← Quay lại trang sách

Chương 9 (tt) XVI

GYURI THẢ CHÚNG TÔI Ở KHU 60, không quá Xa nhà Barbour. “Là chỗ này à?” Tôi hỏi, lắc cho mưa rơi khỏi ô của Hobie Chúng tôi đang ở trước một trong mấy tòa nhà bằng đá vôi gần Đại lộ 5 - cửa sắt đen, miếng gỗ cửa đầu sư tử to bự.

“Ừ - nhà bố lão đấy - gia đình đang tìm cách gọi pháp luật bẩy lão ra nhưng đời nào được, hà.”

Chúng tôi được bấm chuông cho vào, đi thang máy hộp lên tầng hai. Tôi ngửi thấy mùi hương, cần sa, sốt mì Ý đang nấu. Một người đàn bà tóc vàng gầy guộc - tóc cúp sát, đôi mắt nhỏ trên khuôn mặt thanh tĩnh trông như mặt lạc đà - ra mở cửa. Chị ta ăn mặc như kiểu một thằng nhóc đường phố hay trẻ bán báo ngày xưa: quần dài vải nanh sói, bốt thấp, áo giữ nhiệt bẩn thỉu, dây quần. Vắt vẻo trên đỉnh mũi là một cặp kính Ben Franklin gọng to.

Không nói một lời, chị ta mở cửa rồi bỏ đi, để lại chúng tôi một mình trong cái phòng khách tối tăm cáu bẩn rộng bằng cả phòng khiêu vũ, trông như di tích tiều tụy từ một trường quay thượng lưu nào đấy trong phim Fred Astaire: trán cao, trang trí thạch cao nát vụn, đàn đại dương cầm, đèn chùm đã xỉn màu và nửa số pha lê đã vỡ hay bay mất, cầu thang uốn kiểu Hollywood rắc đầy đầu mẩu xì gà. Tiếng tụng kinh Sufi rì rầm đâu đây: Allahu Allahu Allahu Haqq. Allahu Allahu Allahu Haqq. Ai đó đã dùng than vẽ lên tường một xê ri những hình khỏa thân to bằng người thật, dẫn dần lên cầu thang như các cảnh cắt ra từ phim, còn về đồ đạc thì chẳng có gì mấy, chỉ một chiếc đệm kiểu Nhật sặc mùi chuột cùng ít bàn ghế trông như nhặt nhạnh ngoài đường về. Trên tường là những khung không có tranh, cùng một cái sọ cừu đực. Trên tivi, một bộ phim hoạt hình chớp tắt rồi bùng nổ với vẻ năng động của kẻ động kinh, những hình kỷ hà xoay tít xen lẫn chữ và hình xe đua thật. Ngoài tivi và cánh cửa nơi bà chị tóc vàng vừa đi khuất, nguồn sáng duy nhất là cái đèn bàn hắt quầng sáng trắng gắt lên những nến đã chảy, dây nối máy tính, chai bia rỗng và bình ga mi ni, những hộp bút sáp dầu màu nhạt còn đóng hộp hoặc bỏ rời, rất nhiều danh mục tác phẩm, sách bằng tiếng Đức và Anh, có cả Tuyệt vọng[137] của Nabokov và Hiện hữu và thời gian[138] của Heidegger đã mất bìa, sổ vẽ ký họa, sách về nghệ thuật, gạt tàn, giấy thiếc đã cháy, cái gối trông bẩn thỉu ở trên có con mèo mướp xám đang ngủ gà gật. Bên trên cánh cửa, như chiến tích từ một buổi săn nào đấy trên núi Schwarzwald, một cỗ sừng hươu hắt- những cái bóng méo mó lên trần nhà, xoãi ra và trổ nhánh trong một không khí cổ tích Bắc Âu hắc ám.

Tiếng nói chuyện ở phòng bên. Cửa sổ che bằng ga giường treo lên, vừa đủ mỏng để ánh sáng tím nhàn nhạt lọt vào từ đường phố. Khi tôi nhìn quanh, những hình thù dần hiện ra trong bóng tối và biến hình với một cảm giác lạ lùng như mơ: đầu tiên là tấm rèm tạm bợ chia đôi phòng, một tấm thảm treo dây câu trĩu xuống từ trên trần nhà, như ở các nhà trọ, khi nhìn gần hóa ra là một tấm thảm thêu rất đẹp, phải từ thế kỷ 18 hay cổ hơn, gần như bản sao của một tấm ở Amiens tôi đã từng thấy đem ra đấu giá ước chừng bốn mươi ngàn bảng. Và không phải khung tranh nào cũng để trống. Vài khung có tranh, và một bức - dù trong ánh sáng yếu ớt - trông có vẻ là Corot[139]

Tôi vừa định đi về phía đó nhìn thử thì một người xuất hiện bên cửa, độ tuổi bảo ba mươi cũng được mà năm chục cũng không sai: bơ phờ, mảnh khảnh, tóc thẳng màu cát chải lật về sau đầu, mặc quần bò đen kiểu punk rách gối và cái áo len dày kiểu Anh nhếch nhác, ngoài quàng thêm áo vét rộng thùng thình.

“Chào anh,” anh ta bảo tôi, giọng Anh lặng lẽ có pha chút âm gắt Đức, “anh chắc là Potter,” rồi chuyển qua Boris, “Mừng anh đã tới. Hai người hãy ở lại chơi chút đi. Candy và Niall đang làm cơm tối với Ulrika.”

Có ai nhúc nhích bên kia tấm thảm, ngay sát chân, khiến tôi giật lùi lại: những bọc người quấn kỹ trên sàn, túi ngủ, mùi cuộc sống ngoài đường.

“Cảm ơn, bọn tui không ở được,” Boris nói, đang nhặt con mèo lên gãi gãi tai nó. “Nhưng cho xin chút rượu vang đó, cảm ơn anh.”

Không nói một lời, Horst chuyển ly của chính anh ta cho Boris rồi gọi với sang phòng bên bằng tiếng Đức. Quay sang tôi, anh ta bảo: “Anh là nhà buôn phải không?” Trong ánh tivi, con mắt mòng biển màu nhạt nhỏ tí lóe lên không chớp, soi xét.

“Ờ, phải,” tôi lúng túng đáp, rồi “Ơ, cảm ơn.” Một người đàn bà khác - tóc nâu tém, bốt cao màu đen, váy ngắn vừa đủ khoe con mèo đen xăm trên bắp vế trắng nõn vừa hiện ra với cái chai và hai cốc: một cho Horst, một cho tôi.

“Danke em gái,” Horst nói. Quay sang Boris anh ta hỏi: “Hai người quý vị muốn một bi không?”

“Giờ thì không,” Boris đáp, nó vừa ghé tới hôn vội cô gái tóc nâu đang bỏ đi. “Chỉ đang thắc mắc. Anh nghe được tin gì từ Sascha?”

“Sascha...” Horst ngồi thụp xuống cái đệm Nhật, đốt xì gà. Trong cái quần bò phủi và bốt quân đội, trông anh ta như một phiên bản xơ xác hơn của một diễn viên phụ Hollywood thập niên 1940 chưa bao giờ lên được bảng tên nào đó, một mitteleuropãischer[140] hạng ruồi chuyên diễn các vai nghệ sĩ vĩ cầm xấu số và dân tỵ nạn chán đời nhưng hào hoa. “Có vẻ như các mối đều chỉ về Ireland. Đấy là tin tốt, theo ý tôi.”

“Nghe có vẻ không hợp lý.”

“Tôi cũng thấy vậy, nhưng tôi đã nói chuyện với vài người và có vẻ khớp.” Cách nói của anh ta có đầy đủ vẻ lặng lẽ, lạc phách, mất nhịp điệu của kẻ nghiện, nhưng không bị lè nhè. “Nghĩa là - ít lâu nữa chúng ta sẽ có thêm thông tin, tôi hy vọng vậy.”

“Bạn Niall à?”

“Không. Niall nói chưa bao giờ nghe đến mấy người đó. Nhưng cũng là một đầu mối.”

Rượu vang rất kinh: Syrah loại bán siêu thị. Vì không muốn ở gần mấy thân người trên sàn, tôi lảng đi xem một nhóm phôi tượng của điêu khắc gia trên cái bàn kẽo kẹt: một thân trên đàn ông, một Vệ Nữ quấn áo tựa người vào tảng đá, một bàn chân đi xăng đan. Dưới ánh sáng yếu trông chúng chỉ như những khối thạch cao bán đầy ở Pearl Paint - dùng trong phòng vẽ, làm mẫu cho sinh viên vẽ theo - nhưng khi vạch ngón tay qua mặt bàn chân tôi cảm thấy cái mềm mại của hoa cương, mịn màng không hề sần.

“Sao chúng nó phải mang đi Ireland làm gì?” Boris đang bứt rứt nói. “Làm gì có thị trường sưu tập nào ở đó? Tui vẫn tưởng người ta tìm cách mang đồ ra khỏi đó chứ không phải mang vào.”

“Ừ, nhưng Sascha nghĩ hắn dùng bức tranh để thanh toán một khoản nợ.”

“Nghĩa là hắn có mối quen ở đó?”

“Rõ là vậy.”

“Tui thấy vụ này khó tin.”

“Về chuyện mối quen ư?”

“Không, chuyện nợ. Tên này - trông hắn như mới sáu tháng trước còn đang ăn trộm nắp bánh xe ngoài đường.”

Horst ơ thờ nhún vai: cặp mắt ngái ngủ, trán hằn sâu. “Ai mà biết được. Cũng không chắc là thông tin đúng, nhưng hẳn nhiên tôi không sẵn lòng đặt niềm tin ở số phận. Liệu tôi có chịu chặt bàn tay vì việc dó không?” Anh ta nói, lười biếng gõ tàn thuốc xuống sàn. “Không.”

Boris cau mày với ly rượu. “Tên này là gà mờ. Cứ tin tui. Nếu anh tận mắt thấy, anh sẽ hiểu.”

“Phải, nhưng hắn ta ưa cờ bạc, Sascha bảo thế.”

“Anh không nghĩ là Sascha có thể biết nhiều hơn nữa à?”

“Tôi nghĩ là không.” Dáng điệu anh ta có vẻ xa vắng, như phần nào anh ta đang nói một mình. “ ‘Cứ chờ xem.’ Tôi chỉ được nghe thế thôi. Một câu trả lời rất không thỏa đáng. Dột từ trên nóc dột xuống, theo ý tôi. Nhưng tôi đã nói đấy, chúng ta còn chưa đi đến tận cùng đâu.”

“Vậy khi nào Sascha về lại thành phố?” Anh sáng yếu trong phòng khiến tôi bị đẩy lùi về thơ ấu, Vegas, như cảm giác mơ hồ từ một giấc mơ còn lưu lại khi tỉnh dậy: màn khói thuốc lảng vảng, quần áo bẩn trên sàn nhà, gương mặt Boris khi xanh khi trắng trong ánh lập lòe màn hình tivi.

“Tuần sau. Tôi sẽ gọi anh. Lúc đó anh có thể tự mình nói chuyện với cậu ta.”

“Phải. Nhưng tui nghĩ tốt hơn là cả hai chúng ta đến nói chuyện với cậu ta.”

“Ừ. Tôi cũng nghĩ vậy. Cả hai chúng ta sẽ khôn ngoan hơn, trong tương lai... điều này không đáng phải diễn ra... nhưng dù sao,” Horst nói, vừa gãi cổ chậm rãi, lơ đãng, “anh cũng hiểu là tôi ngại không muốn ép cậu ta quá đáng.”

“Như vậy là rất tiện cho Sascha.”

“Anh đang nghi ngờ điều gì. Cho tôi biết đi.”

“Tui nghĩ là…Boris đánh mắt về phía cửa.

“Sao?”

“Tui nghĩ là...” Boris thấp giọng “anh quá dễ dãi với cậu ta. Phải phải...” giơ tay lên “tui biết. Nhưng - quá tiện là người của cậu ta lại biến mất, không một manh mối, cậu ta chẳng biết gì!”

“À, có thể,” Horst nói. Anh ta có vẻ thờ ơ không chú tâm, như người lớn đang ở cùng phòng với lũ trẻ nhỏ. “Chuyện này đang tạo áp lực rất lớn cho tôi, cho tất cả chúng tôi. Tôi cũng muốn đi đến tận cùng chuyện này như anh thôi. Dù biết đâu được, tay này có thể là cảnh sát.”

“Không,” Boris dứt khoát nói. “Không phải. Không phải. Tui biết.”

“À... nói thật với anh, tôi cũng không nghĩ vậy, trong chuyện này còn lắm uẩn khúc ta không biết. Tuy nhiên, tôi vẫn có hy vọng.” Anh ta vừa lấy cái hộp gỗ trên bàn vẽ và đang loay hoay với nội dung bên trong. “Quý vị có chắc là không muốn dùng chút gì không?”

Tôi ngoảnh đi. Tôi thì không mong gì hơn. Tôi cũng muốn xem bức Corot nữa, dù không muốn phải đi vòng qua những thân người trên sàn nhà đến chỗ đó. Bên kia phòng, tôi còn thấy hai ba bức khác tựa vào ván ốp tường: một tĩnh vật, vài phong cảnh nhỏ.

“Cứ ra xem nếu anh muốn.” Là Horst. “Bức Lépine thì giả. Nhưng bức Claesz và Berchem sẵn sàng bán nếu anh quan tâm.”

Boris cười lớn, lấy một điếu thuốc của Horst. “Cậu ta không trong thị trường đó.”

“Không ư?” Horst thân mật hỏi. “Tôi có thể đặt giá rất tốt cho cặp đó. Người bán chỉ mong rũ đi.”

Tôi bước lại gần nhìn: tĩnh vật, nến và ly vang cạn một nửa. “Claesz-Heda à?”

“Không - Pieter.” Mặc dù… Horst bỏ hộp xuống, ra đứng bên tôi nhấc ngọn đèn bàn còn nguyên dây lên, khiến cả hai bức tranh tắm trong ánh sáng gắt “phần này...” vẽ ngón tay thành đường cong trong không khí “ánh phản chiếu ngọn lửa ở đây? Cả mép bàn và tấm trải nữa? Có thể gần như là Heda trong một ngày khó ở.”

“Đẹp thật.”

“Phải. Đẹp so với kiểu của nó.” Đứng gần, anh ta toát mùi chua và hôi hám, mùi nồng như phòng nhập khẩu bụi bặm, như lòng hộp gỗ khảm Trung Quốc. “Hơi đơn điệu so với gu hiện tại. Phong cách giả cổ điển. Dàn dựng quá tay. Nhưng bức Berchem thì khá tốt.”

“Đầy Berchem giả ngoài thị trường,” tôi nhận xét khách quan.

“Phải...” Ánh sáng chiếc đèn cầm trên tay phả lên bức phong cảnh một màu hơi xanh, rờn rợn “nhưng bức này đáng yêu lắm... nước Ý 1655... màu hoàng thổ rất đẹp, không phải sao? Bức Claesz thì không bằng, tôi nghĩ thế, từ giai đoạn đầu, dù giấy tờ xuất xứ thì không chê vào đâu được. Để chúng bên nhau sẽ tốt nhất... chúng chưa bao giờ ở xa nhau, hai bức này. Như hai cha con. Cùng truyền lại từ một gia đình Hà Lan xưa, đậu lại ở Áo sau Thế chiến. Pieter Claesz...” Horst giơ cao chiếc đèn. “Claesz phong độ quá không ổn định, phải nói thật. Kỹ thuật tuyệt vời, bề mặt tuyệt vời, nhưng bức này có gì đó hơi chệch, anh đồng ý không? Bố cục không vững. Rời rạc thế nào đó. Hơn nữa... ” vẩy ngón cái chỉ ánh lóa quá mức hắt lên từ mặt vải: véc ni quá tay.

“Tôi đồng ý. Và đây nữa...” Lần theo trong không khí một vệt cong rất xấu do người cọ quá sốt sắng khiến sơn bị cào mòn xuống tận lớp nền.

“Phải.” Ánh nhìn đáp trả của anh ta vừa thân tình vừa lơ đãng. “Chính thế. Acetone. Kẻ nào làm việc này đáng đem bắn. Thế nhưng một bức tranh hạng trung như thế này, ở tình trạng xấu, thậm chí là một bức vô danh cũng được - lại còn giá trị hơn cả một siêu phẩm, mỉa mai là ở chỗ đó, ít ra cũng giá trị hơn với tôi. Nhất là phong cảnh. Cực kỳ dễ bán. Nhà chức trách không để ý nhiều... khó nhận ra qua bản miêu tả... mà vẫn trị giá có khi đến vài trăm nghìn. Còn bức Fabritius...” một quãng nghỉ dài, thanh thản “là một cấp độ khác hẳn. Tác phẩm đáng kể nhất từng đi qua tay tôi, và tôi có thể nói chắc như vậy.”

“Phải, và đấy là lý do tại sao bọn tui sẽ rất vui được lấy lại nó,” Boris làu nhàu trong bóng tối.

“Cực kỳ phi thường,” Horst vẫn thanh thản nói tiếp. “Một bức tĩnh vật như bức này…” anh ta chỉ bức Claesz bằng một cú phẩy tay chầm chậm (móng tay cáu đen, mạng gân chằng chịt đầy sẹo trên mu bàn tay) “à, đúng là một bức trompe l’oeil toàn diện. Kỹ thuật tuyệt vời, nhưng tỉa tót quá đáng. Chính xác đến bệnh hoạn. Tạo cảm giác chết. Chúng được gọi là nature morte là có lý do, phải không? Nhưng còn bức Fabritius...” thuận chân lùi lại sau “tôi biết lý thuyết về Con sẻ vàng, tôi nhớ rõ nó, mọi người bảo đấy là trompe l’oeil và quả là đứng từ xa con mắt có thể thấy như vậy. Nhưng tôi không cần biết các nhà viết sử hội họa nghĩ gì. Phải: có những mảng rất thành công nếu coi là tranh ảo giác... bức tường, giá đậu, ánh lóe lên trên đồng, và rồi... phần lông trên ức, cực kỳ giống thật. Lông tơ, lông mịn. Mềm khó tả. Claesz thì sẽ đầy sự hoàn thiện và chính xác ấy đến mức chết cứng - một họa sĩ như van Hoogstraten sẽ đi xa hơn nữa, đóng rịt nắp quan tài. Nhưng Fabritius... ông ấy đang đùa cợt với thể loại... một đòn phản kháng bậc thầy với chính ý tưởng trompe l’oeil... bởi, tại những mảng khác trong bức tranh - Đầu? Cánh? Không hề có cái chất vật sống hay tính giống thực chút nào hết, ông chủ tâm dỡ tung hình ảnh ra để cho chúng ta thấy mình đã vẽ như thế nào. Những vết trát, những mảng xoa, tạo hình rất rõ, dấu vết bàn tay rất rõ, đặc biệt là đường viền quanh cổ, một vệt sơn đặc, cực kỳ trừu tượng. Chính vì thế mà ông mới là thiên tài không phải của thời đại ông, mà thời chúng ta. Đấy là tính hai nghĩa. Anh vừa thấy dấu cọ, vừa thấy nét sơn là nét sơn, lại vừa thấy đấy là con chim đang sống.”

“Ờ, được rồi,” Boris gầm gừ trong bóng tối đằng sau luồng sáng, đóng nắp bật lửa đánh tách, “nếu không có sơn thì lấy đâu ra gì để xem.”

“Chính thế.” Horst quay người, mặt chìm nửa vào bóng tối. “Đấy là một trò đùa, bức Fabritius ấy. Về bản chất bức tranh giấu một trò đùa. Và mọi bậc thầy lớn nhất đều làm vậy. Rembrandt. Velázquez. Titian thời kỳ cuối. Họ đùa bỡn. Họ tiêu khiển. Họ xây cả một ảo tượng, một mẹo lừa, nhưng đến gần hơn? Tất cả rời ra thành từng nét cọ. Trừu tượng và thoát trần. Là một kiểu cái đẹp khác, sâu sắc hơn hẳn. Là vật ấy mà lại không phải là vật ấy. Tôi phải nói rằng chỉ một bức tranh tí xíu này thôi đã đủ đưa Fabritius lên hàng những họa sư vĩ đại nhất từng sống trên đời. Và với Con sẻ vàng? Ông đã làm ra phép màu trong một không gian hết sức thanh tú. Dù tôi cũng thừa nhận rằng mình đã ngạc nhiên… quay lại nhìn tôi “khi cầm nó trong tay lần đầu tiên? Sức nặng ấy?”

“Vâng...” Tôi không thể không cảm thấy mơ hồ biết ơn, rằng anh ta đã nhận ra chi tiết này, một chi tiết quan trọng lạ lùng với tôi, tạo ra cả một mạng lưới giấc mơ và liên tưởng thơ ấu, một sợi đàn cảm xúc - “tấm ván nặng hơn người ta tưởng. Nó có độ đằm.”

“Độ đằm. Chính thế. Đúng là từ ấy. Còn nền, ít vàng hơn nhiều so với khi tôi được nhìn hồi bé. Bức tranh đã được lau rửa - đầu thập niên 90, tôi nghĩ vậy. Sau khi trùng tu, có nhiều ánh sáng hơn.”

“Cũng khó nói. Tôi thì không có gì để so sánh cả.”

“À,” Horst đáp. Khói thuốc lá của Boris vơ vẩn bay tới từ chỗ nó ngồi trong bóng tối, khiến vòng tròn ánh sáng nơi chúng tôi đứng mang dáng dấp sân khấu cabaret lúc nửa đêm. “Có thể tôi nhớ nhầm.

Lần đầu thấy nó tôi mới là một đứa bé quãng mười hai tuổi.”

“Vâng, tôi cũng khoảng tuổi ấy khi thấy nó lần đầu tiên.”

“À,” Horst nói vẻ cam chịu, gãi gãi lông mày, những vết bầm cỡ đồng xu trên mu bàn tay “đấy là lần duy nhất tôi được đi theo trong một chuyến công tác của cha tôi, lần đó là ở La Hay. Phòng họp lạnh như nước đá. Không có lấy một cái lá rung rinh. Buổi chiều duy nhất cả hai ở với nhau, tôi muốn đến Drievliet, công viên giải trí ấy, nhưng ông lại đưa tôi đến bảo tàng Mauritshuis. Và - bảo tàng tuyệt diệu, rất nhiều bức tranh tuyệt vời, nhưng bức duy nhất tôi còn nhớ là con sẻ của cậu. Một bức tranh dễ thu hút trẻ nhỏ, phải không? Der Distelhnk. Lần đầu tôi biết nó là như thế, bằng cái tên tiếng Đức.”

“Ờ, được rồi, tốt lắm,” Boris từ bóng tối cất giọng chán ngấy. “Bắt đầu giống như kênh giáo dục trên ti vi rồi.”

“Anh có buôn nghệ thuật hiện đại bao giờ không?” Tôi nói trong khoảng im lặng tiếp theo.

“Ờ…” Horst dán vào tôi con mắt đồng giá, cạn sức sống; buôn không hẳn là từ chính xác, anh ta có vẻ buồn cười vì cách chọn từ của tôi “thỉnh thoảng.” Có một bức Kurt Schwitters cách đây không lâu - Stanton Macdonald-Wright - anh biết không? Một họa sĩ rất thú vị. Phụ thuộc rất nhiều vào việc cái gì được đưa đến chỗ tôi. Thành thực là - anh có bao giờ mua bán tranh tí nào không?”

“Ít lắm. Các nhà buôn nghệ thuật đã tới trước tôi rồi.”

“Thật không may. Trong nghề của tôi, quan trọng là phải xách tay được. Có vô khối bức tầm trung tôi có thể bán đàng hoàng nếu giấy tờ có vẻ tử tế.”

Hương tỏi, nồi chậu va nhau trong bếp, mùi nước tiểu và hương trầm gợi nhớ khu chợ Ma Rốc thoảng qua. Lâm râm lâm râm, tiếng tụng kinh Sufi phơ phất và quấn quýt quanh chúng tôi trong bóng tối, những lời cầu khấn không dứt dâng lên Thánh đế.

“Hoặc bức Lépine này. Làm giả khéo lắm. Có một tay - người Canada, thú vị lắm, cậu sẽ thích là chắc - làm theo đơn đặt hàng. Pollock, Modigliani - sẵn sàng giới thiệu nếu cậu muốn. Không đem lại mấy tiền cho tôi, dù cũng có khả năng làm nên gia tài nếu có một bức bỏ trong cuộc thanh lý thích hợp.” Rồi nhẹ như không, trong cái im lặng tiếp sau: “Thời xưa hơn thì tôi từng thấy rất nhiều bức Ý, nhưng sở thích của tôi - thiên về miền Bắc hơn, anh thấy đấy. Giờ, bức Berchem này là một điển hình rất tuyệt cho Berchem, nhưng tất nhiên những phong cảnh kiểu Ý này, với những cột vỡ nát và những cô vắt sữa thơ ngây không hẳn hợp với gu thẩm mỹ hiện đại, phải không? Tôi ưa bức van Goyen kia hơn nhiều. Thật buồn là lại không bán.”

“Van Goyen à? Tôi dám thề đấy là Corot.”

“Đứng từ đây thì, phải, có thể đấy.” Anh ta có vẻ hài lòng với so sánh đó. “Hai phong cách rất tương đồng - chính Vincent đã từng nhận xét như vậy - anh biết lá thư ấy chứ? ‘Corot người Hà Lan’? Cũng hơi nước dịu nhẹ ấy, cũng sương mù mênh mông ấy, anh hiểu tôi nói gì không?”

“Từ đâu...” tôi đã suýt hỏi câu đặc trưng của kẻ buôn, từ đâu mà anh có bức này, thì ngậm miệng lại kịp.

“Họa sĩ tuyệt vời. Cực kỳ năng suất. Và đây là một bức đặc biệt đẹp,” anh ta nói với lòng tự hào hệt như một nhà sưu tập. “Rất nhiều chi tiết kỳ thú nếu nhìn gần - thợ săn tí xíu, chó đang sủa. Thêm nữa - rất điển hình - chữ ký trên mũi tàu. Đáng yêu lắm. Nếu anh không ngại… gật đầu về phía những thân người sau tấm thảm. “Cứ qua đi. Anh không làm phiền họ đâu.”

“Không, nhưng...”

“Không...” Giơ tay lên “tôi hiểu rõ mà. Vậy tôi mang lại cho anh nhé?”

“Vâng, tôi rất mong được xem.”

“Phải nói là, tôi đã quyến luyến nó tới mức sẽ rất buồn khi nó bị mang đi. Bản thân ông cũng là nhà buôn tranh, van Goyen ấy. Rất nhiều bậc thầy Hà Lan đều vậy. Jan Steen. Vermeer. Rembrandt. Nhưng Jan van Goyen thì...” anh ta mỉm cười “không khác gì anh bạn Boris của chúng ta. Làm mỗi thứ một ít. Tranh, địa ốc, hợp đồng tương lai hoa tulip.”

Boris, trong bóng tối, phát ra một tiếng làu nhàu và hình như chực nói gì đó thì thình lình, một thằng nhóc lỏng khỏng tóc tai bù xù chừng hăm hai tuổi, miệng ló ra một cái nhiệt kế thủy ngân kiểu cũ, khật khừ bước ra khỏi bếp, giơ tay che mắt tránh ánh đèn giơ lên. Nó đang mặc một cái áo len đan kỳ dị, đàn bà, to bự, dài đến gần đầu gối như một cái áo choàng tắm, vẻ mặt ốm yếu và ngơ ngác, tay áo xắn lên, đang đưa hai ngón tay gãi mặt trong cánh tay thì đùng một cái hai đầu gối xoạc ra, nó đã lăn xuống sàn, cái nhiệt kế văng ra loảng xoảng trên sàn gỗ nhưng không vỡ.

“Cái quái gì...?” Boris nói, dụi điếu thuốc rồi đứng lên, con mèo nhảy vọt từ trên lòng nó vào bóng tối. Horst chau mày, đặt đèn xuống sàn, ánh sáng rung lắc điên cuồng trên tường và trần nhà. “Ach,” anh ta phiền muộn nói, gạt tóc khỏi mắt, quỳ xuống xem xét thằng trai trẻ. “Quay lại đi,” anh ta bực bội bảo đám đàn bà vừa hiện ra trên ngưỡng cửa, cùng một gã đô con lạnh lùng, tóc đen, vẻ mặt chăm chú và hai đứa nhóc học sinh ngơ ngác trông không quá mười sáu, và khi thấy cả đám vẫn đứng đó lõ mắt nhìn, anh ta phẩy tay. “Vào bếp hết đi! Ulrika anh ta nói với bà chị tóc vàng, “haltsie zuruck[141]”

Tấm thảm lay động; đằng sau, những khối hình quấn chăn, những giọng ngái ngủ: eh? was ist los?[142]

“Ruhe, schlaft weiter[143]” Bà chị tóc vàng gọi với ra rồi quay sang Horst, bắt đầu tuôn một tràng tiếng Đức gấp rút hối hả.

Tiếng ngáp, tiếng rên; tít đằng sau, một cục chăn nhỏm dậy, giọng Mỹ nhõng nhẽo; “Hử? Klaus? Bà ta nói gì vậy?”

“Im đi nhỏ và schlafen tiếp đi.”

Boris đã nhặt áo khoác lên tròng vào người. “Potter,” nó nói, và khi thấy tôi vẫn không nhúc nhích mà chỉ kinh hoàng nhìn xuống sàn, nơi thằng bé đang thở từng hơi sòng sọc; “Potter.” Nắm lấy tay tôi. “Nào, đi thôi.”

“Ư, xin lỗi. Chúng ta sẽ phải nói chuyện sau thôi. Schiesse,” Horst nuối tiếc nói, lắc bên vai mềm oặt của thằng bé, giọng điệu như một người cha làm điệu mắng mỏ đứa con nhưng không quá thuyết phục. “Dummer Wichser! Dummkopf![144] Nó dùng bao nhiêu thế, Niall?” anh ta hỏi gã đồ con vừa tái xuất hiện bên cửa, đang quan sát với vẻ chê trách.

“Thế đéo nào tôi biết được,” gã Ireland đáp, đầu gục gặc một bên khá hăm dọa.

“Đi thôi Potter,” Boris nói và nắm tay tôi. Horst đang áp tai vào ngực thằng bé, còn bà chị tóc vàng mới quay lại thì quỳ bên cạnh, đang kiểm tra hơi thở.

Trong lúc họ hối hả thảo luận bằng tiếng Đức, có thêm nhiều âm thanh và chuyển động sau tấm thảm Amiens lúc này bỗng thình lình phồng lên: hoa đã phai, bữa tiệc trong vườn, những nàng tiên núi hoang tàng nô giỡn giữa suối và dây nho. Tôi đang nhìn một dương thần ranh mãnh ngó họ sau cái cây thì thình lình - có gì cọ vào chân - tôi nhảy phắt lại khi một bàn tay quờ bên dưới bỗng túm chặt lấy ống quần. Từ dưới sàn, một trong mấy bọc vải bẩn - khuôn mặt sưng đỏ bầm chỉ lờ mờ thấy dưới mép thảm - hỏi tôi bằng một giọng ngái ngủ nhưng trang nhã: “Ngài ấy là bá tước đấy, chàng trai ạ, biết không?”

Tôi giật quần lại, bước lùi. Thằng bé trên sàn đang lắc lư đầu sang hai bên, phát ra tiếng ùng ục như chết sặc.

“Potter.” Boris đã nhặt lấy áo tôi, gần như dúi vào mặt tôi. “Nào! Đi thôi! Ciao” nó hất cằm hét với vào bếp (cái đầu tóc đen xinh xẻo hiện ra giữa cửa, bàn tay chấp chới: chào anh Boris! Chào!) trong lúc nó đẩy tôi đằng trước, chúi đầu đằng sau ra khỏi cửa. “ Ciao, Horst!” nó nói và làm cử chỉ gọi cho tôi nhé, giơ tay lên tai.

“ Tschau Boris! Xin lỗi vì vụ này! Chúng ta sẽ sớm nói tiếp! Lên nào,” Horst nói, trong lúc tay Ireland đi lại tóm lấy phía dưới tay bên kia thằng bé; cả hai cùng nhấc bổng nó lên, chân oặt xuống, ngón chân rê trên sàn - và giữa cảnh lộn xộn trên ngưỡng cửa, hai thằng nhóc vị thành niên lúng túng hoảng hốt lùi lại - lôi nó qua ô cửa sáng đèn dẫn sang phòng bên, nơi cô bé tóc nâu của Boris đang chuẩn bị ống tiêm bằng chất gì đó trong cái lọ thủy tinh tí xíu.

XVII

ĐI XUỐNG CÁI THANG MÁY HỘP, chúng tôi bỗng chìm trong im lặng: tiếng bánh xe cọ vào nhau, tiếng ròng rọc kèn kẹt.

Ra ngoài, trời đã quang. “Đi thôi,” Boris nói với tôi - lo âu nhìn khắp đường - nó đã lấy điện thoại khỏi túi áo khoác - “sang đường, đi...”

“Hử,” tôi hỏi - nếu đi nhanh thì vừa kịp đèn - “mày gọi 911 à?”

“Không, không,” Boris lơ đễnh nói, quẹt mũi nhìn quanh, “tau không muốn đứng đợi xe ở đây, tau gọi bảo ảnh đón mình ở đầu kia công viên. Chúng mình sẽ đi bộ qua đó. Thỉnh thoảng mấy thằng nhóc vẫn chơi quá liều,” nó nói khi thấy tôi băn khoăn nhìn lại phía ngôi nhà. “Không phải lo. Nó sẽ ổn thôi.”

“Trông nó không ổn chút nào.”

“Không, nhưng nó vẫn thở còn Horst có Narcan. Tiêm vào nó sẽ tỉnh ngay. Y như ma thuật ấy, mi thấy bao giờ chưa? Khiến mi rơi vào cơn vật lập tức. Khó chịu như cứt, nhưng sẽ sống.”

“Đáng phải đưa nó đi cấp cứu.”

“Để làm gì?” Boris đáp một cách rất có lý. “Mấy người ở phòng cấp cứu sẽ làm gì nào? Tiêm Narcan chứ sao. Horst tiêm cho nó còn nhanh hơn họ. Và, phải, nó sẽ tỉnh dậy nôn ọe ầm ĩ, cảm giác như bị dao xuyên vào đầu, nhưng còn hơn là vào xe, UỲNH, áo bị cắt đứt, mặt nạ ụp vào mũi, đủ loại người tát bôm bốp vào mặt cho tỉnh, luật pháp sờ gáy, ai cũng khắc nghiệt chỉ trích - cứ tin tau, Narcan, cảm giác tởm lắm, tỉnh dậy đã đủ tệ rồi chứ không cần phải ở giữa bệnh viện đèn sáng trưng khắp xung quanh đều chê bai thù địch, đối xử với mi như cứt, ‘thằng nghiện, ‘quá liều, ai cũng nhìn nhỏ hầm hè, có khi muốn về còn không cho về, bị tống sang khoa thần kinh nữa không chừng, nhân viên công tác xã hội kéo vào ca bài ‘Bao nhiêu điều đáng sống’ gì đấy và có khi thêm vào đó, còn có vài gã cớm hỏi han nữa... đợi đã,” nó nói, “một giây thôi,” rồi bắt đầu nói tiếng Ukraina vào điện thoại.

Bóng tối. Dưới vầng hào quang đèn đường mờ sương, những ghế đá công viên trơn nhẫy vì mưa, lách tách lách tách, cây sũng nước đen kịt. Những lối đi bộ ướt rượt, lá phủ dày, vài kẻ nhân viên văn phòng lẻ loi trở về hối hả. Boris, đầu cúi xuống, tay thọc vào áo, nhìn xuống đất - đã gọi xong, giờ đang lẩm bẩm một mình.

“Ừm, gì cơ?” Tôi hỏi và liếc sang nó.

Boris bặm môi, hất đầu. “Ulrika,” nó hậm hực nói. “Ả bánh bèo đó. Chính là ả ra mở cửa.”

Tôi vuốt trán. Người tôi chộn rộn, nôn nao và vã mồ hôi lạnh. “Làm sao mày lại quen mấy người đó?”

Boris nhún vai. “Horst hả?” nó hỏi và đá tung một đống lá lả tả. “Bọn tau quen nhau hàng năm nay rồi. Tau biết Myriam là nhờ lão - tau thật biết ơn lão đã giới thiệu.”

“Còn...?”

“Gì?”

“Trên sàn ở đó?”

“Nó? Thằng ngã á?” Boris nhăn mặt kiểu có ma mới biết ngày xưa. “Họ sẽ lo cho nó thôi, khỏi lo. Chuyện thường ấy mà. Lúc nào cũng khỏe lại thôi. Thật đấy,” nó nói, chuyển giọng thành khẩn hơn. “Vì là, nghe này, nghe này,” nó nói và thọc khuỷu tay vào sườn tôi, “Horst có cả mớ trẻ nít như thế láng cháng bên cạnh - thay đổi liên tục, chốc lại một đứa mới - tuổi sinh viên, hay học sinh. Chủ yếu là tụi nhãi nhà giàu, tiêu tiền quỹ ủy thác, có khi muốn bán cho lão cái tranh tượng gì đó ở nhà chẳng hạn? Chúng nó biết phải tìm đến lão. Vì...” lắc đầu, gạt tóc khỏi mắt - “chính Horst, hồi còn bé, mi hiểu không - lâu lắm rồi, từ thập niên 80 của thế kỷ trước - lão đi học một năm, hai năm, ở một trong mấy cái trường con trai hoành tráng gần đây ấy, bắt phải mặc vét ấy. Ở đâu đó không quá xa đây. Một lần chỉ cho tau xem rồi, khi đi taxi. Dù sao thì,” nó khịt mũi, “thằng nhóc trên sàn ấy? Không phải thằng cu nghèo rớt đầu đường xó chợ nào đâu. Và họ không để nó gặp chuyện gì đâu. Hy vọng là nó học được một bài. Nhiều đứa lắm. Nó sẽ thấy cả đời chưa bao giờ khốn khổ như khi được nhận mũi Narcan đó. Thêm nữa Candy là y tá, cổ sẽ lo cho nó khi nó tỉnh thôi. Candy ấy? Tóc nâu ấy?” nó nói và lại thúc khuỷu tay vào sườn tôi khi thấy tôi không đáp. “Mi có nhìn thấy cô bé không?” Nó cười khúc khích. “Như là...?” Nó đưa ngón tay vẽ trên đầu gối mô phỏng đường cong của cô ta. “Cổ hơi bị siêu. Trời, tau mà giật được cổ khỏi thằng Niall người Ireland đó thì đã làm ngay. Có lần bọn tau đi đảo Coney, chỉ hai người thôi, và chưa bao giờ tau vui đến thế. Cổ thích đan áo len, mi tưởng tượng được không?” nó nói và ranh mãnh liếc nhìn tôi. “Một cô gái như thế - mi có nghĩ là típ đàn bà thích đan len không? Vậy mà thế đấy! Còn đòi đan cho tau một cái! Mà là nói thật đấy! ‘Boris, em sẽ đan cho anh một cái áo len bất kỳ lúc nào anh muốn. Chỉ cần nói anh thích màu gì, em sẽ làm ngay!’ ”

Nó đang tìm cách khiến tôi vui lên, nhưng tôi vẫn đang run lẩy bẩy không nói được. Một hồi lâu chúng tôi chỉ cúi đầu đi tiếp, không có tiếng động nào ngoài tiếng giày của cả hai trên lối mòn công viên trong bóng tối, tiếng bước chân hình như vang vọng đến vô cùng, vượt qua cả màn đêm thành phố khổng lồ bao quanh, tiếng còi xe và báo động nghe như cách đây cả nửa dặm.

“Ừm,” Boris bỗng nói và lại liếc nhìn tôi, “ít nhất thì giờ tau nghĩ ra rồi, hửm?”

“Gì?” Tôi giật mình đáp. Đầu óc tôi vẫn còn đang luẩn quẩn với thằng bé và mấy lần hút chết của chính mình: ngất xỉu trong phòng tắm ở tầng trên nhà Hobie, đầu bê bết máu do đập vào cạnh bồn rửa; tỉnh lại trên sàn bếp ở nhà Carole Lombard, Carole vừa lắc tôi vừa gào rú, may quá vì mới bốn phút, nếu năm mà anh chưa dậy em đã gọi 911.

“Hầu như chắc luôn. Chính là Sascha đã lấy cái tranh.”

“Ai cơ?”

Boris quắc mắt. “Em trai Ulrika chứ ai, thế đấy,” nó nói và khoanh tay trên bộ ngực hẹp. “Và lòng vả cũng như lòng sung, nếu mi hiểu ý tau. Sascha và Horst khắng khít lắm - Horst không đời nào chịu nghe ai nói xấu nó - hừm. Khó mà không ưa Sascha, ai cũng mến nó - nó thân thiện hơn Ulrika, nhưng tính cách của tau với nó không bao giờ hợp nhau. Horst sống đàng hoàng, ai cũng bảo thế, tới khi rơi vào tay chị em nhà nó. Học triết ở trường... chuẩn bị lãnh lấy công ty của cụ bố... thế mà giờ mi thấy đấy. Tuy thế, tau cũng không bao giờ tưởng tượng Sascha lại trở giáo đâm Horst, cả ngàn năm cũng không. Mi hiểu hết mấy chuyện nói trong đó chứ?”

“Không.”

“Thế này, Horst nghĩ lời Sascha là vàng là ngọc nhưng tau thì không. Và tau cũng không nghĩ cái tranh đang ở Ireland. Ngay cả Niall là thằng Ireland cũng không nghĩ vậy. Tau ghét cái là ả quay lại, Ulrika ấy - tau không thể nói thẳng điều ở trong đầu tau được. Bởi vì... ” tay thọc sâu vào túi “tau cũng hơi ngạc nhiên là Sascha lại dám làm trò này, và tau không dám bảo thẳng Horst, nhưng tau không nghĩ ra cách nào khác - tau nghĩ toàn bộ vụ lầm người, bị bắt, bắn nhau với cảnh sát, từ đầu chí cuối chỉ là dàn cảnh cho Sascha ôm cái tranh biến đi. Horst có cả mấy chục người sống bám vào mình, lão ta quá hiền lành tin người - tâm hồn dịu dàng, mi hiểu không, gặp ai cũng nghĩ họ tốt đẹp lắm - hừ, lão thì có thể mặc cho Sascha và Ulrika ăn cắp của mình, kệ lão, nhưng tau không để chúng nó cướp của tau đâu.”

“Hừm.” Tôi vẫn chưa ở bên Horst quá lâu, nhưng cũng không thấy anh ta tâm hồn dịu dàng cho lắm.

Boris cau mày và đá vào vũng nước. “Nhưng vấn đề duy nhất là gì? Người của Sascha? Cái thằng móc nối cho tau ấy? Tên thật là...? Bó tay. Nó xưng là ‘Terry’, xạo bà cố - tau cũng không dùng tên thật, nhưng mà ‘Terry’ người Canada, vái cả nón! Nó là dân Séc, chẳng ‘Terry White’ hơn đếch gì tau! Tau nghĩ nó là dân lưu manh đường phố, vừa ở tù ra - dốt đặc cán mai, học hành không có, loại du côn đơn thuần. Tau nghĩ Sascha nhặt nó ở đâu đó về, làm hỏa mù, chia cho nó một phần để bày ra vố đó, phần bằng cái móng tay thôi, dĩ nhiên. Nhưng tau biết ‘Terry’ mặt mũi ra sao và tau biết nó có người quen ở Antwerp và tau sẽ gọi cho thằng đệ Anh Đào lo mặt đó.”

“Anh đào?”

“Ừ - là kliytchka của thằng đệ Victor, bọn tau gọi vậy vì mũi nó đỏ như anh đào, nhưng cũng vì tên nó bằng tiếng Nga là Vitya nghe khá giống chữ anh đào. Hơn nữa ở Nga có cái phim truyền hình rất nổi tiếng, Anh đào mùa đông - thôi, lằng nhằng lắm. Tau hay chọc Vitya vì cái phim này, làm nó cáu điên. Dù sao thì - Anh Đào biết mọi thứ, quen mọi người, nghe hóng được hết mọi chuyện nội bộ. Hai tuần trước khi có chuyện đã nghe Anh Đào kể sạch. Nên là không phải lo về chú chim của mi, OK? Tau tin chắc là chúng mình sẽ lo liệu được thôi.”

“Mày nói ‘lo liệu được thôi’ là sao?”

Boris thở hắt ra. “Vì đây là vòng tròn kín, mi hiểu chưa? Chuyện đó thì Horst đoán trúng phóc rồi. Sẽ không ai mua bức tranh này hết. Nó là thứ không bán được. Nhưng, thị trường chợ đen, vật trao đổi? Có thể chuyển qua chuyển lại đến vô tận! Vừa giá trị, vừa gọn nhẹ. Các phòng khách sạn - đi đi về về. Ma túy, vũ khí, bé gái, tiền mặt - gì cũng được.”

“Bé gái?”

“Bé gái, bé trai, gì cũng được. Nào, nào,” nó nói và giơ một tay lên, “tau không dính gì đến vụ đó đâu. Chính bản thân tau cũng mấy lần bị bán hụt hồi bé - lũ rắn rết ấy trườn khắp Ukraina, hay ít ra là hồi ấy, xó nào ga nào cũng thấy và cho mi biết nếu mi rất trẻ và rất không vui thì sẽ thấy đấy là độ quá tốt. Một bác vẻ sạch sẽ hứa hẹn công việc ở nhà hàng London hay gì đó, tặng vé máy bay và hộ chiếu - ha. Chớp mắt một cái là mi đã tỉnh dậy tay bị xiềng trong tầng hầm đâu đó rồi. Sẽ không đời nào tau dính vào chuyện như vậy. Cái đó rất khốn. Nhưng vẫn có. Và một khi cái tranh đã rời tay tau, và tay Horst - thì ai biết nó sẽ được đưa ra trao đổi lấy cái gì? Nhóm này giữ, nhóm kia giữ. Quan trọng là...” giơ ngón trỏ lên “cái tranh của mi sẽ không mất tích vào bộ sưu tập của gã đại gia mê nghệ thuật nào. Nó nổi tiếng quá. Không ai muốn mua nó cả. Mua làm gì? Có dùng được làm gì? Chẳng làm gì cả. Trừ khi cảnh sát tìm được - và họ vẫn chưa tìm được, cái này thì ta biết...”

“Tao muốn cảnh sát tìm được nó.”

“À…” Boris quẹt mũi nhanh “ừ, mi thì cao quý lắm. Nhưng hiện giờ, điều tau cố biết là nó sẽ di chuyển, mà chỉ di chuyển trong một mạng lưới khá nhỏ thôi. Và Victor Anh Đào thì là bạn tốt, và nợ tau khá nhiều. Vậy nên, tươi lên!” nó nói và túm tay tôi. “Đừng có trắng bệch mặt ra thế! Và chúng mình lại sớm nói chuyện với nhau thôi, tau hứa.”

XVIII

ĐỨNG DƯỚI ĐÈN ĐƯỜNG nơi bị Boris bỏ lại (“không tiễn mi về nhà được! bị muộn rồi! Tau phải đến chỗ này đã!”) tôi choáng váng đến mức phải nhìn quanh định vị, mặt tiền xám lỗ chỗ của tòa nhà Alwyn, như một cơn mất trí ma quái thời Baroque - và ánh đèn pha chiếu trên giấy cắt, những hình trang trí Giáng sinh trên cửa nhà hàng Petrossian đã gõ lên tiếng cồng nào đó chôn sâu trong trí: tháng Mười hai, mẹ tôi đội một cái mũ len: nào cu con ơi, để mẹ chạy ù ra đường mua ít bánh sừng bò ăn sáng nhé...

Tôi lơ đãng đến mức một người đi vèo qua góc phố đâm sầm vào tôi: “Nhìn đường chứ!”

“Xin lỗi,” tôi nói và rũ mình. Dù tai nạn là lỗi của người kia - còn quá mải bấm bấm vuốt vuốt điện thoại đến nỗi không thấy gì trước mặt nữa - nhưng vài người trên vỉa hè vẫn nhìn tôi chê trách. Hụt hơi và bối rối, tôi nghĩ xem nên làm gì. Tôi có thể bắt tàu điện ngầm về nhà Hobie nếu muốn đi tàu điện, nhưng căn hộ của Kitsey gần hơn. Cô cùng hai bạn cùng nhà Francie và Em chắc đã ra đường hết, Đêm Bạn Gái Với Nhau (nhắn tin gọi điện cũng vô ích, kinh nghiệm đã cho tôi biết; hội đó thường đi xem phim), nhưng tôi có chìa khóa, có thể tự vào nhà pha đồ uống và nằm nghỉ trong lúc chờ cô về.

Trời đã tạnh, trăng mùa đông rõ nét qua kẽ hở giữa những đám mây giông, và tôi lại bắt đầu đi về phía đông, chốc chốc dừng lại tìm cách bắt taxi. Nói chung tôi ít khi tạt qua chỗ Kitsey mà không gọi trước, phần vì tôi không ưa lắm hai cô bạn cùng nhà, mà họ với tôi cũng tương tự. Nhưng bất kể Francie và Em và những chuyện trò xã giao giật cục trong bếp, căn hộ của Kitsey vẫn là một trong vài chốn an toàn thật tình ở New York đối với tôi. Không ai biết mà đến tìm tôi ở chỗ Kitsey. Lúc nào ở đây cũng có cảm giác tạm thời; cố không để nhiều quần áo lắm, đồ đạc chính là một chiếc vali trên giá hành lý cuối chân giường; và vì những lý do nào đó không giải thích nổi tôi lại thích vẻ vô danh trống rỗng, yên ả trong căn hộ, trang trí vui tươi nhưng dè sẻn bằng những tấm thảm hoa văn trừu tượng và đồ đạc hiện đại từ một cửa hàng nội thất vừa tiền. Giường cô êm, đèn đọc sách đủ sáng, lại có tivi màn hình plasma lớn để nếu muốn chúng tôi có thể nằm lăn xem tivi trên giường; tủ lạnh thép không gỉ lúc nào cũng để đầy Đồ Ăn Con Gái: gà nghiền, ô liu, bánh ngọt, sâm-panh, đủ loại xa lát ăn chay mua về dở hơi và kem chừng nửa tá vị.

Tôi lần tìm chìa khóa trong túi, rồi lơ đễnh mở cửa vào (chỉ đang nghĩ xem mình có thể kiếm được gì ăn, liệu có phải gọi thức ăn tới? Cô chắc chắn đã ăn tối rồi, đợi cũng vô ích) và suýt đập mũi vào cửa khi sợi xích bên trong chắn lại.

Tôi đóng cửa, đứng một phút hoang mang, rồi lại mở, cửa mắc vào xích kêu lạch xạch: xô pha đỏ, những ảnh in nhà cửa treo tường và nến thắp trên bàn cà phê.

“Xin chào?” Tôi gọi, rồi thử lại: “Xin chào?” lớn hơn khi nghe tiếng đi lại trong nhà.

Đợi đến lúc tôi đập cửa mạnh đến mức hẳn hàng xóm cũng phải dậy thì Emily, sau một khoảng thời gian hình như rất lâu, mới ra nhìn tôi qua khe cửa. Cô ta đang mặc áo len ở nhà xấu xí và quần có hoa văn rất rợ khiến mông trông bự hơn nhiều. “Kitsey không có nhà,” cô ta nói toẹt, cũng không mở cái xích.

“Ừ, anh biết rồi,” Tôi cáu kỉnh nói. "Cũng không sao.”

“Em không biết bao giờ nó mới về.” Emily, mà lần đầu tôi gặp còn là con bé lên chín mặt béo nẫn đập cửa vào mặt tôi trong căn hộ nhà Barbour, chưa bao giờ giấu giếm ý nghĩ rằng tôi với Kitsey thật là đũa mốc chòi mâm son.

“Ừ, thế cho anh vào, được chứ?” Tôi nói, hơi bực mình. “Anh muốn đợi cô ấy.”

“Xin lỗi. Giờ không phải lúc.” Mái tóc màu nâu lúa mì của Em vẫn cắt ngắn và để mái, y như hồi còn nhỏ, và hình dáng quai hàm cô ta - hệt như hồi lớp 2 - khiến tôi lại nhớ đến Andy, người luôn luôn câm ghét cô ta, con Em Phòm Phèm, con Em Lem Nhem.

“Dở hơi quá. Nào, cho anh vào đi,” tôi cáu kỉnh nói, nhưng cô ta chỉ đứng đơ sau khe cửa, không nhìn thẳng vào mắt tôi mà đâu đó bên nửa mặt. “Nào, Em, anh chỉ định vào phòng cô ấy nằm nghỉ thôi... ’

“Em nghĩ là anh quay lại sau thì tốt hơn. Xin lỗi,” Cô ta thêm vào trong khoảng im lặng khó tin sau đó.

“Này, anh không cần biết em đang làm gì...” Francie, cô bạn còn lại, ít nhất cũng còn biết giả vờ lịch thiệp “anh chẳng định làm phiền em đâu, chỉ muốn.

“Xin lỗi, em nghĩ anh nên về đi là hơn. Bởi vì, này nhé, em sống ở đây,” cô ta nói và lớn giọng át tiếng tôi...

“Trời ạ. Em không nghĩ thế thật chứ?”

“... em sống ở đây,” cô ta đang chớp mắt khó xử, “đây là nhà em và anh không thể cứ lúc nào muốn là xông vào được.”

“Đừng dở hơi thế!”

“Và, và... ” Cô ta cũng có vẻ rất bực bội “này, em không giúp anh được đâu, bây giờ là lúc rất không tiện, em nghĩ anh đi đi thì hơn. Được không? Xin lỗi nhé.” Cô ta đang đóng cửa vào mặt tôi. “Hẹn gặp anh trong buổi tiệc.”

“Sao cơ?”

“Tiệc đính hôn của anh ấy?” Emily hỏi, hé cửa ra một tí đủ khiến tôi thấy con mắt xanh đảo lia đang nhìn mình trước khi lại đóng cửa.

XIX

MẤT MỘT LÚC TÔI ĐỨNG GIỮA HÀNH LANG trong cảnh yên ắng đột ngột vừa rơi xuống, trừng mắt nhìn mắt thần trên cánh cửa đóng, và trong im lặng tưởng như nghe thấy Em chỉ cách vài phân ở bên kia cửa, cũng đang thở hồng hộc như tôi.

Hừ, được lắm, gạch tên mày khỏi danh sách phù dâu, tôi nghĩ và quay đi, cố gắng nện gót sầm sầm xuống dưới nhà, cảm thấy vừa tức điên vừa vui mừng kỳ lạ về cuộc giáp mặt này, lời khẳng định tuyệt đối cho mọi ý nghĩ không hay về Em từng lướt qua đầu. Kitsey đã hơn một lần xin lỗi về thói “cộc lốc” của Em nhưng việc này, theo cách nói của Hobie, là giọt nước tràn cốc rồi. Sao cô ta không đi xem phim với đám còn lại? Cô ta đang ở với thằng nào khác trong đó chăng? Em, bất chấp vẻ ngoài không quá hấp dẫn và mắt cá chân thô kệch, cũng có bạn trai tên là Bill gì đó làm chức to ở Citibank.

Đường phố đen bóng loáng. Ra khỏi tiền sảnh, tôi ghé vào dưới cửa hàng bán hoa cạnh nhà xem tin nhắn và nhắn cho Kitsey trước khi vào trung tâm, để đề phòng; nếu cô vừa xem phim xong tôi vẫn có thể đi đón cô ăn tối và uống gì đó (một mình, không có đám bạn gái đi cùng: vụ việc kỳ quái kia xem ra xứng đáng được thưởng), và chắc chắn rồi sẽ buôn chuyện, phỏng đoán và cười nhạo hành vi của Em.

Cửa sổ sáng đèn. Tủ mát sáng nhờ nhờ màu nhà xác. Bên kia tấm kính mờ sương có những dòng nước chảy dọc, những bó lan xòe cánh run rẩy trong luồng gió quạt: trắng như ma, như trăng, như thiên thần. Ngoài cùng là những loại kỳ quái hơn, nhiều cái bán đến hàng nghìn đô: loại có tơ, loại có gân, loại có đốm, loại có nanh, loại lấm chấm máu, loại mặt quỷ, màu sắc từ nấm mốc xác chết đến hồng bầm dập - lại còn cả một đóa lan đen kỳ tuyệt vươn dài rễ xám loằng ngoằng khỏi cái bình lót rêu lù xù. (“Xin anh, anh yêu,” Kitsey từng nói khi đoán trúng kế hoạch Giáng sinh của tôi, “đừng có mơ đến chuyện đó, mấy thứ đó quá đẹp và em sờ vào là chúng chết lập tức.”)

Không có tin mới. Tôi nhanh chóng nhắn cho cô (Gọi cho anh, phải nói chuyện, vừa có việc buồn cười lắm xxx) và để kiểm tra cho chắc cô vẫn chưa ra khỏi rạp phim, tôi gọi lại. Nhưng vừa khi đầu dây vang lên tiếng hộp thư thoại, tôi nhìn thấy bóng người trong cửa kính, giữa cánh rừng xanh tít sâu trong đáy cửa hàng, và ngỡ ngàng quay lại.

Chính là Kitsey, đầu cúi xuống, mặc cái áo khoác Prada hồng, tay ghì lấy tay và thì thầm bên tai một thằng đàn ông mà tôi nhận ra - chưa từng gặp hắn hàng năm nay rồi, nhưng biết ngay lập tức - vẫn dáng vai ấy, vẫn kiểu đi lén lút lả lướt ấy - Tom Cable. Mái tóc nâu xoăn tít vẫn để dài; hắn vẫn mặc chính những thứ mà đám sái nghiện lắm, tiền từng mặc ở trường (giày Tretorn, áo len Ireland to sụ mắt dày không có áo khoác) và tay lồng vào cái túi của cửa hàng rượu, chính cửa hàng đôi khi Kitsey và tôi vẫn ghé qua mua một chai. Nhưng điều làm tôi sửng sốt là: Kitsey, vốn lúc nào cũng nắm tay tôi hơi cách quãng - lôi theo đằng sau cô, vung vẩy tay tôi rất đáng yêu như một đứa trẻ chơi dung dăng dung dẻ - thì nay đang nép sát vào người hắn ta rầu rĩ. Trong lúc tôi nhìn, ngơ ngác vì cảnh tượng không sao hiểu thấu ấy - cả hai đang đợi đèn, xe buýt vù vù đi qua, quá đắm đuối với nhau đến nỗi không để ý thấy tôi - thì Cable, đang rì rầm nói chuyện, vuốt tóc cô và quay lại kéo cô sát vào mình rồi hôn cô, một nụ hôn được cô đáp lại dịu dàng và sầu muộn hơn bất kỳ nụ hôn nào từng dành cho tôi.

Thêm nữa, tôi thấy - hai người họ đang qua đường; tôi nhanh chóng quay lưng lại; tôi thấy rất rõ cả hai trong cửa sổ cửa hàng thắp đèn khi họ đi vào cửa trước chung cư của Kitsey chỉ cách tôi mấy bước - Kitsey đang buồn bực, cô đang nói rất khẽ, giọng khản đặc vì xúc động, áp sát vào Cable, má tì vào tay áo hắn khi hắn vòng tay siết chặt lấy cánh tay cô âu yếm; và dù không nghe ra nói gì nhưng âm điệu lời cô đã quá rõ: vì bất chấp nỗi buồn, thì niềm vui cô cảm thấy khi ở bên hắn, và hắn khi ở bên cô, là một điều không thể làm giả. Bất cứ kẻ qua đường nào cũng đều nhận thấy. Và - khi cả hai đi lướt qua tôi, trong ô cửa sổ tối om, một cặp bóng ma trìu mến tựa vào nhau - tôi thấy cô vụt đưa tay gạt giọt nước mắt lăn trên má, và nhận ra mình đang chớp mắt kinh ngạc khi chứng kiến cảnh này: vì không hiểu sao, thật là bất khả, lần đầu tiên trên đời, Kitsey đang khóc.

XX

TÔI THỨC GẦN TRẮNG ĐÊM; và khi đi xuống mở cửa hàng ngày hôm sau, tôi tư lự đến mức ngồi nhìn trời cả nửa tiếng đồng hồ mới nhận ra mình quên quay bảng “Đóng cửa” lại.

Những chuyến đi tuần hai lần của Kitsey đến nhà ở Hampton. Những số lạ lóe lên rồi vội dập máy. Kitsey chau mày nhìn điện thoại giữa giờ ăn rồi tắt đi: “À, Em ấy mà. À, mẹ ấy mà. À, một đứa tiếp thị qua điện thoại vớ vẩn ấy mà, số của em bị cho vào danh sách nào đấy.” Những tin nhắn nửa đêm, tiếng bíp tàu ngầm, sóng siêu âm xanh nhấp nháy trên tường, Kitsey nhổm dậy, cặp mông trần rời khỏi giường tắt đi, đôi chân trắng lóa lên trong tối: “À, nhầm số. À, Toddy ấy mà, lại đi say sưa ở đâu thôi.”

Và rồi, không kém phần khiến trái tim trĩu nặng: bà Barbour. Tôi biết rõ bàn tay khéo léo của bà Barbour trong những tình huống khó khăn - khả năng điều khiển những vấn đề tế nhị sau hậu trường - và dù đến giờ bà chưa hề trực tiếp nói dối tôi, theo như tôi biết, thì chắc chắn đã có nhiều thông tin được ỉm đi hay tô vẽ lên. Đủ thứ chuyện nhỏ nhặt giờ đang trở lại trong đầu, như là cái giây phút vài tháng trước, tôi bước vào nghe thấy bà nói nhỏ và khẩn thiết với người bảo vệ, qua máy bộ đàm, sau khi có chuông reo dưới sảnh: Không, tôi không cần biết, đừng cho anh ta lên, giữ anh ta lại dưới đó. Và rồi Kitsey, chưa đầy ba chục giây sau, kiểm tra tin nhắn rồi nhảy tưng lên bất ngờ tuyên bố cô sẽ đưa Lanh Canh và Clemmy đi dạo một vòng quanh phố! Tôi chẳng hề nghĩ gì về chuyên đó, bất chấp vẻ lạnh lẽo bất bình không lẫn vào đâu được thoáng qua mặt bà Barbour, đã lập tức khôi phục vẻ ấm áp khi cánh cửa đóng lại sau lưng Kitsey, bà quay lại bên tôi bắt tay nồng nhiệt.

Đêm đó chúng tôi đã hẹn gặp nhau: tôi sẽ đưa cô đến dự sinh nhật một người bạn, rồi sau đó lại ghé qua tiệc ở nhà người bạn khác. Kitsey không gọi, nhưng đã nhắn tin có vẻ dò hỏi: Theo, sao rồi? Em đang làm việc. Gọi em nhé. Tôi vẫn còn ngơ ngẩn nhìn điện thoại, không biết có nên đáp lại hay không - mà đáp thế nào đây? - thì Boris lao ầm vào cửa trước. “Tau có tin mới.”

“Thế à?” Tôi đáp, sau một giây lơ đãng.

Nó lau trán. “Ở đây nói chuyện được không?” nó hỏi và nhìn quanh.

“Ờ…” lắc đầu cho tỉnh. “Được chứ.”

“Hôm nay tau buồn ngủ dữ,” nó nói và dụi mắt. Tóc nó đang dựng đứng về mọi hướng. “Cần cà phê. Không, không có thời gian,” nó ngáp ngủ nói và giơ một tay lên. “Cũng không ngồi được. Chỉ ở lại được một phút thôi. Nhưng - tin mừng đây - tau có đầu mối về cái tranh của mi.”

“Đầu mối thế nào?” tôi hỏi, choàng tỉnh khỏi cơn mê mụ mang tên Kitsey.

“À, ta sẽ thấy nhanh thôi,” nó tránh né.

“Nó ở đâu…” gắng sức tập trung “có lành lặn không? Chúng nó để nó ở đâu?”

“Mi hỏi vậy tau chịu.”

“Nó...” Tôi đang khó khăn lắm mới sắp xếp ý nghĩ được; tôi hít thật sâu, đưa ngón cái vạch một đường trên mặt bàn để trấn tĩnh, ngước nhìn lên...

“Sao?”

“Nó cần một khoảng nhiệt độ nhất định và một độ ẩm nhất định - mày biết mà, phải không?” Giọng ai đó khác chứ không phải tôi. “Chúng nó không thể để bừa trong một ga ra ẩm mốc nào đó được.”

Boris dẩu môi, cái vẻ khinh thị ngày xưa. “Tin tau đi, Horst chăm bẵm nó như chính con mình ấy. Mặc dù thế…” nó nhắm hờ mắt “tau không rõ mấy thằng kia thì thế nào. Rất buồn phải thông báo với mi rằng chúng chẳng phải thiên tài gì đâu. Ta đành hy vọng chúng có đủ đầu óc để không nhét nó sau lò pizza gì đó vậy. Tau đùa thôi,” nó kiêu ngạo nói khi thấy tôi há hốc mồm hoảng hốt. “Tuy rằng như tau được nghe, nó đang giấu trong một nhà hàng, hay gần một nhà hàng gì đó. Ít nhất cũng là một tòa nhà có nhà hàng. Chuyện đó để sau nói đi,” nó nói và giơ tay lên.

“Ở đây ư?” Tôi hỏi, sau thêm một quãng im lặng không tin nổi. “Trong thành phố luôn ư?”

“Để sau. Cái đó đợi được. Nhưng còn chuyện thế này,” nó nói, giọng nhỏ hẳn và gấp gáp, vừa nói vừa nhìn quanh phòng và qua đầu tôi. “Nghe này, nghe này. Đây mới là điều tau cần nói với mi. Horst - lão chưa hề biết họ mi là Decker, ít ra là đến lúc vừa hỏi tau trên điện thoại hôm nay. Mi có biết một gã tên là Lucius Reeve không?”

Tôi ngồi xuống. “Sao mày hỏi thế?”

“Horst bảo tránh xa hắn ra. Horst biết mi buôn đồ cổ nhưng chưa hề liên hệ qua chuyện kia cho đến khi biết tên mi.”

“Chuyện kia là chuyện gì?”

“Horst không chịu nói kỹ. Tau không biết mi dính dấp gì với gã Lucius này, nhưng Horst nhắc phải tránh xa hắn ra và tau nghĩ mi cần biết ngay lập tức. Hắn đã làm phật lòng Horst ghê gớm trong một vụ khác, và Horst cử Martin bám đuôi hắn.”

“Martin?”

Boris phẩy tay. “Mi chưa gặp Martin. Yên trí đi, mi mà gặp là sẽ không quên được. Dù sao thì gã Lucius này là loại không nên dây vào với người trong nghề mi.”

“Tao biết rồi.”

“Mi dính đến lão vụ gì? Nếu tao hỏi được?”

“Tao...” Lần nữa tôi lại lắc đầu, một câu chuyện không thể trình bày nổi. “Rắc rối lắm.”

“Hừm, tau không biết gã có thù gì với mi. Nếu mi cần tau giúp, dĩ nhiên là tau sẽ giúp - tau hứa chân thành với mi đấy - Horst nữa, tau dám nói thế, vì lão khoái mi. Thật vui khi thấy lão hào hứng và lắm lời như thế, hôm qua ấy! Tau nghĩ là lão chẳng quen nhiều người cho lão bộc lộ chính mình và chia sẻ sở thích c?