← Quay lại trang sách

Chương 3 Hình thù của sức mạnh

SAU KHI CHIẾC SEEKER rời bến 20 phút, những ánh điện cuối cùng của bờ biển New Jersey chìm khuất sau chân trời ghi thẫm. Hệ thống đèn tín hiệu trên thuyền: trắng trên cột, đỏ mạn trái, xanh mạn phải để báo hiệu “có thuyền cơ giới đang di chuyển” giờ là bằng chứng duy nhất về sự tồn tại của 14 con người trong ván bài này.

Trong buồng lái, Nagle và Chatterton bật chế độ lái tự động. Phải sáu tiếng nữa Seeker mới tới tọa độ đích. Ở cabin chính bên dưới, đám khách cởi đồ và leo lên những giường tầng gỗ na ná giường bệnh xá xếp dàn xung quanh khoang. Đa số nhanh chóng tìm cho mình một chỗ thoải mái. Người nào cũng trải chăn hoặc túi ngủ ra giường, chẳng ai dám để da trần tiếp xúc với những tấm lót phòng gym mà Seeker dùng làm đệm. Ở biển không thiếu những mùi hương mơ mộng, nhưng một chiếc đệm đã nhiều năm thẩm thấu mồ hôi mặn của vô số thợ lặn không nằm trong số đó.

Đêm đó, khi Nagle và Chatterton làm việc trong buồng lái, những thợ lặn còn lại ngủ trong cabin chính. Họ là:

− Dick Shoe: 49 tuổi, đến từ Palmyra, New Jersey, cán bộ quản lý phòng thí nghiệm vật lý plasma của đại học Princeton;

− Kip Cochran: 41 tuổi, đến từ Trenton, New Jersey, cảnh sát;

− Steve Feldman: 44 tuổi, đến từ Manhattan, nhân viên hậu đài ở CBS;

− Paul Skibinski: 37 tuổi, đến từ Piscataway. New Jersey, nhà thầu nạo vét;

− Ron Ostrowski: không rõ tuổi, không thông tin cá nhân;

− Doug Roberts:29 tuổi, đến từ Monmouth Beach (bang New Jersey), chủ kinh doanh mỹ phẩm;

− Lloyd Garrick: 35 tuổi, đến từ Yardley, Pennsylvania, nhà nghiên cứu hóa học;

− Kevin Brennan: 30 tuổi, đến từ Bradley Beach, New Jersey, thợ lặn chuyên nghiệp;

− John Hildemann: 27 tuổi, đến từ Cranford, New Jersey, chủ công ty nạo vét;

− John Yurga: 27 tuổi, đến từ Garfield, New Jersey, quản lý cửa hàng đồ lặn;

− Mark McMahon: 35 tuổi, đến từ Florham Park, New Jersey, thợ lặn chuyên nghiệp;

− Steve Lombardo: 41 tuổi, ở Staten Island, New York, bác sĩ.

Vài người trong số này đăng ký theo cặp và dự định lặn cùng nhau: Shoe với Cochran, Feldman với Skibinski, Ostrowski với Roberts, McMahon với Yurga. Những người khác muốn lặn đơn, chủ yếu vì lý do an toàn: một bạn lặn sẽ không hoảng loạn và giết bạn, họ lập luận, nếu đó là bạn lặn của người khác. Đa số đã biết nhau từ những chuyến lặn thám hiểm trước, hoặc chí ít đã nghe danh. Tất cả từng tìm kiếm những “tọa độ bí ẩn”. Với những nỗ lực ấy, tổng cộng họ đã phát hiện được một số sà lan chở rác và dăm ba mỏm đá.

Đại Tây Dương đêm ấy rất thuận. Gần bình minh, tín hiệu loran cho biết thuyền cách đích tầm 800 m. Nagle tắt chế độ lái tự động, giảm tiết lưu động cơ diezen kép và quay về phía máy dò đáy.

Trong cabin chính, thợ lặn lục đục tỉnh giấc. Sự im ắng đột ngột của động cơ là chuông báo thức với những con người hăng hái.

Nagle dịch thuyền tới gần tọa độ. Một vật thể xuất hiện trên màn hình điện tử của máy dò đáy.

“Có cái gì đó ở tọa độ” Nagle gọi Chatterton.

“Ờ, tôi có thấy” Chatterton đáp. “Trông như một con tàu nằm nghiêng.”

“Trời ạ, John, trông nó phải sâu hơn 60 mét. Tôi sẽ cho thuyền lướt qua mấy vòng để nhìn cho rõ.”

Nagle đánh bánh lái sang trái, quặt đuôi thuyền về phải, vòng thuyền lại để đi qua vật lạ lần thứ hai, rồi lần thứ ba, lần thứ tư, theo lời họ nói là “xén cỏ”. Đồng thời anh quan sát vật lạ dưới đáy đại dương ẩn hiện trên màn hình. Ở một chỗ, máy đo cho thấy vật lạ ở độ sâu 70 mét, có chỗ lại là 80 mét. Brennan, Yurga và Hildemann leo lên buồng lái.

“Chúng ta có gì thế Bill?” Yurga hỏi.

“Thứ này sâu hơn tôi dự đoán” Nagle bảo họ. “Và là cái gì thì nó cũng sâu, không nhiều chênh lệch cao độ. Tôi nghĩ sẽ phải lặn khoảng 70 mét đấy.”

Không thợ lặn nào có kinh nghiệm lặn 70 mét vào năm 1991. Kể cả những người đủ dũng khí để thách thức Andrea Doria cũng hầu như chưa bao giờ tới đáy tàu, ở độ sâu 75 mét. Đa số loanh quanh trên đỉnh xác tàu, sâu khoảng 55 mét, tay lặn nào cừ lắm thì thử xuống độ sâu 70 mét mỗi năm một đôi lần. Nhưng Nagle khẳng định khối lạ trên máy dò đáy của anh sâu 70 mét. Tệ hơn, dường như nó chỉ nhô lên tầm chín mét so với đáy cát.

Chatterton có thể lặn 70 mét. Anh và Nagle lên phương án. Brennan và Hildemann sẽ quăng neo. Chatterton sẽ xuống xem có gì dưới đáy. Nếu đáng để lặn và độ sâu vừa phải, anh sẽ buộc dây neo. Nếu chỉ là một cái sà lan hoặc một mỏm đá vớ vẩn, hoặc nếu độ sâu lên tới 85 mét, anh sẽ tháo mỏ neo và quay lên mặt nước giải tán cuộc lặn. Nagle nhất trí.

Lúc này, các thợ lặn khác đã có mặt trên boong thuyền bên dưới buồng lái, chờ phán quyết. Nagle mở cửa bước ra và nhô người khỏi lan can.

“Nghe này các gái, tôi thấy như sau: Thứ dưới đó phải sâu 65 tới 70 mét và nó nằm dẹp. Tầm cỡ Doria, có khi khó hơn. John sẽ xuống trước kiểm tra. Nếu chỉ là sà lan chở rác thì chúng ta sẽ mặc kệ, cái của nợ này quá sâu chỉ để lặn thăm sà lan. Nếu nó là cái gì đó xứng tầm và không sâu chết người, chúng ta sẽ xuống. Thế nào thì cũng phải đợi John. Không ai xuống cho đến khi John duyệt.”

Chatterton lấy đồ nghề ở boong sau và bắt đầu trang bị trong khi Nagle tìm cách móc neo vào mục tiêu. Khi neo đã móc, Nagle tắt động cơ. Seeker và vật lạ dưới đáy biển đã nối với nhau. Nagle leo xuống boong sau khi Chatterton đang kiểm tra dụng cụ lần cuối. Không lâu sau, tất cả đã tập trung quanh bàn thay đồ. Chatterton chỉ đạo lần cuối.

“Cho tôi sáu phút, sau đó thả chùng” anh bảo Nagle. “Thế là đủ để tôi xuống và nhìn quanh. Nếu không có gì đáng quan tâm hoặc quá sâu, tôi sẽ thả hai cái ly. Thấy hai ly tức là tôi không buộc dây, anh kéo móc lên và tôi sẽ bám theo. Nếu tôi chỉ thả một ly, cái đó đáng để lặn và không sâu lắm. Thấy một ly, anh thu phần chùng vì tôi đã buộc rồi.”

Chatterton quay ra những người còn lại.

“Để an toàn, đảm bảo không có vấn đề gì, không ai được vỡ nước cho đến khi tôi giảm áp xong và quay lại boong thông tin. Tất cả đồng ý chứ?”

Các thợ lặn gật đầu. Chatterton bước ra rìa thuyền, đặt bộ điều áp vào miệng, kéo mặt nạ lên và kiểm tra đồng hồ. Sáu phút, Nagle nhìn đồng hồ. Sáu phút. Anh quay về buồng lái, tắt hệ thống loran, giấu các biểu đồ trên giấy in nhiệt từ máy dò đáy vào ngăn kéo. Anh có thiện cảm với những người kia; họ là khách hàng và bạn hữu.

Nhưng anh không thể để lộ tọa độ với bất cứ ai. Yurga, Brennan và Hildemann quay lại mũi thuyền. Chatterton quỳ trên lan can và lăn nghiêng xuống biển.

Chatterton bơi sát mặt nước tới dây neo, nắm dây và xả một chút khí khỏi bóng nổi để giảm sức nổi. Dòng biển bắt đầu xoắn và kéo, không chỉ theo một hướng mà uốn dây neo thành hình chữ S. Chatterton phải nắm chặt dây và tự kéo mình xuống bằng cả hai tay để không bị cuốn trôi.

Ở điều kiện bình thường, Chatterton sẽ mất hai phút để xuống. Nhưng ở đây, năm phút sau khi tiếp nước, Chatterton vẫn chật vật. “Mình đang bị hành và họ sẽ thả chùng trước khi mình kịp đáp” anh lầm bầm. Khi đồng hồ điểm sáu phút, anh đáp xuống một khối kim loại nằm gần đáy cát. Những hạt trắng trôi ngang qua mắt anh trong làn nước xanh thẫm cuộn xoắn, trông như tuyết Giáng sinh vào tháng chín. Với tầm nhìn vỏn vẹn mét rưỡi, anh chỉ có thể nhìn thấy những gỉ sét trên bề mặt kim loại cùng lan can cong và góc bo tròn phía trên, một dáng thuôn khá lạ với một sà lan, anh nghĩ. Nhưng ít nhất không phải mỏm đá. Chatterton nhìn máy đo độ sâu: 66 mét. Nền cát bên dưới có vẻ sâu 70 mét, độ sâu tối đa mà mấy tay trên kia có thể lặn. Anh tìm đỉnh cao để buộc dây và phát hiện cái gì đó trông như cột chống nhô ra ở độ sâu 65 mét. Dây chùng được thả xuống, may mà vẫn đến được chỗ của anh qua những tầng nước xoắn. Chatterton gỡ móc, bơi tới cột chống và buộc móc cùng sợi xích dài 4,5 mét cho thật chặt. Anh lấy một chiếc ly xốp trắng từ túi đồ và thả lên. Chuyến lặn đã được duyệt.

Trên Seeker, đoàn thợ lặn đứng ở mũi thuyền quan sát những con sóng. Khi tín hiệu của Chatterton nổi lên, Yurga lao vào bếp thuyền và mở toang cửa.

“Một ly!” Yurga hét. “Chúng ta sẽ lặn!”

Đoàn thủy thủ thu phần chùng của dây neo, cuộn chặt nó vào cột neo chữ thập và gia nhập nhóm lặn trên boong sau của Seeker. Có khả năng Chatterton sẽ ở dưới đáy 20 phút, nghĩa là sẽ mất một giờ giảm áp. Không ai lấy thiết bị của mình. Tất cả chờ Chatterton.

Ở đáy đại dương, Chatterton kẹp một đèn chớp vào xích của dây neo. Những vụn trắng vẫn phóng ào ào ngang qua đại dương xanh thẳm, làm giảm tầm nhìn của Chatterton xuống không quá ba mét. Trong ánh sáng đèn đội đầu, Chatterton có thể xác định được hình thù đại khái của vỏ tàu. Nhưng vỏ này có một vẻ thoai thoải mềm mại, dường như được thiết kế không phải để chở hàng hay tiếp tế mà để trượt trong nước. Ở độ sâu hơn 60 mét, anh tới phần trên cùng của xác tàu và bắt đầu bơi ngược dòng về trước, vẫn cẩn thận bám vào xác tàu bên dưới để không bị cuốn trôi. Cứ mỗi mét di chuyển, một hình ảnh khác của xác tàu lại hiện lên trong ánh đèn, thay thế cho hình ảnh cũ. Chuyến thăm dò của Chatterton vì thế giống với xem slide show hơn là một bộ phim. Anh di chuyển chậm rãi để phân tích mọi hình ảnh. Phần lớn xác tàu bị bao phủ bởi hải quỳ trắng và cam, che mờ hình dạng thực của tàu. Mấy giây sau, Chatterton bơi tới một khu đầy những ống cong gỉ, một mớ bòng bong dây cáp diện bị xén đột ngột. Bên dưới mớ thiết bị hỏng này là bốn trụ còn nguyên vẹn chốt vào thân tàu, mỗi trụ dài gần hai mét.

“Đây là những cái ống” Chatterton nghĩ. “Đây là một sà lan ống. Hừm, chắc là tàu chở dầu hay sà lan chở bùn cống.”

Chatterton đi dọc trên xác tàu. Cơn say nitơ bắt đầu râm ran trong óc. Vài giây sau, anh nhìn thấy một cửa sập. Anh dừng lại. Sà lan không có cửa như thế này. Anh bơi lại gần. Cửa ăn vào thân tàu theo góc chéo. Thường thì cửa sập không đi chéo như vậy. Với chức năng đưa con người và vật phẩm vào tàu, chúng sẽ đi vuông góc. Ai lại xây cửa sập đi chéo nhỉ? Chatterton thò đầu vào trong cửa. Bên trong tàu sáng lên dưới ánh đèn đội đầu. Đây là một phòng, anh chắc chắn vậy vì các bức tường vẫn còn đây. Một con cá với bộ mặt bè và râu chĩa ra bơi qua mặt nạ của Chatterton với vẻ giật mình, thoáng nhìn vào mắt anh rồi quay ngoắt vào trong xác tàu và biến mất. Tầm nhìn tuyệt hảo trong không gian kín không bị ảnh hưởng bởi bụi đại dương này. Có cái gì đó dựa vào vách. Chatterton bất động và cố nhìn cho rõ. “Hình thù này…” anh nghĩ, “không giống với bất kỳ hình nào khác trên đời.” Tim Chatterton đập thình thịch. Phải chăng anh đang có ảo giác? Hay là anh say nitơ nặng hơn anh tưởng? Anh nhắm mắt rồi nhìn lại lần nữa. Vật kia vẫn ở đó.

Vây. Chân vịt. Thân hình điếu xì gà. Một hình thù đi ra từ phim ảnh và sách truyện kinh dị. Một hình thù tàn dư của tưởng tượng ấu thơ. Hình thù của sức mạnh.

Một quả ngư lôi.

Một quả ngư lôi hoàn chỉnh, nguyên vẹn.

Cả người Chatterton căng lên. Anh bắt đầu tự nói chuyện với chính mình, một phần để kiểm tra mức độ say nitơ, phần khác vì cảnh tượng này quá khả năng đối mặt một mình.

“Mình say rồi” anh nói với bản thân. “Mình đang ở độ sâu 67 mét. Mình kiệt sức vì chống cự dòng biển. Có thể mình đang bị ảo giác.”

“Cậu đang ở trên một tàu ngầm” bản thân anh đáp.

“Không có chiếc tàu ngầm nào ở phần biển này. Mình có sách. Mình đã đọc sách. Không có tàu ngầm nào ở đây hết. Không thể.”

“Cậu đang ở trên một chiếc tàu ngầm.” “Mình say rồi.”

“Không có hình nào khác tương tự quả ngư lôi đó cả. Nhớ những cạnh bo tròn cậu thấy trên vỏ tàu, trông như để trượt trong nước không? Tàu ngầm. Cậu vừa khám phá ra một chiếc tàu ngầm.”

“Đây sẽ là một cuộc lặn lớn.”

“Không, John ạ, đây hơn cả một cuộc lặn lớn. Đây là thánh tích.”

Chatterton rút đầu khỏi cửa. Một phút trước anh còn không có ý niệm gì về vị trí của mình trên con tàu, giờ quả ngư lôi đã thành cây đèn biển. Anh biết tàu ngầm phóng lôi từ hai đầu. Điều đó nghĩa là anh ở gần đuôi tàu hoặc mũi tàu. Quả ngư lôi chỉ về hướng chảy của dòng biển. Nếu buông tay và trôi theo dòng biển, anh sẽ nhanh chóng tới đầu còn lại của xác tàu. Lúc đó, anh có thể dễ dàng xác định đâu là mũi, đâu là đuôi. Khi anh thả tay ra, dòng biển đột nhiên như thức tỉnh và gầm lên. Dường như đến từ chính con tàu, tiếng động đầy phẫn nộ từ một cỗ máy tỉnh dậy sau giấc ngủ dài. Dòng biển lôi Chatterton qua dây neo, bắn anh về đầu kia của xác tàu. Thêm một giây nữa là anh văng vào vực thẳm. Theo bản năng, anh với tay ra. Cái gì đó cứng rắn đụng vào tay anh. Chatterton nắm được một thanh kim loại bẻ cong ở đỉnh xác tàu. Vượt quá thanh kim loại đó là đại dương và bùn cát. Anh thở sâu, lấy lại cân bằng. Trước mặt anh là đầu kia của con tàu.

Chatterton từng nhìn thấy tàu ngầm trên ảnh. Mũi tàu tù, vát về phía dưới và phía sau, trong khi đuôi tàu thuôn và vát lên phía trên để dành chỗ cho chân vịt và bánh lái phía dưới. Đây là mũi tàu. Đây là mũi của một chiếc tàu ngầm.

Anh nhìn kỹ hơn đám hà bám trên xác tàu và sự hoen gỉ của vỏ kim loại bên dưới. Không thể nhầm lẫn về tuổi của nó: chiếc tàu ngầm này đến từ thời Thế Chiến II. Anh biết từ sách vở rằng không có tàu ngầm Hoa Kỳ nào chìm ở khu vực này. Anh nhìn lại xác tàu. Trong một khoảnh khắc anh không dám đi đến kết luận. Nhưng không có gì để bàn cãi nữa. “Mình đang bám vào một chiếc U-boat” Chatterton nói thành lời. “Mình đang bám vào một chiếc U-boat của Đức thời Thế Chiến II.”

Đến lúc này, Chatterton đã hết thời gian 20 phút ở đáy. Anh bơi về phía đèn chớp đã cài vào dây neo, bám sát xác tàu để tránh dòng biển giận dữ. Trong khi bơi, anh nhìn cạnh bo tròn của con tàu mở ra trước mắt − những đường cong tinh tế được thiết kế để di chuyển kín đáo, những đường cong toát lên biết bao bí mật.

Đã đến lúc Chatterton phải lên. Chặng dừng giảm áp đầu tiên của anh là ở độ sâu 18 mét. Trên đường đi lên, cơn say hạ dần, anh tranh cãi với bản thân. “Biết đâu cái mình thấy không phải là ngư lôi.

Biết đâu nó chỉ là một cái quạt bên trong một chiếc sà lan ống. Những người lặn 70 mét thường hay nói những điều nhảm nhí và mình sẽ là một trong số những người như vậy.” Nhưng anh biết rõ. Anh kiểm soát được tình trạng say nitơ. Đấy là một quả ngư lôi và đấy là mũi của một chiếc U-boat.

Chatterton dừng lần đầu ở 18 mét. Nước ấm và sáng. Những tàn dư say nitơ cuối cùng đã biến mất. Hình ảnh quả ngư lôi phập phồng trong tâm trí. Catalô tàu ngầm anh đã nghiên cứu trong quá khứ hiện lên rõ ràng trong óc. Không có chiếc nào ở khu này. Phải chăng có đoàn thủy thủ trên tàu? Phải chăng đây là một chiếc U-boat đi kèm đoàn thủy thủ mà trên thế giới này không ai biết trừ anh? Thật hoang tưởng. Và tại sao con tàu lại ở vùng biển New Jersey?

Chatterton lên tới độ sâu 12 mét và bắt đầu chặng dừng thứ hai. Ở đó anh nhớ lại một giấc mơ anh từng có nhiều năm trước về chuyện tìm thấy một chiếc tàu ngầm bí ẩn. Trong mơ, tàu ngầm anh phát hiện ra là của Nga và đoàn thủy thủ vẫn ở trong tàu. Một giấc mơ huy hoàng, nhưng anh nhớ nhất là việc anh đã lập tức biết rằng đây là mơ và ngay khi tỉnh giấc anh đã hiểu một chuyện tuyệt vời như thế không bao giờ xảy ra ngoài đời thực.

Chatterton lên tới độ sâu chín mét và bắt đầu một bước dừng nữa. Anh sẽ cần 25 phút giảm áp trước khi có thể trồi lên mặt nước và báo lại cho đoàn những gì anh tìm được. Trên kia, các thợ lặn dõi theo những bong bóng khí của Chatterton nổi lên dọc dây neo. Họ phải chờ anh ngoi lên mặt nước.

“Tôi hồi hộp đến chết mất” Brennan nói với những người khác. “Tôi phải làm gì đó.”

Với mái tóc dài, bộ ria mép kiểu Fu Manchu và phong thái thủng thẳng, Brennan hẳn sẽ bị lầm tưởng là một quản lý lưu diễn cho nhóm nhạc Grateful Dead nếu anh không phải là một thợ lặn hết sức tỉ mỉ. Trong khi tất cả những người khác trên chiếc Seeker hôm đó dùng bộ đồ lặn khô hiện đại có khả năng cách nhiệt tốt trong môi trường 4°C ở đáy Đại Tây Dương, Brennan vẫn trung thành với bộ đồ lặn ướt chắp vá, xơ xác, tráng nhựa epoxy mà anh vẫn mặc để vớt xe điện bị chìm và sửa bể bơi trong dinh thự nhà giàu. Với tinh thần trách nhiệm, những thợ lặn khác vùi dập Brennan vì bộ đồ cổ đại ấy. “Kevin này” họ nói, “bộ đó từ thời đồ đá hay thời khủng long thế?”

“Các ông muốn được ấm cúng” Brennan vặc lại. “Còn tôi mặc bộ này tới Doria. Doria đấy! Tôi cơ động trong bộ đồ này hơn tất cả các ông cộng lại. Và mẹ kiếp, nếu tôi thích thì tôi cứ đái thôi. Thằng nào mặc bộ lặn khô thằng ấy phải nhịn. Kệ mẹ nó… tôi cứ đái!”

Những người khác nghe lời giải thích thì lắc đầu. Nhiệt độ ở Doria là 4°. Mặc bộ lặn ướt khác quái gì mặc áo thun. Nhưng rồi Brennan sẽ ngoi lên sau 90 phút trong nhiệt độ ấy, tay nắm một chiến lợi phẩm số dzách hay một con tôm hùm béo núc. Anh ngoác miệng cười khi cởi bộ lặn ướt giẻ rách ấy, hết lần lặn thành công này đến lần khác, dường như trong Brennan có ít máu Houdini16*.

Khi bong bóng từ Chatterton vẫn tiếp tục dâng lên theo dây neo, Brennan mặc bộ đồ tối giản đã thành thương hiệu. Anh không thích chất lên người thiết bị dự phòng và phụ tùng tân tiến; những gã đó trông chẳng khác gì cây thông Nô-en. Với Brennan, mang càng ít thì càng ít sự cố. Và càng có thể vỡ nước nhanh khi không thể chịu đựng nỗi hồi hộp thêm nữa.

Trong vài phút, Brennan đã lộn qua thành Seeker. Mấy giây sau anh gặp Chatterton vẫn đang giảm áp và cố xếp chỗ trong não bộ cho khám phá kỳ diệu của mình. Brennan vỗ vai làm Chatterton giật mình, rồi giơ bàn tay lên và nhún vai, ký hiệu ai cũng hiểu là “Gì thế?” Chatterton lấy ra bảng viết và bút chì từ túi đồ, rồi nghuệch ngoạc một từ duy nhất choán hết bảng với nét đậm nhất có thể. Từ đó là “NGẦM”.

Brennan bất động một thoáng, rồi anh bắt đầu hét qua bộ điều áp. Âm thanh thoát ra như thể đi qua hai lớp gối, nhưng vẫn hiểu được.

“Anh có đùa không, John? Chắc không? Thật không?”

Chatterton gật đầu.

Brennan hét: “Ôi trời! Ôi mẹ ơi! Ôi Chúa ơi!”

Brennan có thể lặn thẳng xuống và một mình khám phá chiếc tàu ngầm, nhưng đây không phải là kiểu thông tin mà người tử tế nên giấu giếm. Anh bắn ngược lên mặt nước dọc dây neo và giật bộ điều áp khỏi miệng.

“Này Bill, Bill!” Anh gọi Nagle vẫn ở trong buồng lái. Nagle xông ra ngoài, nghĩ rằng Brennan gặp chuyện. Thợ lặn không nổi lên và la hét sau một phút dưới nước trừ phi gặp chuyện.

“Chuyện quái gì xảy ra thế, Kevin?” Nagle gọi.

“Này Bill, Bill! Nghe này: John nói đó là một chiếc tàu ngầm!”

Nagle không cần nghe gì thêm. Anh chạy xuống thang và tập hợp những thợ lặn còn lại.

“Chatterton nói đó là tàu ngầm.”

Trước thời điểm ấy, nhiều thợ lặn vẫn hoài nghi trong thâm tâm chuyện thăm dò xác tàu mới ở độ sâu 70 mét. Từ tàu ngầm làm toàn bộ băn khoăn tan biến. Họ ào ào lên đồ. Chỉ Nagle, do sức khỏe bị chứng nghiện rượu hủy hoại nên không thể lặn sâu chừng ấy nữa, là ở lại. Trên dây neo, Brennan nhét bộ điều áp vào miệng và quay xuống, ra hiệu “Được đấy!” khi đi qua Chatterton. Vài phút sau, khi Chatterton lên tới bước dừng sáu mét, 11 thợ lặn khác đi qua anh trên chuyến diễu hành cấp tốc tới xác tàu mới toanh. Chatterton chưa có cơ hội báo cho nhóm người đó về hiểm nguy hoặc độ sâu của xác tàu, nhưng nếu muốn họ không lặn ngày hôm đó thì anh sẽ phải nói dối và Chatterton đã không nói dối. Con tàu sâu 70 mét ở điểm thấp nhất trên nền cát và 65 mét ở điểm cao nhất, giới hạn trên về năng lực của một chục thợ lặn choáng ngợp với cơ hội.

Cuối cùng Chatterton cũng giảm áp xong, anh bơi dưới Seeker và leo lên chiếc thang nhôm ở đuôi thuyền. Nagle tựa vào lan can sau chờ đàn em tháo mặt nạ và ngồi vào bàn thay đồ. Jim Beam đã mài mòn cơ bắp và phản xạ và bắt đầu đem sắc vàng lên da anh, nhưng tâm hồn nhà thám hiểm trong anh vẫn nguyên vẹn, phần hồn vẫn tin rằng cái thế giới sặc mùi rượu này vẫn ẩn chứa những câu chuyện đẹp đẽ. Anh bước tới chỗ Chatterton, tay giơ lên mặt để che nắng và gật đầu với bạn. Anh muốn nói gì đó xứng tầm vì hôm nay là ngày mà những người như anh và Chatterton hằng mơ về. Nhưng hai người chỉ nhìn nhau.

“Tôi nghe nói là chúng ta đã thành công” Nagle cuối cùng cũng mở lời.

“Đúng thế, Bill” Chatterton nói, vỗ vai bạn mình. “Chúng ta đã thành công.”

Trong một phút, Nagle chỉ có thể lắc đầu và nói “Mẹ kiếp!” Mọi thớ cơ trong cơ thể suy yếu của anh mong về đại dương như cây xanh mong ánh Mặt trời. Anh chưa bao giờ khao khát được vỡ nước nhường này. Đã lâu rồi anh không còn mang đồ lặn lên thuyền. Nhưng khi nhìn Chatterton, tâm trí anh đã ở dưới nước.

“Kể cho tôi nghe nào John” Nagle nói. “Kể cho tôi tất cả mọi thứ. Mọi chi tiết, mọi điều cậu nhìn thấy, sờ thấy, nghe thấy.”

Trước khoảnh khắc này, Chatterton chưa bao giờ kể cho Nagle điều gì mới mẻ. Dù Chatterton có bao đột phá trên Doria và những xác tàu lừng danh khác, Nagle đều đã làm trước và điều này thôi thúc Chatterton đi xa hơn, sâu hơn, để một ngày đến được nơi mà ngay cả Bill Nagle vĩ đại chưa từng tới. Ngày ấy đã tới, Chatterton có thể cảm nhận trong con mắt mở tròn của Nagle. Anh kể cho Nagle tất cả.

Khi Chatterton nói xong, anh nghĩ Nagle sẽ hỏi những chuyện mang tính chuyên môn, ví dụ như mức độ phân hủy kim loại của tàu hay bùn tích lũy bên trong khoang ngư lôi. Nhưng Nagle nói: “Chiếc tàu ngầm này có thể làm tôi thay đổi. Nó có thể mang lại động lực và sức khỏe cho tôi. Đây là thứ sẽ đưa tôi trở lại.”

Trong khi Nagle giúp Chatterton tháo đồ, những thợ lặn khác bắt đầu chuyến khám phá ở độ sâu 70 mét. Dòng biển đã giảm xiết sau khi Chatterton rời đi, cho phép ai muốn có thể bơi dọc theo vỏ tàu mà không lo kiệt sức.

Ostrowski và Roberts nghiên cứu hình dạng con tàu và độ phẳng của boong tàu trên đỉnh. Cả hai đều kết luận đây là tàu ngầm. Cặp đôi bơi chậm rãi dọc trên đỉnh xác tàu, cẩn trọng không để sự hưng phấn làm tăng nhịp thở, không hề biết họ đang đi về mũi hay đi về đuôi. Họ sớm đụng độ một cái lỗ trên vỏ thép của tàu, trông như bị bắn từ bên ngoài. Thép không tự nhiên mà cong như vậy. Họ ngó vào trong, ánh đèn soi rọi một vườn thú đầy những ống gãy, máy móc, van, công tắc. Họ nghển cổ lên trên và chiếu sáng những ổ cáp điện treo trên trần. Nhịp thở tăng lên. Căn phòng này có thể chứa đựng cả lịch sử. Bơi nhanh vào rồi bơi nhanh ra là có thể định danh con tàu. Cả hai đều không dám vào. Căn phòng này có thể có đáp án, nhưng cũng có cả trăm cách giết chết tay lặn tò mò.

Shoe và Cochran nhìn hình xì gà của xác tàu và nghiên cứu mức phân hủy của nó. Mỗi người đều đã có kinh nghiệm lặn xác tàu thời Thế Chiến II và họ thấy độ hư hại của con tàu này cũng tương tự. Hai người dành phần lớn thời gian lặn để tháo một cái van mà Cochran quan tâm, nhưng nó không chịu rời ra.

Hildemann lặn đơn thì cảm thấy thật khó tin rằng thứ dưới chân anh là tàu ngầm. Nhưng anh đổi ý khi tới gần mũi tàu, cách nền cát khoảng ba mét, nơi anh thấy một ống dài, hẹp đi vào trong thân tàu. Anh đã đọc sách về tàu ngầm. Đây là ống phóng lôi − đường dẫn ngư lôi ra đại dương.

Skibinski và Feldman di chuyển cách xác tàu hơn chục mét để nhìn bao quát hơn, một quyết định táo bạo ở độ sâu và tầm nhìn ấy. Họ nhìn nhau và gật đầu: tàu ngầm. Họ bơi về đèn chớp đã cài ở dây neo. Cả hai từng lặn ở Tháp Texas, một trong những phế tích tối tăm nhất miền đông bắc. Xác tàu này còn tối hơn. Họ giữ khoảng cách gần với đèn chớp.

McMahon và Yurga ở phía trên xác tàu. Họ cũng nhận ra dáng thuôn khí động này thuộc về một chiếc tàu ngầm. Khi đi lên, Yurga phát hiện cửa thoát nước ở vỏ tàu, cấu phần trung tâm trong hệ thống lặn của tàu ngầm. Một phút sau, Yurga bắt gặp cửa sập mà Chatterton đã thấy. Anh thò đầu và rọi đèn vào trong. Anh cũng nhìn thấy vây đuôi và chân vịt của thứ vũ khí tai tiếng nhất lịch sử trên biển. Hai người khao khát được đi sâu hơn, nhưng họ đã thống nhất với nhau từ trên thuyền rằng ở độ sâu này, ưu tiên trên hết là giữ cự ly gần với dây neo để đảm bảo cả hai đều sống sót. Yurga túm lấy một con tôm hùm và cùng McMahon quay trở lại thuyền lặn.

Brennan là người đầu tiên tới nơi sau Chatterton. Anh dịch từng phân trong dòng biển đến khi tới chỗ mà anh nhận ra là mũi thuyền. Anh để mình trôi tiếp tới khi cách xác thuyền sáu mét, rồi quay lại đối mặt với mũi tàu. Anh xả bớt khí từ bóng nổi và chậm rãi hạ xuống nền cát, tiếp đáy bằng đầu gối. Anh quỳ ở đó như một con chiên, lòng tràn đầy tôn kính trước tạo vật kỳ vĩ, độc tôn này. Dòng biển bắt đầu hú hét, nhưng Brennan bất động trong cát, bộ dạng sững sờ.

“Không thể tin được,” anh nghĩ. “Mình biết đây là một chiếc U-boat. Mình biết nó là đồ Đức. Nhìn nó xem! Nó đang lao vào mình, như cảnh mở đầu của Das Boot17*. Mình còn nghe nhạc phim văng vẳng.”

Đằng sau sự kinh ngạc và cơn say nitơ, một giọng nói vẫn cất lên trong Brennan nhắc anh nhớ về dòng biển. Anh bơi về, vật lộn với dòng nước bằng từng cú đá chân cho tới khi nắm được dây neo, ngây ngất say, hổn hển thở, hoa mắt váng mày. “Mình sẽ không bao giờ bỏ cái xác tàu đó nữa” anh tự hứa. Rồi anh bắt đầu hành trình trở về Seeker.

Từ năm 1939 đến 1945, Đức xây dựng lực lượng 1.167 chiếc U-boat. Mỗi tàu, với khả năng phục kích vô hình, trở thành hiện thân hoàn hảo nhất, kinh hãi nhất trong nỗi sợ nguyên thủy của con người: sợ cái chết rình rập trong câm lặng mọi nơi, mọi lúc. Một số tàu tiếp cận bờ biển Hoa Kỳ ở cự ly chỉ vài dặm mà không hề hấn gì, đủ gần để bắt sóng phát thanh nghe nhạc jazz và theo dõi đèn pha ô tô qua kính tiềm vọng. Năm 1940, trong một tháng, lực lượng U-boat đã đánh chìm 66 tàu mà chỉ hy sinh một tàu. Xác người từ các tàu bị U-boat đánh đắm dạt vào bờ biển Hoa Kỳ trong suốt Thế Chiến II. Quang cảnh rất hãi hùng. Nhưng tồi tệ hơn nhiều là ngụ ý kẻ địch ở bất kỳ đâu mà không bị phát hiện.

Trong số 1.167 U-boat đó, 757 tàu bị đắm, bị bắt, bị đánh bom ở cảng nước nhà hoặc nước ngoài, hoặc gặp tai nạn hoặc bị đâm. Trong số 859 U-boat rời căn cứ để tuần tra tiền tuyến, 648 tàu bị đắm hoặc bị bắt khi đang hoạt động trên biển, tương ứng với tỷ lệ mất tàu hơn 75%. Một số bị đánh chìm bởi tàu và máy bay địch không thể xác nhận được thương vong, số khác trúng mìn, số khác nữa đắm do sự cố máy móc hoặc lỗi con người. Vì phần lớn cái chết của U-boat xảy ra dưới nước, có tới 65 chiếc biến mất không rõ nguyên nhân. Trong đại dương mênh mông không thể khám xét, U-boat chính là phần mộ không thể tìm thấy.

Hôm ấy, sau khi ngoi lên mặt nước và leo lên boong Seeker, đám thợ lặn vội vã cởi đồ và lao vào tranh luận. Mỗi người đều vui sướng vì đã khám phá ra xác một tàu ngầm chưa được biết tới. Mỗi người đều có giả thuyết riêng. Con tàu có thể là U-550, chiếc U-boat có lẽ đã chìm ở xa về phía bắc Đại Tây Dương và chưa từng được tìm lại. Nó không có khả năng là tàu S-5 của Hoa Kỳ, vô số thợ lặn đã nghiên cứu và tìm kiếm con tàu đó rồi kết luận nó nằm gần bờ biển bang Maryland. Đoàn thủy thủ có thể đã thoát ra ngoài: một cửa trông có vẻ đang mở, mặc dù khó nói chắc được. Có lẽ con tàu đã gặp chuyện gì đó rất khủng khiếp. Không ai thấy tháp chỉ huy của nó, một kết cấu phục vụ quan trắc và ra vào đặc trưng nằm trên đỉnh tàu, chứa kính tiềm vọng và là căn cứ chỉ huy trong trận chiến. Một điệp khúc bắt đầu thành hình: tháp chỉ huy của con tàu ở chỗ quỷ quái nào vậy?

Rồi tới Yurga. Trước chuyến đi, anh tình cờ ghé qua một tiệm sách hàng hải để tìm thứ nào đó đọc trên đường. Lựa chọn của anh là The U-boat: The Evolution and Technical History of German Submarines (U-boat: sự tiến hóa và lịch sử kỹ thuật của tàu ngầm Đức). Khi anh mang quyển sách ra, nhóm thợ lặn chụm đầu so sánh trí nhớ của họ với các lược đồ chi tiết trong sách. Chatterton nhận ra các trụ anh nhìn thấy trên xác tàu. Yurga nhận ra cửa thoát nước. Con tàu này chắc chắn là tàu Đức. Nó chắc chắn là U-boat.

Trong khi đám thợ lặn tiếp tục bàn luận và nghiên cứu sách, Chatterton và Nagle lảng vào buồng lái. Đoàn thủy thủ nhổ neo. Nagle xác định tuyến đường về, bật động cơ diezen và rời khỏi khu vực. Sau đó, anh thảo luận riêng với Chatterton.

Họ cùng chung quan điểm đây là chuyến lặn lịch sử, nhưng phát hiện mới là một nửa nhiệm vụ. Nửa còn lại và quan trọng hơn cả là định danh. Cả hai cười nhạo những thợ lặn đoán mò danh tính những xác tàu họ tìm được, những con người không hiểu được sự cẩu thả trong suy luận kiểu “Hừm, chúng ta tìm được một mảnh sứ có con dấu Đan Mạch, do đó con tàu có nguồn gốc Đan Mạch.” Nếu Nagle và Chatterton chỉ đơn giản tuyên bố họ đã tìm thấy một chiếc tàu ngầm thì thật sự có gì đáng nghe? Nhưng nếu tuyên bố ấy đi kèm với danh tính chắc chắn của con tàu, nếu biến thứ vô danh thành một thứ hữu danh, thì có nghĩa là anh đang viết nên lịch sử.

Nagle còn có những lý do trần tục khác để định danh. Ngay cả trong tình trạng thể chất suy nhược, người thuyền trưởng vẫn còn nguyên khát khao vinh quang. Định danh được con tàu sẽ củng cố di sản của anh như một huyền thoại lặn và đưa tiếng tăm của anh vượt ra ngoài giới chuyên môn, tới đại chúng không biết về USS San Diego hay Andrea Doria nhưng luôn chú ý tới hai từ U-boat. Một khám phá tầm cỡ này sẽ cho anh danh tiếng. Định danh thành công con tàu sẽ đưa nhiều khách hàng đến. Trong những ca hiếm hoi khi thuyền trưởng thuyền lặn khám phá ra tàu đắm, anh ta trở thành chủ nhân của con tàu đó trong trí óc của dân lặn. Họ sẽ muốn đi cùng người đã tìm ra con tàu mất tích, thông qua anh ta để kết nối bản thân với lịch sử.

Nagle và Chatterton tin rằng chỉ cần một, hai cuộc lặn nữa là có thể tìm thấy bằng chứng định danh con tàu: một cái nhãn, một tấm biển xưởng đóng tàu, một cuốn nhật ký hay bất cứ thứ gì. Cho đến lúc đó, tốt hơn hết là không hé răng về khám phá cho ai hết. Một xác tàu ngầm mới toanh, nhất là U-boat, sẽ thu hút sự chú ý của thợ lặn đối thủ từ khắp nơi. Một số sẽ tìm cách bám theo Seeker trong chuyến đi tiếp theo để dò tọa độ con tàu. Số khác có thể đoán đại khái vị trí con tàu rồi rình “nhảy” Seeker khi nó đang neo và thợ lặn đang lặn, không thể nhổ neo chạy đi đâu. Khi một thuyền đối thủ nắm được tọa độ, nó sẽ lao vào cướp mất công lao và hào quang của Seeker; không thiếu những kẻ cắp đang trông mong làm nên tên tuổi với khám phá trăm năm có một như thế. Nhưng với Chatterton và Nagle, mối đe dọa lớn nhất đến từ duy nhất một người và không cần nói tên thì cả hai đều biết ai là người buộc họ phải sống chết bảo vệ chiến tích này.

Bielenda.

Năm 1991, có vài thuyền lặn có tiếng ở bờ đông. Trong đó có Seeker. Một thuyền khác là Wahoo neo ở Long Island, con thuyền vỏ sợi thủy tinh dài 17 mét, của thuyền trưởng 55 tuổi tên là Steve Bielenda, một người đàn ông vạm vỡ với gương mặt trẻ thơ và thân hình 110 cân. Bài báo trên Newsday năm 1980 gọi Bielenda là “Vua biển sâu”. Anh ta chưa bao giờ quên nhắc những người chịu nghe và đặc biệt những người không muốn nghe, về danh hiệu đó.

Khoảnh khắc Nagle bước vào nghề cho thuê thuyền lặn giữa những năm 1980, anh và Bielenda đã căm ghét nhau. Không ai, kể cả hai kẻ trong cuộc, biết rõ nguồn cơn của xung đột này, nhưng nhiều năm qua họ buộc tội nhau, lời qua tiếng lại những ngôn từ độc địa nhằm phá hủy danh dự đối phương: Nagle là thằng say hết thời gây nguy hiểm cho thợ lặn và thóa mạ khách hàng, Bielenda là tên thùng rỗng kêu to chỉ biết đến tiền, chỉ dám ra những chỗ quen, không dám làm gì mới. Khách hàng thường bị ép phải chọn phe: thợ lặn hoặc là quân của Stevie hoặc là quân của Bill và rủi thay cho kẻ thú nhận hai mang. “Cậu sẽ lặn với Wahoo tuần tới?” Nagle sẽ kinh ngạc hỏi khách hàng. “Cậu là loại thối tha nào vậy? Thằng đó sẽ chỉ cười nhạo và chặt chém cậu thôi. Với nó, cậu khác gì gia súc.” Tình hình cũng tệ chẳng kém trên Wahoo, nơi đoàn thủy thủ sẽ hùa cùng Bielenda mắng mỏ những tên khờ thú nhận đã từng vui thú trên Seeker. “Xả nước vào gã này” thuyền viên Wahoo nghe nói từng hét lên như thế với khách trả tiền. “Hắn bốc mùi y như Seeker.” Một khách hàng Wahoo sau khi thú nhận có cảm tình với Nagle đã tìm thấy quyển sách bìa cứng mang theo bị vứt ở đáy tàu. Đến năm 1991, xung đột Bielenda‒Nagle đã khét tiếng nơi nơi.

Với phe ủng hộ Nagle, sự tức tối của Bielenda bắt nguồn từ một lý do đơn giản: Nagle đe dọa địa vị của Bielenda. Đúng là Nagle uống quá nhiều rượu, nhưng anh vẫn là một nhà thám hiểm, một tư duy độc đáo, một nhà nghiên cứu, một kẻ mộng mơ, một con người táo bạo. Và như ngày càng nhiều khách hàng xác nhận, Nagle được coi là một huyền thoại của làng lặn. Với nhiều người, Bielenda có vẻ không làm được gì nhiều so với thành tích của Nagle, không có mấy tinh thần tiên phong cơ bản cho một vị vua biển sâu đích thực. So với Nagle, Bielenda có vẻ căn cơ, luôn ở lại bến trốn tránh thời tiết xấu trong khi Nagle thách thức biển dữ. Khi danh tiếng nhà thám hiểm của Nagle tăng lên, khách hàng bị hút về thuyền của anh. Hoạt động kinh doanh của Bielenda chống chịu được chuyện mất khách, nhưng Bielenda nuốt không trôi sự lăng mạ ngôi vị của mình.

Lời nói của Bielenda không khiến Nagle bận tâm khi chiếc Seeker dập dềnh bên trên con tàu đắm bí ẩn. Anh lo vì biết chắc Bielenda sẽ dùng mọi thủ đoạn để chộp lấy xác tàu. Anh đã nghe nhiều chuyện về Bielenda, rằng nếu bạn làm việc cho hắn ở Wahoo, bạn có nghĩa vụ cống nạp cho hắn bất cứ chiến lợi phẩm nào hắn thích, rằng hắn từng nửa đùa nửa thật nói với khách hàng rằng nếu họ lấy về chuông của tàu Oregon khi lặn với Wahoo, họ nên tặng lại quả chuông đó cho Vua biển sâu nếu không muốn bơi 20 km về bờ cùng chiếc chuông, rằng Bielenda có bạn ở khắp nơi: trong lực lượng Tuần duyên, trên những thuyền lặn khác, trên thuyền cá, trong Hội thuyền lặn Bờ Đông mà hắn là chủ tịch. Nagle tin rằng nếu chuyện U-boat rò rỉ ra ngoài, Bielenda sẽ đến thẳng đó với mưu đồ ba điểm chết chóc: định danh con tàu, cướp hiện vật, chiếm công lao.

Chatterton cho rằng nếu Wahoo không chộp lấy xác tàu, những thợ lặn hám lập công khác cũng sẽ làm. Do đó, giữ bí mật là tối quan trọng.

“Seeker đã kín lịch hai tuần tới” Nagle nói với Chatterton. “Chúng ta sẽ quay lại vào thứ bảy, ngày 21. Chỉ mời những người đã đi chuyến này, không một ai khác, tuyệt đối không thêm ai, vì anh em ở đây đã dám liều và cần được tưởng thưởng. Chúng ta sẽ cam kết với nhau. Không ai trên con thuyền này được hé răng với người khác. Đây là tàu ngầm của chúng ta.”

“Tôi nhất trí” Chatterton nói.

Chatterton để Nagle lái thuyền và leo xuống những nấc thang trắng tới boong sau. Anh triệu tập thợ lặn lại và mời họ vào cabin chính để họp kín. Từng người một ngồi lên giường, trên sàn, cạnh máy nướng bánh mì, dưới hai trang giữa tờPlayboy, tóc vẫn ướt nước biển, một số cầm bánh quy xoắn hoặc Coca-Cola. Chatterton nói với cả nhóm bằng chất giọng nam trung vang mang âm sắc Long Island.

“Đây là một chuyến lặn vĩ đại” anh nói. “Nhưng tìm thấy là chưa đủ. Chúng ta sẽ phải định danh nó. Chúng ta định danh nó và viết lại lịch sử.

Bill và tôi đã ra một quyết định. Chúng ta sẽ quay lại tàu vào ngày 21 tháng chín. Đó sẽ là một chuyến đi riêng, chỉ mời mỗi các anh. Không ai khác được đi cùng. Có rất nhiều thợ lặn giỏi ngoài kia, những người đã thành huyền thoại, những người sẽ đòi đi với chúng ta bằng bất cứ giá nào. Nhưng họ sẽ không được đi cùng. Nếu các anh không đi, giường của các anh sẽ để trống.

Nhưng chúng ta phải giữ bí mật. Nếu lộ ra là chúng ta đã tìm thấy một tàu ngầm thì vài trăm thằng khác sẽ giẫm đạp lên chúng ta để tới đây.”

Chatterton dừng một nhịp. Mọi người im phăng phắc. Anh yêu cầu đám thợ lặn thề giữ bí mật. Từng người trên chiếc thuyền này, anh nói, phải thề giữ im lặng về những gì họ nhìn thấy hôm nay. Nếu người khác hỏi họ làm gì hôm nay, họ sẽ nói rằng họ lặn tàu Parker. Anh yêu cầu họ bỏ từ tàu ngầm ra khỏi vốn từ vựng. Anh yêu cầu họ không hé răng cho đến khi định danh được con tàu.

“Toàn thể phải nhất trí” Chatterton nói. “Từng người một phải đồng ý. Nếu chỉ một người không muốn giữ bí mật, được thôi, nhưng chuyến sau sẽ là mạnh thằng nào thằng nấy thắng, mở cửa cho tất cả. Nên tôi phải hỏi các anh bây giờ: Tất cả đồng ý chứ?”

Lặn thám hiểm không phải hoạt động cộng đồng. Thợ lặn đi cùng một thuyền vì lý do vận tải, không phải vì hoạt động nhóm. Mỗi người tự có phương án riêng, tìm chiến lợi phẩm riêng, có khám phá riêng. Thợ lặn thám hiểm, dù thân thiện đến đâu, học cách nhìn bản thân như những thực thể tự túc. Trong những vùng nước nguy hiểm, lối tư duy này cho phép họ sống sót. Giờ đây Chatterton đang đề nghị biến 14 người trở thành một thực thể câm lặng duy nhất. thỏa thuận kiểu này đơn giản là không xảy ra trên thuyền lặn,

Trong một lát im lặng bao trùm. Một số người chỉ mới biết nhau nhờ chuyến đi.

Rồi từng người một đi quanh phòng và tuyên bố.

“Tôi đồng ý.”

“Tôi cũng thế.”

“Tôi sẽ câm như hến.”

“Tính cả tôi luôn.”

“Miệng tôi khóa rồi.”

Trong một phút, việc đã xong. Từng người đã cam kết. Đây là tàu ngầm của họ. Đây là tàu ngầm của mình họ mà thôi.

Seeker lướt tới Brielle tràn đầy hy vọng và cơ hội. Các thợ lặn chuyền tay nhau sách về U-boat của Yurga và cố kiềm chế sự phấn khích, cố góp chuyện kiểu “Chúng ta biết việc này cần nghiên cứu kỹ, có thể sẽ rất phức tạp, nhưng nếu làm việc nghiêm túc thì chúng ta có thể lạc quan về khả năng định danh con tàu” nhưng trong thâm tâm thì họ đang nhảy trên bạt nhún. Khi đêm về, họ cho phép mình sáng tác những kịch bản giải thích nguồn gốc chiếc tàu ngầm và trong cơn say chiến thắng, mọi giả thuyết đều có vẻ hợp lý, mọi ý tưởng đều có vẻ khả dĩ: Biết đâu con tàu từng chở Hitler? Chẳng phải có lời đồn hắn cố trốn khỏi Đức vào cuối Thế Chiến sao? Có thể con tàu chất đầy vàng của Quốc Xã. Sáu tiếng sau, khoảng chín giờ tối, Nagle cho thuyền cập bến và nhóm thợ lặn thu dọn đồ nghề.

Có một người, Steve Feldman, nán lại chờ Chatterton ra khỏi buồng lái. Trong 14 người trên thuyền, Feldman có thâm niên lặn ngắn nhất, chỉ mới mười năm kinh nghiệm. Anh khám phá ra bộ môn này khá muộn, ở tuổi 34, sau cuộc ly dị đau đớn. Anh mê mẩn lặn scuba đến nỗi bất chấp khó khăn trở thành huấn luyện viên và dạo gần đây anh dạy lặn ở Manhattan. Nhiều người trên thuyền, bao gồm cả Chatterton, chưa từng gặp Feldman trước chuyến đi. Anh chủ yếu lặn ở những khu nghỉ dưỡng nước ấm hoặc lặn săn tôm hùm trong các cuộc “săn bọ” thứ tư nổi tiếng của thuyền trưởng Paul Hepler ngoài khơi Long Island. Khi Chatterton xuống boong sau, Feldman chặn đường anh.

“John này, tôi muốn cảm ơn anh” anh nói. “Chuyến này quá tuyệt. Và trọng đại, cực kỳ trọng đại. Tôi nóng lòng chờ ngày quay lại. Ý tôi là… tôi rất mong được quay lại và tôi chỉ muốn cảm ơn anh và Bill đã cho tôi tham gia vào một chuyến như thế này. Một giấc mơ thành hiện thực.”

“Cũng là vì tôi nữa, anh bạn” Chatterton nói. ”Đây là giấc mơ của mọi thợ lặn.”

Bí mật của Seeker được giữ kín vỏn vẹn hai giờ. Khoảng nửa đêm, Kevin Brennan quay số người bạn thân Richie Kohler, một đồng hương Brooklyn.

Ở tuổi 29, Kohler đã là một trong những thợ lặn thám hiểm táo bạo và thành công nhất ở bờ đông. Anh cũng là nhà sử học nghiệp dư rất hứng thú với nước Đức. Với Brennan, sẽ thật có lỗi nếu không chia sẻ tin hay nhường này cho bạn mình. Kohler đáng lẽ đã được mời tham gia chuyến đi trên Seeker nếu không phải vì thâm thù trước đó với Chatterton. Kohler từng là “quân của Stevie”, dù sau đó đã cạch mặt Bielenda nhưng mối quan hệ trong quá khứ của anh với Chatterton và Bielenda gần như đảm bảo rằng anh không được hoan nghênh trên chuyến đi này.

Điện thoại reng trong phòng ngủ Kohler.

“Richie, Richie, dậy đi. Kevin đây.”

“Mấy giờ rồi…?”

“Nghe này bồ tèo, dậy đi. Bọn tôi tìm được cái này hay cực.”

“Ông tìm được cái gì? Mấy giờ rồi?”

“Vấn đề là chỗ đó, Richie ạ… Tôi không thể tiết lộ bọn tôi đã tìm được cái gì.”

Vợ Kohler xoay người lườm. Anh mang điện thoại ra bếp.

“Kevin, đừng nói nhảm nữa. Nói cho tôi xem ông tìm thấy gì.”

“Không, ông ơi. Tôi đã thề. Tôi hứa giữ bí mật. Ông đừng hòng bắt tôi khai.”

“Này, Kevin, ông không thể gọi lúc nửa đêm, bảo tôi rằng ông vừa tìm được cái gì đó hay ho lắm, rồi nghĩ là tôi quay về ngủ được. Huỵch toẹt đi.”

“Tôi không nói được đâu anh bạn. Richie, thôi mà, đừng làm khó. Thế này thì được: đoán đi. Ông đoán đúng thì tôi sẽ không phủ nhận.”

Thế là Kohler, trong bộ dạng mặc đồ lót và mắt còn kèm nhèm, ngồi xuống bàn bếp và đoán. Tàu chở khách à? Không. Sà lan? Không.

Chiếc Caryu? Chiếc Carolina? Chiếc Texel? Không, không, không. Màn đoán mò tiếp diễn thêm năm phút và câu trả lời của Brennan vẫn luôn là không. Kohler đứng dậy và đi lại trong phòng. Mặt anh đỏ dần. “Kevin, gợi ý đi cha nội! Tôi đi lại đến mòn gót rồi.”

Brennan nghĩ một lúc. Rồi với một giọng Ý đặc sệt, gần như lố lăng, anh nói: “Nó không phải là tàu-nổi, nó là…”

“Hả?” Kohler hỏi.

“Gợi ý đó” Brennan nói. Hiểu được thì hiểu. “Nó không phải là tàu-nổi, nó là…”

“Ông say hả Kevin?”

“Gợi ý đó, Richie.”

Suốt năm phút, Brennan nhắc lại manh mối. Suốt năm phút, Kohler đi xà quần và chửi bạn bằng đủ những lời chỉ có một người Brooklyn mới nghĩ ra được. Rồi anh chợt hiểu: không phải tàu-nổi mà là tàu-ngầm. Một chiếc tàu-ngầm.

“Ông tìm thấy một chiếc tàu ngầm sao?”

“Đúng thế, Richie, đúng thế.”

Kohler ngồi xuống. Tàu ngầm sao? Chẳng có tàu ngầm nào ở biển New Jersey.

“Chắc chắn là Spikefish” Kohler cuối cùng cũng bật ra, ý chỉ tàu ngầm thời Thế Chiến II của Hoa Kỳ bị đánh đắm vào thập niên 1960 để phục vụ tập trận. “Nếu đúng thì chắc chắn các ông tìm được Spikefish.”

“Không, Richie! Tôi đã quỳ xuống dưới cát trước mũi nó, tôi nhìn lên và có thể nghe nhạc phim Das Boot: da-da-DA-da! Ông không được kể cho ai. Chuyện này là tối, tối mật.”

“Tôi sẽ gọi Bill Nagle ngay bây giờ” Kohler nói. “Tôi phải đi chuyến tiếp theo.”

“Không! Không! Đừng làm thế, Richie! Ông không được nói gì hết.”

Kohler cuối cùng cũng đồng ý giữ im lặng. Giống Brennan, đêm đó anh mơ về cảnh phim Das Boot.

Cùng đêm đó, Nagle mở chai ăn mừng khám phá. Càng uống, anh càng cảm thấy chuyện giữ bí mật là ích kỷ, thậm chí là tội lỗi. Nước đá lanh canh trong ly, anh gọi Danny Crowell − một thuyền viên trên Seeker vì bận công chuyện nên lỡ chuyến đi vừa rồi. Anh chẳng buồn gợi với chả ý. “Bọn tôi tìm được một chiếc U-boat” anh lè nhè. “Cấm nói với ai.”

Sáng hôm sau, khi John Yurga chấm công ở tiệm đồ lặn, anh nhận cuộc gọi từ Joe Terzuoli biệt danh “thuyền trưởng Zero” − một thuyền trưởng thuyền lặn thân thiện. Terzuoli là khách hàng quý nhất của tiệm.

“Yurga ơi, Zero đây. Chuyến đi của chú thế nào?”

“Ồ, không tệ lắm anh. Chỉ là một mỏm đá nên tụi em chuyển qua lặn Parker.”

“À ha, coi như đã thử” Zero nói. “Gặp lại chú sau.”

Năm phút sau, điện thoại lại kêu. Yurga bắt máy.

“Zero đây! Anh vừa nghe Ralphie bảo Danny Crowell nói Bill Nagle kể rằng đấy là U-boat!”

Yurga giật thột. Anh mến Zero. Anh không muốn nói dối, nhưng anh đã thề.

“Em không biết anh đang nói cái gì, Zero ạ. Chỉ là đá thôi ông anh ơi. Gọi Bill đi.”

Yurga gác máy và vội vã quay số Nagle trước Zero.

“Bill à, Yurga đây. Chuyện quái gì xảy ra vậy? Anh thổ ra hết rồi à?”

“Đấy là thằng khốn Danny Crowell!” Nagle gầm lên. “Tôi đã bảo hắn không được nói!”

Những người còn lại có vẻ giỏi giữ bí mật hơn. Vài người kể cho gia đình và bạn ngoài giới lặn, số khác thậm chí không dám kể với vợ. Tin Nagle hở miệng sớm đến tai Chatterton. Anh biết điểm yếu của bạn mình và không bất ngờ. Anh gợi ý Nagle tuôn ra vài tuyên bố lố lăng: thứ hai thì nói đã tìm thấy U-boat, thứ ba nói tìm thấy chiếc Corvallis, thứ tư chiếc Carolina, v.v… cho đến khi không ai tin nữa. Nagle lầu bầu rằng anh sẽ cố. Chatterton nghe tiếng nước đá lanh canh. Cả nhóm sẽ phải cảnh giác cao độ hơn nhiều, đề phòng bị nhảy trong chuyến tới.

Hai tuần là quãng thời gian chờ đợi khó khăn cho nhóm thợ lặn nung nấu giải mã bí ẩn. Mắc cạn đằng đẵng, nhiều người tìm đến phương án thay thế tốt nhất cho lặn: mày mò sách vở.

Phần lớn tự làm việc ở nhà hoặc thư viện địa phương. Họ nghiên cứu biên niên ký các vụ đắm tàu trong khu vực, lịch sử U-boat và ghi chép hải quân Thế Chiến II. Chiến lược của họ: tìm bất cứ ghi chép nào về tàu ngầm đắm gần khu xác tàu bí ẩn. Hai chiếc U-boat bật lên từ những trang giấy.

Tháng tư năm 1944, quân Đồng Minh đánh chìm U-550 ở tọa độ 40°09′ vĩ Bắc và 69°44′ kinh Tây. Hai con số ấy nghe rất New Jersey với nhóm thợ lặn. Họ vội mò hải đồ, di ngón tay theo kinh tuyến và vĩ tuyến và dừng ở điểm khoảng một trăm dặm về phía bắc của con tàu bí ẩn, vẫn ở ngoài khơi New Jersey nhưng không trùng khớp. Dù sao thì cũng chưa ai tìm thấy U-550. Với phần lớn thợ lặn, sai lệch một trăm dặm có thể giải thích được: có thể vị trí đắm của U-550 không được ghi lại chính xác, có thể U-550 chỉ bị quân Đồng Minh bắn thương và lết dưới nước đến vị trí của xác tàu kia rồi mới đắm. Có nhiều cái có thể: U-550 là tàu ngầm duy nhất được ghi là đắm ngoài khơi New Jersey. Nó trở thành cửa đặt cược triển vọng nhất của nhóm thợ lặn.

Theo sát phía sau là U-521, đắm vào tháng sáu năm 1943 ở vị trí khoảng 37°43’ vĩ Bắc and 73°16′ kinh Tây. Một lần nữa các thợ lặn kiểm tra hải đồ. Vị trí này nằm ở ngoài khơi bang Virginia, khoảng 140 km về phía đông vịnh Chincoteague. Mặc dù không ở vùng biển New Jersey, khu vực này chỉ cách xác tàu bí ẩn 180 km về phía nam. Cũng như U-550, nhóm thợ lặn coi sai lệch như vậy là có thể hiểu được. Cũng như U-550, U-521 chưa được tìm ra.

Các thợ lặn gọi nhau liên tiếp để chia sẻ các phát hiện của mình: hoặc là U-550 hoặc là U-521, không còn nghi ngờ gì nữa.

Yurga gửi một lá thư tới Cục quản lý lưu trữ quốc gia ở Washington, D.C. Anh yêu cầu như sau: “Xin gửi cho tôi tất cả các thông tin mà Cục có về U-boat” rồi đưa tên và địa chỉ.

Một tuần sau, Yurga nhận được thư từ một cán bộ lưu trữ.

“Thưa ông Yurga, chúng tôi có 13 mét kệ cao tới trần nhà đựng các tài liệu về U-boat. Chỉ chữ, chưa kể bản vẽ. Có lẽ ông sẽ muốn tới đây để nghiên cứu trực tiếp.”

Về phần mình, Nagle cũng nghiên cứu một chút về U-550 và U-521. Đọc câu chuyện về hai con tàu và nghĩ về những ngụ ý chúng mang đến, anh phấn khích đến run rẩy. Cả hai U-boat đều được báo cáo là đắm tương đối gần xác tàu bí ẩn kia. Cả hai U-boat vẫn chưa được tìm ra. Với Nagle, đây là bằng chứng cho thấy tàu ngầm của họ là một trong hai chiếc. Nagle gọi điện cho Chatterton và nhắn anh ghé qua Seeker sau giờ làm việc.

Chập choạng tối, Chatterton đậu xe ở Horrible Inn. Nagle đang ở trên boong sau của Seeker, đứng cạnh đống tư liệu nghiên cứu anh tập hợp được.

“John, lên thuyền đi. Cậu phải thấy cái này” Nagle gọi anh. “Cậu sẵn sàng nghe chuyện chưa?”

Suốt một tiếng đồng hồ sau đó, Nagle dẫn Chatterton đi qua vụ đắm của U-550 và U-521. Càng thêm chi tiết, Chatterton càng tin rằng chẳng có con tàu nào là xác tàu kia. Khi Nagle nói xong, Chatterton lắc đầu.

“Bill ạ, vô lý.”

“Ý cậu “vô lý” là sao?”

“Chẳng phải chiếc U-boat nào cả.”

“Cậu nói cái quái gì vậy? Tại sao không?”

“Bill à, nhìn vào vị trí đắm theo báo cáo của U-550 xem. Nó cách tàu mình cả trăm kilômét. Đấy là khoảng cách cực lớn…”

“Quân Đồng Minh hẳn đã định vị sai” Nagle xen ngang. “Giữa trận chiến ác liệt như thế, có người đã ghi sai. Trượt bút…”

“Không thể nào đâu Bill. Có ba tàu khu trục ở đó. Cả ba đều thống nhất vị trí: nhìn vào báo cáo tấn công này. Anh nói với tôi là ba tàu chiến độc lập mắc cùng một lỗi? Anh nói với tôi các tàu khu trục này biết đường đến Bắc Ireland nhưng lại không ghi được đúng tọa độ trong hải phận Hoa Kỳ sao?”

Nagle nặng nhọc hít thở cả phút nhưng không nói gì. Chatterton nhún vai xin lỗi. Ánh mắt Nagle trở nên nóng nảy.

“Hừ, thế thì tàu của mình chắc chắn là U-521” Nagle nói. “Nếu không phải U-550 thì là U-521.”

“Cũng không phải là U-521” Chatterton nói. “Chúng ta lại nói về một tàu Hải quân Hoa Kỳ tương đối gần bờ. Chẳng lẽ hải quân không phân biệt được là họ ở ngoài khơi Baltimore hay Brielle sao? Hải quân không biết họ đang ở đâu sao? Làm sao anh cách bờ có 90 km mà không biết mình đang ở đâu được?”

Gân trên trán Nagle gồ lên.

“OK, thưa sư phụ, thế nó là U-boat nào?”

“Tôi không biết, Bill ạ. Nhưng tôi dám chắc nó không phải là một trong hai chiếc kia.”

Mấy ngày sau, Chatterton quyết định lên đường. Trong số hiện vật trưng bày thường xuyên tại Bảo tàng khoa học và công nghiệp Chicago có U-505, chiếc U-boat kiểu IXC bị Đồng Minh bắt giữ ngoài khơi châu Phi năm 1944. Con tàu được giữ nguyên vẹn và mở cửa cho công chúng tham quan.

“Anh muốn đi trong t