừa nói, nếu mọi thứ khác đều như nhau, thì liệu các sao có ảnh hưởng gì không? Có. Bố tuyệt đối cho là có. Ví như là, nếu tuyển thủ đang vào một ngày tốt, hoặc một ngày xấu, hoặc không đủ phong độ, kiểu kiểu đó. Thành thật là ưu thế đó sẽ rất có ích vào những khi đang, hừm, nói thế nào nhỉ, ha ha, đang bí một tí, cho dù...” — ông chìa cho tôi xem xấp tiền dày bự hình như toàn tờ trăm, buộc chun ở ngoài - “năm nay thật là một năm cực kỳ đối với bố. 53%, một năm một ngàn trận. Đấy là điểm ma thuật.”

Chủ nhật là những ngày có trận lớn. Khi thức dậy, tôi xuống nhà sẽ thấy ông ở giữa một biển báo rải khắp phòng, chạy vun vút hơn hớn quanh phòng cứ như đang là buổi sáng Giáng sinh, hết mở lại đóng cửa tủ bếp, nói chuyện với người ghi số trên điện thoại và nhai khoai tây chiên thẳng trong túi. Nếu đi xuống nhìn ông chỉ một tí thôi, khi các trận lớn đang chiếu, thỉnh thoảng ông sẽ cho tôi “một mẩu” - 20, 50 đô-la, nếu ông đang thắng. “Để con có cớ để tâm,” ông giải thích, chồm người tới trước trên xô pha và xoa tay lo âu. “Thấy chưa - ta chỉ cần đội Ngựa non Indianapolis bị đá khỏi bảng xếp hạng trong hiệp đầu này. Bị đánh bẹp. Còn Cao bồi Dallas và Dân ’49 San Francisco thì cần lên quá 30 điểm trong hiệp hai - được!” ông hét và nhảy chồm chổm phấn chí, tung nắm đấm lên trời. “Ngã rồi! Da đỏ Washington lấy được bóng rồi. Chúng ta lại chạy!”

Nhưng thật khó hiểu, vì Da đỏ mới là đội ngã. Tôi cứ nghĩ Cao bồi sẽ phải thắng trên ít nhất là mười lăm điểm. Cú thay ngựa giữa dòng đột ngột của ông khiến tôi không bắt kịp, và thỉnh thoảng tôi đã làm mình mất mặt vì cổ vũ đội bên kia, nhưng trong khi cả hai ào lên ngẫu nhiên giữa các trận, giữa các bàn, tôi khoái dõi theo vẻ mê man của ông, cơn nhồi nhét thức ăn đầy dầu mỡ cả ngày của ông, nhận những tờ hai chục năm chục ném về phía mình như trên trời rơi xuống. Nhưng lần khác - lên đỉnh rồi đổ ập trên một cơn sóng hào hứng khản giọng nào đó - ông lại rơi vào cơn bồn chồn lờ mờ mà như tôi thấy dường như chẳng liên quan gì lắm tới diễn biến trận đấu, và ông đi đi lại lại vì cớ gì đó tôi không hiểu nổi, đan tay vào nhau trên đầu, trừng mắt nhìn tivi với vẻ một người đã mất sạch tài sản trong thương trường: cãi nhau với huấn luyện viên, với cầu thủ, hỏi họ bị tâm thần hay sao vậy, cái chó gì đang diễn ra ở đây. Đôi khi ông còn theo tôi vào bếp, với vẻ quy thuận lạ lùng. “Chúng nó đang giết bố ở trong kia,” ông hài hước nói, tựa người vào bếp, dáng vẻ đùa cợt, gập người lại như một tên cướp nhà băng bị đạn găm trúng ruột quỵ xuống.

Kèo x. Kèo y. Chạy sân, vượt chấp. Vào ngày đấu, cho đến chừng năm giờ chiều hay gì đó, ánh sáng trắng của sa mạc còn cưỡng lại bóng u ám Chủ nhật cuối cùng cũng sập xuống - thu chìm vào đông, niềm cô đơn trong giờ chập choạng tháng Mười trước ngày trở lại đi học - nhưng lúc nào về cuối những buổi chiều đấu bóng ấy cũng có một giây dài tĩnh lặng, khi tâm trạng đám đông thay đổi và mọi thứ trở thành hoang tàn bất định, cả trên tivi lẫn bên ngoài, ánh lóa kim loại trên cửa kính ra hiên chuyển dần sang vàng rồi xám, bóng ngả dài, đêm rơi vào cảnh im phắc của sa mạc, một nỗi buồn tôi không rũ bỏ nổi, nghĩ về những người lặng lẽ theo nhau đi về phía cửa ra khán đài, mưa lạnh đang rơi xuống những thành phố đại học tít về phía đông.

Nỗi sợ hãi choáng lấy tôi khi ấy thật khó mà giải thích. Những ngày đấu bóng chấm dứt gọn, trong một cảm giác gần như mất máu, khiến tôi nhớ lại cái ngày nhìn căn hộ ở New York bị đóng dần vào hộp chở đi: mất điểm tựa, chảy trôi, không có gì bám víu. Trên tầng, đóng chặt cửa phòng, tôi bật hết đèn, hút cỏ nếu có, nghe nhạc trên loa xách tay - những thứ nhạc chưa từng nghe như Shostakovich và Erik Satie từng cóp vào iPod cho mẹ rồi chưa bao giờ bắt tay xóa đi - và bắt đầu đọc sách ở thư viện: chủ yếu là sách nghệ thuật, vì khiến tôi nhớ lại mẹ.

Tuyệt phẩm hội họa Hà Lan. Thời hoàng kim của Delft. Ký họa của Rembrandt cùng những học sinh vô danh. Dùng máy tính ở trường, tôi phát hiện có một cuốn sách về Carel Fabritius (rất ngắn, chỉ độ trăm trang), nhưng thư viện trường không có và thời gian dùng máy ở trường bị quản lý sát sao đến độ tôi kinh hãi không dám tra cứu gì trên mạng - nhất là sau khi bất cẩn bấm vào đường dẫn (Het Puttertje (Con sẻ vàng), 1654) và mở ra một trang trông quan cách rợn người gọi là Cơ sở dữ liệu nghệ thuật mất tích bắt tôi phải đăng nhập bằng tên và địa chỉ thật. Tôi đã hoảng vía khi đột ngột hiện ra những chữ Interpol và Đang mất đến nỗi vội vàng tắt phụt máy tính, dù không được phép làm vậy. “Cậu vừa làm cái gì thế?” ông Ostrow trông thư viện gặng hỏi trước khi tôi kịp bật lại. Ông ta thò tay qua vai tôi, bắt đầu gõ mật khẩu.

“Cháu...” Dù không muốn nhưng tôi vẫn nhẹ mình vì không phải vừa xem web đen, khi thấy ông kiểm tra lịch sử truy cập. Tôi đã định tự mua một cái máy tính rẻ tiền bằng 500 đô-la bố cho hồi Giáng sinh, nhưng thế nào đó mà số tiền ấy đã biến đâu hết sạch - Nghệ thuật mất tích, tôi tự nhủ, không việc gì phải cuống lên vì hai chữ mất tích, bị cháy hủy cũng là mất tích, phải không? Dù chưa nhập tên nhưng tôi cũng lo lắng vì đã thử truy cập từ IP của trường. Biết đâu đấy, có thể mấy tay thanh tra từng đến gặp tôi vẫn tiếp tục theo dõi và biết tôi đang ở Vegas, mối liên hệ dù nhỏ nhưng có thực.

Bức tranh đã bị giấu theo một cách tôi nghĩ là rất thông minh, trong cái vỏ gối vải bông sạch, dùng băng dính dán vào sau ván đầu giường. Nhờ Hobie tôi đã học được thói phải thật gượng nhẹ cẩn trọng với các đồ vật cổ (đôi khi, với những món đồ đặc biệt mong manh, ông còn đeo găng tay vải trắng để cầm) và không bao giờ trực tiếp sờ tay vào, chỉ cầm ở mép. Tôi chẳng bao giờ lấy nó ra, trừ khi bố và Xandra đã đi ra ngoài và biết chắc còn lâu họ mới về - dù không nhìn thấy, tôi vẫn thích biết rằng nó ở đấy, vì nó tạo cho tất cả một độ sâu thẳm và vững chắc, củng cố thêm hạ tầng, như một sự đúng đắn vô hình nhưng là nền tảng nâng đỡ và an ủi tôi, cũng như khi biết rằng ở nơi xa xôi cá voi vẫn vô tư bơi giữa làn nước biển Baltic và các thầy tu tại những múi giờ kỳ quái vẫn không ngừng tụng niệm cầu cho thế giới được cứu chuộc.

Lấy nó ra, cầm nó trong tay, nhìn ngắm nó, là một việc không thể làm cẩu thả. Ngay cả động tác đưa tay cầm lấy nó cũng đem lại cảm giác như lớn rộng thêm, như mùi hương thoảng qua, như cất mình bay lên, và đến một thời điểm lạ lùng nào đó khi đã nhìn thật lâu, mắt mờ đi vì không khí sa mạc qua máy lạnh, thì hình như không gian đã biến mất giữa tôi và nó, khiến khi ngẩng lên, chính bức tranh chứ không phải tôi mới là có thật.

Sống từ năm 1622 đến1654. Con một người thầy giáo. Chưa đến một tá bức được xác định đúng là thuộc về ông. Theo Van Bleyswijck, tác giả cuốn lịch sử về Delft, Fabritius đang ở trong xưởng vẽ người phu đào huyệt thành Delft là Oude Kerk vào mười rưỡi sáng, thì xưởng thuốc súng phát nổ. Xác ông được lôi ra khỏi xưởng vẽ đổ nát nhờ những người hàng xóm “trong nỗi tiếc thương sâu sắc”, cuốn sách cho biết, “và với nỗ lực không nhỏ”. Điểu khiến tôi nín thở từ những bản tường thuật trong sách thư viện ấy là yếu tố ngẫu nhiên: thảm họa trên trời rơi xuống, của cả tôi và ông, chập lại tại một điểm không nhìn thấy được, vụ nổ lớn như lời bố tôi gọi - không phải kiểu mỉa mai hay chê bai mà với vẻ cung kính, ghi nhận những uy lực số mệnh vẫn chỉ đạo chính cuộc đời ông. Có thể nghiên cứu các mối liên hệ mất hàng năm, hàng năm mà vẫn không bảo giờ ra được kết luận - đấy là do những thứ hợp lại với nhau, phân tán khỏi nhau, lỗ hổng thời gian, mẹ đứng trước bảo tàng khi thời gian nhấp nháy và ánh sáng múa may, những điều bất định lơ lửng chờ bên mép một cõi sáng loáng mênh mông. Cái ngẫu nhiên vơ vẩn có thể, hoặc có thể không, thay đổi mọi điều.

Ở tầng trên, nước từ vòi bồn rửa phòng tắm đầy clo nên không thể uống được. Trong đêm, luồng gió khô thổi rác rến lon bia lăn trên phố. Độ ẩm không khí và hơi nước, như Hobie dạy tôi, là kẻ thù lớn nhất trên đời của đồ cổ; trên cái đồng hồ tủ đứng đang sửa dở khi tôi đi, ông đã chỉ cho tôi xem dưới bề mặt, gỗ đã mục hết vì ẩm (“ai đó đã tạt xô nước rửa sàn đá, cháu thấy chỗ gỗ này mềm không, mòn đi không?”)

Lỗ hổng thời gian: gặp lại thứ gì đó lần thứ hai, hoặc không chỉ hai. Cũng như các nghi lễ của bố tôi, hệ thống cá cược của ông, những tiên tri và ma thuật đều được suy nghiệm trong một ý thức tổng quan về những mô hình không nhìn thấy, vụ nổ ở Delft thuộc về một chuỗi sự kiện phức tạp đã để lại dư hưởng đến tận giờ. Những hậu quả trùng điệp đủ làm người ta chóng mặt. “Tiền không quan trọng,” bố tôi nói. “Tiền chỉ là biểu hiện của năng lượng chứa trong sự vật, con hiểu không? Vấn đề là làm sao theo dõi nó. Dòng chảy của ngẫu nhiên.” Cặp mắt con sẻ vàng găm vào tôi, cặp mắt sáng ánh không thay đổi. Tâm ván gỗ bé tí xíu, “chỉ hơi nhỉnh hơn một tờ giấy khổ A4” như nhận xét của một trong mấy cuốn sách mỹ thuật, dù tất cả những thông tin về ngày tháng hay kích cỡ ấy, những thông tin chết trong sách vở ấy, cũng ít liên quan chẳng kém gì những số liệu trong mục thể thao khi các tuyển thủ Green Bay Packers[97] đã vượt hai điểm ở hiệp thứ tư và một màn tuyết mỏng lạnh giá bắt đầu hạ xuống sân. Bức tranh, cái ma thuật và sức sống trong đó, cũng không khác gì thời khắc bồng bềnh lạ lùng khi tuyết xuống, ánh sáng và bông tròn ánh sắc xanh quay vòng trước máy quay, khi ta không còn quan tâm đến trận đấu, đến thắng thua, mà chỉ muốn uống vào người cái giây gió tạt không thốt nổi nên lời ấy. Nhìn bức tranh tôi lại trải qua cảm giác vạn vật đang tụ về một điểm: một giây phút nắng chói thoáng qua, tồn tại chớp mắt và vĩnh viễn. Chỉ thi thoảng lắm tôi mới nhận ra sợi xích buộc chân chú chim, hay nhận ra thật là một cuộc đời tàn nhẫn đối với một sinh linh bé bỏng như thế - chấp chới một khắc rồi bị ép phải đậu lại một nơi duy nhất, vô vọng trong muôn thuở.

V

ĐIỂM TỐT LÀ: TÔI ĐANG RẤT VUI khi thấy bố dễ thương như vậy. Gần đây bố liên tục đưa tôi đi ăn tối - ăn tối hoành tráng ở những nhà hàng trải khăn bàn trắng, chỉ có hai người với nhau - ít nhất tuần một lần. Đôi khi ông còn mời cả Boris theo, những lần ấy Boris luôn sốt sắng nhận lời: sức quyến rũ của bữa ăn ngon còn hơn cả sức hút dính như keo từ Kotku, nhưng lạ thay, tôi thấy mình vui hơn nếu chỉ có hai bố con với nhau.

“Con biết không,” một lần trong bữa tối ấy, bố nói, khi chúng tôi còn nấn ná lại ăn tráng miệng, nói đủ chuyện tào lao từ nhà trường đến các thứ khác (cái ông bố mới toanh rất mực ân cần này! ông ta từ đâu mà ra vậy?), “con biết không, bố đã rất vui được làm quen dần với con từ hồi con đến đây, Theo ạ.”

“Ừm, ờ, hừm, con cũng thế,” tôi đáp, ngượng ngập, nhưng chân thật.

“Bố muốn nói là... ” bố lùa tay qua tóc “cảm ơn đã cho bố một cơ hội nữa, bé con à. Vì bố đã sai lầm trầm trọng. Lẽ ra bố không bao giờ được để quan hệ giữa bố với mẹ con ảnh hưởng đến quan hệ giữa bố với con. Không, không,” ông nói và giơ tay lên, “bố không trách cứ gì mẹ con đâu, thời ấy đã qua lâu lắm rồi. Chỉ có điều là mẹ yêu con quá mức, lúc nào bố cũng cảm giác như đang xen vào giữa hai mẹ con. Là người thừa trong nhà, kiểu đó. Hai mẹ con thân thiết nhau quá,” bố bật cười buồn, “khiến chẳng còn chỗ cho người thứ ba nữa.”

“Ờ...” Mẹ con tôi luôn rón rén đi trong nhà, thì thà thì thào tìm cách tránh mặt bố. Những bí mật, những tiếng cười. “Con định nói, chỉ là...”

“Không, không, bố không cần con xin lỗi gì hết. Bố là bố, đáng ra bố phải xử sự đúng đắn hơn. Chỉ có điều, nó trở thành một vòng tròn luẩn quẩn, con hiểu không. Bố cảm thấy bị bỏ rơi, bị ra rìa nên uống rượu liên tục. Và lẽ ra bố không bao giờ được để chuyện đó xảy ra. Ừm, bố đã bỏ qua vài năm hết sức quan trọng trong cuộc đời con. Bố mới là người phải ghi nhớ chuyện đó.”

“Ừm...” Tôi thấy tội nghiệp đến nỗi không biết nói gì nữa.

“Không định đánh úp con đâu, cậu bé à. Chỉ muốn nói là bố rất mừng vì ta lại là bạn với nhau.”

“À thì,” tôi nói và dán mắt xuống đĩa caramel kiểu Pháp đã vét sạch, “con cũng thế.”

“Mà, bố nói thật đấy, bố muốn bù đắp lại cho con. Hiểu không năm nay bố đang thắng trận giòn giã.- ông nhấp một ngụm cà phê - “và bố muốn mở tài khoản tiết kiệm cho con. Con hiểu không, chỉ là để dành ra một chút. Vì là, con hiểu đấy, bố thực sự đã không phải với con nhiều lắm về chuyện mẹ con, con hiểu đấy, và bao nhiêu tháng vắng mặt nữa.”

“Bố,” tôi bối rối nói. “Không cần phải thế đâu.”

“Ồ, nhưng bố muốn mà! Con có số an sinh xã hội rồi chứ?”

"Có rồi.”

“Ừ, bố đã để riêng ra được mười nghìn rồi. Bắt đầu như thế cũng được. Nếu khi nào về nhà con nghĩ tiếp chuyện đó, thì cho bố số an sinh của con, lần sau qua nhà băng bố sẽ mở tài khoản đứng tên con, đồng ý chứ?”

VI

NGOÀI GIỜ HỌC THÌ KHÔNG MẤY KHI tôi gặp Boris nữa, ngoại trừ một chuyến đi chơi chiều Chủ nhật, bố tôi đưa cả hai đến quán Carnegie ở khách sạn Mirage ăn cá than và bánh nhân thịt Ba Lan. Nhưng rồi mấy tuần trước lễ Tạ ơn, nó rầm rầm đi lên tầng dù tôi không hề hẹn gặp nó, và bảo: “Ông già mi gần đây đang gặp hạn, mi biết không?”

Tôi bỏ Silas Mame[98] xuống, đấy là cuốn đang học ở trường. “Hả?”

“Hừm, dạo này ổng toàn chơi ở bàn 200 - tức là 200 đô mỗi kèo,” nó nói. “Năm phút mất cả ngàn như bỡn.”

“Ngàn đô-la với ông cũng là muỗi thôi,” tôi nói, và khi thấy Boris không trả lời: “Ông bảo thua bao nhiêu?”

“Không bảo,” Boris đáp. “Nhưng nhiều lắm.”

“Mày chắc là không phải ông bịp mày chứ?”

Boris cười lớn. “Có thể,” nó nói, ngồi xuống giường, chống tay lên khuỷu dựa ra đằng sau. “Mi không biết gì thật hà?”

“Ừ...” Theo như tôi biết thì bố vừa trúng lớn khi đội Buffalo Bill thắng cuộc tuần trước. “Tao cũng không thấy làm sao mà ông thua nhiều quá được. Ông vẫn đưa tao đi ăn Bouchon kiểu thế.”

“Ừ, nhưng cũng có thể có lý do khác,” Boris đáp vẻ trải đời.

“Lý do à? Lý do gì?”

Boris có vẻ chực nói gì đó, rồi đổi ý.

“Ừ, ai biết được,” nó nói và châm thuốc rồi rít một hơi. “Ông già mi, ổng có máu Nga đấy.”

“Ừ,” tôi đáp và với lấy điếu thuốc. Tôi đã chứng kiến nhiều lần những cuộc “chuyện trò thông thái” hoa chân múa tay giữa Boris và bố tôi, bình phẩm về những tay bạc vĩ đại trong lịch sử Nga: Pushkin, Dostoyevsky, đủ thứ tên nữa tôi không biết.

“Ờ, thói Nga điển hình, mi biết đấy, than vãn từ sáng đến tối! Mọi thứ có lên hương mấy cũng vậy - phải giấu cho kín. Nếu không sẽ là bỡn cợt số phận.” Nó đang mặc cái áo sơ mi vía do bố tôi thải ra, đã giặt gần như trong suốt và to đến nỗi phồng tướng trên người nó như một món đồ của người Ả rập hay Ấn giáo. “Có điều, ông già mi, nhiều lúc không biết ổng đùa hay thật.” Rồi quan sát tôi thật kỹ: “Mi đang nghĩ cái chi thế?”

“Có nghĩ gì đâu?”

“Ổng biết tụi mình vẫn nói chuyện với nhau. Nên ổng mới bảo tau. ổng mà không muốn mi biết thì đã chả nói rồi.”

“Ừ.” Tôi cũng tin chắc đây không phải là sự thực. Bố tôi là kiểu người gặp hứng có thể tùy tiện kể đời sống riêng tư với cả vợ của ông; chủ hoặc bất kỳ người nào không nên kể.

“Hẳn là ổng đã tự kể với mi rồi,” Boris nói, “nếu ổng nghĩ là mi muốn nghe.”

“Thế này. Như mày nói đấy...” Bố tôi có thói quen tự đày đọa, ưa những cử chỉ khoa trương: trong những bữa Chủ nhật đi ăn, ông thường phóng đại những khổ ải của ông, càu nhàu, loạng choạng, ầm ĩ than vãn vừa bị “lột sạch” hay “chết tốt” sau một trận thua, ngay giữa lúc vừa thắng nửa tá trận khác và đang tính toán lợi lộc trên máy tính. “Thỉnh thoảng ông cũng hơi thổi phồng một tí.”

“Ừ, đúng, cái đó cũng đúng,” Boris đáp rất duy lý. Nó lấy lại điếu thuốc, hít vào, rồi thân thiện chìa cho tôi. “Mi nốt đi.”

“Thôi, cảm ơn.”

Lặng yên một lúc, chúng tôi nghe thấy cả tiếng đám khán giả đang rộ lên trong trận bóng bố đang xem. Rồi Boris lại ngả người, hỏi: “Dưới nhà có gì ăn không?”

“Chẳng có cái mẹ gì cả.”

“Có đồ Tàu còn thừa thì phải.”

“Hết rồi. Ai đấy ăn rồi.”

“Chết tiệt. Vậy chắc tau qua đằng Kotku đây, mẹ bả có pizza đông lạnh. Mi đi không?”

“Khỏi, cảm ơn.”

Boris cười, lại làm mấy điệu bộ găng tơ trông rất dỏm. “Tùy chế thôi, yồ,” nó nói bằng giọng “găng tơ” (chỉ khác giọng thường ở động tác bàn tay và chữ “yồ”) rồi đứng dậy nửa lăn nửa đi ra. “Tui đói như sói rồi đa.”

VII

ĐIỂM KỲ QUÁI NHẤT LÀ chẳng mấy chốc mối quan hệ giữa Boris và Kotku đã rơi vào tình trạng bẳn gắt cáu kỉnh. Hai đứa vẫn đi đâu cũng khóa môi, và tay chân chẳng mấy khi ngưng sờ soạng nhau, nhưng chỉ cần mở miệng ra là nghe y hệt như những cặp vợ chồng sống chung 15 năm có lẻ. Chúng cãi cọ về từng món tiền nhỏ nhặt, như ai đã trả tiền ăn trưa ở khu ẩm thực lần gần nhất, và những cuộc đối thoại lọt vào tai tôi đều kiểu như thế này:

Boris: “Gì! Anh đang cố tỏ ra dễ thương mà!”

Kotku: “Hừ, cái đó chẳng dễ thương tí nào.”

Boris (chạy theo, cố bắt kịp cô ả): “Anh thề đấy, Kotyku! Thật đấy! Đang cố dễ thương mà!”

Kotku: (bĩu môi)

Boris (tìm cách hôn cô ả nhưng không được): “Anh đã làm gì nào?

Có chuyện gì thế? Sao em lại nghĩ anh không dễ thương nữa?”

Kotku: (không nói gì)

Bài toán về gã cọ bể tên Mike - tình địch của Boris - đã được giải quyết gọn ghẽ nhờ quyết định hợp tình không chịu được của Mike là gia nhập lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ. Nhưng xem ra Kotku vẫn dành hàng giờ buôn điện thoại với hắn mỗi tuần, mà dù cớ gì thì cũng không làm Boris để tâm (“Bả chỉ đang cố nâng đỡ tinh thần hắn thôi, hiểu không”). Nhưng vụ ghen tuông của nó ở trường thì thật kinh khủng. Nó thuộc lòng thời khóa biểu của cô nàng, và ngay giây chúng tôi tan lớp đã phóng vụt đi tìm cô nàng, như thể ngờ cô nàng bắt cá hai tay trong giờ tiếng Tây Bản Nha công sở hay gì đấy. Một hôm, tan học, khi Popper với tối ở nhà một mình với nhau, nó gọi điện qua hỏi: “Mi có biết thằng nào tên Tyler Olowska không?”

“Không.”

“Học cùng lớp sử Mỹ với mi đấy.”

“Xin lỗi. Lớp đông lắm.”

“Tau bảo. Mi tìm hiểu về nó hộ tau được không? Nó sống ở đâu, chẳng hạn?”

“Nó sống ở đâu à? Lại chuyện Kotku phải không?”

Thình lình - khiến tôi giật nảy người - chuông cửa vang lên: bốn tiếng đinh đoong đường bệ. Suốt từ hồi tôi tới Las Vegas tới giờ chưa có một ai từng rung chuông cửa nhà chúng tôi, chưa bao giờ. Ở đầu dây bên kia, Boris cũng nghe thấy. “Cái gì thế?” Nó hỏi. Con chó thì chạy vòng quanh và sủa loạn lên.

“Có người gọi cửa.”

“Gọi cửa” Trên con phố trống huơ trống hoác của chúng tôi - hàng xóm không, vệ sinh dọn rác không, đến cả đèn đường cũng không - đây thật là sự kiện lớn. “Mi nghĩ là ai?”

“Tao không biết. Để tao gọi lại sau.”

Tôi túm lấy Popchyk - lúc này đang phát rồ phát dại - và trong lúc nó uốn éo rú rít trong tay tôi, vùng vẫy đòi thả xuống, cũng loay hoay mở được cửa bằng một tay.

“Nhìn kia,” một giọng Jersey tươi tỉnh nói. “Nhóc con này mới xinh xẻo tchứ”

Trong ánh lóa cuối chiều làm tôi chớp chớp mắt là một người rất cao, rất rất đen, rất gầy, tuổi tác không xác định. Trông hắn nửa giống cao bồi chơi rodeo, lại nửa giống diễn viên phòng trà mạt thời. Cặp kính chuồn chuồn gọng vàng nửa trên mắt kính nhuộm tím, một chiếc áo vét dày trắng trùm ra ngoài áo sơ mi cao bồi đỏ cúc bấm nắp trong, quần bò đen, nhưng đập vào mắt tôi nhất là mái tóc: nửa như tóc giả, nửa như cấy tóc hay dán vào, chất tóc như sợi thủy tinh cách nhiệt còn màu nâu sẫm thì như xi đánh giày trong hộp.

“Nào, thả nó xuống đi,” hắn nói và hất hàm về phía Popper, nó vẫn giãy giụa đòi xuống. Giọng hắn trầm, tư thế điềm đạm thân thiện, trừ giọng nói ra thì đúng là người Texas chính hiệu, đủ cả đôi bốt. “Cứ để nó tchạy! Không ngại đâu. Bác thích tchó”

Khi tôi thả Popchyk xuống, hắn cúi người xoa đầu nó, cử chỉ như một gã cao bồi chân dài bên đống lửa. Trước người lạ mặt kỳ quặc từ tóc tai trở xuống ấy, tôi không thể không thán phục cách hắn có vẻ thật thoải mái với bề ngoài của mình.

“Rồi, rồi,” hắn nói. “Thật là một nhóc tì xinh xẻo. Đúng thế!” Cặp má đen vì nắng trông nhăn nheo như da táo khô, hằn lên những nếp nhăn tí xíu. “Bác cũng ba đứa ở nhà. Pinny mini.”

“Xin lỗi?”

Hắn đứng thẳng, cười với tôi, lộ ra hàm răng đều đặn, trắng lóa.

“ Tchó Pinscher mini,” hắn nói. “Một lũ điên dại, nhai nát cả nhà khi bác không ở nhà, nhưng bác khoái tchúng nó. Tên tcháu là gì?”

“Theodore Decker,” tôi đáp và tự hỏi đây là ai.

Hắn lại cười; cặp mắt nhỏ xíu sau cặp kính nửa râm lấp lánh. “Ê này! Đồng hương New York đây mà! Bác nghe thấy qua giọng tcháu, đúng tchứ?

“Vâng, đúng.”

“Dân Manhattan nữa, theo bác đoán. Tchuẩn tchứ?”

“Vâng, chuẩn,” tôi đáp, tự hỏi đích xác thì hắn nghe thấy cái gì trong giọng tôi. Chưa ai từng đoán được tôi vốn ở Manhattan chỉ qua giọng nói cả.

“Ờ, đấy, bác người Canarsie. Từ nhỏ đến lớn luôn. Lúc nào được gặp một kẻ miền Đông khác cũng vui lòng. Bác là Naaman Silver.” Hắn chìa tay.

“Rất vui được gặp bác Silver ạ.”

“Ạ cơ à!” Hắn cười tán thưởng. “Bác rất thích bọn trẻ lễ phép. Giờ thì không gặp được mấy ai như tcháu nữa. Tcháu phải Do Thái không, Theodore?”

“Không ạ,” tôi nói, và tiếc rằng không trả lời “vâng”.

“Thế à, bảo tcháu này. Mỗi người ở New York, theo bác đều là một người Do Thái danh dự. Đấy bác nghĩ như thế đấy. Tcháu tới C