Chương 11 Điểm Hẹn.
NHỮNG NGÀY gần đến Giáng sinh nhòa nhạt cả vào nhau, vì nhờ có cơn ốm và cái có thể coi là cảnh biệt giam mà tối đã mất hết ý thức thời gian. Tôi ở lì trong phòng; tấm biển ĐỪNG LÀM PHIỀN ở lì trên cửa; và tivi - thay vì đưa tới ít nhất cũng là tiếng nền tạo cảm giác giả về tính bình thường, chỉ càng khua rộn thêm cảnh rối bời và lạc lõng đa hình thức: không có logic, không có kết cấu, tiếp theo sẽ là gì, ta không biết, có thể là bất kỳ thứ gì, chương trình Phố Vừng[175] bằng tiếng Hà Lan, một đống người Hà Lan ngồi nói chuyện bên bàn, lại tiếp tục người Hà Lan ngồi nói chuyện bên bàn, và dù vẫn có Sky News và CNN và BBC thì tất cả tin tức địa phương đều không bằng tiếng Anh (chẳng có gì quan trọng, chẳng có gì liên hệ tới tôi hay ga ra gửi xe) dù có một lần tôi đã choáng người khi, lướt qua các kênh gặp một bộ phim tội phạm cũ của Mỹ, nghệt ra trước hình ảnh ông bố hai mươi lăm tuổi của tôi: một trong vô số vai không có thoại của ông, một tay ba phải lượn lờ sau lưng ứng cử viên nào đó tại một buổi họp báo nào đó, gật gù khi nghe những lời hứa hẹn tranh cử của hắn và trong một giây ghê người nhìn thẳng vào máy quay, nhìn thẳng qua đại dương xuyên tới tương lai, tới chính tôi. Những sự trớ trêu này đa trùng quá nhiều lớp và quá dị thường đến nỗi tôi há hốc miệng ghê sợ. Trừ kiểu tóc và thân mình vạm vỡ hơn (nhờ tập tạ: thời đó ông đi tập thể hình rất chăm chỉ), trông ông không khác gì anh em song sinh của tôi. Nhưng choáng nhất là dáng vẻ ông thẳng thắn biết mấy - ông bố ngay từ lúc này (khoảng năm 1985) đã dối trá đến mức tội phạm và chớm nghiện rượu của tôi. Không có gì hiển hiện trên mặt nói lên tính cách, hay tương lai của ông. Trái lại, trông ông quyết liệt, ân cần, kiểu mẫu về tương lai chắc chắn và hứa hẹn.
Sau vụ đó tôi tắt tivi đi. Dần dà, mối liên hệ duy nhất của tôi với hiện thực chỉ còn là người mang đồ ăn lên phòng, mà tôi cũng chỉ gọi lên vào những giờ tối mịt trước bình minh khi các cậu nhân viên phục vụ đều chậm chạp và ngái ngủ. “Không, làm ơn cho tôi báo tiếng Hà Lan,” tôi nói (bằng tiếng Anh) với cậu bồi phòng chỉ biết tiếng Hà Lan vẫn mang tờ International Herald Tribune lên cùng những bánh mì nhân Hà Lan với cà phê, thịt nguội với trứng và đủ loại pho mát Hà Lan. Nhưng vì đằng nào cậu ta cũng chỉ mang tờ Tribune tới, tôi xuống bằng cầu thang phụ trước khi mặt trời lên để xem báo địa phương, đểu để xòe ra rất tiện lợi trên bàn ngay cạnh cẩu thang khiến tôi khỏng phải đi qua bàn lễ tân.
Bloedend. Moord[176]. Mặt trời dường như đến chín giờ sáng mới chịu mọc, và kể cả lúc ấy cũng là một mặt trời vẩn sương u ám, phả xuống thứ ánh sáng thấp, yếu như luyện ngục, như hiệu ứng trên sân khấu opera Đức. Hẳn là kem đánh răng tôi đã dùng chà ve áo có chứa oxy già hay một hóa chất tẩy trắng nào khác, vì chỗ đó đã nhạt đi thành một quầng trăng trắng to bằng bàn tay, mép màu trắng phấn, ôm lấy bóng ma khó lắm mới nhìn thấy của chất huyết tương trong sọ Frits, Vào khoảng ba rưỡi chiều ánh sáng đã tắt, đến năm giờ chiều thì đen đặc. Lúc ấy, nếu đường không quá đông người, tôi bẻ cổ áo lên, buộc chặt khăn trên cổ và - rất chú ý cúi đầu - chúi vào bóng tối chạy ra một cái chợ châu Á bé xíu cách khách sạn vài trăm mét, dùng những đồng euro cuối cùng mua xăng-uých gói sẵn, táo, bàn chải mới, thuốc ho, aspirin và bia. Is alles?[177] Bà cụ già hỏi bằng tiếng Hà Lan có vẻ bồi. Đếm mấy đồng xu của tôi chậm đến điên lên được. Cạch, cạch, cạch. Có thẻ tín dụng nhưng tôi quyết tâm không dùng đến - thêm một luật ngẫu hứng trong trò chơi tôi tự để ra cho mình, một sự phòng ngừa hoàn toàn phi lý vì tôi định lừa ai đây chứ? Còn quan trọng gì mấy cái xăng-uých ở cửa hàng tiện lợi, khi khách sạn đã nắm được số thẻ của tôi?
Phần vì sợ hãi, phần vì ốm mà tư duy của tôi không còn sáng rõ, vì căn bệnh cảm hay trúng lạnh gì gì đó đã đến với tôi vẫn không chịu bỏ đi. Dường như cứ mỗi giờ, cơn ho lại sâu hơn và phổi lại đau hơn. Những đồn đại về tính sạch sẽ của người Hà Lan đều chính xác. Các sản phẩm tẩy rửa Hà Lan: ngoài chợ có cả chục loại nhìn đến hoa mắt, những mặt hàng chưa từng thấy bao giờ, và tôi mang về phòng một cái bình có con thiên nga trắng muốt trên nên núi đỉnh tuyết trắng xóa cùng nhãn đầu lâu xương chéo đằng sau. Nhưng dù thứ thuốc này đủ mạnh để đánh bay hết sọc trên áo sơ mi, nó lại không đủ xóa vết bẩn nơi cổ áo, đã phai từ những mảng thẫm màu gan sang những đường viết chồng lên nhau trông quái ác như vân nấm gỗ tròn. Tôi xả nước, lần thứ tư hay năm gì đấy, nước mắt giàn giụa, rồi quấn vào túi ni-lông buộc lại, đẩy vào trong cùng cái tủ chè cao. Không có thứ gì buộc cho chìm xuống, tôi biết nó sẽ nổi lềnh bềnh nếu thả xuống kênh, mà tôi lại sợ mang ra đường ấn vào thùng rác nào đó - sẽ có người nhìn thấy, tôi sẽ bị tóm, đấy là cách chuyện đó sẽ xảy ra, tôi biết từ sâu trong cốt tủy và bất cẩn lý trí như người ta vẫn biết trong mơ.
Một lát thôi. Một lát là bao lâu? Ba ngày là cùng, Boris đã nói vậy ở nhà Anne de Larmessin. Nhưng khi đó nó đâu có tính đến Frits và Martin.
Chuông với vòng hoa, sao giấy trang trí các cửa sổ, nơ và quả óc chó mạ vàng. Đêm đêm, tôi ngủ đi cả tất, áo choàng dính bẩn, áo len cổ lọ trợ sức cho chăn mỏng, vì quay ngược chiều núm vặn máy sưởi như quảng cáo trong tập giới thiệu bìa da của khách sạn cũng không giúp phòng ấm được đến mức cần cho những cơn đau nhức và ớn lạnh bệnh tật của tôi. Lông tơ ngỗng trắng, thiên nga trắng. Phòng nồng nặc mùi nước tẩy như một bể sục rẻ tiền. Mấy cô dọn phòng đi qua hành lang có ngửi thấy không? Ăn cắp tranh không quá mười năm, nhưng với Martin thì tôi đã vượt biên giới tiến vào một vùng đất khác hẳn - đường một chiều, không lối quay đầu.
Thế nhưng, cách nào đó tôi đã có một cách tàm tạm dùng được để nghĩ về cái chết của Martin, hay đúng hơn để nghĩ vòng quanh nó. Hành vi đó - hành vi vĩnh cửu đó - đã ném tôi vào một thế giới hoàn toàn khác, đến nỗi xét theo mọi mục đích thực tế tôi có thể coi như đã chết rồi. Cảm giác trong tôi là đã đi qua mọi thứ, ngoảnh lại nhìn bờ từ một tảng băng trôi dạt ra biển khơi. Điều đã làm không cách nào xóa được. Tôi đã xong rồi.
Và cũng không sao. Tôi chẳng có nghĩa mấy trong trật tự của vạn vật và Martin cũng vậy. Chúng tôi sẽ bị quên đi dễ dàng. Đấy là một bài học xã hội và đạo đức, nếu không là gì khác. Nhưng cho tới mọi khoảng thời gian tương lai lường trước được - cho tới chừng nào lịch sử còn được viết, chừng nào các núi băng hai cực chưa tan ra khiến đường phố Amsterdam ngập trong bể nước - thì bức tranh sẽ còn được nhớ tới và khóc thương. Ai biết, ai quan tâm, tên của những tay người Thổ đã cho nổ tung nóc điện Parthenon? Những giáo sĩ Taliban đã ra lệnh hủy diệt hai pho tượng Phật ở Bamiyan? Nhưng dù sống hay chết, hành vi của chúng vẫn còn lại. Đấy là sự bất tử ở dạng thức khốn nạn nhất. Dù có chủ ý hay không, tôi đã dập tắt một ngọn lửa trong tim thế giới.
Hành động của Chúa: đấy là cách các công ty bảo hiểm gọi những thảm họa quá ngẫu nhiên hay bí hiểm đến nỗi ngoài ra không còn cách nào đo lường nó. Xác suất là một việc, nhưng còn những sự kiện rơi hẳn ra ngoài bảng thống kê tử suất đến nỗi cả những công ty bảo hiểm cũng buộc phải lôi cái siêu nhiên vào giải thích - số nhọ, như bố tôi từng rầu rĩ nói một đêm bên bể bơi, chiều tà sập xuống, đốt hết điếu Viceroy này đến điếu khác để xua muỗi, một trong những lần hiếm hoi ông tìm cách nói chuyện với tôi về cái chết của mẹ, vì sao những chuyện xấu xảy ra, vì sao là mẹ, không đúng lúc chẳng đúng nơi, chỉ là số nó vậy thôi nhóc ạ, triệu lần có một, đây chẳng phải là cách lảng tránh hay thoái lui mà - tôi nhận ra, vì ông là người nói ra điều đó - chính là xác nhận đức tin, và là câu trả lời khá nhất ông tìm ra được để dành cho tôi, đồng đẳng với Allah Đã Viết hay là Ý Chỉ Thiên Chúa, một cú khấu đầu chân thành trước Vận Đỏ Đen, vị thần cao nhất mà ông thờ phụng.
Giá ông ở vào vị trí tôi. Tôi gần như phá lên cười khi nghĩ vậy. Tôi hình dung mồn một cảnh ông vừa rúc trong phòng, đi đi lại lại, bị nhốt, sục sạo, lại vừa nhấm nháp kịch tính trong tình huống ấy, vai gã cớm bị vu oan trong xà lim của Farley Granger. Nhưng tôi cũng hình dung được rõ cả sự thích thú của người quan sát trước cảnh ngộ tôi, với những rẽ ngoặt và đổi hướng cũng tùy tiện chẳng kém gì những nước bài, hình dung quá rõ ràng cái lắc đầu sầu muộn. Hành tinh ở thế xấu. Việc này có một hình dạng, một mô hình lớn hơn. Nếu chúng ta chỉ đang chém gió, nhóc ạ, con hiểu đấy . Ông sẽ tính tính toán toán thuật số hay gì đó, xem cuốn sách Bọ Cạp, tung đồng xu, đọc các sao. Có muốn chê bai gì bố tôi, cũng không thể bảo ông thiếu thế giới quan nhất quán.
Khách sạn đang đầy lên khi ngày lễ đến gần. Toàn các đôi. Quân nhân Mỹ nói chuyện không âm sắc kiểu quân đội trong hành lang, cấp bậc và quyền uy lồ lộ trong giọng nói. Trên giường, giữa cơn mê thuốc phiện, tôi mơ về những đỉnh tuyết phủ, tinh khiết kinh hồn, những quang cảnh núi cao từ các bộ phim thời sự về Berchtesgaden[178], những luồng gió lớn lẫn vào nhau rồi thốc tung mặt biển đảo điên trong bức sơn dầu treo trên bàn: tàu buồm bé xíu nghiêng ngả, một mình giữa bể nước đen ngòm.
Bố tôi: Bỏ cái điều khiển từ xa xuống khi tao đang nói chuyện với mày.
Bố tôi: À, cũng không thể nói được là thảm họa, nhưng là thất bại.
Bố tôi: Có bắt buộc phải cho nó ăn với mình không, Audrey? Có bắt buộc phải tối đéo nào cũng để nó ngồi cùng bàn mình không? Cô không bắt Alameda cho nó ăn được trước khi tôi về à?
Bài Uno, bắn bòm, bảng tự xóa, cờ ca rô. Vài hình lính đồ chơi mặc quân phục xanh và côn trùng cao su bò trườn rợn tóc gáy bỏ trong tất tôi sáng Giáng sinh.
Ông Barbour: Tín hiệu hai cờ. Victor: Tàu tôi yêu cầu được giúp đỡ. Echo: Tàu tôi đang chuyển hướng sang trái.
Cán hộ trên Đại lộ 7. Xám như ngày mưa. Hết giờ này đến giờ khác thổi vào thổi ra đơn điệu cái đàn Harmonica đồ chơi, vào rồi ra, vào rồi ra.
Đến thứ Hai, hay có lẽ là thứ Ba, khi cuối cùng tôi cũng đủ can đảm kéo cái màn vẫn giăng kín cửa, vào chiều muộn khi ánh sáng đang tắt dần, ngoài phố trước cửa khách sạn có một toán truyền hình đang chặn đường du khách. Giọng Anh, giọng Mỹ. Hòa nhạc Giáng sinh ở Sint Nicolaaskerk và các quầy hàng ngày lễ bán bánh rán nhân kem oliebol. “Suýt bị xe đạp tông phải nhưng ngoài ra thì rất vui.” Ngực tôi đau thắt. Tôi lại buông màn kín phòng và đứng dưới vòi sen nóng, để nước giã xuống người tới khi da tê rát. Cả khu nhà lấp lánh những nhà hàng thắp đèn tiên, những cửa hàng đẹp tuyệt bày áo khoác nhẹ len cashmere và áo len dày đan tay cùng đủ thứ đồ ấm mà tôi quên không mang theo. Nhưng tôi còn không dám gọi điện xuống nhờ đem lên ấm cà phê, vì trong mấy tờ báo tiếng Hà Lan mà tôi đã hối hả lật qua từ rất lâu trước khi mặt trời mọc sáng hôm đó, có một tờ ngay trang nhất đăng ảnh cái ga ra gửi xe có băng cảnh sát chăng ngang lối ra.
Mấy tờ báo trải trên sàn ở bên kia giường, như bản đồ dẫn đến một nơi kinh khủng nào đó mà tôi không muốn tới. Liên tục, không ngăn mình được, giữa chừng ngủ gà gật hoặc rơi vào những câu chuyện mê sảng tôi không nói, với những người tôi không gặp, tôi lại quay về săm soi dò xét tìm những từ Hà Lan chung gốc tiếng Anh rất ít xuất hiện. Amerikaan dood aangetroffen.[179] Heroine, cocaine. Moord: hữu tử, tử vong, chết chóc, giết chết. Drugsgerelateerde criminaliteit Frits Aaltink afkomstig ult Amsterdam en Mackay Fiedler Martin uit Los Angeles[180]. Bloedig: máu me. Schotenwisseling:[181] ai biết được, mặc dù schoten: liệu có phải là bắn không? Deze moorden kwamen als en schok voor [182] - là sao?
Boris. Tôi đi lại cửa sổ đứng đó, rồi quay trở lại. Giữa cảnh hỗn loạn trên cầu tối vẫn nhớ rõ nó đã bảo tôi đừng có gọi, nó đã day đi day lại điểm đó dù chúng tôi chia tay vội vã đến mức giờ tôi không nhớ nổi liệu nó có giải thích vì sao tôi lại phải chờ nó gọi cho tôi trước, mà dù sao giờ tôi cũng không biết liệu điều ấy còn quan trọng hay không. Nó cũng khăng khăng rằng không bị thương, hoặc ít ra là tôi liên tục nhắc mình như vậy, dù trong bãi lầy những ký ức không mong muốn vẫn dội xuống từ tối đó đến giờ, tôi vẫn không ngừng thấy lỗ bỏng trên tay áo khoác len đen dính nhớp trong quầng đèn hơi. Làm sao tôi biết, có thể cảnh sát giao thông đã tóm lấy nó trên cầu và lôi về đồn vì chạy xe không bằng lái: quả là một cớ điên khùng, nếu đúng là vậy thật, nhưng còn khá hơn gấp bội một số khả năng khác tôi có thể nghĩ ra.
Twee doden bij bloedige[183]... Chưa hết. Vẫn còn nữa. Hôm sau, hôm sau nữa, cùng với Bữa Sáng Hà Lan Truyền Thống, tôi được phục vụ kèm tin tức về vụ thanh toán nhau trên Phố Overtoom: những cột báo ngắn hơn nhưng thông tin dày đặc hơn. Twee dodelijke slachtoffers. Nog een of meer betrokkenen. Wapengeweld in Nederland.[184]
Ảnh Fnts, cùng ảnh mấy thằng khác tên Hà Lan trong một bài bảo khả dài mà tôi không có hy vọng đọc được. Dodelijke schietpartij nog onopgehelderd…[185] Đáng ngại là họ đã thôi nói về ma túy - đòn hỏa mù của Boris - và chuyển sang xem xét những góc độ khác. Tôi đã giải phóng thứ này, nó đã chạy rông ngoài thế giới, người ta đang đọc về nó khắp thành phố, nói về nó bằng một thứ tiếng không phải của tôi.
Quảng cáo Tiffany to bự trên tờ Herald Tnbune, Vẻ Đẹp Và Tài Nghệ Vĩnh Hằng. Tiffany & Co. Chúc Mừng Ngày Lễ.
Ngẫu nhiên luôn chơi xỏ, ngày xưa bố tôi thích nói vậy. Các hệ thống, phân tích tỷ lệ cược.
Boris đâu? Trong cơn mê man sốt tôi đã thử - mà vô ích - giải khuây hay ít nhất cũng lãng trí bằng ý nghĩ nó vẫn luôn hiện ra đúng vào lúc không ai nghĩ nó sẽ tới. Bẻ đốt ngón tay, khiến tụi con gái nhảy nhổm. Ló mặt nửa tiếng đồng hồ sau khi giờ thi Tiếng Anh Bản Ngữ toàn bang đã bắt đầu, tiếng cười lan khắp phòng học khi nhìn mặt nó ngớ ra sau cửa kính cường lực đã khóa kỹ: ha, tương lai tươi sáng của ta, nó đã khinh miệt bảo vậy trên đường về khi tôi cố giải thích khái niệm các bài thi quy chuẩn.
Trong mơ tôi không thể đến nơi cần đến. Lúc nào cũng có gì đó ngăn tôi đến với nơi tôi cần phải đến.
Nó đã nhắn cho tôi số của nó trước khi ra khỏi Mỹ, và dù sợ không dám nhắn lại (không biết tình hình bên nó ra sao, cũng không biết có cách nào từ tin nhắn lần được ra tôi không), tối vẫn liên tục nhắc mình rằng còn có cách liên hệ nó nếu đến lúc cấp thiết. Nó biết tôi ở đâu. Nhưng đêm đêm, tôi vẫn thức hàng giờ tranh luận một mình: chán ngấy nhưng bền bỉ, bàn qua bàn lại, thế này thì sao, thế kia thì sao, có hại gì chứ? Cuối cùng, vào một thời điểm mất phương hướng nào đó - đèn đêm vẫn thắp, nửa tỉnh nửa mơ, hoàn toàn phát dại – tôi đầu hàng và nhặt lấy điện thoại trên bàn đầu giường, nhắn bừa cho nó trước khi có cơ hội nghĩ lại: Mày ở đâu?
Suốt hai ba tiếng tiếp đó tôi nằm, cơn lo lắng dường như không trấn áp nổi, tay vắt qua mặt chắn ánh sáng dù không cỏ chút ánh sáng nào. Hại thay, khi tỉnh khỏi giấc ngủ đẫm mồ hôi đâu đó lúc gần sáng, cái điện thoại đã chết cứng vì tôi quên tắt, và - ngại không muốn xuống lễ tân, hỏi xem có sạc thừa cho mượn - tôi do dự hàng giờ rồi cuối cùng, giữa buổi chiều, cũng chịu thua.
“Tất nhiên, thưa quý khách,” người trực quầy nói, gần như không nhìn tôi. “Kiểu Mỹ à?”
Ơn Chúa, tôi nghĩ, cố không rảo bước quá nhanh khi đi lên tầng. Cái điện thoại đã cũ, rất chậm, sau khi cắm vào đứng chờ một lúc, tôi chán chả buồn đợi logo Apple hiện lên nữa mà đi ra tủ lạnh kiếm thức gì uống rồi trở lại, ngó thêm một lúc tới khi màn hình chờ cũng hiện lên, ảnh cũ thời đi học tôi đã đùa chơi quét vào, chưa bao giờ có bức ảnh nào làm tôi mừng rỡ như thế, Kitsey lên mười bay giữa không trung khi đang đá cú phạt đền. Nhưng vừa lúc tôi toan bấm mã số vào, màn hình tắt ngúm, xì xèo chừng mười giây, những dải đen và xám đuổi theo nhau rồi rời ra thành từng hạt trước khi cái mặt buồn hiện lên và kêu đánh tạch một cái trở về đen xì.
Bốn giờ mười lăm phút chiều. Trời đang ngả màu lam thẫm trên các đầu hồi treo chuông bên kia kênh. Tôi ngồi trên thảm, lưng dựa vào giường, dây sạc trong tay, sau khi đã thử lần lượt tất cả các ổ cắm trong phòng đến hai lần - đã bật lên rồi tắt đi cả trăm lượt, giơ lên đèn xem có phải nó vẫn bật mà chỉ là màn hình bị tối đi không, tìm cách reset nó, nhưng nó tạch thật rồi: không có gì xảy ra, màn hình đen lạnh lẽo, chết ngắc củ kiệu. Rõ ràng là tôi đã làm nó chập điện: đêm ở ga ra nó đã bị ướt - có nước trên màn hình khi tôi lấy khỏi túi - nhưng dù đã mất một hai phút run sợ chờ nó bật lại, thì nó vẫn có vẻ hoạt động bình thường mãi đến lúc tôi định đem sạc. Mọi thứ đều đã sao lại trong laptop ở nhà, ngoại trừ thứ duy nhất tôi cần: số của Boris, nhắn cho tôi trong xe trên đường ra sân bay.
Bóng nước dập dờn trên trần nhà. Ngoài kia, ở đâu đó, tiếng dàn chuông Giáng sinh léo nhéo và những đội hát hỏng nhạc đang tấu lên. O Tannenbaum, O Tannenbaum, wie treu sind deine Blättet[186].
Tôi không có vé về. Nhưng có thẻ tín dụng. Tôi có thể bắt taxi ra sân bay. Mày có thể bắt taxi ra sân bay, tôi tự nhủ. Schiphol. Chuyến bay đầu tiên về nhà. Kennedy, Newark. Tôi có tiền. Tôi đang nói chuyện một mình như trẻ con. Ai biết Kitsey đang ở đâu - có khi còn ở khu Hampton không biết chừng - nhưng trợ lý của bà Barbour là Janet (vẫn giữ nghề cũ dù bây giờ bà Barbour chẳng còn mấy thứ cần cô trợ giúp nữa) là loại người có thể giúp anh lên máy bay từ bất kỳ đâu chỉ cần vài giờ thông báo, dù đang chiều tối Giáng sinh.
Janet. Nghĩ đến Janet mà an tâm lạ lùng. Janet mà bản thân là một hệ cảm xúc hiệu năng cao, Janet béo tròn hồng hào chuyên mặc áo len lông cừu hồng và váy ca rô lắm màu như một nàng tiên rừng trong tranh Boucher bận đổ J. Crew, Janet hay nói tuyệt hảo! đáp lại tất cả mọi điều và uống cà phê bằng cái ca màu hồng có ghi Janet.
Thật nhẹ mình khi suy nghĩ rành mạch. Có ích gì cho Boris, hay bất cứ ai, nếu tôi cứ đợi ở đây? Cái lạnh, cái ẩm, cái thứ tiếng không đọc nổi. Sốt và ho. Cảm giác bị bó buộc như ác mộng. Tôi không muốn đi mà bỏ lại Boris, không biết Boris ra sao, đây chính là cái nút thắt trong các phim chiến tranh khi chạy tiếp bỏ lại chiến hữu ngã xuống mà không hể biết mình tránh vỏ dưa để chuẩn bị đạp vỏ dừa, nhưng mặt khác tôi khao khát thoát khỏi Amsterdam đến nỗi có thể hình dung mình quỳ sụp khi hạ cánh xuống sân bay Newark, dập trán xuống sàn sảnh đến.
Niên giám điện thoại. Bút chì và giấy. Chỉ có ba người từng thấy tôi: gã Indonesia, Grozdan, và thằng bé người Á. Và mặc dù rất có thể Martin và Fnts có đồng sự ở Amsteram đang săn tìm tôi (thêm một lý do nên té gấp khỏi đây), nhưng chẳng có cớ gì cho cảnh sát lùng tôi cả. Chẳng có cớ gì cảnh sát đã vào sổ đen hộ chiếu của tôi.
Rồi - như một cú đòn giáng giữa mặt - tôi nhăn lại. Không hiểu sao tôi cứ mãi nghĩ rằng hộ chiếu của mình đang ở dưới nhà, nơi tôi đã tìm ra khi lấy phòng. Nhưng thực tế là tôi chưa hề nghĩ đến nó lần nào, kể từ khi Boris cầm lấy từ tay tôi khóa lại trong ngăn để đồ xe nó.
Hết sức, cực kỳ điềm đạm, tôi bỏ cuốn niên giám xuống, cố gắng đặt một cách trông sẽ hững hờ và thản nhiên trước mắt một kẻ quan sát vô tình. Như lệ thường thì điều này khá đơn giản. Tra địa chí, đến văn phòng, đoán xem nên đi đâu. Đứng xếp hàng. Chờ đến lượt. Nói năng thật lễ độ kiên nhẫn. Tôi có thẻ tín dụng, cán cước dán ảnh. Hobie có thể fax giấy khai sinh qua. Sốt ruột, tôi cố gạt khỏi đầu một câu chuyện Toddy Barbour từng kể mua vui trong tiệc - rằng, khi đánh mất hộ chiếu (ở Ý? Tây Ban Nha?) cậu ta từng bị bắt lôi một người chứng bằng xương bằng thịt tới để khẳng định đúng là cậu ta.
Trời màu mực đen, màu bầm dập. Ở Mỹ giờ này còn sớm. Hobie vừa nghỉ tay ăn trưa, đi bộ ra chợ Jefferson, có khi còn mua rau quả cho bữa tiệc trưa sắp tổ chức ngày Giảng sinh. Pippa còn ở California không? Tôi tưởng tượng cô lăn qua trên giường khách sạn, ngái ngủ với lấy điện thoại, mắt vẫn nhắm nghiền, Theo, cậu đấy à, có gì không ổn ư?
Bị phạt rồi nói xàm cho qua còn hơn trong trường hợp bị giữ lại.
Tôi phát ốm. Trình diện ở tòa đại sứ (hay cái gì cũng được) rồi trải qua một chặp phỏng vấn và giấy tờ nữa là rước vào người nhiều rắc rối hơn mức tôi cần, Tôi chưa hề đặt thời hạn, xem mình sẽ chờ đến bao giờ, thế nhưng bất kỳ hành động nào - hành động tùy hứng, hành động vô nghĩa, hành động như con ruồi bay loanh quanh trong hũ - dường như còn tốt hơn là bị bó giò trong phòng dù chỉ một phút nữa, thấy các bóng ma lảng vảng ngay khóe mắt.
Thêm một quảng cáo Tiffany đại tướng trên tờ Tribune, chúc tôi Vạn Sự Như Ý. Rồi ở trang sau, một quảng cáo khác, máy ảnh số, vẽ ngoằn ngoèo những chữ cái ra chiều nghệ thuật ký tên Joan Miró:
Có những khi bạn ngắm bức ảnh suốt một tuần rồi không bao giờ nghĩ đến lần nữa. Có lúc khác bạn nhìn thấy bức ảnh trong một giây rồi nghĩ đến nó suốt đời mình.
Centraal Station. Liên minh châu Âu, không kiểm tra hộ chiếu ở biên giới. Bất kỳ tàu nào, đi bất cứ đâu. Tôi hình dung mình đi lòng vòng vô hướng khắp châu Âu: thác Rhine và đèo Tyrol, những đường hầm và bão tuyết đẹp như phim.
Nhiều khi quan trọng là bị chia bài xấu nhưng biết chơi đẹp, tôi nhớ bố từng nói vậy khi ngáp ngủ trên xô pha.
Nhìn điện thoại, đầu váng vất sốt, tôi ngồi thật im cố gắng nghĩ. Trong bữa trưa, Boris đã nói chuyện đi tàu từ Amsterdam qua Antwerp (và Frankfurt: nhưng tôi không hề muốn đến đâu gần Đức), nhưng cả Pans nữa. Nếu tôi đến đại sứ quán ở Pans xin cấp hộ chiếu mới: có lẽ ít có khả năng bị kết nối với vụ Martin hơn. Nhưng chẳng có cách nào quên rằng thằng bé Trung Quốc là nhân chứng. Làm sao đoán chắc được giờ này mình không xuất hiện trên mọi máy tính của các nhà tư pháp khắp châu Âu.
Tôi vào phòng tắm vã nước lên mặt. Nhiều gương quá. Tôi tắt nước, với lấy khăn tắm thấm khô. Hành động có phương pháp, từng việc một. Sau hoàng hôn là khi tâm trạng luôn tụt dốc, khi tôi luôn sợ hãi. Một cốc nước. Aspinn để trị sốt. Cả cơn sốt cũng luôn tăng cao khi tối trời. Hành động đơn giản. Tôi đang tự khiến minh lo lắng và tôi biết vậy. Tôi không biết Boris có lệnh truy nã nào treo trên đầu, nhưng dù ý nghĩ nó bị bắt có làm tôi lo lắng, đáng lo hơn nhiều vẫn là chuyện quân của Sascha có thể đã phái người lần theo vết của nó. Nhưng đây cũng là một ý nghĩ tôi không được phép đi theo.
IINGÀY HÔM SAU, đúng Giáng sinh - tôi ép mình ăn một bữa sáng tổ chảng gọi lên phòng dù không muốn, và vứt hết báo đi không xem vì sợ nếu thêm một lần nhìn thấy chữ Overtoom hay Moord thì sẽ không cách nào buộc mình làm điều phải làm. Sau khi đã ăn xong một cách máy móc, tôi vơ hết báo chí cả tuần tích lũy trên giường và xung quanh giường, cuộn hết lại ấn vào sọt rác; lấy từ trong tủ chè cái áo sơ mi đã bị tẩy trắng, và rồi - sau khi kiểm tra xem buộc kỹ chưa - luồn cái bọc vào trong một lớp túi nữa lấy ở chợ người Á (vẫn để mở, cho dễ xách hơn, vả lại biết đâu sẽ gặp được một cục gạch thuận tiện). Rồi sau khi bẻ cổ áo dựng lên và buộc khăn bên ngoài, tôi quay mặt tấm bảng báo dọn phòng ra ngoài rồi đi.
Thời tiết chết trôi, như thế rất lợi. Mưa đá ướt át rơi góc chéo, ri rỉ trên mặt kênh. Tôi bước đi chừng hai mươi phút - hắt hơi, khốn khổ, lạnh cóng - tới khi gặp được một thùng rác ở một góc đường đặc biệt vắng vẻ, không có xe cũng chẳng có người, không có cửa hàng mà chỉ toàn những nhà câm điếc đóng kín cửa tránh gió,
Nhanh chóng, tôi nhấn cái sơ mi vào thùng rồi bước tiếp, chợt thấy hân hoan lạ thường, khiến tôi đi như bay qua bốn năm con phố tiếp sau, bất chấp răng đang gõ nhịp. Chân tôi ướt, đế giày quá mỏng không đỡ nổi đường lát sỏi và tôi cũng rất lạnh. Bao giờ thì họ mang rác đi? Cũng chẳng sao.
Chỉ trừ - tôi lắc đầu để nghĩ rõ ràng hơn - cái chợ người Á. Trên túi ni-lông có in tên cái chợ. Chỉ cách khách sạn tôi ở vài khối nhà. Nhưng thật ngớ ngẩn mới nghĩ theo hướng đó và tôi cố lập luận để phản bác lại mình. Có ai thấy tôi? Không ai cả.
Charlie: Đúng. Delta: Tàu tôi đang điều động khó khăn.
Thôi ngay. Thôi ngay. Không được quay lại.
Không biết ở đâu có bến taxi, tôi lẩm lũi đi tiếp thêm chừng hai chục phút nữa tới khi cuối cùng cũng vẫy được một chiếc trên đường. “Centraal Station,” tôi nói với người lái gốc Thổ.
Nhưng khi anh ta thả tôi trước cửa ga, sau một cuốc xe qua những phố xám ma mị trông như những thước phim thời sự cũ, trong một khắc tôi tưởng bị đưa đến nhầm địa chỉ: vì tòa nhà trước mặt trông giống bảo tàng thì hơn, một giấc mơ gạch đỏ toàn đầu hồi và tháp mái, như một tòa kiến trúc thời Victona kiểu Hà Lan. Tôi tha thẩn đi vào, giữa những đám đông hội hè, cố gắng tỏ ra mình cũng thuộc về nơi đây và tảng lờ cảnh sát hình như đứng canh bất kỳ đâu ngó tới, cảm thấy hoang mang lo ngại khi thế giới dân chủ rộng lớn lại lần nữa trào lên ào ạt quanh mình: các cụ ông cụ bà, các sinh viên, các vợ chồng trẻ dáng mệt mỏi cùng lũ trẻ con tí tẹo lôi balo sau lưng, túi đồ mua hàng và cốc Starbucks, bánh xe vali lạch xạch, thiếu niên thu thập chữ ký ủng hộ Hòa Bình Xanh, trở lại giữa tiếng rầm rì thường lệ của loài người. Có một chuyến tàu chiều đi Pans nhưng tôi muốn chuyến muộn nhất.
Các hàng xếp đểu dài vô tận, kéo đến tận quầy báo. “Tối nay à?” người bán vé hỏi khi cuối cùng tôi cũng đến được ghi-sê: một bà đậm người, tóc vàng, trung tuổi, bộ ngực mềm lún và hòa nhã chung chung như một mụ dắt gái trong tranh sinh hoạt loại rẻ tiền.
“Vâng,” tôi nói, hy vọng cái nôn nao trong bụng không lộ ra mặt.
“Bao nhiêu?” bà ta hỏi, hầu như không nhìn tối.
“Một thôi.”
“Rồi. Xin cho xem hộ chiếu.”
“Đợi chút...” giọng khào khào vi ốm, đập đập khắp người, tôi đã hy vọng họ không hỏi “à, Xin lỗi, tôi không đem theo, để ở két sắt khách sạn rồi... nhưng...” chia cán cước bang New York, thẻ tín dụng, thẻ an sinh xã hội, đẩy qua cửa sổ. “Mời bà xem.”
“Anh cần hộ chiếu mới đi được.”
“Ôi, tất nhiên rồi.” Cố hết sức lấy giọng thông hiểu, biết lẽ. “Nhưng tối nay tôi mới đi. Thấy không...?” chỉ khoảng trống dưới chân: không hành lý. “Tôi tới tiễn bạn gái, và tiện ở đây tôi nghĩ hay là xếp hàng mua vé luồn nếu được.”
“À...” bà bán vé liếc màn hình “anh còn nhiểu thời gian. Tôi đề nghị anh mua vé sau, khi nào quay lại tối nay.”
“Vâng...” bóp mũi để khỏi hắt hơi “nhưng tôi muốn mua bây giờ.”
“Tôi e rằng không được.”
“Xin bà đấy. Như thế sẽ giúp tôi rất nhiều. Tôi đã đợi ở đây bốn mươi lăm phút rồi và không biết tối nay sẽ phải xếp hàng bao lâu nữa.” Nhờ Pippa - đã đi khắp chầu Âu bằng đường sắt - tôi tin chắc đã nghe nói người ta không kiểm tra hộ chiếu khi lên tàu, “Tôi chỉ muốn mua bây giờ để có thời gian làm nốt mấy việc trước khi quay lại đây tối nay.”
Bà bán vé nhìn thật kỹ mặt tôi. Rồi bà ta cầm căn cước lên nhìn tấm ảnh, rồi lại nhìn tôi.
“Này,” tôi nói, khi bà ta lưỡng lự, hoặc làm bộ lưỡng lự: “Bà thấy đấy, đúng là tôi mà. Bà thấy tên tôi, thẻ an sinh xã hội của tôi - đây này,” tôi nói, thò tay vào túi lấy giấy bút. “Để tôi ký lại cho bà xem.”
Bà ta so sánh hai chữ ký để bên nhau. Lại nhìn tôi, rồi cái thẻ - và rồi, đùng một cái, dường như đã có quyết định. “Tôi không chấp nhận thứ giấy tờ này được.” Đẩy mấy tấm thẻ lại phía tôi qua ghi-sê.
“Tại sao không?”
Hàng sau lưng tôi mỗi lúc một dài.
“Tại sao?” tôi nhắc lại. “Giấy tờ rất hợp pháp mà. Tôi vẫn dùng nó thay hộ chiếu để bay trong nước Mỹ. Chữ ký khớp mà,” tôi nói khi bà ta không trả lời, “bà không thấy à?”
“Rất tiếc.”
“Bà muốn nói là...” Tôi nghe giọng mình mỗi lúc một khẩn khoản; bà ta đang đọ mắt tôi rất hung hăng, như muốn thách tôi cãi lại. “Bà muốn bảo rằng tôi sẽ phải quay lại tận đây tối nay và đứng xếp hàng lại từ đầu à?”
“Xin lỗi anh. Tôi không giúp được. Tiếp,” bà ta nói, nhìn sau lưng tôi tới người tiếp theo.
Trong lúc tôi bỏ đi - xô đẩy, va vấp qua người là người - có tiếng nói cất lên đằng sau: “Này. Này sư huynh?”
Ban đầu, còn hoang mang sau cuộc cò kè ở ghi-sê, tôi tưởng mình hoang tưởng. Nhưng khi ngại ngần quay lại, tôi thấy một thằng thiếu niên mặt chồn, mắt hoen đỏ và đầu cạo trọc, đang nhấp nhổm trên mũi đôi giày thể thao cỡ đại. Nhìn ánh mắt dáo dác ngang dọc tôi ngỡ nó định đề nghị bán cho tôi một tấm hộ chiếu, nhưng nó chỉ cúi người tới bảo: “Đừng có thử.”
“Gì?” tôi ngập ngừng hỏi, nhìn qua bà cảnh sát đứng không đầy mét rưỡi sau lưng nó.
“Nghe này sư huynh. Đi qua đi lại cầm theo cả trăm lượt, chả bị kiểm tra lần nào. Có đúng một hôm không mang theo? Qua biên giới vào Pháp? Chúng nhốt ngoéo tớ lại, nhà tù nhập cảnh Pháp, mười hai tiếng, thức ăn thái độ đều vãi chồn, kinh con bà nó tởm. Phòng giam cảnh sát bẩn như hủi. Tin tớ đi - sư huynh cần có giấy tờ đàng hoàng. Và trong túi không có thứ củ chuối gì nữa.”
“Ờ, phải,” tôi đáp. Vã mồ hôi trong áo khoác, cái áo tôi không dám mở nút. Cái khăn tôi không dám cởi ra.
Nóng. Đau đầu. Đi khỏi chỗ nó, tôi cảm thấy ánh nhìn trợn trừng trợn trạo của cái máy quay an ninh như xói vào óc, và cố không tỏ ra đề phòng khi len lỏi qua đám đông, bồng bềnh lảo đảo vì sốt, bóp nát số điện thoại của đại sứ quán Mỹ trong túi.
Mất một lúc tôi mới tìm được điện thoại công cộng - tít ở đầu kia ga, một khu đầy chật những thiếu niên trông mờ ám ngồi thành từng bộ lạc trên sàn - và lâu hơn nữa mới nghĩ ra cách gọi.
Một tràng tiếng Hà Lan hớn hở. Rồi đập vào tai tôi là một giọng Mỹ thật dễ chịu: chào mừng đến với đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Lan, tôi có muốn tiếp tục nghe bằng tiếng Anh không? Thêm nhiều mục, nhiều lựa chọn. Để cái này nhấn phím 1, để cái kia nhấn phím 2, để gặp tổng đài xin chờ máy. Tôi kiên nhẫn làm theo mọi chỉ dẫn, đứng nhìn ra đám đông cho tới khi nhận ra có lẽ phô bản mặt mình ra không phải ý hay lắm, và lại quay vào tường.
Điện thoại reo lâu đến nỗi tôi đã chìm vào một màn sương mù ngoài thực tại thì bỗng dưng đầu dây lên tiếng, giọng Mỹ thoải mái nghe như vừa rời khỏi bãi biển Santa Cruz: “Chào buổi sáng, đây là Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Lan, quý vị cần giúp đỡ gì ạ?”
“Chào cô,” tôi nhẹ người đáp. “Tôi…” tôi đã cân nhắc có nên dùng tên giả, chỉ để hỏi thông tin cần biết, nhưng lúc này tôi đã quá mệt và kiệt sức chẳng muốn thế nữa “Tôi e rằng mình đang có chút rắc rối. Tên tôi là Theodore Decker và hộ chiếu của tôi vừa bị đánh cắp.”
“À, thật tiếc khi được biết điều đó.” Cô ta đang gõ gõ gì đó, tôi nghe thấy ở đầu dây bên kia. Xa xa có tiếng nhạc Giáng sinh. “Lại vào một thời điểm thật bất lợi trong năm - ai cũng đang đi nghỉ, anh hiểu không? Anh đã báo cho nhà chức trách chưa?”
“Sao?”
“Hộ chiếu mất cắp ấy? Vì anh sẽ phải báo ngay lập tức. Cảnh sát cần biết ngay.”
“Tôi…” nguyền rủa mình, sao tôi lại đi nói là mất cắp chứ? “không, xin lỗi, chuyện vừa mới xong. Ga trung tâm...” Tôi nhìn quanh “tôi đang gọi từ buồng điện thoại công cộng. Nói thật với cô là tôi không biết chắc có phải mất cắp hay không, tôi nghĩ có thể nó rơi khỏi túi tôi.”
“À…” lại thêm gõ lách tách “bị mất hay mất cắp, anh cũng vẫn phải báo cảnh sát.”
“Vâng, nhưng tôi đang sắp bắt tàu, cô hiểu không, và người ta không cho tôi lên tàu. Mà tôi lại phải đi Pans đêm nay.”
“Đợi một lát.” Có quá nhiều người trong nhà ga, những mùi len ẩm và mùi hơi người ngốt ngát phà ra kinh tởm trong hơi ấm quá độ. Một giây sau cô ta đã trở lại. “Giờ - cho tôi một vài thông tin của anh…”
Tên. Ngày sinh. Ngày và nơi cấp. Đổ mồ hôi trong áo khoác. Những cơ thể, ẩm ướt hít thở khắp xung quanh.
“Anh có giấy tờ gì chứng minh tư cách công dân không?” cô ta hỏi.
“Xin lỗi…?”
“Hộ chiếu hết hạn? Giấy khai sinh hoặc giấy nhập tịch?”
“Tôi có thẻ an sinh xã hội. Và căn cước bang New York. Tôi có thể fax bản sao giấy khai sinh từ Mỹ qua”
“Ồ, tuyệt. Thế là đủ.”
Thật ư? Tôi đứng bất động. Thế là hết ư?
“Anh có máy tính ở đó không?”
“Ừm…” máy tính ở khách sạn? “có chứ.”
“À…” cô ta đọc cho tôi một địa chỉ web. “Anh sẽ phải tải về, in ra rồi điền một tờ khai hộ chiếu mất hay mất cắp rồi mang đến đây. Đến văn phòng chúng tôi. Ở gần Njkmuseum. Anh biết là đâu chứ?”
Tôi nhẹ người đến nỗi chỉ đứng trơ ra đó để âm thanh đám đông huyên náo trào qua người trong một luồng ầm ào hoang tưởng.
“Vậy là - tôi sẽ cần những thứ này,” cô nàng California vẫn nói tiếp, giọng nói hoạt bát khiến tôi tỉnh khỏi cơn mơ màng đa màu sắc gây gấy sốt. “Tờ khai. Các loại giấy tờ fax sang. Hai ảnh 5x5 nền trắng. Thêm nữa, anh đừng quên, bản sao tường trình cảnh sát.”
“Sao cơ?” tôi nói, giật mình.
“Tôi vừa nói đấy. Hộ chiếu bị mất hay mất cắp, chúng tôi đểu yêu cầu phải khai báo với cảnh sát?”
“Tôi...” Trân trân nhìn một đoàn đàn bà Ả rập trùm khăn rờn rợn, lặng thầm lướt qua trong tấm khăn đen từ đầu đến kín gót chân. “Tôi không đủ thời gian làm việc đó.”
“Anh nói sao?”
“Tôi không định bay về Mỹ ngay hôm nay. Chỉ là vì…” - tôi mất một phút mới hỏi lại được; cơn ho vừa rồi đã khiến nước dâng đầy mắt - “tôi định lên tàu đi Pans trong hai tiếng nữa. Nên là, ý tôi là - tôi không biết phải làm gì. Tôi không hiểu có làm hết được những giấy tờ này rồi lại đến cả sở cảnh sát nữa không.”
“À...” giọng hối tiếc “mà này, anh biết không, thực ra văn phòng chúng tôi chỉ còn mở có bốn mươi lăm phút nữa thôi.”
“Sao?”
“Hôm nay chúng tôi đóng cửa sớm. Đêm Giáng sinh mà, anh hiểu không? Và ngày mai chúng tôi đóng cửa, suốt cuối tuần nữa. Nhưng chúng tôi sẽ mở lại lúc tám rưỡi sáng, thứ Hai sau Giáng sinh.”
“Thứ Hai”
“Nào, tôi rất tiếc,” cô ta nói. Cô ta có vẻ cam chịu. “Thủ tục là thế.”
“Nhưng đây là việc khẩn!” Giọng khàn khàn vì ho.
“Việc khẩn à? Việc gia đình hay y tế?”
“Tôi...”
“Vì trong một vài trường hợp rất hiếm gặp chúng tôi cũng hỗ trợ khẩn cấp ngoài giờ hành chính.” Giờ thì cô ta không thân thiện nữa; cô ta đang nói ào ào, đọc thuộc lòng từ vở, tôi nghe có cuộc điện thoại khác đang reo đằng xa như một chương trình trò chuyên trên radio. “Rất không may là điều này chỉ dành riêng cho những tình huống khẩn cấp thuộc loại sinh tử, và nhân viên chúng tôi phải xác nhận đảm bảo có lý do đó trước khi cấp giấy miễn hộ chiếu. Vì thế, trừ khi có hoàn cảnh người thân qua đời hay có cơn bệnh nguy kịch buộc anh phải đến Pans ngay chiều nay, và trừ khi anh có thể cung cấp đầy đủ thông tin xác nhận trường hợp khẩn cấp cực điểm đó như là tờ khai của bác sĩ điều trị, mục sư, hay là nhà tang lễ…”
“Tôi...” thứ hai à? Chết tiệt! Tôi còn không muốn nghĩ về vụ báo cảnh sát nữa “này, xin lỗi, nghe này...” cô ta đang cố gắng kết thúc cuộc gọi…
“Đúng thế. Anh tập hợp đủ giấy tờ vào thứ Hai ngày 28. Và rồi, phải, một khi nhận được đơn chúng tôi sẽ xử lý cho anh nhanh hết sức có thể - xin lỗi, anh chờ tôi một giây được không?” Tiếng cạch. Giọng cô ta, nhỏ hơn. “Chào buổi sáng, đây là Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Lan, quý vị vui lòng chờ máy.” Ngay lập tức điện thoại lại reo. Cạch. “Chào buổi sáng, đây là Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Lan, quý vị vui lòng chờ máy.”
“Cô có thể làm cho tôi nhanh đến đâu?” Tôi hỏi khi cô ta trở lại.
“À, một khi anh đưa đơn rồi chúng tôi sẽ cấp được cho anh trong vòng mười ngày làm việc là nhiều nhất. Mười ngày làm việc. Tức là - bình thường tôi sẽ hết sức cố đấy nhanh giúp anh trong bảy ngày? Nhưng đang là kỳ nghỉ, anh hiểu mà, văn phòng hơi bị kẹt một chút vào thời điểm hiện tại, và giờ giấc không được ổn định lắm cho đến qua Năm Mới. Thế nên là... này, xin lỗi nhé,” cô ta nói thêm trong quãng im lặng choáng váng vừa ập xuống, “có thể sẽ hơi lâu một chút. Tin quá xấu, tôi hiểu mà.”
“Tôi phải làm gì bây giờ?”
“Anh có cần dịch vụ hỗ trợ du khách không?”
“Tôi không hiểu thế là thế nào.” Mồ hôi đổ ra như tắm. Không khí đốt nóng hôi rình, nồng nặc mùi người, gần như không thở được.
“Cần chuyển tiền không? Cần nơi ở tạm thời?”
“Làm sao tôi về nhà bây giờ?”
“Anh sống ở Pans à?”
“Không, ở Mỹ.”
“À, nếu dùng hộ chiếu tạm thời - hộ chiếu tạm thời thậm chí còn không gắn chip dùng để vào nước Mỹ nên tôi cũng không thấy có đường tắt nào để anh về lại đó nhanh hơn nhiều lắm so với cách tôi làm cho anh là...” Reng reng reng. “Đợi một phút, thưa ông, ông vui lòng chờ máy.
“Ờm, tên tôi là Holly. Anh có muốn tôi cho anh số máy bàn của tôi, để đề phòng anh gặp phải vấn để nào hay cần trợ giúp trong thời gian ở lại đây không?”
III
CƠN SỐT CỦA TÔI, không hiểu vì cớ gì, thường lên cực điểm khi đêm xuống. Nhưng sau một thời gian quá dài ngâm chân trong giá lạnh, nó đã bắt đầu vọt lên thành từng đỉnh lộn xộn, giật cục như một món đồ nặng bị lôi thành từng nhát, từng đợt lên mặt bên một tòa nhà cao, nên trên đường đi bộ về nhà tôi hầu như không hiểu sao mình còn di chuyển, hoặc sao mình không ngã kềnh, hoặc thật thế, sao mình có thể tiến lên được tí nào nữa, một cảm giác vô thức lướt đi không chạm đất đưa tôi vượt lên trên chính mình qua những phố dầm mưa dọc kênh lên những tầng cao và luồng gió ngoài thân thể, cho tôi dường như từ trên đó nhìn xuống mình; thật sai lầm không bắt taxi ở ga về, trước mắt tôi cứ liên tục hiện ra cái túi ni-lông trong thùng rác và khuôn mặt hồng bóng loáng của bà bán vé và Boris mắt ậng nước, tay dính máu, ấp vào vết cháy trên tay áo; và gió cứ gào rú còn đầu tôi phừng phừng và chốc chốc không cố định tôi lại rúm mình khi thấy những gì rập rờn tối mò động kinh ngay sát cùi tay: những chớp đen, những báo hoảng, không ai ở đó, thực tế là không có ai trên đường hết, ngoại trừ rất thi thoảng, một người lờ mờ gập mình trên xe đạp trong màn mưa.
Đầu nặng, cổ sưng. Khi cuối cùng cũng vẫy được taxi trên đường, tôi chỉ còn cách khách sạn vài phút. Điều tốt đẹp duy nhất khi tôi lên đến phòng - lạnh thấu xương tủy, run như cây sấy - là người ta đã dọn phòng, chất thêm đồ vào tủ lạnh, trước đó đã bị tôi uống sạch cho tới tận chai Cointreau.
Tôi lấy cả hai chai gin mini pha với nước nóng từ vòi, ra ngồi trên ghế thêu kim tuyến bên cửa sổ, cái ly đung đưa đầu ngón tay, nhìn giờ phút trôi: gần như ngủ, gà gật mơ, ánh sáng mùa đông âm u đong nghiêng tường nọ sang tường kia thành những hình thoi trượt xuống thảm rồi hẹp dần tới khi biến mất thì đã là giờ ăn tối, dạ dày đau, họng rát vì mật trào, mà tôi vẫn ngồi đó trong bóng tối. Đâu phải là điều tôi chưa hề nghĩ đến quá nhiều lần, trong những hoàn cảnh ít căng thẳng hơn nhiều; nỗi hối thúc bất tình choán trọn tâm thần, một tiếng thì thầm rắn độc chưa bao giờ thực sự im tiếng, có những ngày lảng vảng ngay ngoài tầm nghe nhưng những ngày khác lại gầm thét không gì trấn áp nổi, thành một cơn điên cuồng thấu thị ghê rợn, tuy tôi chẳng biết vì sao, đôi khi chỉ một bộ phim tôi hay một bữa tiệc tối quả sức chịu đựng cũng nhử nó trỗi giọng, nỗi buồn chán tức thời hay nỗi đau dài hạn, hoảng sợ đột nhiên hay tuyệt vọng thường kỳ cùng lúc ập lấy cháy bùng lên thành một luồng sáng hoang tàn tro bụi để cho tôi thấy, thấu suốt, ngược trở lại nhiều năm trong một nỗi tuyệt vọng tinh tường và rành mạch, rằng thế giới cũng như tất thảy mọi điều trong đó đã bị đọa rồi, bị đọa vĩnh cửu, không thương xót rồi và chưa từng có gì trên đời là tốt đẹp hay tàm tạm được, linh hồn quằn quại trong ngộp thở, cán phòng không cửa sổ, ngục tù không lối ra, hổ thẹn kinh hoảng ập tới từng đợt, để tôi yên, mẹ nằm chết trên sàn cẩm thạch, ngừng lại ngừng lại, thì thẩm thành tiếng một mình trong thang máy, trong taxi, để tôi yên, tôi muốn chết, một nỗi điên giận lạnh lùng, lý trí, tự hủy đã hơn một lần xúi giục tôi lao bổ lên phòng trong cơn mụ mị, kiên quyết tống vào mồm lẫn lộn không phân biệt cả đống rượu thuốc bắt gặp trước mắt: chỉ có nhờn thuốc và kém cỏi đã khiến tôi thất bại, để rồi tỉnh lại trong kinh ngạc và buồn bực, dù cũng thở phào vì Hobie sẽ không phải tìm thấy tôi như vậy.
Đàn chim đen. Những tầng trời màu chì tai ương như tranh Egbert van der Poel.
Tôi đứng dậy, bật đèn bàn, hơi chao đảo trong quầng sáng yếu màu nước tiểu. Có thể đợi. Có thể chạy đi. Nhưng đấy đều chẳng phải lựa chọn mà chỉ là biện pháp cầm cự: như con chuột khỉ lúi húi chạy, khi hóa đá trong bể nuôi rắn, thảy đều vô dụng, thảy đều chỉ được một điều duy nhất là thêm kéo dài bất an và căng thẳng. Còn một lựa chọn thứ ba nữa: vì nhiều lý do khác nhau, tôi cảm thấy nhân viên đại sứ quán hẳn sẽ mau mắn trả lời nếu tôi để lại lời nhắn ngoài giờ làm việc, rằng tôi là một công dân Mỹ có nguyện vọng nộp mình vì tội sát nhân.
Hành vi nổi loạn. Đời: trống rỗng, vô nghĩa, không chịu đựng nổi. Tôi nợ gì đời mà phải trung thành với nó? Chẳng có gì. Sao không nhanh nhảu giáng đòn khi Số phận chưa kịp xuống tay? Ném cuốn sách vào lửa và thế là hết? Chẳng thấy lối thoát nào trước mắt cho nỗi khủng khiếp hiện tại, mức độ khủng khiếp ngoại sinh và nghiệm sinh kha khá bổ sung vào lượng nội tại của tôi; và miễn là đủ liều (ước lượng cái túi: còn chưa đầy nửa), tôi sẽ sẵn sàng đổ ra một đường đầy đặn rồi ngã kềnh ra giường: bóng đêm thần diệu, bùng nổ ngàn sao.
Nhưng từng này không đảm bảo sẽ kết liễu được. Tôi chẳng muốn phí phạm số còn lại cho vài giờ bất tỉnh chỉ để rồi lại tỉnh dậy trong lồng (hay tệ hơn: trong bệnh viện Hà Lan và không hộ chiếu). Lại nhưng, độ nhờn thuốc của tôi đã giảm nhiều rồi và tôi khá chắc từng đó là đủ xong việc, nếu tôi thật say mềm đi trước đã rồi chiêu thêm viên oxy dự phòng cho chắc ăn.
Chai vang trắng ướp đá trong tủ lạnh. Sao lại không? Tôi uống nốt chỗ gin rồi bật nút chai vang, cảm thấy vừa quyết chí vừa hào hứng - tôi đang đói, người ta đã bỏ lại bánh gạo và snack vào tủ, nhưng cái này sẽ hiệu quả hơn nhiều nếu bụng rỗng.
Nhẹ mình tột độ. Phế bỏ lặng thầm. Niềm vui hoàn mỹ khi vứt hết, bỏ hết. Tôi tìm ra một kênh nhạc cổ điển trên radio - nhạc nhà thờ Giáng sinh, đầy vẻ trang trọng, và khấn nguyên, không phải giai điệu mà là âm hồn của giai điệu - và tính có nên bật nước tắm không.
Nhưng cái đó có thể để sau. Thay vào đó, tôi mở bàn viết, tìm thấy một tập giấy bút của khách sạn. Màu dạ xám thánh đường, quãng sáu thứ. Re virginum amator.Với cơn sốt và tiếng nước kênh lõm bõm ngoài kia, không gian quanh tôi đã lặng lẽ nhòa vào sự tồn tai song trùng ám ảnh, một cõi trung gian vừa là phòng khách sạn, vừa là cabin con tàu khe khẽ lắc lư. Sống giữa trùng khơi. Chết trong nước thẳm. Andy, thời còn nhỏ, nói với tôi bằng cái chất giọng trẻ con sao Hỏa rờn rợn, nó đã nghe Kênh Giáo Dục bảo rằng Đức Mẹ Mana là người bảo trợ các thủy thủ, rằng kinh Mân Côi còn có tác dụng bảo hộ người ta không bao giờ chết đuối. Mary Stella Mans. Mary, Tinh Tú Của Biển Khơi.
Tôi nghĩ đến Hobie trong lễ Misa nửa đêm, quỳ gối trên hàng ghế, mặc vét đen. Mạ vàng sẽ mòn đi dần dần. Trên cảnh cửa tủ ly, trên mặt lật tủ bàn viết, thường có kha khá những vết sứt rất khó nhận thấy.
Đồ vật luôn kiếm tìm chủ nhân đích thực. Chúng cũng có các phẩm chất như người. Chúng có khi quay quắt hay trung thực, khả nghi hay thiện lương.
Những món cực kỳ có giá không bao giờ từ trên trời rơi xuống.
Bút của khách sạn không tốt lắm, tôi ước gì mình có bút tử tế hơn, nhưng giấy rất dày và láng. Bốn lá thư. Thư cho Hobie và bà Barbour sẽ phải dài nhất, vì họ là những người xứng đáng nhất có được lời giải thích từ tôi, và cũng vì đấy là những người duy nhất, nếu tôi chết đi, sẽ động lòng thực sự. Nhưng tôi sẽ viết cho cả Kitsey nữa - trấn an cô rằng đây không phải lỗi của cô. Còn thư cho Pippa sẽ ngắn nhất. Tôi muốn cô biết mình yêu cô đến dường nào, và lại cần cô hiểu rằng cô chẳng có một mảy may lỗi lầm vì không thể yêu tôi đáp lại.
Nhưng tôi sẽ không viết vậy. Tôi muốn tung cánh hoa hồng chứ không phải quăng mũi tiêu độc. Mục đích chỉ là cho cô biết, thật ngắn gọn, rằng cô đã khiến tôi hạnh phúc đến chừng nào, trong khi bỏ qua hết những điều hiển nhiên.
Nhắm mắt lại, tôi hứng vạn tia chớp rõ rệt choáng người từ ký ức được cơn sốt moi ra từ đâu không biết, bùng lên như những đường đạn lửa giữa rừng sâu, những luồng lửa sáng rỡ cực kỳ chi tiết và thêu dệt ngàn ngàn cảm xúc. Những dây đàn ánh sáng chiếu qua cửa sổ chấn song căn hộ trên Đại lộ 7 ngày trước, thảm sợi thùa ram ráp và những ô vuông bàn cờ in trên tay cùng đầu gối khi tôi chơi trên sàn nhà. Cái váy dạ tiệc màu da quýt của mẹ, chân váy có đủ thứ lấp lánh tôi rất thích sờ. Alameda, bà giúp việc ngày xưa, đang nghiền chuối xanh trong bát thủy tinh. Andy giơ tay chào tôi trước khi loạng choạng đi qua hành lang tối tăm trong căn hộ nhà họ: Rõ, thưa thuyền trưởng.
Những giọng hát trung cổ, nghiêm ngắn siêu trần, vẻ đường bệ của bài hát không trang sức.
Tôi không thật thấy khổ sở, vấn đề là thế. Đúng hơn, cảm giác như khi đi rút tủy răng đến cái cuối cùng nặng nhất, khi ông nha sĩ cúi sát dưới chùm đèn và bảo sắp xong rồi.
24 tháng 12
Kitsey thân,
Anh vô cùng hối tiếc về chuyện này, nhưng anh cũng muốn em biết điều này không hề liên quan gì đến em, cũng như bất cứ ai trong gia đình em. Mẹ em sẽ nhận được một lá thư riêng cho biết nhiều thông tin hơn một chút, nhưng trước mắt anh muốn cam đoan riêng với em rằng việc lựa chọn hành động của anh không hề chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ điều gì đã từng xảy ra giữa chúng ta, đặc biệt là những chuyện gần đây.
Cái giọng điệu cứng nhắc này, cùng lối viết chữ cứng nhắc bất thường, là ở đâu ra - trái ngược hẳn với những ký ức và ảo giác đang nổ tung trong đẩu, chèn ép tôi từ tứ phía - tôi cũng không biết nữa. Mưa đá đang bắn líu chíu vào cửa sổ dường như mang một sức nặng lịch sử lâu đời, nạn đói, những đoàn quân nện bưởc, một màn nước buồn thương không ngừng rơi.
Như em biết rõ, và đã tự mình chỉ ra với anh, anh có rất nhiều vấn đề đã khởi đầu từ rất lâu trước khi gặp em, và tất cả không có cái nào là lỗi do em cả. Nếu mẹ em có còn băn khoăn gì về vai trò của em trong những sự việc gần đây, anh khuyên em mời bà tham khảo thêm Tessa Margolis, hay tốt hơn nữa là Em, người sẽ rất hào hứng được chia sẻ quan điểm cá nhân về tư cách của anh. Thêm nữa - một việc hoàn toàn không liên quan - nhưng anh cũng cần khuyên em đừng bao giờ cho Havistock Irving vào trong nhà mình, vĩnh viễn không.
Kitsey hồi bé. Tóc mịn lơ thơ trên mặt. Im đi hai thằng rồ. Thôi ngay không em mách bố mẹ.
Cuối cùng, tuy không kém phần quan trọng...
(cây bút ngập ngừng thật lâu trên dòng này).
cuối cùng, tuy không kém phần quan trọng, anh muốn nói rằng em trông thật xinh đẹp trong buổi tiệc, và anh hết sức cảm động khi thấy em đeo đôi hoa tai của mẹ anh. Mẹ anh mê mẩn Andy - hẳn là mẹ cũng sẽ rất yêu em, và chắc sẽ rất mừng nếu bọn mình đến được với nhau. Anh rất buồn là mọi chuyện lại không suôn sẻ. Nhưng anh cũng hy vọng em sẽ được suôn sẻ về sau. Thật đấy.
Nghìn lần yêu thương,
Theo
Dán lại; để địa chỉ; đặt một bên. Dưới lễ tân hẳn có tem.
Hobie thân yêu,
Viết lá thư này rất khó khăn, và cháu cũng rất buồn khi phải viết.
Khi toát mồ hôi, khi lạnh buốt. Trước mắt tôi hiện những đốm xanh lục. Nhiệt độ lên cao đến mức các bức tường hình như đang teo lại.
Đây không phải là vấn đề những món hàng giả mà cháu đã bán. Chắc là bác sẽ nhanh chóng được biết là vấn đề gì thôi,
Axit nitric. Muội than. Đồ nội thất, cũng như mọi vật sống, dần dà sẽ có vết tích và mang sẹo qua thời gian.
Tác động của thời gian, vô hình cũng như nhìn thấy.
và, cháu không biết phải nói ra sao nữa, nhưng cháu nghĩ điều mình đang nhớ lại là con chó con bị ốm mà mẹ và cháu từng gặp trên đường trong khu Phố Tàu. Nó đang nằm bẹp trong khoảng trống giữa hai thùng rác. Đấy là một con pit bull sơ sinh. Hôi thối bẩn thỉu lắm. Toàn da bọc xương. Yếu quá không đứng dậy nổi. Mà mọi người chỉ dửng dưng đi qua. Và cháu buồn bực kinh khủng, và mẹ hứa hai mẹ con sẽ đón nó về nếu nó vẫn còn ở đấy khi mẹ con cháu ăn tối xong. Và khi mẹ con cháu ra khỏi nhà hàng thì nó vẫn ở đấy. Nên mẹ gọi taxi, cháu bế nó trong tay, và khi về đến nhà mẹ làm cho nó cái hộp nằm trong bếp, còn nó vui sướng cuồng lên, liếm mặt bọn cháu rồi uống cả đống nước và ăn hết số đồ ăn cho chó mà mẹ con cháu mua về rồi lập tức nôn ra hết sạch.
Ờ, nói vắn tắt lại là cuối cùng nó chết. Không phải lỗi của mẹ con cháu. Nhưng mẹ con cháu vẫn có cảm giác như vậy. Chúng cháu đã đưa nó đi thú y, đã mua đồ ăn đặc biệt, nhưng nó chỉ mỗi ngày một ốm hơn. Tới lúc đó thì mẹ con cháu đã yêu nó lắm rồi. Và mẹ cháu lại đưa nó đi khám, một bác sĩ chuyên khoa ở Trung tâm Thú y. Và bác sĩ bảo con chó này có bệnh, bệnh gì thì cháu quên tên rồi, nó đã mắc từ hồi bà bắt được nó, và tôi biết bà không muốn nghe tin này nhưng nếu muốn nhân đạo thì tốt nhất là bà tiêm thuốc cho nó ngay bây giờ