PHẦN 05 -Chương 10 Kênh quý ông
Chúng ta có nghệ thuật để khỏi chết vì sự thực.
— NIETZSCHE —
ICHIẾC LINCOLN TOWN vẫn đang chạy vòng quanh khối nhà - nhưng khi nó đỗ lại chờ chúng tôi, người lái không phải Gyuri mà là một gã tôi chưa từng gặp bao giờ, có kiểu tóc trông như được cắt trong nhà tù nhốt người say và đôi mắt xanh Bắc cực xuyên thấu.
Boris giới thiệu đôi bên bằng tiếng Nga. “Privet! Myenya zovut Anatoly[157]” gã kia nói, chìa bàn tay kín những vết tròn và sao màu chàm như hoa văn trên trứng Phục sinh Ukraina.
“Anatoly?” tôi thận trọng đáp. “Ochyen priyatno[158]?” Một tràng tiếng Nga trả lời, mà tôi không hiểu một chữ, đành quay sang Boris tuyệt vọng.
“Anatoly,” Boris khoan khoái nói, “không biết một chữ tiếng Anh. Phải không hả, Toly?”
Đáp lại, Anatoly chỉ giương mắt nhìn chúng tôi nghiêm nghị trong kính chiếu hậu và làm thêm một bài diễn văn nữa. Những vết xăm trên khớp ngón tay của anh ta là một thứ mã hiệu trong tù, tôi tin chắc: các vòng mực ám chỉ thời gian kết án, thời gian đã ngồi, thời gian được đánh dấu từng nấc một như vòng tuổi trên cây.
“Nó nói mi nói giỏi,” Boris mỉa mai nói. “Được dạy dỗ phép lễ độ cẩn thận.”
“Gyuri đâu?”
“À - ảnh bay qua đó hôm qua,” Boris nói. Lục lọi túi ngực áo vét.
“Qua đó? Qua đâu?”
“Antwerp.”
“Tranh của tao ở đó à?”
“Không.” Boris đã lấy ra hai tờ giấy trong túi, liếc qua trong ánh sáng yếu trước khi đưa cho tôi một tờ. “Nhưng căn hộ của tau ở Antwerp, xe cũng thế. Gyuri đi lấy xe và vài thứ, sẽ lái đến đón chúng mình.”
Giơ tờ giấy lên ánh sáng, tôi thấy đấy là bản in vé điện tử:
ĐÃ XUẤT VÉ
DECKER/THEODORE DL2334
NEWARK LIBERTY INTL (EWR)
đến AMSTERDAM, HÀ LAN (AMS)
GIỜ LÊN MÁỴ BAY 12:45 AM
THỜI GIAN BAY 7 GIỜ 44 PHÚT
“Từ Antwerp tới Amsterdam chỉ mất ba tiếng lái xe,” Boris nói. “Chúng mình sẽ tới Schiphol gần như cùng lúc - tau có thể sau mi một tiếng - tau nói Myriam đặt vé hai chuyến khác nhau. Tau còn quá cảnh qua Frankfurt. Mi bay thẳng.”
“Đêm nay à?”
“Ừ - ờ, mi thấy đấy, không còn nhiều thời gian…”
“Thế sao tao lại phải đi?”
“Vì có thể tau sẽ cần người giúp, mà tau không muốn đem theo ai khác vào vụ này. À - có Gyuri. Nhưng cả Myriam tau cũng không nói mục đích chuyến đi. Ồ, tất nhiên, tau có thể nói,” nó ngắt lời tôi. “Chỉ có điều, càng ít người biết càng hay. Dù sao thì mi cũng phải chạy vào lấy hộ chiếu và tiền đi, có bao nhiêu lấy bấy nhiêu. Toly sẽ đưa chúng mình ra Newark. Tau…” nó vỗ vào cái vali nhỏ gọn, mà tôi chỉ vừa liếc thấy ở ghế sau “tau thì đầy đủ hết rồi. Sẽ đợi mi trong xe.”
“Còn tiền thì sao?”
“Có nhiêu lấy đó.”
“Đáng ra phải báo tao trước.”
“Không cần. Tiền à…” nó đang lần sờ tìm thuốc “à, tau sẽ không bắt mi phải vét kho đâu. Mi có bao nhiêu, hoặc tiện lấy bao nhiêu cũng được. Vì không quan trọng, chỉ để làm hàng thôi.”
Tôi tháo kính, lau vào tay áo. “Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là…” gõ gõ khớp ngón tay vào cạnh đầu, cử chỉ ngày xưa, đầu đất - “nghĩa là tau định trả tiền, nhưng không trả hết số yêu cầu. Thưởng cho chúng nó đã ăn cắp của tau ấy à? Vì làm thế thì có gì ngăn cản chúng nó lại cướp của tau bất cứ khi nào muốn? Điều đấy dạy cho nó bài học gì đấy? ‘Thằng này yếu rớt’ ‘Mình muốn làm gì nó cũng được.’ Nhưng…” giật chân bắt tréo nhau, lần khắp người tìm bật lửa “tau muốn chúng nó nghĩ mình sẵn sàng trả đủ. Có thể mi muốn ghé vào máy nào rút tiền, có thể trên đường hay đến sân bay cũng được. Trông sẽ đẹp, tiền mới ấy. Tau nghĩ chắc là chỉ được phép mang vào mười ngàn đơn vị tiền, ở EU…? Nhưng tau sẽ buộc chỗ còn lại bỏ trong cặp. Hơn nữa…” - chìa thuốc cho tôi - tau nghĩ bắt mi chi hết toàn bộ là không thỏa đáng. Tau sẽ đưa thêm khi nào chúng mình qua đó. Coi như tặng mi. Và séc nữa - ít nhất thì cũng là séc dỏm - chi phiếu dỏm, ngân phiếu dỏm. Nhà băng ma dưới Trung Mỹ. Trông rất đẹp, trông xịn lắm. Tau không biết phần đó có suôn sẻ không. Chúng mình phải tùy cơ ứng biến thôi. Không ai có đầu óc mà lại nhận chi phiếu thay tiện đổi lấy một món thế này! Nhưng tau nghĩ là chúng nó thiếu kinh nghiệm, tuyệt vọng nữa, nên là…” - nó bắt tréo ngón tay - “tau vẫn hy vọng. Rồi xem!”
IITRONG KHI ANATOLY cho xe vòng quanh khối nhà thì tôi chạy vào cửa hiệu, chộp lấy tất cả số tiền chưa gửi nhà băng mà không thèm đếm, đâu như khoảng mười sáu nghìn. Rồi tôi chạy lên nhà và trong khi Popper đi lại, lượn vòng, ư ử lo lắng, quẳng đồ vào túi: hộ chiếu, bàn chải, dao cạo, tất, đồ lót, cái quần dài vía đầu tiên tôi thấy, vài chiếc sơ mi dự trữ, áo len. Cái hộp Redbreast Flake ở dưới đáy ngăn để tất, tôi cũng chộp lấy và rồi buông ra, rồi dập ngăn kéo vào thật vội.
Trong lúc tôi vội vàng chạy qua hành lang, con chó sát gót, đôi bốt Hunter của Pippa ở ngoài cửa phòng ngủ khiến tôi dừng phắt lại: màu xanh lá sáng mùa hè của nó trong óc tôi hòa lẫn với cô, và với hạnh phúc. Trong một lúc tôi dừng chân, lưỡng lự. Rồi tôi trở lại phòng, lấy cuốn Ozma xứ Oz ấn bản đầu tiên và viết lời nhắn thật nhanh để không có thời gian đổi ý. Đi an toàn nhé. Tớ yêu cậu. Thật đấy. Tôi thổi cho khô rồi nhét vào cuốn sách, đặt sách trên sàn cạnh đôi bốt. Khung cảnh trên thảm lúc này (Thành phố Ngọc Lục Bảo, đôi ủng xanh, màu của Ozma) trông như thể tôi vừa rơi trúng một bài haiku hay một tập hợp chữ hoàn thiện để giải thích cho cô hiểu cô là như thế nào với tôi. Trong một giây tôi đứng im phăng phắc, đồng hồ tích tắc, những ký ức đã nhấn chìm từ thơ ấu, cửa mở ra để lộ những giấc mơ xưa sáng ngời có chúng tôi đi dạo cùng nhau trên thảm cỏ mùa hè - rồi, quả quyết, quay lại phòng lấy chuỗi vòng cổ đã réo gọi tôi trong phòng trưng bày ở nhà đấu giá, hô tên cô: nhấc khỏi cái hộp nhung màu lam tím và nhẹ nhàng vắt lên một chiếc bốt, để một vệt vàng hứng ánh sáng. Topaz, thế kỷ 18, chiếc vòng xứng với một nữ hoàng tiên có ba viên đá treo vào chiếc nơ khảm kim cương, những viên đá to đùng, trong vắt màu mật ong: đúng sắc độ mắt cô. Khi tôi quay đi, tránh nhìn bức tường toàn ảnh cô trước mặt, rồi vội vàng chạy xuống nhà, cảm giác trong tôi là nỗi kinh hoảng pha sướng ngất thời thơ ấu khi vừa ném hòn đá vào cửa kính. Hobie sẽ biết đích xác cái vòng trị giá bao nhiêu. Nhưng tới khi Pippa tìm thấy nó, cùng lời nhắn, tôi đã đi xa rồi.
III
CHÚNG TÔI ĐI TỪ HAI NHÀ GA KHÁC NHAU, nên đã chia tay trên vệ đường nơi Anatoly thả tôi xuống. Cánh cửa kính trượt ra với một tiếng gió hầu như không nhận thấy. Vào trong, qua cửa an ninh, qua mặt sàn sáng bóng cửa sảnh đi trước bình minh, tôi nhìn các màn hình rồi đi qua những cửa hàng tối đèn, cửa sắt an ninh buông kín, Brookstone, Tie Rack, xúc xích Nathan, nhạc thập niên 70 réo rắt dần lọt vào ý thức (tình yêu… tình yêu cho ta bên nhau… nghĩ về anh em nhé…) qua những cổng ra máy bay lạnh lẽo yêu ma, chăng dây và vắng vẻ ngoại trừ bọn trẻ lứa tuổi sinh viên nằm duỗi dài trên bốn ghế một lúc gà gật ngủ, qua quán bar lẻ loi còn mở cửa, quán kem sữa chua lẻ loi, cửa hàng miễn thuế lẻ loi nơi tôi, theo lời khuyên nhắc đi nhắc lại và có phần nài nỉ của Boris, ghé vào mua một chai vodka (“cứ mua đi cho chắc ăn… cồn chỉ có trong các hiệu do nhà nước quản thôi… có thể mi sẽ cần hai chai đấy”) rồi tới tận cùng, tới cổng ra máy bay của tôi, đông đặc, toàn những gia đình dân tộc thiểu số thẫn thờ, những dân du lịch bụi ngồi khoanh chân trên sàn, và những doanh nhân mùi khét, mặt nhờn mỡ ngồi gõ laptop, dáng điệu như thể đã quen trò này rồi.
Máy bay kín chỗ. Lê chân bước, đám đông chen lấn giữa lối đi (hạng thường, chính giữa hàng năm ghế), tôi tự hỏi làm thế nào mà Myriam kiếm nổi vé cho tôi. May là tôi đang mệt tới mức chẳng muốn nghĩ thêm gì nữa, và đã ngủ thiếp hầu như từ trước khi đèn cài dây an toàn đã tắt, bỏ qua đồ uống, bỏ qua bữa tối, bỏ qua hết các phim chiếu trong chuyến bay, chỉ thức dậy khi tấm che cửa sổ đã đẩy lên khiến ánh sáng tràn ngập khoang và cô tiếp viên đẩy xe đồ ăn mang tới những suất ăn sáng gói sẵn: những chùm nho để lạnh, những cốc nước hoa quả để lạnh, những bánh sừng bò béo mỡ, vàng như lòng đỏ trứng quấn màng bọc, và hỏi chúng tôi muốn cà phê hay chè.
Chúng tôi đã hẹn gặp ở nơi lấy hành lý. Các doanh nhân lặng lẽ nhấc vali rồi ù té chạy tới các buổi họp, các kế hoạch marketing, các người tình, ai biết? Những đứa nhãi bốc mùi cần, dán hình cầu vồng trên ba lô hò hét xô đẩy nhau, tìm cách chộp lấy những túi du lịch không phải của mình và cãi nhau xem đâu là quán cà phê phục vụ hút cỏ từ sáng sớm ngon nhất nên đến - “chúng mày ạ, phải đến Chim Xanh, thề đấy…”
“Không, chờ tí - Haarlemmerstraat? Không, tao chắc luôn, tao còn viết lại rồi mà? Trên tờ này? Không, từ từ đã chúng mày ơi, chúng mình đi thẳng ra đấy đi? Tao không nhớ tên nhưng nó mở sớm lắm mà còn có bữa sáng hơi bị chuẩn? Mà còn có thể gọi bánh xèo và OJ và Apollo 13[159] và hút ngay tại bàn?”
Cả lũ hùng dũng đi, phải đến mười lăm hai mươi đứa, phởn phơ, tóc mượt, cười giỡn oang oang, vừa xốc ba lô vừa tranh cãi xem đi xe gì vào thành phố rẻ nhất. Dù không ký gửi hành lý, tôi cũng đứng ở nơi nhận hơn một tiếng, nhìn một cái vali quấn bọc chằng chịt ủ rũ quay hết vòng này đến vòng khác cho tới khi Boris xuất hiện sau lưng, chào hỏi bằng cách vung tay kẹp lấy cổ tôi ghì xuống và tìm cách đạp lên gót giày tôi.
“Đi nào,” nó nói, “trông mi tã quá. Kiếm cái gì ăn đi, rồi nói chuyện! Gyuri cho xe chờ sẵn ngoài kia rồi.”
IV
KHÔNG HIỂU SAO TÔI không hề chờ đợi thấy một thành phố đã hóa trang đỏm dáng đón Giáng sinh: những cành thông và trang kim, những đồ trang trí hình sao ngàn cánh trên các cửa sổ và cơn gió buốt phả tới trên các kênh và lửa và những quầy hàng lễ và những người đi xe đạp, đồ chơi và kẹo và màu sắc, cảnh lộn xộn và óng ánh ngày lễ. Chó con, trẻ con, những kẻ buôn chuyện cùng những kẻ đứng hóng cùng những kẻ mang vác, những chú hề đội mũ quả dưa mặc áo đại cán quân đội, một chú làm xiếc nhỏ con nhảy nhót mặc áo quần Giáng sinh như trong tranh Avercamp. Tôi vẫn còn chưa tỉnh hẳn, và tất cả mọi thứ trước mắt dường như cũng chẳng thật hơn giấc mơ ngắn ngủi về Pippa trên máy bay, khi tôi bắt gặp cô trong công viên giữa bao nhiêu đài nước cao vút với một hành tinh đeo đai như sao Thổ treo thấp đường bệ trên bầu trời.
“Nieuwmarkt[160],” Gyuri nói khi chúng tôi đâm ra một khu đất lớn có một lâu đài cổ tích đủ cả tháp, và xung quanh, một chợ trời, những bó cành thường xanh đọng chút tuyết, những người bán đi găng to bự đang dậm chân, như một bức tranh minh họa sách thiếu nhi. “Hô, hô, hô.”
“Lúc nào cũng có cả đống cảnh sát,” Boris cau có nói, trượt dài đập vào cửa khi Gyuri ngoặt gấp.
Vì nhiều lý do mà tôi rất quan ngại về vấn đề chỗ ở, và sẵn sàng xin kiếu nếu tình hình đến mức chiếm dụng nhà hoang hay là ngủ trên sàn nhà. May thay Myriam đã đặt phòng cho tôi tại khách sạn là một ngôi nhà ống bên kênh ở khu phố cổ. Tôi vứt túi, bỏ tiền vào két khóa lại rồi trở ra phố gặp Boris. Gyuri đã đi cất xe.
Nó thả điếu thuốc xuống mặt đường lát đá, nghiến nát dưới gót chân. “Tau không đến đây cũng khá lâu rồi,” nó nói, hơi thở bay ra trắng xóa, trong lúc đưa mắt đánh giá những người đi bộ ăn mặc đứng đắn trên đường. “Căn hộ Antwerp của tau - hừm, tau đến Antwerp đều vì công việc. Cũng là thành phố xinh đẹp lắm - cũng mây biển, ánh sáng như thế này. Rồi hôm nào đó chúng mình sẽ đến đấy. Nhưng tau cũng toàn quên là ở đây thích ghê nơi. Mi đói mềm chưa hửm?” nó nói và thụi vào tay tôi. “Có phiền nếu đi quanh một chút không?”
Trên những phố hẹp chúng tôi thơ thẩn, những ngõ hẻm ẩm ướt không đủ đi xe, những cửa hàng nhỏ màu hoàng thổ váng vất khói sương đầy tranh in cũ và đồ gốm sứ bắt bụi. Cầu đi bộ qua kênh: nước nâu, vịt nâu trơ trọi. Cốc nhựa nửa chìm nửa nổi dập dềnh. Gió rát ướt, mưa đá như những mũi kim chích, quảng trường quanh chúng tôi có vẻ thật ẩm và chật chội. Mấy kênh này không đóng băng mùa đông ư? Tôi hỏi.
“Có, nhưng…” quẹt mũi “do trái đất nóng lên, chắc vậy.” Mặc cái áo choàng và bộ vét từ bữa tiệc đêm trước, trông nó vừa hoàn toàn lạc chỗ lại vừa ung dung như ở nhà. “Thời tiết chó má! Chúng mình tạt vào đây tí? Mi thấy sao?”
Quán bar, hay cà phê, hay gì cũng được bẩn thỉu ven kênh chơi gỗ tối màu và phong cách hải dương, mái chèo, phao cứu sinh, nến đỏ cháy chập chờn giữa ban ngày và cảm giác sương khói hoang hoải tuyệt vọng. Ánh sáng khói xông, ẩm ướt. Nước đọng thành giọt nhỏ bên trong cửa kính. Không có thực đơn. Tít trong cùng có một bảng phấn viết loằng ngoằng những thứ đồ ăn tôi không hiểu nổi: dagsoep, draadjesvlees, kapucijnerschotel, zuurkoolstamppot.
“Đây, để tau gọi cho,” Boris nói, rồi gọi món - bằng tiếng Hà Lan, thật kinh ngạc. Sản phẩm đưa đến là một bữa ăn đặc trưng Boris, gồm bia, bánh mì, xúc xích, khoai tây với thịt lợn và dưa cải sauerkraut. Boris, vui vẻ nhồm nhoàm - đang hồi tưởng về lần đầu tiên và duy nhất cố đi xe đạp trong thành phố (đâm sầm vào nhau, một thảm họa) cũng như về việc cá trích mới ở Amsterdam ngon lắm, nhưng may là không phải mùa vì có vẻ người ta ăn bằng cách nắm đuôi giơ lên rồi thả lủng lẳng dần xuống miệng, nhưng tôi còn quá mất phương hướng trước khung cảnh xung quanh nên không để ý nghe được, và với mọi giác quan sắc bén đến gần như đau đớn tôi cầm nĩa vần mớ khoai tây hổ lốn trên đĩa và cảm thấy tính xa lạ của thành phố này tấn công mình từ khắp phía, các loại mùi thuốc lá hay mạch nha hay nhục đậu khấu, những tường quán màu nâu sầu muộn như một cuốn sách bìa da, và xa hơn nữa, những lối đi tối và nước mằn mặn vỗ nhẹ, tầng trời thấp và nhà cửa cũ cứ dựa vào nhau, dáng vẻ ủ dột, thi ca, gần như sắp rơi qua bờ vực của sự tiêu diệt, vẻ cô đơn lát đá của một thành phố cho cảm giác - ít ra đối với tôi - như một nơi người ta đến hòng cho nước khép lại trên đầu mình.
Một chốc sau Gyuri đã tới nhập bọn, má đỏ hồng, hụt hơi. “Đỗ xe - ở đây hơi khó,” anh ta nói. “Xin lỗi.” Anh ta chìa tay cho tôi. “Mừng gặp lại anh!” anh ta nói và ôm lấy tôi với vẻ ấm áp xem ra là chân thực, như thể tôi là người bạn cũ bấy lâu xa cách, khiến tôi giật mình. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”
Boris, lúc này đã sang vại thứ hai, đang mải chuyện về Horst. “Tau không hiểu sao lão không chuyển đến Amsterdam,” nó nói trong lúc hân hoan gặm một cục xúc xích. “Suốt ngày than thở về New York! Ghét ghét ghét! Thế mà từ bao giờ rồi…” vẫy tay về phía con kênh ngoài cửa sổ mờ đục “mọi thứ lão ta yêu đều ở đây. Ngay cả ngôn ngữ cũng là ngôn ngữ của lão. Nếu lão thực tình muốn vui vẻ sống trên đời, Horst ấy? Muốn có một cuộc sống vui tươi hạnh phúc kiểu gì đó? Lão nên bỏ hai xịch quay lại cái chỗ cai độc nhanh rồi đến đây hút Buddha Haze[161] và đứng trong bảo tàng cả ngày.”
“Horst…?” tôi hỏi, nhìn từ người này qua người kia.
“Sao?”
“Anh ta có biết hai người ở đây không?”
Boris nuốt ực ngụm bia. “Horst hả? Không. Không biết. Dễ dàng hơn rất rất nhiều nếu Horst chỉ biết vụ nầy khi đã xong. Bởi vì…” liếm một đụn mù tạc trên ngón tay “tau nghi trúng phóc. Thằng Sascha chết giẫm ăn trộm cái đó. Em trai Ulrika,” nó sôi nổi nói. “Như vậy là ả Ulrika đẩy Horst vào thế bất lợi. Thế nên - tốt hơn nhiều nếu tau tự xử vụ này, hiểu không? Tau làm thế là giúp Horst đấy và lão không quên ơn đâu.”
“Mày nói ‘xử vụ này’ là sao?”
Boris thở dài. “Vụ này…” Nó nhìn quanh cho chắc không có ai nghe lỏm, dù trong quán chỉ có đúng ba chúng tôi “ừm, vụ này phức tạp lắm, tau nói ba ngày cũng chưa hết, nhưng tau cũng chỉ cần ba câu là nói xong.”
“Ulrika có biết nó lấy không?”
Mắt đảo tròn. “Biết chết liền.” Một câu tôi đã dạy Boris từ rất lâu, khi đùa giỡn ở nhà tôi sau giờ học. Biết chết liền. Nghỉ đi. Chiều tà sương khói sa mạc, rèm kéo xuống. Chốt hạ xem nào. Nói luôn cho vuông. Quên khẩn trương. Cũng bóng tối ấy trên mặt nó. Ánh sáng vàng nảy trên khung cửa ra hồ bơi.
“Tôi nghĩ Sascha sẽ phải ngu lắm mới đi nói với Ulrika,” Gyuri nói, vẻ mặt ra chiều lo lắng.
“Tau không biết Ulrika biết gì hay là không biết gì. Không quan trọng. Ả trung thành với em trai hơn với Horst, điều này ả đã chứng tỏ quá nhiều lần rồi. Cứ tưởng rằng…” oai vệ làm hiệu với cô phục vụ mang một vại cho Gyuri “cứ tưởng rằng Sascha sẽ khôn ngoan mà ngồi chờ ít nhất cũng một chốc! Nhưng không. Nó không đem tranh đi vay được ở Hamburg hay Frankfurt vì có Horst - vì Horst sẽ được bán tin tức khắc. Thế là nó mang đến đây.”
“Ơ này, nếu mày biết ai đang giữ nó thì chúng ta gọi cảnh sát là xong.”
Sự im lặng và vẻ ngơ ngác tiếp theo sau khiến tôi cảm giác mình vừa lôi ra một can xăng, đề nghị tự thiêu cả lũ.
“Ờ, tức là,” Tôi tìm cách chữa lại, sau khi cô phục vụ đã mang bia đến cho Gyuri, đặt xuống, lại bỏ đi, mà cả Gyuri lẫn Boris đều, chưạ hề nói lời nào “Không phải đấy là cách an toàn nhất à? Dễ nhất nữa? Cảnh sát lấy lại được mà mày không phải nhúng tay vào đó?”
Tiếng chuông xe đạp keng, người đàn bà phi qua lanh canh trên vỉa hè, nan hoa xành xạch, áo choàng đen phù thủy tung bay.
“Vì…” liếc từ người này qua người kia “nếu mày thử nghĩ xem bức tranh đã trải qua những gì - hẳn đã trải qua những gì - tao không biết mày có hiểu không, Boris ạ, rằng người ta phải cẩn trọng thế nào ngay trong việc vận chuyển một bức tranh? Ngay trong việc đóng gói nó tử tế? Vì sao phải liều?”
“Tau chính là nghĩ thế.”
“Gọi điện nặc danh. Cho đám điều tra tội phạm nghệ thuật ấy. Họ không giống cảnh sát bình thường - không liên hệ gì với đám cảnh sát bình thường - họ chỉ quan tâm đến bức tranh thôi. Họ biết phải làm gì.”
Boris ngả người ra sau ghế. Nó nhìn quanh, rồi nó nhìn tôi.
“Không,” nó đáp. “Đấy không phải ý hay.” Nó nói với giọng giảng giải cho một đứa bé lên năm. “Và mi có muốn biết vì sao không?”
“Mày nghĩ đi. Đây là cách dễ nhất. Mày sẽ không phải động tay động chân tí nào.”
Boris thận trọng đặt cốc bia xuống.
“Họ có nhiều khả năng mang được bức tranh về không suy suyển nhất. Hơn nữa, nếu tao làm việc đó - nếu tao gọi cho họ - mẹ khỉ, tao có thể bảo Hobie gọi cho họ cũng được…” bưng hai tay lên đầu “có xoay chuyển cách nào thì cũng không phải mày bị đặt vào thế nguy hiểm. Tức là…” - tôi đang quá mệt, quá hoang mang: hai cặp mắt như hai mũi khoan Dremel, không nghĩ được “nếu là tao làm việc đó, hoặc ai khác không thuộc vào - ờ - tổ chức của mày…”
Boris hú lên cười, “Tổ chức? À…” lắc đầu quầy quậy đến nỗi tóc rũ cả vào mắt “tau nghĩ cũng có thể coi bọn tau là tổ chức gì đó được, vì có tận ba người hoặc hơn…! Nhưng bọn tau không đông lắm, mà cũng không được tổ chức tốt lắm đâu, mi thấy đấy.”
“Anh nên ăn gì đó đi,” Gyuri báo tôi, trong quãng lặng căng thẳng nối tiếp đó, khi nhìn xuống đĩa thịt lợn, khoai tây còn nguyên trước mặt tôi. “Anh ấy nên ăn,” anh ta bảo Boris. “Bảo anh ấy ăn đi.”
“Cứ mặc nó chết đói nếu muốn. Dù sao thì,” Boris nói, xiên lấy một miếng thịt lợn trên đĩa tôi bỏ vào mồm…
“Chỉ cần một cú gọi thôi. Tao gọi cũng được.”
“Không,” Boris nói, thình lình quắc mắt và đẩy ghế ra. “Mi không được gọi. Không, không, má nó chứ, im đi, mi không được gọi,” nó nói, hếch cằm lên hung hăng khi tôi cố chen lời, tay Gyuri thình lình đặt lên cổ tay tôi, một cử chỉ tôi hiểu rất rõ, ngôn ngữ Vegas bị lãng quên xưa cũ những khi bố tôi ở trong bếp gào thét đây là nhà của ai? Ai trả tiền cho cái này?…
“Và và,” Boris oai nghiêm nói, lợi dụng một khoảng trầm trong thái độ của tôi mà nó không lường trước, “tau muốn mi thôi ngay mấy cái chuyện gọi gọi này. Gọi gọi cái con kẹc,” nó thêm, khi thấy tôi không đáp, vung vẩy tay trong không khí rất nực cười như thể “gọi” là một từ trẻ con dớ dẩn nào đó đồng nghĩa với “rồng” hay “xứ thần tiên”. “Tau biết là mi muốn giúp, nhưng đề nghị như thế chẳng giúp được gì sất. Nên quên chuyện đó đi. Đừng có gọi gọi gì nữa. Dù sao thì,” nó thân tình nói, đổ một phần cốc bia sang cốc tôi đã gần cạn. “Tau đang kể với mi đấy. Vì Sascha đang cực kỳ vội? Nó có nghĩ rành rọt không? Nó có tính trước quá một bước, hay là hai bước không? Không. Sascha là người lạ ở xứ này. Những mối quen biết ở đây có hại cho nó. Nó cần tiền. Và nó làm mọi cách để tránh xa Horst đến nỗi nó đâm sầm vào tau.”
Tôi không đáp. Tự tôi gọi cho cảnh sát là một việc rất dễ dàng. Không việc gì phải lôi Boris hay Gyuri vào đó.
“Vận may khủng khiếp, không phải sao? Và bạn chúng ta, ông người Georgia - rất giàu, nhưng cách rất xa thế giới của Horst và rất xa giới sưu tập, đến nỗi thậm chí không biết tên cái tranh. Chỉ thấy một con chim - con chim vàng nhỏ. Nhưng Anh Đào tin rằng ông ta nói thật, rằng ông ta đã thấy nó. Rất hùng mạnh trong lĩnh vực địa ốc? Ở đây và cả Antwerp? Hàng xấp tờ xanh và gần như là cha của Anh Đào, nhưng không phải người có học nếu mi hiểu ý tau.”
“Thế giờ nó ở đâu?”
Boris quẹt mũi sồn sột. “Tau không biết. Chúng nó không định nói cho ta biết, hiểu không? Nhưng Vitya đã liên lạc, bảo biết một người muốn mua. Nên đã hẹn gặp một buổi.”
“Ở đâu?”
“Còn chưa quyết. Chúng nó đã đổi chỗ đến nửa tá lần rồi. Bị hoảng mà,” nó nói vả làm điệu xoắn ngón tay quanh thái dương. “Có thể bắt ta chờ một hai ngày gì đó. Có thể ta chỉ được biết trước một tiếng.”
“Anh Đào…” tôi nói, rồi ngừng lại. Vitya là cách gọi thân mật tên tiếng Nga của Anh Đào, là Viktor - hay Victor nếu Anh hóa - nhưng còn Anh Đào thì chỉ là biệt hiệu còn Sascha tôi chẳng biết tí gì: tuổi không, họ không, dáng điệu không, không biết gì hết ngoại trừ chuyện hắn là em trai Ulrika - và cả điều này cũng khó chắc được theo nghĩa thông thường, khi Boris dùng chữ đó rất tùy tiện.
Boris mút một mẩu mỡ dính trên ngón cái. “Ban đầu ý tau là - sắp xếp gì đấy ở khách sạn của mi. Mi hiểu không - mi, người Mỹ, đại gia, để mắt đến cái tranh. Chúng nó…” nó hạ giọng khi cô phục vụ đổi cốc rỗng lấy một cốc đầy, Gyuri gật đầu lịch sự và ghé vào nghe “chúng nó sẽ đến phòng mi. Bình thường vẫn thế. Rất là làm ăn đúng mực. Nhưng…” nhún vai khó nhận thấy “chúng chưa quen làm trò này, và đang bị hoảng. Chúng nó muốn tự chọn địa điểm.”
“Địa điểm nào?”
“Chưa biết! Tau vừa nói đấy thôi! Chúng nó cứ đổi ý xoành xoạch. Nếu chúng nó muốn ta đợi - thì ta đợi. Phải để chúng nó tưởng mình là chúa. Bây giờ, xin lỗi,” nó nói, vươn vai và ngáp dài, đưa đầu ngón tay dụi con mắt thâm quầng, “tau mệt rồi! Muốn chợp mắt!” Nó quay sang Gyuri nói gì đó bằng tiếng Ukraina, rồi quay lại tôi. “Xin lỗi,” nó ghé lại quàng tay qua vai tôi. “Mi tự tìm đường về khách sạn được chứ?”
Tôi cố gỡ mình ra mà không quá lộ liễu. “Được. Mày ở đâu?”
“Căn hộ của bạn gái - Zeedijk.”
“Gần Zeedijk,” Gyuri nói, quả quyết đứng dậy, thái độ lễ độ nhưng hao hao kiểu quận đội. “Khu Phố Tàu ngày xưa.”
“Địa chỉ là gì?”
“Không nhớ. Mi biết tau mà. Tau không thể giữ trong đầu mấy thứ như địa chỉ được. Nhưng…” Boris vỗ túi “khách sạn của mi.”
“Ừ.” Hồi ở Vegas, nếu có bao giờ chúng tôi bị tách nhau ra - chạy trốn cảnh sát ở trung tâm thương mại, túi đầy những thẻ quà tặng đánh cắp - thì nhà tôi luôn luôn là điểm hẹn.
“Thế là - tau sẽ đón mi ở đấy. Mi có số tau rồi, tau có số mi. Sẽ gọi khi có gì tiếp theo. Giờ thì…” vỗ bộp vào sau gáy tôi “đừng lo lắng nữa, Potter! Đừng đứng xị cái mặt ra thế! Nếu thua, thì chúng mình thắng, và nếu thắng, chúng mình vẫn thắng! Mọi đằng đều tốt cả! Mi biết đi về lối nào, phải không? Chỉ cần đi đằng kia, rồi rẽ trái khi đến kênh Singel. Ừ, ở đó đó. Chúng mình sẽ gặp nhau sớm.”
V
TÔI RẼ NHẦM TRÊN ĐƯỜNG về khách sạn và mất vài giờ lang thang vơ vẩn, những cửa hàng treo bóng thủy tinh và những hẻm đường xám trong mơ với những cái tên không đọc nổi, những tượng Phật mạ vàng và đồ thêu Á Đông, bản đồ cổ, đàn harpsichord cổ, những cửa hiệu màu nâu xì gà đặc khói bán bát đĩa sứ và ly kim loại và những hũ ký kiểu Dresden từ xưa. Mặt trời đã lên, không khí quanh các kênh có vẻ sáng và gắt, một ánh lấp lánh hít thở được. Mòng biển lộn nhào trên trời, kêu thê thiết. Một con chó chạy qua, mồm ngậm cua còn sống. Trong trạng thái váng vất và mệt mỏi khiến tôi cảm thấy như bị tách lìa khỏi chính mình, như đang quan sát mọi sự từ xa nhìn lại, tôi bước qua những cửa hàng kẹo, những quán cà phê, những cửa hàng bán đồ chơi cổ và gạch men Delft từ thập niên 1800, những gương cổ và bạc lóe lên trong ánh nắng đượm màu rượu cô nhắc ấm cúng, những tủ ly khảm Pháp và những bàn kiểu cung đình Pháp, khắc hình dây hoa, mặt ván lạng dán đủ khiến Hobie trố mắt ngưỡng mộ - thực tế là cả cái thành phố mù sương, thân thiện, văn hóa cao này cùng những người bán hoa, những hiệu bánh, những antiekhandel[162] đều có gì đó giống Hobie, không chỉ vì đầy ắp cổ vật mà còn vì một vẻ lành mạnh rất Hobie, như là cuốn sách tranh cho trẻ vẽ những người thợ mặc tạp dề quét sàn nhà bên lũ mèo mướp ngủ gật trong khung cửa sổ đầy nắng.
Nhưng có quá nhiều điều phải xem, còn tôi thì đang ngợp và mệt lả, lại lạnh nữa. Cuối cùng, nhờ giữ người qua đường lại hỏi dường đi (những bà nội trợ má đỏ ôm hoa đẩy tay, những cậu hippie bẩn xì gà đeo kính gọng mỏng), tôi lần ngược lại những cây cầu bắc ngang kênh và trở lại những đường phố hẹp thắp đèn tiến về khách sạn, ở đó tôi lập tức đổi ít đô-la ở bàn tiếp tân, lên xả nước tắm trong phòng tắm toàn những gương cong và thiết bị xa hoa, lai giữa Art Nouveau và một tương lai lạnh lẽo kiểu khoa học giả tưởng sống trong các hộp di động, rồi thiếp ngủ, mặt úp xuống giường - ở đó tôi bị đánh thức, mấy tiếng sau, khi điện thoại, quay tít trên bàn đầu giường, tiếng réo rắt quen thuộc khiến trong phút chốc tôi ngỡ mình đang ở nhà.
“Potter?”
Tôi ngồi dậy, với lấy kính, “Ừm…” Tôi chưa kéo rèm trước khi ngủ, giờ ánh phản chiếu từ mặt kênh nhảy nhót khắp trần nhà trong bóng tối.
“Sao thế? Mi đang phê à? Đừng có bảo mi đã đi quán cà phê đấy.”
“Không tao…” Đầu váng vất, tôi hé một mắt nhìn quanh - cửa sổ mái và dầm nhà, tủ chạn và mặt dốc, và ngoài cửa sổ, khi tôi đứng dậy xoa đầu - cầu kênh thắp sáng trong những nét trang trí đá, vòm cong cong soi bóng lòng nước đen.
“Thế thì tau lên đây. Mi không có cô nào trên ấy chứ hửm?”
VI
TỪ LỄ TÂN đi lên phòng tôi phải qua hai thang máy và một quãng đi bộ, nên tôi rất ngạc nhiên khi thoắt cái đã có tiếng gõ cửa. Gyuri tế nhị đi ra cửa sổ đứng xây lưng về phía chúng tôi, trong khi Boris nhìn tôi một vòng. “Mặc đồ đi” nó nói. Tôi đang đi chân đất, mặc áo choàng ngủ của khách sạn và tóc dựng đứng vì tắm xong đi ngủ luôn. “Mi phải, chải chuốt lại. Đi - chải đầu, cạo râu đi.”
Khi tôi chui ra khỏi phòng tắm (nơi treo bộ vét để các vết nhăn giãn ra), nó bĩu môi chê bai và bình phẩm; “Mi không có món gì khá hơn à?”
“Đây là hàng Turnbull và Asser đấy.”
“Ừ, nhưng trông như mi vừa mặc đi ngủ ấy.”
“Tao đã mặc hơi lâu rồi. Tao cũng có sơ mi sạch hơn.”
“Vậy thì đổi đi.” Nó đang mở cặp táp ở đầu giường. “Lấy tiền của mi nữa, mang ra đây.”
Khi quay vào, vừa đi vừa cài nút cổ tay, tôi dừng sững giữa phòng khi thấy nó đang đứng bên giường, đầu nghiêng nghiêng, chăm chú lắp một khẩu súng ngắn: lắp kim hỏa với vẻ thành thạo rõ ràng như khi Hobie làm việc trong xưởng, kéo khóa nòng ra sau với một tiếng “cạch” mạnh và rất thực.
“Boris,” tôi nói, “cái đéo gì vậy.”
“Binh tình,” nó liếc xéo tôi nói. Đập đập túi, lấy một băng đạn ra lồng vào: tạch. “Không phải như mi nghĩ đâu. Không hề. Để lòe thôi!”
Tôi nhìn tấm lưng rộng của Gyuri, hoàn toàn bình thản, cũng cái lối điếc chuyên nghiệp mà đôi khi tôi đã sử dụng khi quay đi, trong cửa hiệu, khỏi một cặp vợ chồng cãi vã nhau xem có nên mua món này món nọ hay không.
“Chỉ là…” Nó đang tháo lắp cái gì đó tới lui trên khẩu súng, tay nhoay nhoáy, ướm thử rồi đưa lên mắt ngắm, những cử chỉ phi thực từ một tầng ngầm sâu bên trong bộ não nơi những bộ phim đen trắng chập chờn chiếu hai tư giờ một ngày. “Chúng mình sẽ gặp chúng nó trên đất chúng nó, và chúng nó có ba người. Hừ, thực ra chỉ là hai. Hai người đáng kể. Và giờ mới cho mi biết - tau đã hơi lo là Sascha có thể ở đây. Vì khi đó tau không đi với mi được. Nhưng mọi thứ đã diễn ra tuyệt hảo, nên tau ở đây rồi!”
“Boris…” Khi đứng đó, tất cả đã thình lình ập vào tôi một lúc, trong một luồng nôn nao, nhận ra mình đã lạc đường vào một thứ khốn nạn ngu xuẩn như thế nào…
“Không phải lo! Tau đã lo thay mi rồi. Bởi vì…” vỗ lên vai tôi “Sascha quá run. Nó sợ không dám thò mặt ở Amsterdam - sợ tin sẽ báo về Horst. Và nó sợ rất có lý. Và đấy là điều rất rất tốt cho chúng mình.
“Thế đấy.” Nó đóng nắp súng đánh xạch: bạc crom, đen như thủy ngân, đặc và bóng loáng đến bóp méo cả không gian quanh nó như một giọt dầu máy trong cốc nước.
“Đừng nói là mày mang nó đi nhé,” tôi nói trong khoảng im lặng không tin nổi tiếp sau đó.
“Ờ, có chứ. Để bao - chỉ bỏ trong bao thôi. Nhưng mà từ từ,” nó nói va giơ bàn tay lên, trước khi mi bắt đầu nói…” dù tôi chưa hề nói gì, chỉ đứng đó trợn mắt kinh khiếp “tau phải bảo bao nhiêu lần nữa? Chỉ là để lòe thôi.”
“Mày đùa đấy chắc.”
“Hóa trang ấy mà,” nó nói nhanh, như thể không nghe thấy tôi. “Hoàn toàn giả bộ. Để chúng nó sẽ sợ không dám hó háy gì nếu thấy tau đeo nó, hiểu chưa?” nó nói thêm, khi thấy tôi vẫn đứng chết sững. “Biện pháp an toàn thôi! Vì là, vì là,” nó nói át tôi, “mi là ông nhà giàu, còn bọn tau là vệ sĩ và tình hình là thế. Chúng nó sẽ muốn thấy cảnh ấy. Tất tả đều rất văn minh. Và nếu chúng ta sửa áo một chút…” nó đeo bao súng kín ở thắt lưng “chúng nó sẽ rất cung kính không dám giở trò gì cả. Còn nguy hiểm hơn nhiều nếu đi vào theo kiểu…” nó đảo mắt quanh phòng làm bộ một cô bé ngây ngô.
“Boris. Tôi lảo đảo, mặt tái ngắt. “Tao không làm được đâu.”
“Không được cái gì?” Nó hếch cằm nhìn tôi, “Không ra được khỏi xe và đứng cạnh tau năm phút trong khi tau lấy cái tranh khỉ gió về cho mi hả? Thế nào?”
“Không, tao nói thật đấy.” Khẩu súng nằm trên ga giường; con mắt hút ngay vào đó; nó dựờng như là kết tinh và khuếch đại của tất cả số năng lượng xấu đang ro ro trong không gian. “Tao không làm được. Nói nghiêm túc đấy. Bỏ qua chuyện này đi.”
“Bỏ qua?” Boris nhăn nhó. “Đừng có thế chứ! Mi đã mang tau đến đây chẳng vì cớ gì và giờ tau ở thế kẹt rồi. Và giờ…” vung một tay ra “vào phút chót, mi bắt đầu điều kiện này nọ và bảo ‘không an toàn, không an toàn’ và chỉ đạo tau làm này làm kia ư? Mi không tin tau à?”
“Có, nhưng…”
“Thì thế đấy. Hãy tin tau vụ này đi. Mi là người mua,” nó sốt ruột nói khi không thấy tôi trả lời. “Câu chuyện là thế. Đã dựng xong rồi.”
“Đáng ra chúng ta nên bàn qua từ trước.”
“Ồi thôi nào,” nó thốt lên bực bội, nhặt khẩu súng trên giường nhét vào bao. “Đừng có lèo nhèo với tau nữa, sẽ bị muộn mất. Mi mà ở trong phòng tắm thêm hai phút nữa thì đã không thấy gì rồi! Chẳng hề biết có vũ khí trên người tau! Vì, Potter này, nghe tau đi. Mi nghe tau một chút được không? Tất cả những gì sẽ xảy ra là thế này. Chúng ta đi vào, năm phút, đứng đứng đứng, chúng ta nói cho xong bài, chỉ nói thôi, mi lấy được cái tranh, ai cũng vui vẻ, chúng ta về rồi đi ăn tối. OK?”
Gyuri vừa từ cửa sổ nhích lại đây, đang nhìn tôi từ đầu đến chân. Cau mày lo lắng, anh ta nói gì đó với Boris bằng tiếng Ukraina. Một đoạn đối thoại không sao hiểu nổi. Rồi Boris giơ cổ tay, bắt đầu tháo đồng hồ.
Gyuri nói thêm gì đó và lắc đầu quầy quậy.
“Phải,” Boris đáp. “Anh nói phải.” Rồi nói với tôi và gật đầu: “Cầm lấy đi.”
Platinum Rolex President. Mặt số khảm kim cương. Tôi đang cố nghĩ cách nào đó từ chối lịch sự thì Gyuri tháo cái nhẫn kim cương cắt vát to khủng bố khỏi ngón út và - háo hức, như đứa bé trao món quà tự tay làm ra - đưa cả hai cho tôi trong đôi bàn tay xòe rộng.
“Phải,” Boris nói khi tôi lưỡng lự. “Ảnh nói phải. Trông mi không đủ giàu. Giá mà chúng mình chuẩn bị giày khác cho mi,” nó nói và nheo mắt chê bai nhìn đôi giày đen cài khóa dưới chân tôi “nhưng đành vậy thôi. Giờ thì ta sẽ để tiền trong túi này…” quai da, chất đầy những cọc tiền bên trong “rồi đi.” Bàn tay khéo léo thoăn thoắt, như cô hầu phòng soạn giường. “Những tờ to nhất lên trên cùng. Cả đống tờ trăm hấp dẫn. Đẹp rồi.”
VII
NGOÀI PHỐ: cảnh huy hoàng và mê man mùa lễ. Bóng đèn nhảy nhót, lấp lánh trên mặt nước đen: mái vòm chăng dây bên trên phố, những chuỗi đèn trên các thuyền qua kênh.
“Tất cả sẽ trơn tru êm ả thôi,” Boris nói, chuyển kênh radio qua Bee Gees, qua tin tức tiếng Hà Lan, tiếng Pháp, cố tìm một bài hát. “Tau đang đặt hy vọng vào việc chúng nó cần tiền thật nhanh. Càng chóng tống được cái tranh - càng ít nguy cơ đụng đầu Horst. Chúng nó sẽ không quá săm soi mấy tờ séc hay chi phiếu đâu. Chỉ thấy con số sáu trăm ngàn mà thôi.”
Tôi đang ngồi một mình ở băng sau bên túi tiền. (“Vì, thưa anh, anh phải quen làm người khách khả kính!” Gyuri đã nói vậy khi đi vòng qua mở cửa ghế sau xe cho tôi.)
“Mi hiểu không - điều tau hy vọng sẽ lừa được nó - chi phiếu thì cực kỳ hợp pháp,” Boris vẫn nói “Séc cũng vậy. Chỉ có ngân hàng là dỏm thôi. Anguilla. Người Nga ở Antwerp - cả ở đây nữa, trên Phố P. C. Hooftstraat - họ đến đầu tư, rửa tiền, mua tranh tượng, ha! Ngân hàng này vẫn ổn sáu tuần trước, nhưng giờ thì không ổn.”
Chúng tôi đã đi qua các kênh, đi qua dòng nước. Trên phố: các thiên thần đèn tuýp đủ màu, khuất bóng, vươn ra từ những nóc tòa nhà như tượng mũi tàu. Kim sa lam, kim sa trắng, đèn pha màu, từng chuỗi đèn trắng và sao Giáng sinh, chói lọi, không cách nào xuyên thủng, cũng xa lạ với tôi chẳng khác gì viên kim cương không tưởng đang lấp lánh trên ngón út tôi.
“Thế này, tau cần bảo với mi là,” Boris đã quên bẵng cái radio, quay xuống nói với tôi ở ghế sau, “tau muốn bảo mi đừng có lo. Thề bằng cả trái tim,” nó nói, mày nhíu lại, với tay lắc vai tôi động viên. “Mọi thứ ổn cả.”
“Ngon lành cành đào!” Gyuri nói và cười tươi rói trong gương chỉếu hậu, rất vui vì đã nhớ được chữ đó.
“Kế hoạch đây. Mi muốn biết không?”
“Tao đoán là tao phải bảo có thôi.”
“Chúng mình sẽ bỏ xe. Ở ngoài thành phố một tẹo. Rồi Anh Đào sẽ đón mình ở điểm đó, rồi chở mình tới chỗ hẹn bằng xe nó.”
“Và tất cả sẽ êm như ru.”
“Tất nhiên rồi. Và tại sao? Mi có tiền mặt! Chúng nó chỉ cần thế thôi. Trừ đi chỗ séc khống, vẫn lời chán. Bốn mươi nghìn đô-la mà hầu như chẳng phải động tay? Không mấy! Sau đó - Anh Đào sẽ trả chúng mình lại ga ra, với cái tranh - và rồi - chúng mình đi ăn! Đi ăn mừng!”
Gyuri lầu bầu gì đó.
“Ảnh than phiền vụ ga ra. Kể cho mi biết thôi. Ảnh nghĩ đấy là ý tồi. Nhưng - tau không muốn đi bằng xe tau, mà chúng mình tuyệt đối không nên ăn vé phạt trong tình cảnh này.”
“Hẹn ở đâu?”
“Dào - hơi đau đầu. Phải đi ra ngoài thành phố rồi quành lại. Chúng nó khăng khăng đòi ở chỗ nó và Anh Đào cũng đồng ý vì - chà, thật đấy, thế tốt hơn. Ít nhất ở đất chúng nó sẽ không lo bị cớm xía vô.”
Chúng tôi đã ra đến một đoạn đường hiu quạnh hơn, thẳng và cô độc, xe cộ thưa thớt còn đèn đường cách xa nhau, và tiếng động cùng ánh lấp lánh tràn sinh lực của thành phố cổ, những vòm cửa đá thắp sáng, cái cấu trúc ngầm bên trong của nó - giày trượt bạc, lũ trẻ con vui vẻ dưới gốc cây - đã nhường chỗ cho vẻ trơ trụi thị thành quen thuộc: Fotocadeau, Locksmith Sleutelkluis[163], những biển bằng tiếng Ả rập, Shoarma, Tandoori Kebab, cổng khóa chặt, mọi thứ đóng kín.
“Đây là Overtoom,” Gyuri nói. “Không hẳn thú vị hay dễ chịu.”
“Đây là ga ra gửi xe của Dima đệ tau. Nó đã treo biển Hết chỗ để đêm nay không ai quấy rầy. Chúng mình sẽ ở khu dài hạn - á,” nó hét lên, “blyad,” khi một cái xe tải bấm còi ông ổng không biết từ đâu tạt vào trước mũi xe, khiến Gyuri phải quành và đạp phanh gấp.
“Thỉnh thoảng người ở đây hơi hung hăng mà chẳng để làm gì,” Gyuri u ám nói khi bật xi nhan và rẽ vào ga ra.
“Đưa tau hộ chiếu của mi,” Boris nói.
“Tại sao?”
“Tại vì, tau sẽ khóa chặt nó trong ngăn để đồ chờ khi chúng mình về. Tốt hơn không giữ trên người, để phòng có chuyện. Tau cũng bỏ của tau nữa,” nó giơ lên cho tôi thấy, “Cả Gyuri nữa. Gyuri công dân Mỹ lương thiện sinh quán đàng hoàng - phải,” nó nói, bất kể Gyuri cười lớn phản đối, “với bọn mi thì hay rồi, nhưng còn tau? hộ chiếu Mỹ rất rất khó kiếm, và tau thực không muốn mất tí nào. Mi biết mà, phải không Potter,” nó nói và nhìn tôi, “rằng bây giờ luật Hà Lan buộc mang theo giấy tờ tùy thân mọi nơi mọi lúc? Kiểm tra ngẫu nhiên trên đường - không có bị phạt. Nghĩ coi - Amsterdam? Nhà nước cảnh sát gì đây chứ? Ai mà tin được? Ở đây? Tau - chưa bao giờ. Ngàn năm nữa cũng không. Nhưng mà…” - đóng rồi khóa ngăn để đồ - “bị phạt rồi nói xàm cho qua còn hơn để đồ xịn trên người nếu bị giữ lại.”
VIII
TRONG GA RA GỬI XE, giữa luồng đèn xanh ô liu chập chờn, rất sầu thảm, còn một vài chỗ trống trong khu vực gửi dài hạn dù có biển Hết chỗ. Trong lúc chúng tôi nhích vào chỗ, một người đàn ông mặc áo vét dày tựa vào chiếc Range Rover trắng ném điếu thuốc vào một đụn xỉ màu da cam rồi đi lại gần xe chúng tôi. Đường chân tóc đang hói, đôi mắt kính phi công đen và thân mình quân đội rắn chắc khiến ông ta có cái vẻ sương gió của một cựu phi công, một kẻ quản lý những thiết bị tinh xảo trong một khu thí nghiệm nào đó miền Ural.
“Victor,” ông ta nói khi chúng tôi đã ra khỏi xe, bóp muốn nát tay tôi trong tay mình. Gyuri và Boris được một cái đập mạnh trên vai. Sau những mào đầu căng thẳng bằng tiếng Nga, một cậu thiếu niên mặt bột tóc xoăn tít trèo ra khỏi buồng lái và được Boris chào bằng cái vỗ nhẹ vào má cùng một điệu huýt sáo bảy nốt véo von: Trên chiếc thuyền Kẹo Mút xinh tươi[164].
“Đây là Shirley T,” nó bảo tôi và xoa những lọn tóc quăn mù. “Shirley Temple. Bọn tau ai cũng gọi nó như thế - vì sao? Mi đoán được không?” - cười lớn trong lúc thằng nhóc không cưỡng được, cũng cười theo bối rối, lộ hai bên lúm đồng tiền sâu tít.
“Đừng để vẻ ngoài đánh lừa,” Gyuri nhỏ giọng bảo tôi. “Shirley trông như bé con nhưng cũng có chí khí như bất kỳ ai trong chúng ta ở đây.”
Lễ độ, Shirley gật đầu chào tôi - cậu ta có biết tiếng Anh không? Xem ra là không - và mở cửa sau chiếc Range Rover cho cả ba trèo vào - Boris, Gyuri, tôi - trong lúc Victor Anh Đào ngồi đằng trước, nói chuyện với chúng tôi từ ghế lái phụ.
“Cái này dễ hiểu thôi,” ông ta nói với tôi rất trịnh trọng khi xe rời khỏi ga ra, lùi lại trên Phố Overtoom. “Hoàn toàn chỉ là cầm đồ.” Nhìn gần mặt ông ta rộng và có vẻ hiểu biết, cái miệng nhỏ nghiêm nghị và vẻ nhăn nhó cảnh giác khiến tôi có bớt phần kích động vì cái logic của buổi tối hôm ấy, hay đúng ra là cái thiếu logic của buổi tối hôm ấy: vụ đổi xe, vụ thiếu phương hướng và thông tin, vẻ ngoại quốc ác mộng. “Chúng ta đang làm ơn cho Sascha, và vì thế? Nó sẽ ăn ở tử tế với chúng ta.”
Những nhà dài và thấp. Ánh đèn rời rạc. Có cảm giác chuyện này không thực sự xảy ra, có cảm giác nó đang xảy ra với ai đó chứ không phải tôi.
“Vì Sascha có đi vào ngân hàng mượn tiền bằng cái tranh đó được không?” Victor đang giảng giải rất mô phạm… “Không. Sascha có đi vào hiệu cầm đồ mượn tiền bằng cái tranh đó được không? Không. Sascha do hoàn cảnh của vụ trộm có đi gặp bất kỳ mối quen cũ nào qua Horst mượn tiền bằng cái tranh đó được không? Không. Vì thế Sascha cực kỳ mừng khi xuất hiện ông người Mỹ bí ẩn - là anh - do tôi dắt dây cho.”
“Sascha bắn heroin như ta thở,” Gyuri nói nhỏ với tôi. “Một mẩu tiền là nó sẽ đi ra ngoài mua hàng đống thuốc, chắc như bắp.”
Victor Anh Đào chỉnh kính. “Chính thế. Nó không yêu nghệ thuật và nó không kỹ tính. Nó dùng tranh như thẻ tín dụng lãi suất cao, hay là nó tưởng thế. Anh đầu tư - nó có tiền. Anh ứng trước tiền - anh giữ tranh làm bảo đảm - nó mua đồ, giữ một nửa, chia số còn lại đem bán, rồi quay lại trả tiền gấp đôi trong một tháng và lấy tranh. Và nếu? Trong một tháng nó không quay lại mang tiền gấp đôi? Thì tranh là của anh. Tôi nói rồi đấy. Đơn giản là cầm đồ.”
“Chỉ có điều không đơn giản vậy…” Boris duỗi người ngáp dài “vì nếu anh biến mất, còn séc thì dỏm? Nó còn làm được gì? Nếu nó chạy tới Horst đòi giúp đỡ nó sẽ được bẻ gãy cổ.”
“Tôi mừng là chúng đã đổi nơi hẹn quá nhiều lần như vậy. Như thế có hơi lố bịch. Nhưng lại tốt hơn, vì hôm nay là thứ Sáu,” Victor nói, gỡ kính chùi vào áo. “Tôi nói cho chúng tưởng anh đang muốn rút. Vì chúng cứ liên tục hủy rồi đổi kế hoạch - mãi đến hôm nay anh mới tới, nhưng chúng không biết - vì chúng cứ liên tục thay đổi kế hoạch nên tôi bảo anh đã mệt và lo ngại cứ phải ngồi lì ở Amsterdam với vali giấy bạc chờ tin chúng, anh đã bỏ lại tiền vào ngân hàng và chuẩn bị bay về Mỹ rồi. Nghe thế chúng không vui. Thế nên…” ông ta hất đầu về phía cái túi “đang vào dịp cuối tuần, ngân hàng đã đóng cửa hết, anh chỉ mang theo người số tiền mặt còn lại, và - à, chúng đã nói chuyện với tôi suốt, chủ yếu trên điện thoại và tôi gặp chúng một lần rồi, trong quán bar khu Đèn Đỏ, nhưng chúng đã đồng ý mang cái tranh tới trao đổi đêm nay mà không cần gặp anh trước, vì tôi bảo mai anh bay rồi, và vì chính chúng đã làm hỏng bét mọi sự, nên hoặc là séc hoặc là không gì cả. Điều đó, ờ, chúng cũng không thích, nhưng chúng chấp nhận cách giải thích đó về mấy tờ séc. Nên sẽ dễ cho ta hơn.”
“Dễ hơn nhiều,” Boris nói. “Tau còn đang chưa nghĩ ra cách nào ấn được lũ séc vào tay chúng. Tốt hơn là để chúng nghĩ vụ séc là lỗi chúng, vì chây lười.”
“Ở đâu?”
“Quán cà-phê-ăn-trưa.” Ông ta nói ríu vào nhau thành “cà-phăn- trưa”. “De Paarse Koe.”
“Nghĩa là ‘con bò tía’ trong tiếng Hà Lan,” Boris nhiệt tình giải thích. “Chỗ của bọn híp pi. Rất gần khu Đèn Đỏ.”
Phố dài trơ trọi, những cửa hàng đồ sắt đóng cửa, những chồng gạch bên lề đường, tất cả đều hình như thật quan trọng và có ý nghĩa tối quan trọng cho dù tất cả cũng đang vùn vụt trôi trong bóng tối không nhìn thấy gì.
“Thức ăn tởm lắm,” Boris tiếp. “Giá đỗ với bánh mì nướng cũ cứng ngắc kiểu gì ấy. Cứ tưởng sẽ có các em xinh tươi nhưng toàn các bà già tóc bạc béo ị.”
“Sao lại chỗ ấy?”
“Vì phố vắng vào buổi tối,” Victor Anh Đào đáp. “Quán cà phê ăn trưa đóng cửa lúc chiều tối, nhưng những chỗ không tên bán công khai sẽ dễ mất kiểm soát, hiểu không?”
Khắp xung quanh: xa lạ. Vô ý, tôi đã rời khỏi hiện thực, vượt ranh giới tiến vào một cõi vô chủ nào đó nơi không có gì có nghĩa. Mơ màng và vỡ vụn. Những bó dây thép cuộn và những chồng đá sỏi, vải ni-lông trùm bị thổi bạt đi.
Boris đang nói chuyện với Victor bằng tiếng Nga; nhận ra tôi đang nhìn, nó quay sang.
“Bọn tau chỉ đang nói là tối nay Sascha ở Frankfurt,” nó nói, “mở tiệc ở nhà hàng nào đó cho một đứa bạn vừa ra tù, và tất cả bọn tau đã nghe xác nhận từ ba nguồn khác nhau, Shirley nữa. Thằng chả nghĩ lánh cho xa là khôn lắm. Nếu tin đến tai Horst về vụ ở đây tối nay, nó có thể giơ tay lên trời thề thốt, tôi à, đâu có liên quan gì đâu.”
“Anh,” Victor nói với tôi, “anh làm ở New York. Tôi đã bảo rằng anh là một nhà buôn tranh từng bị bắt vì tội làm giả, và giờ đang chạy loại việc giống như Horst - tranh bé hơn, nhưng tiền to hơn.”
“Horst… cầu trời phù hộ lão,” Boris nói. “Horst sẽ giàu nhất nhì New York nếu không phải lão luôn cho đi đến đồng xu cuối cùng, Trước giờ vẫn vậy. Nuôi cả lố đứa đeo bám.”
“Rất tồi cho việc kinh doanh.”
“Ừa. Nhưng lão thích có bạn bầu vây quanh.”
“Nhà hảo tâm sái nghiện, ha,” Victor nói. Phát âm là shái nghiện. “May thay thỉnh thoảng chúng nó cũng chết bớt, không thì chẳng biết có bao nhiêu đứa dặt dẹo nhồi nhét vào trong cái xó ấy của ổng nữa. Dù saọ thì, vào đó anh nói càng ít càng tốt. Chúng không cần chuyện trò làm quen đâu. Đây hoàn toàn là công việc. Sẽ rất chóng. Đưa séc cho ảnh đi, Borya.”
Boris gắt lên gì đó bằng tiếng Ukraina.
“Không, phải để ảnh tự đưa ra. Bằng chính tay ảnh.”
Cả séc lẫn chi phiếu đều in dòng chữ “Farruco Frantisek, Ngân hàng công dân Anguilla”, chỉ càng đậm thêm cảm giác trong mơ, trôi trên một con đường ngày càng tăng tốc quá nhanh không cách gì kìm lại.
“Farruco Frantisek? Tôi là hắn à?” Trong hoàn cảnh này dường như đấy là một câu hỏi rất ý nghĩa - như là bằng cách nào đó tôi có thể tách khỏi thể xác mình, hay là ít nhất cũng đã vượt qua một ranh giới nào đó, tiến vào cõi được giải phóng khỏi cả những chi tiết cơ bản nhất, như là nhân thân.
“Tau không chọn tên. Tau lấy được gì thì phải nhận cái đó thôi.”
“Vậy tao sẽ tự giới thiệu bằng tên đó hả?” Giấy in séc có gì đó không ổn, nó quá mỏng nhẽo, tên ngân hàng in bằng một kiểu chữ rất quê mùa.
“Không, Anh Đào sẽ giới thiệu mi.”
Farruco Frantisek. Tôi thử nhẩm cái tên ấy trong đầu, uốn lưỡi tìm cách phát âm. Một cái tên khó nhớ, nhưng nó cũng đủ mạnh, đủ xa lạ để truyền đạt cái đậm đặc quá độ lạc lối giữa không gian của những đường phố tối đen, những đường ray xe điện, sỏi lát đường, thiên thần bằng đèn nê ông - giờ đã về lại khu phố cổ, chứa đầy lịch sử, thăm thẳm không thấu, những kênh và trụ khóa xe đạp và đèn đóm Giáng sinh run rẩy trên mặt nước đen.
“Thế lúc nào anh mới định cho ảnh biết?” Victor Anh Đào đang hỏi Boris. “Ảnh cần biết tên mình là gì chứ.”
“Giờ nó biết rồi đấy thôi.”
Những đường phố không tên, những rẽ ngoặt không lường, những khoảng cách không định dạng. Tôi đã thôi không buồn tìm cách đọc biển đường hay cố nhớ xem vừa đi qua đâu nữa. Giữa toàn bộ những gì bao quanh tôi - toàn bộ những gì tôi thấy - mốc duy nhất là mặt trăng, đang ở tít trên trời cao hơn những đám mây, dù đang tròn đầy và rất sáng nhưng vẫn có vẻ bất ổn một cách kỳ quặc thế nào đó, không trọng lượng, không phải cái vầng trăng trinh khiết đã neo giữ tôi trong sa mạc mà đúng hơn như một mánh khóe của nhà ảo thuật, chỉ cần hắn ta nháy mắt là đột hiện, hoặc là trôi biến đi khuất tầm mắt trong màn đêm.
IX
CON BÒ TÍA nằm trên con phố một chiều vắng người đi chỉ vừa đủ chỗ cho một thân xe qua. Mọi hàng họ xung quanh - hiệu thuốc, tiệm bánh, cửa hàng xế đạp - đã khóa kỹ, ngoại trừ một nhà hàng Indonesia tít đầu kia phố. Shirley Temple thả chúng tôi trước quán. Tường bên kia vẽ đầy graffiti: mặt cười, mũi tên, Nguy Hiểm: Phóng Xạ, tia chớp vẽ chì với chữ Shazam, các chữ cái lối phim kinh dị chảy ròng ròng xuống, lịch sự đi!
Tôi nhìn vào trong quán qua cửa kính. Quán dài và hẹp, thoạt nhìn tưởng không có ai. Tường màu tím đỏ; đèn trần bằng kính màu, bàn ghế không đồng bộ sơn những màu vườn trẻ và ánh sáng rất yếu, trừ một khu vực quầy cạnh bếp nướng và tủ mát lắp đèn sáng ở trong cùng. Cây cảnh quặt quẹo, tấm ảnh đen trắng John và Yoko Lennon có chữ kỷ, bảng tin chi chít những tờ rơi và tờ quảng cáo lớp thiền theo nhóm satsang và yoga cùng đủ phương thức tu luyện tâm linh khác nữa. Chiếm trọn tường là tranh vẽ bộ ẩn Tarot và trên cửa sổ, một thực đơn in đen trắng oặt oẹo liệt kê một mớ đồ ăn có lợi cho sức khỏe kiểu Everett: súp-cà-rốt, súp-tầm-ma, tầm-ma-nghiền, bánh-hạt-dẻ-đậu-lăng - chẳng có gì đáng thèm cả, nhưng cũng khiến tôi nhớ ra rằng bữa ăn đàng hoàng tử tế chứ không phải cắn miếng rồi chạy cuối cùng của mình là món cà ri gọi về ăn trên giường nhà Kitsey.
Boris thấy tôi nhìn. “Tau cũng đói rồi” nó nói có phần trịnh trọng. “Chúng mình sẽ đi ăn một bữa thực ra trò cùng nhau. Ở Blake. Hai mươi phút.”
“Mày không vào à?”
“Chưa.”