← Quay lại trang sách

PHẦN 04 - Chương 9 Thằng ngốc

Không phải máu thịt, mà chính trái tim biến chúng ta thành cha con[120]

—SCHILLER—

I

“ÔI THEO!” Kitsey nói, nhặt lên một chiếc trong đôi hoa tai lục bảo ngọc của mẹ tôi giơ lên ánh sáng, một chiều thứ Sáu sau Giáng sinh mấy ngày. Chúng tôi vừa ăn trưa thật lâu ở nhà hàng Fred sau khi dành cả sáng trong Tiffany nhìn những mẫu bạc và sứ. “Đẹp quá đi! Chỉ có điều...” trán cô nhăn lại.

“Sao...?” Đã ba giờ; nhà hàng vẫn còn ồn ào đông đúc. Khi nãy cô đi ra ngoài gọi điện, tôi đã lấy đôi hoa tai trong túi ra đặt lên khăn trải bàn.

“À, chỉ có điều... em không hiểu.” Cô nhướng mày, như nhìn một đôi giày không biết chắc muốn mua hay không. “Ý em là... đẹp lắm! Cảm ơn anh! Nhưng... không hiểu có hợp không? Nếu đeo hôm đấy?”

“À, tùy em thôi,” tôi nói và đưa tay lấy cốc Bloody Mary tu một hớp lớn để giấu nỗi ngạc nhiên và bực dọc.

“Vì là, ngọc lục bảo thì...” Cô so một chiếc lên tai, đánh mắt sang phía đó đăm chiêu. “Em thích lắm! Nhưng mà...” lại giơ lên nhìn nó lấp lánh trong ánh sáng tán xạ từ mấy ngọn đèn trên đầu “ngọc lục bảo không thật hợp với em. Em nghĩ là trông có vẻ hơi dừ, anh hiểu không? Cùng áo trắng? Màu da em nữa? Nước sông Nile à! Mẹ cũng không dùng được xanh lá cây.”

“Em coi sao cũng được.”

“Ồ, giờ thì anh cáu rồi.”

“Không, anh không cáu.”

“Có, anh cáu mà! Em làm anh phật lòng rồi!”

“Không, anh mệt mà thôi.”

“Tâm trạng anh đang có vẻ khá tệ.”

“Thôi nào Kitsey, anh mệt rồi.” Chúng tôi đã bỏ những cố gắng lay trời chuyển đất để săn tìm một căn hộ riêng cho hai đứa, một quá trình lắm bực bội mà cả hai đã chịu đựng chủ yếu với tinh thần vui vẻ, dù những sàn nhà trơ trụi và những căn phòng trống còn mang dấu vết bóng ma cuộc sống bị ruồng bỏ của những người khác đã làm dội lên (trong tôi) vô vàn dư âm khó chịu từ thời thơ ấu, những thùng giấy chuyển đồ và mùi bếp núc và những phòng ngủ chìm trong bóng tối, sự sống đã tắt lịm, nhưng còn hơn cả vậy, phập phồng bên dưới là một thứ tiếng ầm ì cơ khí ghê rợn mà (có vẻ như) chỉ mình tôi nghe thấy; những bóng ma với tiếng thở nặng nhọc, mà giọng người môi giới hớn hở vang âm giữa những bề mặt đánh bóng loáng khi họ vừa đi vừa bật khắp các đèn và ca tụng những món thiết bị bằng thép không gỉ chẳng thể nào xua đuổi được.

Mà vì sao phải thế? Đâu phải mỗi căn hộ chúng tôi đến xem đều đã bị rời bỏ sau một bi kịch như tôi hằng nghĩ. Việc tôi đánh hơi thấy ly dị, phá sản, ốm đau, chết chóc trong gần như mọi không gian ghé thăm rõ ràng chỉ là chứng hoang tưởng và hơn nữa, làm sao những phiền muộn của người thuê trước, dù là thật hay tưởng tượng, lại hại đến Kitsey hay tôi được?

“Đừng thoái chí,” Hobie nói (cũng như tôi, ông bị mẫn cảm quá mức với linh hồn của phòng ốc hay đồ vật, những luồng khí để lại sau thời gian). “Cứ coi đấy là một công việc được giao đi. Lục trong một hộp phụ kiện thừa thẹo. Cháu sẽ kiếm ra được trúng miếng cần thôi, miễn là nghiến răng tiếp tục tìm.”

Và ông nói đúng. Tôi đã giữ vững tinh thần từ đầu đến cuối, và cô cũng vậy, bền bỉ tiến từ đợt chào bán này sang đợt chào bán khác, trong những tòa nhà xây trước Thế chiến thứ hai u tối, đầy âm hồn những bà già Do Thái đơn côi, hoặc những con quái vật thủy tinh băng giá, khiến tôi biết mình sẽ không bao giờ sống nổi trong đó mà không tưởng như đang đứng trước vô số mũi súng bắn tỉa từ bên kia đường. Có ai nghĩ đi tìm nhà là việc chơi đâu.

So với đó, viễn cảnh đi cùng Kitsey lập danh sách quà mong muốn ở Tiffany ban đầu có vẻ sẽ là một việc đổi gió thú vị. Gặp gỡ người tư vấn, nhặt ra những gì mình thích, rồi tay trong tay lượn đi ăn bữa trưa Giáng sinh ư? Trái lại, và hoàn toàn không tính trước, tôi đã chao đảo tâm thần khi đi qua cửa hàng thuộc loại đông đúc nhất Manhattan trong một ngày thứ Sáu sát Giáng sinh: thang máy chật cứng, thang bộ cũng chật cứng, hàng đàn hàng lũ dân du lịch và người mua sắm quà cáp, chen lấn nhau đến năm sáu lớp bên các quầy trưng bày để mua đồng hồ đeo tay, khăn, túi xách, đồng hồ xách tay, sách dạy cung cách, cùng đủ thứ hàng vớ vẩn thừa thãi màu Xanh Trứng Sáo Của Tiffany. Chúng tôi lê chân quanh tầng năm hàng giờ liền, theo sát gót là một chuyên gia tư vấn đám cưới đang nai lưng uốn gối nhằm giúp chúng tôi có được Dịch Vụ Thượng Hảo Hạng và đề xuất những lựa chọn một cách tự tin đến mức tôi không thể không cảm thấy như bị theo dõi (“Mẫu vẽ sứ cần phải khiến cả hai người cảm thấy ‘đây chính là chúng mình, đây chính là chúng mình như một cặp uyên ương’... một lời tuyên bố quan trọng về phong cách của hai anh chị!”) trong khi Kitsey thì băn khoăn về phần trang trí: dải màu vàng nhé! không, màu lam! à khoan... cái ban đầu là gì nhỉ? bát giác có phải hơi quá đáng không? và cô nàng chuyên gia nhảy vào sốt sắng giải thích: hình kỷ hà thành thị... vân hoa lãng mạn... thanh tao phi thời gian... sặc sỡ cá tính... và dù tôi cứ nhắc đi nhắc lại ừ, cái đó hay lắm, cái đó cũng đẹp, em lấy cái nào anh cũng vui, em cứ chọn đi Kits, thì nàng chuyên gia không ngớt bày thêm hết cái này đến cái khác, rõ ràng mong có thể dụ dỗ tôi tỏ ra thiên vị hẳn về cái nào, và nhẫn nại giải thích từng điểm tinh tế của mỗi cái, điểm mạ vàng này, viền vẽ tay kia, cho đến khi tôi phải cắn vào lưỡi mới không thốt ra điều mình nghĩ: rằng có làm tài khéo mấy thì Kitsey có chọn mẫu x hay mẫu y cũng chẳng khác quái gì nhau cả, vì đối với tôi tất cả đều như nhau mà thôi: mới, thô kệch, 'một khối nặng chết chóc, chưa kể đến chi phí: tám trăm đô-la cho cái đĩa mới vừa ra lò hôm qua? Một cái đĩa? Có thể mua nguyên bộ đẹp tuyệt từ thế kỷ 18 với giá bằng một phần mấy thứ lấp lánh nhưng lạnh lẽo vừa nứt mắt này.

“Nhưng anh không thể nào thích tất cả mọi thứ tuyệt đối ngang nhau được! Và, vâng, đúng thế, tôi cứ quay lại mãi với kiểu Deco,” Kitsey quay sang cô nàng tiếp thị kiên nhẫn đeo đẳng, “nhưng thích lắm thì tôi cũng không nghĩ là nó thật hợp với chúng tôi,” rồi lại sang tôi: “Thế anh nghĩ sao?”

“Em muốn sao cũng được. Cái nào cũng ổn. Thật đấy,” tôi nói và thọc tay vào túi, nhìn đi chỗ khác khi thấy cô vẫn đứng đó kính cẩn chớp chớp mắt nhìn tôi.

“Trông anh có vẻ bức bối quá. Em mong anh nói anh thích gì.”

“Ừ, nhưng...” Tôi đã mở hộp quá nhiều đồ sứ từ những cuộc thanh lý sau một đám tang hay một gia đình tan vỡ, đến nỗi chỉ thấy cảm thương vô tận trước những giá bày hàng mới tinh khôi, lấp lánh, như một lời cam đoan ngầm rằng đồ bếp mới sáng bóng cũng hứa hẹn một tương lai không kém phần sáng bóng, không biết đến bi kịch.

“Sơn dương nhé? Hay là Chim sông Nile? Theo, anh nói đi, em biết anh phải thích một trong hai hơn chứ.”

“Cả hai đều là lựa chọn tối ưu. Cả hai đều thú vị, lạ mắt. Còn bộ này thì rất giản dị, để dùng hằng ngày,” cô tư vấn viên chêm vào trợ giúp, rõ ràng nghĩ giản dị là từ khóa để giải quyết các bậc chú rể đã cạn kiên nhẫn vì quá sức chịu đựng. “Hết sức giản dị, hết sức trung tính.” Có vẻ nguyên tắc của danh sách quà cưới là chú rể phải có quyền chọn bát ăn dùng hằng ngày (tôi nghĩ chắc là dùng trong bao nhiêu bữa tiệc xem siêu cúp bầu dục Super Bowl mà tôi sẽ tổ chức giữa cánh đàn ông với nhau, haha) còn các món “long trọng” thì phải dành cho chuyên gia: là các bà phụ nữ.

“Cái đó cũng được,” tôi nói gắt hơn ý muốn, khi nhận ra cả hai đang chờ tôi lên tiếng. Đồ đất nung trơn, trắng, hiện đại không phải là thứ bơm được quá nhiều hứng thú vào tôi, nhất là với cái giá bốn trăm đô-la một cái đĩa. Nó khiến tôi nghĩ đến những bà già dễ thương mặc đồ Marimekko mà thỉnh thoảng tôi tới thăm trong Ritz Tower: những bà góa giọng khàn khàn, đầu quấn khăn, đeo vòng tay hình con báo mong được chuyên tới Miami sống, trong những cán hộ đầy đồ đạc bằng kính mờ và thép mạ sáng loáng đã mua qua các công ty trang trí hồi những năm bảy mươi với giá ngang hàng nội thất Queen Anne[127] xịn, nhưng (trách nhiệm của tôi là phải thông báo với họ, một cách miễn cưỡng) không giữ được giá trị và nay bán lại còn không được giá bằng nửa số tiển họ bỏ ra ngày xưa.

“Đồ sứ…” Cô nàng tư vấn đưa ngón tay làm móng kiểu trung tính rà theo mép đĩa. “Tôi muốn các cặp vợ chồng đến gặp mình nghĩ về bạc đẹp, pha lê đẹp và đồ sứ như thế này...? Đấy là nghi lễ kết thúc ngày. Đấy là rượu vang, là vui vẻ, là gia đình, là bên nhau. Một bộ đồ sứ đẹp là cách tốt nhất để mang tới cuộc hôn nhân của anh chị một chút phong cách và lãng mạn vĩnh cửu.”

“Phải,” tôi đáp lại. Nhưng cái cảm xúc cô ta nói đến làm tôi khó chịu; và hai cốc Bloody Mary gọi ở Fred cũng chưa hoàn toàn giúp tôi nuốt trôi nó đi được.

Kitsey đang nhìn đôi khuyên tai, có vẻ còn nghi ngại. “Ừm, thế này nhé. Em sẽ đeo đôi này trong đám cưới. Nó rất đẹp, và em biết là của mẹ anh để lại.”

“Anh muốn em thích gì thì cứ đeo nấy.”

“Em sẽ cho anh biết em nghĩ gì.” Đùa cợt, cô đưa tay qua bàn nắm lấy tay tôi. “Em nghĩ anh nên đi ngủ.”

“Tất nhiên rồi,” tôi nói và áp bàn tay cô lên mặt mình, nhớ lại rằng mình đã hết sức may mắn.

II

MỌI CHUYỆN DIỄN RA RẤT NHANH. Chỉ sau hai tháng kể từ buổi tôi đến ăn ở nhà Barbour, Kitsey và tôi đã gặp gỡ gần như hằng ngày - những cuộc đi dạo dài, ăn tối (thỉnh thoảng là Match 65 hoặc Le Bilboquet, thỉnh thoảng ngồi trong bếp gặm bánh mì kẹp), nói chuyện về ngày xưa: về Andy, về những chủ nhật trời mưa bên bàn Cờ tỷ phú (“hai anh chơi ác không chịu được... cứ như là Shirley Temple đấu với Henry Ford và J. P. Morgan...”), về cái buổi tối cô khóc thút thít khi bị chúng tôi ép xem Hellboy chứ không phải Pocahontas, và những đêm đóng bộ muốn phát khùng - ít nhất là phát khùng với bọn con trai, khi phải ngồi lưng thẳng đơ ở Câu lạc bộ Du thuyền, uống Coca Cola pha chanh, còn ông Barbour thì dáo dác nhìn quanh phòng ăn tìm Amadeo, người phục vụ bàn ưa thích nhất, mà ông kiên quyết đòi giúp ông luyện thứ tiếng Tây Ban Nha dị hợm kiểu Xavier Cugat - bạn học ở trường những buổi liên hoan, lúc nào cũng có chuyện để nói, anh có nhớ cái này, anh có nhớ cái kia, có nhớ hồi chính mình... không phải như với Carole Lombard tất cả chỉ là rượu rồi lên giường và chẳng có gì để nói với nhau.

Không thể phủ nhận Kitsey và tôi cũng là hai kẻ rất khác nhau, nhưng cái đó không sao: suy cho cùng, như Hobie đã nhận xét rất có lý, chẳng phải hôn nhân luôn là sự hợp nhất của các mặt đối lập ư? Chẳng phải tôi cần mang những điều mới lạ đến cho cuộc đời cô và cô cũng thế? Và thêm nữa (tôi tự nhủ), chẳng phải đã đến lúc cần Bước Tiếp, Buông Tay, ngoảnh lưng lại với khu vườn đã khóa cửa cấm tôi vĩnh viễn? Sống Trong Hiện Tại, Tập Trung Vào Khoảnh Khắc chứ đừng sầu khổ tiếc thương điều mình sẽ không bao giờ có được? Hàng năm trời tôi tắm trong cái nhà kính của nỗi buồn hoài phí: Pippa Pippa Pippa, hoan hỉ chuyển qua tuyệt vọng, không có hồi kết, những sự việc hầu như chẳng có tí ý nghĩa gì cũng đủ khiến tôi lên tận mây xanh hoặc quẳng tôi xuống đáy sâu câm nín; tên cô trong điện thoại tôi, hoặc một bức email kết thư bằng “Yêu cậu nhiều” (mà Pippa kết như vậy trong mọi bức email, với bất kỳ người nào) sẽ khiến tôi lâng lâng cả mấy ngày trời, còn nếu khi gọi điện cho Hobie cô không yêu cầu chuyển máy gặp tôi (mà sao phải thế?), tôi sẽ chìm dưới tầng tầng sầu não phi lý. Tôi chỉ lừa mị mình, và tôi biết vậy. Tệ hơn nữa: tình yêu của tôi dành cho Pippa bị khoắng dưới đáy sâu trộn lẫn với mẹ, với cái chết của mẹ, với việc đánh mất mẹ và không cách nào có lại. Nỗi khát khao mù lòa và ấu trĩ muốn cứu vớt và muốn được cứu vớt, muốn tua lại quá khứ khiến nó thay đổi đi, không hiểu vì sao đã đeo lấy cô ngấu nghiến. Trong việc đó có yếu tố bất ổn, như một cơn bệnh. Tôi nhìn thấy những điều không có thật. Tôi chẳng khác gì mấy so với một gã sống trong nhà di động, theo dõi từ xa một cô gái chỉ thoáng nhìn thấy trong cửa hàng. Bởi vì sự thực là: Pippa và tôi gặp nhau đâu chừng hai lần một năm; chúng tôi có email và nhắn tin nhưng không có gì đều đặn; khi nào cô về thăm thành phố, chúng tôi trao đổi sách và cùng nhau đi xem phim; chúng tôi là bạn bè và chấm hết. Hy vọng được bắt đầu một mối quan hệ với cô chỉ hoàn toàn là ảo tưởng, trong khi nỗi dằn vặt, thất vọng lâu dài thì lại là thực tế quá đớn đau. Chẳng lẽ lại lấy nỗi ám ảnh vô cớ, vô vọng và không hồi đáp ấy làm cơ sở cho suốt phẩn đời còn lại của mình?

Tôi đã quyết tâm một cách có ý thức là phải bứt ra. Điều ấy đã khiến tôi phải huy động từng giọt ý chí cuối cùng, như một con thú mắc bẫy tự cắn đứt chân để giải thoát. Và không hiểu sao tôi đã làm được; và ở bờ bên kia là Kitsey, đưa cặp mắt xám pha lá mạ thích thú nhìn tôi.

Chúng tôi ở bên nhau rất vui. Chúng tôi rất hợp. Đấy là mùa hè đầu tiên cô ở thành phố, “cả đời em, thật vậy” Ngôi nhà ở Maine khóa kỹ, chú Harry cùng mấy đứa em họ đã lên Canada tới quần đảo Madeleine “và ở đây với mẹ em thật chả biết phải làm gì nữa, và... ôi, xin anh đấy, hãy kiếm việc gì làm cùng em đi. Anh sẽ đi cùng em ra bãi biển cuối tuần này nhé, chịu không?” Vậy là vào các cuối tuần chúng tôi đến khu Đông Hampton, ở nhà mấy người bạn cô đang đi nghỉ hè ở Pháp, còn trong tuần chúng tôi hẹn gặp trong trung tâm sau khi tôi hết giờ làm, uống rượu vang hâm hẩm trong những quán cà phê vỉa hè, những chiều tối ở Tribeca vắng hoe với những vệ đường nóng như rang và gió nóng từ lưới sắt vỉa hè thổi bay tia lửa đầu điếu thuốc lá trên miệng tôi. Rạp phim thì lúc nào cũng mát rượi, hay phòng King Cole, hay Oyster Bar ở khách sạn Grand Central nữa. Hai buổi chiều mỗi tuần - đội mũ, đi găng, giày Jack Purcell và váy ngắn gọn gàng, trát từ đầu đến chân kem chống nắng y tế (vì cũng như Andy, cô bị dị ứng nắng), cô một mình lái chiếc Mini Cooper đen đi Shinnecock hay Maidstone, chiếc xe đã sửa phần đuôi đủ sức đựng một bộ gậy đánh gôn. Trái với Andy, cô nói chuyện huyên thuyên rối rít, bật cười ngượng ngùng trước câu đùa của chính mình, có phần phảng phất kiểu năng lượng tán loạn của ông bố nhưng không kèm theo lối bàng quan mỉa mai. Chỉ cần bôi phấn khắp mặt cô rồi vẽ nốt ruồi là cô sẽ biến thành một thị nữ ở Versailles, với cái làn da trắng và cặp má hồng ấy, cái miệng vui tươi liến thoắng ấy. Cô mặc váy suông lanh ngắn cũn, dù ở phố hay quê, thêm phụ kiện túi cá sấu kiểu cổ của Gaga, đính tên và địa chỉ vào mặt trong đôi giày Christian Louboutin cao đến giết người mà cô vẫn diễu khắp (“giày đau như đinh!”) phòng khi cần tuột giày ra nhảy nhót hay bơi và rồi quên mất để đâu: giày bạc, giày thêu, giày thắt nơ, giày mũi nhọn, mỗi đôi ngàn đô. (“Ky bo kẹt xỉ!” cô hét vọng xuống cầu thang, khi - ba giờ sáng, người mềm nhũn vì rum và Coca - cuối cùng tôi cũng loạng choạng đi xuống nhà vẫy taxi vì hôm sau phải làm việc.)

Chính là cô đã yêu cầu tôi cưới. Trên đường đi dự tiệc. Chanel số 19, váy thiên thanh. Chúng tôi vừa bước ra ngoài Đại lộ Công viên - cả hai đều hơi u mê sau mấy ly cocktail trên tầng - và đèn đường bật sáng đúng vào giây bước ra khỏi cửa, và cả hai dừng phắt lại nhìn nhau: là do chúng mình ư? Giây phút ấy buồn cười đến nỗi cả hai cùng phá ra cười như điên dại: cứ như là ánh sáng thoát ra từ chính chúng tôi, như là chúng tôi có thể cấp điện cho cả Đại lộ Công viên. Và khi Kitsey chộp lấy tay tôi mà hỏi: “Anh có biết em đang nghĩ chúng mình nên làm gì không, Theo?” thì tôi biết rõ cô định nói điều gì.

“Nên làm không?”

“Làm đi! Anh không thấy thế à? Em nghĩ là mẹ sẽ vui lắm đấy!”

Thậm chí còn chưa chốt ngày. Ngày cứ liên tục thay đổi, tùy xem nhà thờ có chỗ lúc nào, một vài nhân vật thiết yếu trong bữa tiệc rảnh rang ra sao, lại còn ai đó phải chạy đua giành cúp hay công việc đến hạn hay những cái gỉ cái gi cái gì đó nữa. Vì thế, làm sao mà đám cưới này hình như lại đang trên đà trở thành một vụ khá đình đám - danh sách khách mời đã kéo đến mấy trăm, tổn phí hàng mấy nghìn, phục trang và dàn dựng vũ điệu như một vở diễn trên Broadway, làm sao mà đám cưới này có vẻ lại đang nở ra thành nguyên một sự kiện như vậy, thì tôi cũng thực tình không hiểu. Tôi biết đôi khi bà mẹ cô dâu là thủ phạm trong những đám cưới mất kiểm soát, nhưng trường hợp này thì dù sao cũng không thể trách tội bà Barbour, người hầu như chỉ ở tịt trong phòng dính lấy giỏ đồ thêu, không bao giờ nghe điện thoại, không nhận lời mời đi đâu, và thậm chí còn chẳng ra ngoài cắt tóc nữa, trong khi ngày xưa bà có hẹn làm tóc cứ hai ngày một lần đều đặn, mười một giờ sáng trước khi đi ăn trưa.

“Mẹ sẽ thích mê đi mà xem!” Kitsey đã thì thầm và thúc khuỷu tay nhỏ nhọn hoắt vào sườn tôi khi cả hai hối hả chạy lại phòng bà Barbour. Và ký ức về niềm vui của bà Barbour khi nghe cái tin ấy (anh nói đi, Kitsey bảo thế, mẹ sẽ vui hơn nhiều nếu anh là người nói ra) là một khoảnh khắc tôi đã tua đi tua lại trong đầu không biết chán: ánh mắt bất ngờ, rồi niềm vui nở bừng không che giấu trên khuôn mặt lạnh lùng mệt mỏi. Một tay bà chìa cho tôi, tay kia cho Kitsey, nhưng nụ cười tuyệt đẹp - mà tôi sẽ mãi mãi không quên - thì dành cho tôi trọn vẹn.

Ai từng biết tôi lại có sức mạnh làm cho người khác vui mừng đến vậy? Hoặc chính tôi cũng có thể vui mừng đến thế? Tâm trạng tôi là một cái ná bắn thun; sau khi bị nhốt kín, đánh thuốc ngủ hàng năm trời, thì nay trái tim tôi đang bay vèo vèo cuống quýt như một chú ong trong cốc, cái gì cũng sáng rỡ, rõ nét, bối rối, sai lầm - nhưng đấy là một nỗi đau sắc ngọt, trái ngược với cảnh khổ sở lầm lũi đã đeo đẳng lấy tôi hàng năm trời dưới tác dụng của thuốc, như một chiếc răng sâu, một cơn nhức nhối âm ỉ khó chịu như một vật lấm bẩn. Sự sáng rõ là một niềm vui lớn, như thể tôi vừa gỡ cặp kính bị nhòe xước khiến mọi thứ trước mắt đều mù mờ. Suốt mùa hè tôi đã gần như mê muội: rung rinh, váng vất, ngập tràn năng lượng, năng lượng lấy từ rượu gin và tôm bóc nõn và tiếng bụp say người khi vợt đập vào bóng. Và trong đầu chỉ rộn ràng một chữ Kitsey, Kitsey, Kitsey!

Và bốn tháng đã trôi qua, đã đến tháng Mười hai, những sáng mát lạnh và âm hưởng Giáng sinh trong không khí, còn Kitsey và tôi đã đính hôn để chuẩn bị cưới và tôi may mắn chừng nào? Nhưng dù tất cả đều hoàn hảo, toàn những trái tim và hoa, như đoạn kết một vở nhạc kịch có hậu, tôi chợt thấy phát ớn. Vì những lý do không tên nào đó mà luồng năng lượng đã nhấc bổng tôi lên, đưa tôi qua khắp mùa hè nay lại bỏ tôi rơi đánh bịch khi vào tháng Mười, vào giữa cơn mưa phùn buồn thảm có vẻ như kéo dài vô tận về mọi hướng: chỉ trừ vài ngoại lệ cực ít ỏi (Kitsey, Hobie, bà Barbour), tôi ghét phải giao tiếp với mọi người, không thể chú ý đến bất ký điều gì ai đang nói, không nói chuyện được với khách hàng, không gắn nhãn được cho các món đồ bán, không đi nổi trên tàu điện ngầm, mọi hoạt động của con người đều dường như vô giá trị, không lý giải nổi, như một gò kiến nhung nhúc đen đặc giữa chốn hoang dã, khắp bốn phía đều không có lấy một đốm sáng, những loại thuốc chống trầm cảm ngoan ngoãn uống tám tuần nay cũng chẳng giúp được gì, và cả những loại trước đó cũng vậy (nhưng tôi đã thử từng loại một mà; rõ ràng tôi thuộc số 20% bất hạnh không được tưởng thưởng bằng đồng cỏ xuân bươm bướm bay mà bằng Đau Đầu Dữ Dội và Ý Muốn Tự Sát); và dù đôi khi, bóng tối hé màn vừa đủ cho tôi hình dung bối cảnh xung quanh, những dáng hình quen thuộc chợt rõ nét giống như đồ đạc trong phòng ngủ khi rạng sáng, nhưng nỗi mừng rỡ ấy bao giờ cũng chỉ là tạm thời, chẳng hiểu sao buổi sáng chói chang không bao giờ đến, bao giờ mọi thứ cũng tắt phụt trước khi tôi kịp định vị mình, và lại thấy mình ở đó, mực đen đổ ụp vào mặt, chới với sờ soạng giữa bóng tối.

Tại vì sao lại có cảm giác lạc lối đến như vậy thì tôi cũng không biết nữa. Tôi biết mình vẫn chưa quên được Pippa, và hẳn sẽ không bao giờ quên cô; đó là một việc tôi sẽ phải tìm cách sống chung, nỗi buồn khi yêu một kẻ không tài nào với tới; nhưng tôi cũng biết khó khăn trước mắt cấp thiết hơn là làm sao bắt kịp một nhịp điệu giao tiếp xã hội tăng vọt rất khó chịu (ít nhất là đối với tôi). Kitsey và tôi không còn được hưởng những tối tay đôi nhẹ nhõm khỏe khoắn, chỉ có hai người nắm tay nhau ngồi cùng một phía bàn trong nhà hàng lim dim đèn nữa. Thay vào đó, hầu như tối nào cũng là tiệc chiêu đãi, các bàn chật ních trong nhà hàng cùng bạn bè cô, nỗi căng thẳng khiến cho tôi (nhấp nhổm vì thiếu thuốc, tan nát từng sợi thần kinh) rất khó biểu lộ vẻ hào hứng cần có, nhất là khi đang mệt phờ sau giờ làm và rồi đến những việc chuẩn bị cho đám cưới, cả nghìn cả triệu chi tiết lặt vặt mà tôi phải tìm cách thể hiện mình cũng nhiệt tình như cô, một cơn bão màu giấy lót những tờ quảng cáo và hàng hóa. Đối vớì cô nó đã trở thành một công việc toàn thời gian: đi xem những hàng văn phòng phẩm và hoa, tìm hiểu về phòng tiệc và dịch vụ nấu tiệc, thu thập hàng thước mẫu vải và hàng hộp bánh ngọt con tí cùng mẫu bánh ga tô lớn, băn khoăn rồi liên tục tham vấn tôi về những sắc ngà hay oải hương gần hệt như nhau trên bảng màu, thiết kế một loạt buổi ngủ đêm “giữa con gái với nhau” cùng các cô phù dâu và một “cuối tuần cho các chàng trai” cho tôi (do Platt tổ chức?? ít nhất tôi cũng có thể tin tưởng là sẽ được say mèm từ đầu chí cuối), sau đó lại còn kế hoạch đi trăng mật, từng chồng sách giới thiệu giấy bóng (Fiji hay Nantucket? Mykonos hay Capri?). “Tuyệt vời,” tôi cứ nhắc đi nhắc lại bằng cái giọng hồn hậu dành riêng cho Kitsey mới có, “trông cái nào cũng tuyệt lắm,” mặc dù xét theo quan hệ giữa gia đình cô với các nước trong lịch sử, tôi thấy thật kỳ là cô lại không để mắt tới Vienna, hay Paris, hay Praha, hay bất kỳ chỗ nào cũng được miễn không phải một hòn đảo bé tí chìm nghỉm giữa lòng đại dương.

Nhưng chưa bao giờ tôi an tâm về tương lai như bây giờ, và mỗi lần nhắc mình nhớ lại con đường đúng đắn đã chọn, một việc tôi có dịp làm thường xuyên, thì tôi không chỉ nghĩ đến Kitsey mà thôi, mà tới cả bà Barbour; niềm hân hoan của bà đã là nguồn trấn an và nuôi dưỡng trái tim tôi, ngập tràn những ngóc ngách đã bấy lâu khô cạn. Tin đính hôn của hai chúng tôi đã làm bà hân hoan, tỉnh táo lên trông thấy; bà bắt đầu trở dậy đi quanh căn hộ, đã điểm trang bằng một chút môi hồng rất nhạt, và ngay cả những trao đổi thông thường với tôi cũng nhuốm một ánh sáng điều hòa, yên ổn, an lành khiến không gian quanh chúng tôi dường như rộng thêm ra, êm đềm soi tỏ những góc khuất tối tăm nhất trong lòng tôi.

“Bác chưa bao giờ nghĩ mình lại có thể vui đến mức này được nữa,” một đêm bà đã khẽ khàng thổ lộ, trong bữa tối, khi Kitsey bỗng dưng nhảy bật lên chạy ra ngoài lấy điện thoại như cô vẫn hay làm thế, chỉ còn có hai chúng tôi bên bàn đánh bài trong phòng bà, ngượng nghịu đẩy đẩy mấy miếng măng tây và cá hồi nướng. “ Vì - lúc nào cháu cũng thật tốt với Andy - nâng đỡ nó, bồi đắp lòng tự tin cho nó. Nó đã phô ra những mặt tốt nhất khi ở bên cháu, lúc nào cũng vậy. Và - bác thật mừng rằng cháu sẽ trở thành một phần chính thức của gia đình, rằng bây giờ chúng ta sẽ khẳng định nó bằng pháp lý, bởi vì - ôi, chắc là bác không nên nói điều đó đâu, và hy vọng cháu bỏ qua cho bác được nói ra lời từ đáy lòng trong một lúc, nhưng lúc nào bác cũng coi cháu như là con của chính mình, cháu biết không? Kể từ khi cháu còn nhỏ cũng vậy.”

Lời này khiến tôi ngỡ ngàng và cảm động đến mức chỉ có thể đáp lại rất vụng về, lắp bắp, bối rối khiến bà động lòng thương, chuyển câu chuyện sang hướng khác. Nhưng mỗi lần nhớ lại, tôi lại tràn ngập cảm giác ấm áp soi sáng cõi lòng. Một hồi ức cũng khoái chí (dù hơi nhỏ mọn) không kém là quãng lặng ngắn và kinh ngạc của Pippa khi tôi báo tin cho cô trên điện thoại. Hết lần này đến lần khác tôi đã tua lại quãng lặng ấy trong đầu, nhấm nháp cái im lặng sững người của cô: “Hả?” Rồi tỉnh lại: “Ôi, Theo, thật tuyệt vời quá! Tớ rất nóng lòng được gặp cô ấy!”

“Ôi, cô ấy là một người hoàn hảo” tôi nhận xét đầy nọc độc. “Tớ đã yêu cô ấy kể từ khi chúng tớ còn bé xíu.”

Mà, một điều tôi vẫn còn tiếp tục nhận ra bằng đủ cách khác nhau, đấy hoàn toàn là sự thật. Sự giao nhau giữa quá khứ và hiện tại trở nên đậm màu sắc dục: tôi khoái thú vô kể khi nhớ lại nỗi khinh miệt mà Kitsey lên chín dành cho tôi, con mọt sách tuổi mười ba (đảo tròn mắt và bĩu môi mỗi lần bị xếp cạnh tôi giờ ăn tối). Và tôi còn khoái trá hơn nữa vẻ choáng váng không che giấu của những ai đã biết chúng tôi hồi nhỏ: mày? Và Kitsey Barbour á? Thật hả? Cô đó? Tôi khoái cái niềm vui và sự ác ý trong chuyện đó, cái cơ hồ bất khả: chuồi vào phòng cô sau khi mẹ đã ngủ - chính căn phòng cô từng khóa trái ngăn tôi hồi còn nhỏ, vẫn giấy dán tường hồng ấy, chưa hề thay đổi từ thời Andy còn sống, những tấm biển vẽ tay - Ở NGOÀI, ĐỪNG LÀM PHIỀN - tôi đẩy cô vào, Kitsey đóng cửa sau lưng cả hai, đưa ngón tay lên miệng tôi, vẽ một đường theo môi tôi, cái lần đầu tuyệt diệu cùng ngã xuống giường cô, mẹ ngủ đấy, suỵt!!

Mỗi ngày tôi đều có vô số dịp nhắc nhở mình là người may mắn đến mức nào. Kitsey không bao giờ mệt mỏi; Kitsey không bao giờ âu sầu. Cô mời gọi, nhiệt huyết, tràn đầy âu yếm. Cô đẹp, vẻ đẹp sáng ngời và trắng như sữa khiến người người trên phố đều ngơ ngẩn. Tôi thán phục thấy cô giỏi chuyện trò đến thế, rất tích cực trong thế giới, rất thú vị và tự nhiên “cô bé đầu trên mây!” như Hobie gọi, trìu mến vô kể, cô quả là một ngụm khí lành! Ai cũng yêu cô. Và bất kể chứng phù phiếm dễ lây của cô, tôi biết đấy chỉ là một điều mắc mứu nhỏ, cái điều rằng Kitsey có vẻ không bao giờ thật xúc động vì thứ gì. Ngay cả cô nàng Carole Lombard cũng từng trào nước mắt vì những chàng bạn trai cũ hay những chó mèo bị hành hạ trên bản tin, hay khi một số quán bar kiểu cũ bị đóng cửa ở Chicago, nơi xuất thân của cô ả. Nhưng hình như không có thứ gì khiến Kitsey thấy đặc biệt bức thiết, cảm động hay thậm chí là đáng ngạc nhiên. Về chuyện đó thì cô giống hệt mẹ và anh trai mình, nhưng không hiểu sao sự dè dặt của bà Barbour hay Andy vẫn có gì rất khác với kiểu Kitsey buông những nhận xét đùa bỡn hay cười cợt bất kể khi nào ai nêu ra đề tài gì nghiêm trọng. (“Chán phèo,” tôi đã từng nghe cô thở dài nửa nhạo cợt và nhăn mũi khi có người hỏi thăm bà mẹ.) Thêm nữa - và chỉ cần nghĩ đến đã đủ khiến tôi váng đầu khó chịu - tôi cứ dõi tìm một dấu hiệu buồn thương nào về chuyện Andy hay ông bố, và dần dà đã bắt đầu hoang mang khi không tìm ra. Vậy cái chết của họ chẳng hề chạm tới cô chút nào ư? Chẳng phải đáng ra chúng tôi ít nhất thì cũng bàn đến chuyện ấy một lúc nào đó? Một mặt, tôi cảm phục sự dũng cảm của cô: ngẩng cao đầu sống tiếp khi đối diện với thảm kịch, hoặc đại loại vậy. Có thể chỉ là cô cực kỳ kín đáo, cực kỳ giấu mình, giỏi bày ra tấm mặt nạ cự phách. Nhưng vũng nước nông lấp lánh ấy, thoạt nhìn thì thật mời mọc, lại không hề thoải dần thành đáy sâu, khiến đôi khi tôi có cảm giác rất ức chế là đang bì bõm lội trong khoảng nước ngập đến gối, chỉ mong bước hụt, rơi vào một quãng đủ sâu để có thể bơi.

Kitsey đang đập nhẹ vào cổ tay tôi. “Sao thế?”

“Barneys. Ý em là chúng mình đã ở đây rồi? Có lẽ nên dạo qua cánh Nội thất nữa? Em biết là mẹ sẽ không thích chúng mình lập danh sách quà ở đây, nhưng cũng hay nếu chuyển sang cái gì đó bớt truyền thống một chút để dùng hằng ngày.”

“Không...” Tôi lấy cốc của mình và nuốt cạn “anh rất cần phải xuống trung tâm, nếu em không phiền. Có hẹn với khách.”

“Thế tối nay anh có lên bắc không?” Kitsey thuê chung căn hộ khu 70 Đông với hai người khác, không xa văn phòng tổ chức nghệ thuật mà cô làm việc.

“Không biết nữa. Có thể còn phải ăn tối. Nếu được anh sẽ kiếm cách chuồn.”

“Cocktail thì sao? Làm ơn? Hay ít nhất thì đi uống sau bữa tối cũng được? Mọi người sẽ buồn lắm nếu anh không xuẩt hiện ít nhất là một tí xíu. Charles và Bette…”

“Anh sẽ cố. Hứa đấy. Đừng quên cái kia,” Tôi nói và hất đầu về phía đôi khuyên tai, vẫn còn nằm trên khăn trải bàn.

“Ôi, không! Tất nhiên là không rồi!” Cô ăn năn nói và chộp lấy, ném vào trong túi như một nắm tiền lẻ.

III

KHI CHÚNG TÔI RA NGOÀI hòa vào dòng ngưởi sắm Giáng sinh, tôi thấy chông chênh và buồn bực; những tòa nhà thắt ruy-băng, những cửa sổ lấp lánh chỉ càng làm nỗi buồn đè trĩu thêm nặng nề: trời mùa đông tối thẫm, những vực thẳm xám toàn lông thú và nữ trang cùng tất cả quyền uy và sầu bi của tiền bạc.

Mình gặp chuyện gì thế này? tôi nghĩ, trong khi Kitsey và tôi ngang qua Đại lộ Madison, cái áo khoác Prada hồng nhấp nhô rực rỡ giữa dòng người. Sao mình phải ấm ức với Kitsey chỉ vì cô không có vẻ bị ám ảnh với Andy và bố, vì cô đang tìm cách sống tiếp cuộc sống của mình?

Nhưng, nắm lấy khuỷu tay Kitsey và được thưởng một nụ cười rạng rỡ, tôi lại nhất thời được nhẹ mình, tạm quên những nỗi lo âu. Đã tám tháng kể từ ngày tôi bỏ lại Reeve trong cái nhà hàng Tribeca ấy; vẫn chưa thấy ai liên lạc lại vì một trong những món đồ giả từng bán, dù tôi sẵn lòng nhận lỗi khi nào họ gọi: thiếu kinh nghiệm, mới vào nghề, tiền của ngài đây ạ, xin nhận lời tạ lỗi chân thành của tôi. Hằng đêm thức trắng, tôi an ủi mình rằng nếu tình hình có chuyển xấu thì ít ra tôi cũng không để lại dấu vết: tôi đã cố càng ít giấy tờ các vụ mua bán này càng tốt, những món nhỏ hơn còn đề nghị giảm giá nếu trả tiền mặt.

Tuy nhiên. Tuy nhiên. Đây chỉ là vấn đề thời gian. Chỉ cần một người xuất hiện, sẽ gây ra cả một trận núi lửa. Và phá tan tành danh tiếng của Hobie là một chuyện, nhưng chừng nào số người đòi hoàn đổi nhiều đến mức tôi không còn đủ tiền trả lại cho họ nữa, thì sẽ có kiện tụng: và khi kiện tụng thì Hobie, với tư cách đồng chủ nhân cửa hiệu, sẽ bị bêu tên. Thật khó mà thuyết phục tòa án rằng ông không biết những việc tôi làm, nhất là một số món tôi đã bán với giá Di Sản Mỹ và nếu chuyện đó xảy ra, tôi còn không nghĩ rằng Hobie sẽ thiết tha tự bào chữa cho mình, nếu như việc đó sẽ khiến tôi đơn độc. Tất nhiên, rất nhiều trong số những kẻ mua hàng của tôi thừa mứa tiền đến mức chẳng thèm để ý. Tuy nhiên. Tuy nhiên. Khi nào sẽ đến lúc có kẻ nghĩ ra phải ngó xuống mặt dưới mấy cái ghế ăn Heppelwhite (chẳng hạn) rồi phát hiện ra chúng không hoàn toàn như nhau? Rằng vân gỗ không khớp, rằng bốn chân không giống? Hay đưa một cái bàn đi thẩm định độc lập và phát hiện ra loại ván lạng ấy không được dùng, thậm chí còn chưa được phát minh ra, vào thập niên 1770? Mỗi ngày tôi lại tưởng tượng xem vụ lừa đảo đầu tiên bị phát hiện sẽ là bao giờ, và ra sao: thư của một tay luật sư, điện thoại của ban Nội thất Hoa Kỳ nhà Sotheby, một chuyên gia trang trí nội thất hay một nhà sưu tầm lao sầm vào cửa hiệu buộc tội, Hobie đi xuống xưởng, nghe này, chúng ta có vấn đề rồi, cháu có rảnh không?

Nếu những tin tức đủ sức phá nát hôn nhân này phát lộ trước đám cưới, thì tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Điều ấy quá sức tôi nghĩ đến. Rốt cuộc có thể sẽ chẳng có đám cưới nào. Nhưng, vì Kitsey và vì bà mẹ - có vẻ nếu thông tin đến sau đám cưới thì sẽ còn tàn nhẫn hơn, nhất là vì nay nhà Barbour chẳng còn được dư dả như hồi ông Barbour còn sống. Dòng tiền bị mắc ở vài chỗ nào đó. Tiền bị giam trong các quỹ ủy thác. Mẹ đã phải giảm giờ cho một số kẻ ăn người làm, số còn lại cho nghỉ hẳn. Còn bố, như Platt tiết lộ khi tìm cách lôi kéo tôi chú ý đến những món đồ cổ khác trong căn hộ - dạo cuối đời đã phát rồ và đem đầu tư hơn 50% lượng cổ phiếu nắm giữ vào VistaBank, một con quái vật nhà băng thương mại, vì “những lý do tình cảm” (cụ năm đời của ông Barbour từng làm giám đốc một trong mấy ngân hàng gốc từ hồi xửa xưa, ở Massachusetts, đã từ lâu mất tên sau khi sáp nhập vào Vista). Không may thay, Vista đã ngừng chia cổ tức, và đóng cửa chỉ ít lâu sau khi ông mất. Vì thế mà bà Barbour đã giảm hẳn lượng đóng góp cho các quỹ từ thiện mà xưa kia bà từng quá hào hiệp, vì thế mà Kitsey phải đi làm. Và vị trí biên tập ở nhà xuất bản xinh xẻo có gu của Platt, như anh ta vẫn thường nhắc lại với tôi khi đã mềm môi, lương còn thấp hơn mẹ từng trả cho người làm ngày xưa. Nếu tình hình chuyển xấu, tôi tin chắc bà Barbour sẽ làm mọi cách giúp đỡ, còn Kitsey, là vợ tôi, sẽ bắt buộc phải giúp dù muốn hay không. Nhưng chơi xấu họ như vậy thì quá bẩn, nhất là vì những lời tán tụng tưng bừng của Hobie đã khiến tất cả tin chắc (nhất là Platt, người này phải lo xoay xỏa với năng lực chi tiêu ngày càng hẻo của gia đình) rằng tôi là một thứ thầy phù thủy tài chính đã giáng trần để cứu giúp cô em. “Cậu biết cách kiếm tiền,” anh ta đã nói thẳng toẹt khi cho tôi biết tất cả đều sướng tỉnh người khi Kitsey quyết định lấy tôi chứ không phải một trong mấy gã vẫn lượn lờ tán tỉnh quanh cô. “Còn nó thì không.”

Nhưng điều làm tôi lo lắng nhất là Lucius Reeve. Dù vẫn không thấy ỏ ê gì về cái tủ hai tầng, nhưng tôi bắt đầu nhận được, từ mùa hè, một chuỗi thư rất đáng lo ngại: viết tay, không chữ ký, trên thiếp viết thư viền xanh in tên ông ta trên cùng bằng kiểu chữ như khắc đồng: Lucius Reeve

Đã gần ba tháng kể từ khi tôi đưa ra một lời đề nghị có lý và công bằng xét theo mọi chuẩn mực. Làm sao anh lại có thể thấy đề nghị ấy là không hợp lý?

Và tiếp đó:

Lại thêm tám tuần nữa trôi qua. Chắc anh hiểu nỗi khó xử của tôi. Sự bực dọc càng lúc càng lớn.

Và rồi ba tuần nữa, đúng một dòng:

Sự im lặng của anh thật không chấp nhận được.

Những lá thư làm tôi khốn khổ, dù cố tìm cách xóa chúng ra khỏi tâm trí. Mỗi khi nhớ đến chúng, thường xuyên và không báo trước, giữa giờ ăn, khi đang đưa nĩa lên môi, tôi lại cảm giác như vừa bị tát cho tỉnh mộng. Tôi hoài công nhắc nhở mình rằng những tuyên bố của Reeve trong nhà hàng thật quá mức lạc đích. Đáp lại ông ta dù cách nào cũng là ngớ ngẩn. Chỉ có một cách là tảng lờ, như với một gã ãn mày dai dẳng trên đường.

Nhưng rồi liền một lúc xảy ra hai sự việc đáng ngại. Tôi vừa lên nhà hỏi Hobie có muốn ra ngoài ăn trưa không - “Được, đợi một chút,” ông nói; ông đang xem thư bên cái tủ búp phê, kính đung đưa chóp mũi. “Hừm,” ông nói và xoay ngược một phong bì xem mặt trước. Ông mở ra, nhìn tấm thiếp bên trong, giơ lên thật xa để nhìn nó qua đằng trên kính, rồi lại kéo sát mắt.

“Xem này,” ông nói. Ông đưa thiếp cho tôi. “Chuyện này là chuyện gì thế?”

Trên tấm thiếp là nét chữ đã quá quen thuộc của Reeve, chỉ đúng hai câu: không mào đầu, không chữ ký.

Đến lúc nào thì có thể coi sự chậm trễ này là vô lý? Bao giờ chúng ta mới có thể tiến tới về việc tôi đã đề xuất với cộng sự trẻ của ông, vì rõ ràng cả hai người đều chẳng được lợi ích gì khi tiếp tục thế giằng co này?

“Ôi giời ơi,” tôi đặt tấm thiếp xuống bàn rồi ngoảnh đi. “Cha mẹ trời đất.”

“Sao?”

“Ông ta đấy. Có cái tủ hai tầng ấy.”

“À, người đó,” Hobie nói. Ông chỉnh kính, lặng lẽ nhìn tôi. “Cuối cùng thì ông ta có rút tiền từ cái séc đó không?”

Tôi cào tay lên tóc. “Không.”

“Thế cái đề xuất này là sao? Ông ta nói chuyện gì vậy?”

“Cái này...” Tôi đi ra vòi nước lấy một cốc, đây là mẹo từ xưa của bố khi nào ông cần một giây trấn tĩnh lại “cháu không muốn làm phiền bác, nhưng gã này gần đây đã trở nên phiền toái ghê gớm. Dạo này cháu chỉ vứt thư đi không mở ra. Nếu bác còn thấy thư của ông ta thì cháu nghĩ tốt nhất bác cứ quẳng vào thùng rác.”

“Ông ta muốn gì?”

“ Ờ… ” Vòi nước rất ầm, tôi lấy đầy cốc, “à.” Tôi quay lại, lau tay qua trán. “Điên rồ lắm. Cháu đã viết séc để mua lại món đó, như có kể với bác. Nhiều hơn cả số tiền ông ta trả.”

“Thế còn vấn đề gì?”

“À...” Tôi nuốt ực một ngụm “tiếc thay ông ta còn đang mơ tưởng chuyện khác. Ông ta nghĩ rằng, ờm, chúng ta đang mở cả một dây chuyền sản xuất ở đây, và đang muốn dự phần vào đó. Bác hiểu không, thay vì đem séc của cháu ra ngân hàng? ông ta lại kiếm được một bà già nào đó, hộ lý trực từ sáng đến tối, và ông ta muốn chúng ta dùng căn hộ của bà kia để, ờm...”

Hobie nhướng cao mày. “Cắm à?”

“Vâng,” tôi đáp và mừng vì ông lại là người nói ra chữ đó. “Cắm” là một mánh trong đó hàng giả hay thứ cấp được cài vào các nhà riêng, thường là của người cao tuổi, để bán cho những tay kền kền đang bâu quanh giường hấp hối: những quân ăn bám quá háo hức muốn lột bà già chụp ống oxy đến nỗi không nhận ra chính mình mới là kẻ đang bị lột. “Lúc cháu định trả lại tiền cho ông ta, thì ông ta đề xuất như vậy. Chúng ta cấp hàng. Chia 50-50. Và ông ta cứ lằng nhằng mãi từ hồi đó đến giờ.”

Hobie ngớ ra. “Thế thì lố bịch quá.”

“Vâng…” Nhắm mắt, bóp mũi “nhưng ông ta dai lắm. Vì thế cháu mới nghĩ bác nên...”

“Bà này là ai?”

“Một bà, người thân cao tuổi gì đấy, ai chả thế.”

“Tên bà ta là gì?”

Tôi áp cốc nước lên thái dương. “Chịu.”

“Ở đây à? Trong thành phố à?”

“Cháu đoán thế.” Tôi không ưa phương hướng hỏi han này lắm. “Dù sao thì, bác cứ vứt đi là xong. Cháu xin lỗi không báo sớm hơn nhưng thực tình cháu không muốn làm bác lo lắng. Ta cứ lờ đi là ông ta sẽ chán thôi.”

Hobie nhìn tấm thiếp, rồi nhìn tôi. “Bác sẽ giữ cái này. Không,” ông sắc giọng khi tôi tìm cách ngắt lời, “thế này là quá đủ để mang đến cảnh sát nếu đến lúc. Bác không lo về cái tủ - không, không,” ông nói và giơ tay chặn tôi lại, “thế này không được đâu, cháu thì tìm cách sửa sai mà ông ta lại định tìm cách ép cháu vào việc phạm pháp. Chuyện này diễn ra được bao lâu rồi?”

“Cháu cũng chẳng biết. Vài tháng gì đó?” tôi nói khi ông vẫn nhìn tôi.

“Reeve.” Ông nhìn tấm thiếp, mày nhăn cả lại. “Để bác hỏi Moira.” Moira là tên bà DeFrees. “Nếu ông ta lại viết thì bảo bác.”

“Tất nhiên rồi.”

Tôi còn không dám nghĩ xem sẽ có chuyện gì xảy ra nếu nhỡ may bà DeFrees lại quen Lucius Reeve, hay là biết ông ta, nhưng may thay mặt trận đó không đưa lại thêm lời tiếng nào nữa. Quả thật chỉ là do may mắn mà lá thư gửi cho Hobie mới có lời lẽ mập mờ như vậy. Nhưng ý đe dọa bên trong thì quá rõ. Thật ngớ ngẩn nếu đi lo âu rằng Reeve sẽ làm theo ý đó và đi cầu viện luật pháp, bởi tôi không ngừng nhắc nhở mình, cơ may duy nhất để ông ta chạm được vào bức tranh, là tôi vẫn còn được tự do đi lấy nó.

Thế nhưng, kỳ quái sao, điều này lại chỉ càng khiến tôi khao khát được mang nó về sát bên mình, ngắm nghía nó bất cứ khi nào tôi muốn. Dù biết chuyện này là bất khả, tôi vẫn nghĩ về nó không ngừng. Có ngoảnh đi đâu, có cùng Kitsey tới thăm căn hộ nào, tôi cũng nhìn ra ngay những nơi có khả năng giấu nó: tủ chạn cao, lò sưởi giả, những xà nhà rộng phải bắc thang cao mới leo tới, ván sàn dễ dàng nậy lên. Hằng đêm tôi nằm nhìn bóng đêm, mơ tưởng một cái tủ ly chế tạo riêng, chống lửa, để cất nó đi an toàn kín kẽ, hoặc ảo tưởng hơn nữa, một căn buồng bí mật như kiểu Yêu Râu Xanh, môi trường điều hòa, khóa số ở ngoài.

Của tôi, của tôi. Sợ hãi, tôn sùng, giấu giếm. Nỗi mừng vui và kinh hoảng của kẻ ôm niềm đam mê bệnh hoạn. Tôi tải những bức hình chụp nó về máy tính và điện thoại, dù biết rõ làm vậy là điên rồ, để thỏa thuê ngắm nghía nó khi ở riêng, những nét bút số hóa, mảnh nắng trời thế kỷ 17 bị nén thành những chấm và điểm, nhưng màu sắc càng trong trẻo, ấn tượng về nét vẽ nổi gờ càng phong phú, thì tôi càng khao khát được chạm tay vào nguyên bản, vào vật thực tắm trong ánh nắng, huy hoàng, không gì thay thế được.

Môi trường sạch bụi. An ninh 24/24. Dù cố không nghĩ đến lão già người Áo đã nhốt người phụ nữ trong hầm suốt hai mươi năm[128], nhưng hại thay đấy lại chính là cách ví von thường xuyên xuất hiện trong đầu nhất. Nhỡ tôi chết đi? Bị xe buýt tông chẳng hạn? Liệu cái bọc gói xấu xí có bị tưởng là rác và vứt vào lò thiêu? Ba bốn lần, tôi đã gọi điện nặc danh đến nơi bảo quản để trấn an mình về một điều đã biết sau cả tá lần lo lắng xem đi xem lại website: nhiệt độ và độ ẩm được bảo đảm là trong ngưỡng an toàn cho việc bảo quản tác phẩm nghệ thuật. Đôi khi tỉnh giấc, tôi cảm giác toàn bộ chuyện ấy chỉ là một giấc mơ, dù chỉ nháy mắt sau đã nhớ ra không phải vậy.

Nhưng không thể dù chỉ nghĩ đến chuyện đi lên đó, khi Reeve đang rình như một con mèo chực đợi tôi chạy qua phòng. Tôi phải ngồi thật yên. Không may thay, tiền thuê ngăn tủ chỉ ba tháng nữa là đến hạn, và giữa mọi chuyện bận bịu khác tôi thấy không việc gì phải đích thân đến trả tiền. Ý định là để cho Grisha hay một anh nào đó khác tới trả thay, bằng tiền mặt, và tôi tin tưởng họ sẽ làm mà không thắc mắc gì. Nhưng tới lúc đó, chuyện không may thứ hai xảy ra: vì mới vừa mấy ngày trước Grisha đã làm tôi choáng váng khi xích lại gần, đầu hơi giật sang bên, khi tôi có một mình trong cửa hiệu đang tính hóa đơn trong tuần: “Mazhor, quấy quả cậu chút ít.”

“Vâng?”

“Cậu sạch tay chứ?”

“Gì cơ?” Trộn lẫn tiếng Do Thái gốc Đức với tiếng Nga đầu đường xó chợ, nhào cùng đặc ngữ Brooklyn và tiếng lóng học từ nhạc rap, thỉnh thoảng ngôn ngữ của Grisha tạo thành một thứ tiếng Anh tôi không hiểu nổi.

Grisha khịt mũi ầm ĩ. “Tôi nghĩ là cậu không hiểu ý tôi, cu ạ. Tôi đang muốn hỏi là tình hình của cậu vẫn trơn chứ. Với pháp luật ấy.”

“Đợi chút,” Tôi nói - đang dở một cột số liệu, rồi nhìn lên khỏi máy tính: “Mà anh đang nói cái gì thế?”

“Cậu, anh em tôi, tôi không kết tội, không phán xét. Chỉ hỏi cho biết thôi, hiểu chưa?”

“Sao thế? Có gì thế?”

“Có người lượn quanh cửa hiệu, để mắt nhìn. Cậu biết lý do gì không?”

“Ai?” Tôi liếc ra ngoài cửa sổ. “Gì cơ? Khi nào thế?”

“Tôi muốn hỏi cậu lâu rồi. Sợ không dám đi xe ra Công viên Borough gặp Genka em họ tôi vì mấy công chuyện của nó, sợ bị mấy thằng đó đeo tôi.”

“Đeo anh à?” Tôi ngồi xuống.

Grisha nhún vai. “Bốn năm lần rồi. Hôm qua xuống xe, tôi lại thấy một thằng lảng vảng ở ngoài, nhưng nó chuồn qua bên kia đường. Quần bò, khá già, ăn mặc đơn giản. Genka, nó không biết gì nhưng nó hoảng, tôi vừa bảo chúng tôi có chút công chuyện đấy, nó bảo tôi hỏi cậu có biết gì vụ đó không. Chẳng nói gì, cứ đứng đó đợi. Tôi nghĩ không biết có phải cậu lại vướng gì với ông đen không,” anh nói vẻ giữ kẽ.

“Không hề.” Ông đen là Jerome; tôi không gặp anh ta nhiều tháng rồi.

“Thế đấy. Tôi ghét phải báo tin cho cậu, nhưng nghĩ có thể là bọn cảnh chát đang đánh hơi. Mike - anh ấy cũng thấy. Anh ấy nghĩ có thể là vì vụ tiền nuôi con của anh ấy. Nhưng thằng đó chỉ loanh quanh ở đây, không làm gì.”

“Cái này đã bao lâu rồi?”

“Ai biết được? Nhưng ít nhất cũng một tháng. Mike bảo còn hơn.”

“Lần sau nhìn thấy, anh chỉ cho tôi được không?”

“Có thể là thám tử tư.”

“Sao anh nói thế?”

“Vì trông thằng đó kiểu như cựu cớm thì đúng hơn. Mike nghĩ vậy, dân Ireland ấy, thạo cớm lắm, Mike nói trông già, như kiểu cảnh chát về vườn gì đó?”

“Ừ,” Tôi nói và nghĩ đến kẻ có dáng người vạm vỡ từng nhìn thấy ngoài cửa. Sau đó tôi đã thấy thêm bốn năm lần nữa, hắn hoặc ai đó trông giống hắn, lảng vảng ngoài cửa trong giờ làm việc - luôn chọn đúng lúc tôi đang ở cùng Hobie hoặc khách hàng, rất khó chạy ra chặn đầu hắn ta - dù trông bộ dạng hắn ta thì ngây thơ vô số tội, áo có mũ và ủng thợ xây, tôi cũng chẳng biết có đúng không nữa. Một lần, dựng tóc gáy, tôi còn thấy một kẻ giống như vậy đu đưa trước cửa tòa nhà gia đình Barbour sống, nhưng khi nhìn rõ hơn thì lầm.

“Thằng đó ở đây cũng lâu lâu rồi. Nhưng có điều...” Grisha ngừng một lúc “bình thường tôi chẳng nói gì đâu, có thể chẳng có gì, nhưng hôm qua…”

“Có chuyện gì? Anh nói đi,” tôi nói khi thấy anh chỉ xoa cổ và ăn năn nhìn tránh đi.

“Một gã khác. Trông khác. Tôi từng thấy quanh quẩn ngoài hiệu một lần rồi. Ngoài cửa. Nhưng hôm qua thì hắn vào thẳng hiệu hỏi đích danh cậu. Và tôi không ưa bộ dạng thằng đó tí nào.”

Tôi ngồi phịch xuống ghế. Tôi đã nghĩ khi nào thì Reeve sẽ khùng tới mức đích thân ghé qua.

“Tôi không nói chuyện với hắn. Tôi ở ngoài” Gật đầu “thế đấy. Đang chất hàng. Nhưng tôi thấy hắn đi vào. Rất dễ đập vào mắt. Ăn mặc tử tế, nhưng không giống khách hàng. Cậu đi ăn trưa còn Mike ở hiệu một mình, thằng đó vào, hỏi, có Theodore Decker không? À, cậu không có nhà, Mike bảo vậy. ‘Thế nó ở đâu.’ Hỏi đủ thứ chuyện về cậu, như là cậu làm ở đây à, cậu sống ở đây à, từ bao lâu, cậu đang ở đâu, đủ thứ.”

“Hobie đâu?”

“Không hỏi Hobie. Hỏi cậu cơ. Rồi...” anh đưa ngón tay vạch trên mặt bàn “hắn bỏ ra ngoài. Đi vòng quanh hiệu. Nhìn chỗ này chỗ khác. Nhìn khắp mọi chỗ. Cái này, tôi thấy từ chỗ mình đứng, bên kia đường. Trông lạ lắm. Và... Mike không nhắc chuyện này với cậu vì nói có thể chẳng có gì, có thể là chuyện riêng tư, ‘tốt hơn là nên tránh đi’, nhưng tôi cũng nhìn thấy hắn và nghĩ tốt hơn là cho cậu biết. Vì, hừm, đồng loại nhận nhau, cậu hiểu không?”

“Trông hắn ta thế nào?” tôi hỏi, và khi Grisha không trả lời “hơi già chăng? Ục Ịch? Tóc bạc?”

Grisha thở hắt ra. “Không không không.” Lắc đầu quả quyết. “Không phải là dạng lão già.”

“Thế trông hắn như thế nào?”

“Như một kẻ tốt nhất là đừng gây sự, hắn trông như thế đấy.”

Trong quãng im lặng tiếp theo, Grisha đốt một điếu Kool và một điếu nữa cho tôi. “Vậy thì tôi nên làm gì, mazhor?”

“Xin lỗi?”

“Tôi và Genka có cần lo ngại không?”

“Tôi nghĩ là không. Ừ,” tôi nói và hơi vụng về đập vào bàn tay ngửa ra mà anh đắc thắng chìa cho tôi, “được rồi, nhưng anh giúp tôi chuyện này được không? Anh đi gặp tôi ngay khi nào lại thấy một trong hai kẻ đó nhé?”

“Tất nhiên.” Anh ngừng lại và chăm chú nhìn tôi. “Cậu chắc là tôi với Genka không phải lo gì chứ?”

“À, tôi không biết hai anh đang làm gì, có phải không?”

Grisha rút một cái khăn mùi xoa bẩn trong túi ra, lau cái mũi đã tím bầm. “Tôi không thích cậu trả lời vậy tí nào.”

“Ừm, hãy bảo trọng, thế thôi. Nhỡ may.”

“Mazhor, tôi cũng cần dặn cậu y như vậy.”

IV

TÔI ĐÃ NÓI DỐI KITSEY; tôi hoàn toàn chẳng có việc gì cần làm. Ra khỏi Barneys, chúng tôi hôn tạm biệt nhau ở góc Đại lộ 5 trước khi cô trở lại Tiffany ngó quầy pha lê - chúng tôi còn chưa kịp xem đến pha lê - còn tôi đi ra chờ tàu số 6. Nhưng thay vì nhập vào dòng người mua sắm đổ xuống cầu thang dẫn vào ga, tôi lại thấy bải hoải và lơ đễnh, lạc lối, mệt mỏi và ốm yếu tới mức lại dừng chân nhìn vào cửa kính Subway Inn bẩn thỉu, thẳng đối diện cửa lấy hàng ở Bloomingdale, một lỗ hổng thời gian y như trong The lost weekend[129] và còn nguyên không đổi từ những ngày rượu chè của bố tôi. Bên ngoài là đèn neon như phim noir. Bên trong vẫn những tường đỏ nhờn bẩn, bàn dính nhớp, sàn gạch vỡ, mùi nước tẩy nồng nặc, đức ông bụng phệ đứng quầy choàng tấm giẻ trên vai rót rượu cho gã cô độc mắt vằn đỏ bên quầy bar. Tôi nhớ mình và mẹ đã một lần mất dấu bố ở Bloomingdale, đối với tôi khi đó thật huyền bí, mẹ đã biết lối rời cửa hàng, đi thẳng qua đường tìm ra ông ở đây, đang nốc những ly bốn đô với một lão già công đoàn ho lao và một ông cụ buộc khăn trên đầu nhìn có vẻ dân sống vỉa hè. Tôi đứng đợi bên lối cửa vào, tái mặt trước mùi bia hẩm và mê hồn vì bóng tối ấm và bí ẩn bên trong, ánh lờ mờ phim ma trên máy hát tự động và máy chơi xèng Buck Hunter đang nhấp nhánh tít trong lòng quán “èo, mùi những lão già và nỗi tuyệt vọng,” mẹ tôi đã khủng khỉnh nhận xét và nhăn mũi khi ra khỏi quán, túi hàng trên tay, rồi nắm lấy tay tôi.

Một cốc Johnnie Walker nhãn đen nào, vì bố. Hoặc hai cốc. Tại sao không chứ? Những hốc tối trong bar trông ấm áp và đồng lõa, cái hào quang nồng hơi men sến nhão ấy vẫn giúp người ta quên đi trong một khắc mình là ai và cái gì đưa đẩy mình đến đây. Nhưng vào phút chót, giật mình giữa cửa khiến người phục vụ liếc nhìn ra, tôi quay người đi tiếp.

Đại lộ Lexington. Gió mang hơi nước. Buổi chiều ẩm và ma mị. Tôi đi thẳng qua bến tàu trên Phố 51, rồi lại bến Phố 42, mà vẫn đi tiếp, để đầu óc được quang quẻ. Những khối nhà chung cư trắng như tro. Những đoàn người rầm rập trên đường, những cây Noel sáng đèn lóng lánh tít trên ban công nhà tầng thượng và nhạc Giáng sinh hân hoan thoát ra từ cửa hàng cửa hiệu, và khi luồn lách qua những đám đông tôi chợt có cảm giác lạ kỳ là mình đã chết, mình đang di chuyển giữa một vỉa hè xám mênh mông hơn cả con phố hay cả thành phố này có thể bao bọc lấy, linh hồn tôi đã tách khỏi thể xác trôi lơ lửng giữa các hồn khác trong cõi mù sương đâu đó giữa quá khứ và hiện tại, QUA ĐƯỜNG DỪNG LẠI, từng người đi bộ lửng lơ bay lên trước mắt tôi, cách biệt và cô đơn lạ lùng, những khuôn mặt trống rỗng cắm tai nghe nhìn thẳng phía trước, môi mấp máy không ra tiếng, còn âm thanh thành phố ẩm và bít tiếng, dướ