Chương 4 John Chatterton
NGHĨ LẠI, CHATTERTON KHÔNG HIỂU SAO MÌNH VẪN SỐNG để mà đi bảo tàng. Cuộc đời anh đầy những quyết định đáng kinh ngạc (anh biết chắc nhiều lần đó có thể kết liễu đời mình) và sẽ không ai trong những khách du lịch đang xếp hàng cùng anh có thể hiểu được. Giờ anh ở tuổi 40, có gia đình, có công ăn việc làm tử tế, quá khứ kia như thuộc về một con người khác. Song, đâu đó đột nhiên trong bảo tàng này, những điều nhỏ nhặt nhất có thể xô anh về lại những năm tháng xưa. Lớp sơn xám xịt trong khu trưng bày của sảnh chờ gợi anh nhớ về năm 1970, một năm vẫn nóng hổi trong mạch máu của Chatterton. Những tấm ảnh về đại dương bao la treo trên các vách tường gần đó ném anh về những vùng nước của một tuổi thơ lạ lùng. Hôm nay, có thể trông anh không khác gì những người đứng xung quanh. Nhưng cuộc đời họ cách xa cuộc đời anh một trời một vực.
Cuộc đời ấy bắt đầu vào tháng chín xum xuê lá năm 1951, khi Jack và Patricia Chatterton chào đón đứa con đầu lòng. Khung cảnh hoàn hảo theo chuẩn thập niên 1950: Jack là kỹ sư hàng không vũ trụ tốt nghiệp ở Yale với sự nghiệp trên đà tấn tới tại công ty Sperry, một công việc nghe không thể oách hơn ở cái thời mà hàng không vũ trụ gợi lên hình ảnh người ngoài hành tinh và tia tử thần. Patricia khi ấy 24 tuổi, là một người mẫu mới giải nghệ từng sải bước khoe thân mình thướt tha và suối tóc nâu trên những sàn diễn thời trang quốc tế.
Khi John ba tuổi, gia đình anh dọn về sống trong một ngôi nhà mới, xây kiểu nông trại ở Garden City, một khu ngoại ô sang chảnh ở Long Island với cư dân là những quản lý cấp cao ở Manhattan, các chủ doanh nghiệp địa phương và tay nài ngựa Eddie Arcaro. Khó có thể nghĩ tới nơi nào lý tưởng hơn để nuôi dạy trẻ con. Garden City là nơi an toàn và yên tĩnh với những biệt thự dáng tương tự và những chiếc ti vi màu hứa hẹn cho dân Mỹ một lối sống mới mẻ và tốt đẹp hơn.
Khi John bốn tuổi, Patricia sinh con trai thứ hai: MacRae (đặt tên theo ông ngoại). Theo thời gian hai cậu bé đến tuổi đi học và sự phồn vinh của Garden City cũng lớn theo. Khu đô thị có đến bốn ga Đường sắt Long Island trong khi phần lớn những nơi khác may lắm mới có một. Gia đình Chatterton có một chiếc ti vi lớn và lò sưởi điện. Bánh xe phụ trên xe đạp của John không kêu cót két.
Bãi biển luôn là ưu tiên hàng đầu của Patricia. Chị thường lái xe 40 phút đưa hai con trai tới bãi Gilgo nằm dọc theo một chuỗi các đảo chắn ngoài khơi bờ phía nam Long Island. Ở đó, chị thả cho John và MacRae chơi tự do như thả bóng bay lên trời, chân hai cậu bé đạp trên mặt cát bỏng rẫy cho đến khi phải ào vào làn nước Đại Tây Dương để hạ nhiệt. Cha của John không bao giờ đi cùng ba mẹ con. Anh bận và anh không thích vầy vò cát nước.
Nhưng chính nước biển lại cho John thật nhiều cảm xúc. Ở nhà, không mấy thứ làm cậu hứng thú. Trường lớp chỉ tạm tạm. Sách truyện cũng thường thường. Mickey Mantle thì tạm ổn. Nhưng khi đứng giữa Đại Tây Dương, nước ngập đến đầu gối, nhìn ra chân trời xa, cậu dường như thấy một thế giới khác: một thế giới chưa ai nói đến. Ở nhà, cậu sẽ kéo áo thun lên mũi, hìt hà vị muối và cảm xúc cũng dâng lên trong mình.
Đời sống gia đình của John không giống với chúng bạn. Mẹ cậu luôn nói chuyện với con trai một cách thẳng thắn, không cố đơn giản hóa câu từ hay ý tưởng khi thể hiện quan điểm. Cha cậu thích giải trí, nhưng không giải trí kiểu chơi bóng hay đi câu như các ông bố trên truyền hình. Jack sẽ ngồi hàng giờ trước bàn làm việc ở nhà, nghiên cứu các phương trình hàng không vũ trụ và đốt hết bốn bao thuốc lá Kent một ngày. Nốc xong hai ly martini là anh sẵn sàng đeo mặt nạ khỉ đột và chạy quanh khu phố.
Khi Jack bắt đầu uống nhiều lên, Patricia tìm cách dẫn anh quay về với phận sự của một người cha. Anh đáp trả bằng cách làm việc nhiều hơn, hút thuốc và uống rượu cũng nhiều hơn. Patricia quyết định để Jack yên chừng nào cha chị vẫn còn sống.
Cha của Patricia là Rae Emmet Arison, thiếu tướng hải quân về hưu, người anh hùng chiến tranh từng chỉ huy tàu ngầm trong mười năm của thập kỷ 1930 và dẫn dắt các chiến hạm trong Thế Chiến II. Với một người tôn thờ cha từ thuở bé như Patricia, không có tấm gương nào về lòng quả cảm, tử tế và sống thực tế hơn đô đốc Arison. Ông hiện sống ở bang Nam Carolina, gần bờ biển. Chị thường đưa con tới thăm ông ngoại và lên kế hoạch để hai cậu bé noi theo tấm gương ấy.
Chị kể cho các con về tình yêu tàu ngầm của ông ngoại, rằng trên tàu một người phải vì mọi người mới sống sót, nên một lính nghĩa vụ chân ướt chân ráo cũng gánh trên vai sự tồn vong của cả tàu chẳng kém gì đô đốc và rằng ông ngoại tin chính điều đó đem lại niềm vinh dự. Đôi khi chị cũng kể về những trận chiến ở Thái Bình Dương của đô đốc Arison trong Thế Chiến II. Nhưng thường xuyên nhất là những câu chuyện về cốt cách của ông ngoại. Chị kể cho hai con rằng sau cuộc chiến, ông chống nạng đi khắp Hoa Kỳ để thăm gia đình của tất cả những binh sĩ dưới quyền đã hy sinh vì đó là việc cần làm, rằng ông phải đích thân cảm ơn họ. Chị cũng kể chuyện ông ngoại đã động viên và hỗ trợ tài chính cho gia đình những lính nghĩa vụ. Chị nhắc các con, đôi khi hằng ngày, rằng ông ngoại đề cao nhất sự ưu tú và tính quật cường và với một người có hoài bão và sự kiên trì, cuộc đời họ không có giới hạn.
Lên lớp ba, John đóng vai hoàng tử Dũng Cảm trong một vở kịch của trường. Cậu không phải vai chính, vai chính là hoàng tử Hào Hoa.
Cậu không cưới được nữ chính, hoàng tử Hào Hoa mới cưới được. Cậu tử thương ở cảnh cuối. Nhưng cậu mê vai diễn ấy. Càng đến gần đêm mở màn, cậu càng nghĩ “Mình quả là giống hoàng tử Dũng Cảm. Mình không đẹp trai như hoàng tử Hào Hoa. Con gái không hâm mộ mình. Nhưng điểm đặc biệt ở mình chính là lòng dũng cảm. Làm hoàng tử Dũng Cảm còn hay hơn làm hoàng tử Hào Hoa vì mình có lòng dũng cảm.”
Năm John lên mười, cha mẹ cậu cãi vã liên miên. Cậu chơi nhiều hơn ở bãi biển, hình thành khiếu hài hước khó đoán và tiếng cười sảng khoái đến người lớn cũng ngạc nhiên. “Con của chị chẳng khác gì chúng ta” bạn Patricia nói với chị. Hè ấy vài người hàng xóm cho John thử bộ đồ lặn scuba đơn giản của họ. Bình khí nổi nên cậu bé chỉ có thể lềnh bềnh trên mặt nước. Nhưng đầu cậu ở trong nước và cậu có thể thở: thở trong nước! Cậu thấy cả những tia nắng chiếu qua nước rọi xuống đáy và cậu tha thiết được lặn xuống dưới vì cậu không thể nhìn đủ xa. Nhưng những người hàng xóm nói không cho lặn nên cậu suy nghĩ rất nhiều khi đang thở trong nước. Cậu nghĩ “Giá mình có thể lặn xuống dưới đó, đó mới là chỗ hay ho.”
Một ngày hè khi John 12 tuổi, cậu và người bạn Rob Denigris đi ké xe ra khỏi Garden City. Ở Hoa Kỳ năm 1963, một chuyến đi như vậy vẫn được coi là an toàn. Hai cậu tới một vùng nông thôn hẻo lánh ở quận Suffolk cách nhà 80 km. John và Rob đi dọc con đường quê, ngó nghiêng xem có thứ gì hay ho không. Họ thấy một ngôi nhà cũ kiểu Victoria. Ngôi nhà trông như bị bỏ hoang: cỏ dại mọc kín đất, cành cây rủ che khuất những ô cửa sổ chớp, trong nhà tối tăm và im ắng, như thể bị nắng đã bỏ quên. Hai cậu chậm rãi lại gần. Các cậu đã xem đủ phim kinh dị để hiểu rằng nên tránh xa, nhưng đều tin rằng bên trong ẩn chứa những câu chuyện đáng nghe. Họ thử đẩy một cánh cửa. Cửa mở ra.
Trên lầu là những chồng báo cũ từ hàng chục năm trước vẫn chưa được mở ra. Các cậu ngồi trên những sọt gỗ thưa, đọc cho nhau nghe câu chuyện trên báo về những con người xa lạ, ở một thời kỳ xa lạ, với những nỗi lo xa lạ. Trong tầng hầm, John tìm thấy nhiều hũ trái cây ngâm (đủ dùng cho vài năm) và chợt động lòng vì niềm lạc quan của chủ nhân ngôi nhà. Họ hẳn mong rằng mình sẽ ở đây thật lâu nữa, rằng trong tương lai xa họ vẫn được thưởng thức những món ngọt ngào. Hai cậu bé chơi trong ngôi nhà hoang hàng tiếng đồng hồ. Chẳng ai nghĩ chuyện phá phách, xê dịch đồ đạc. Sẩm tối, cả hai xếp đồ, kể cả đống báo, về như cũ.
Trên đường đi ké xe về nhà, hai người bạn vẽ ra những kịch bản về ngôi nhà và chủ nhân của nó: hũ trái cây cho thấy bàn tay phụ nữ, cửa sổ chưa được bít ván chứng tỏ chủ nhà rời đi đột xuất, đống báo cũ có thể do một họ hàng để đó nhiều năm sau khi không còn người ở. Thời giờ vụt trôi trong lúc hai cậu mải mê với những giả thuyết.
Vài ngày sau, hai cậu bé lại tìm cách đi nhờ xe tới ngôi nhà, nhưng không thể mô tả cho người ta vị trí cụ thể. Họ cuốc bộ trên con đường quê nhưng không thấy gì. Hai cậu thử lại ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, nhưng vẫn không tìm thấy.
Hai cậu tha thiết muốn trở lại lại ngôi nhà. Đi năm, sáu chuyến. Vẽ bản đồ. Nhưng hoài công: cả hai không biết chỗ mình đã đến là đâu. Hai cậu bé đi ké xe nhiều lần sau nhưng không tìm được chỗ nào hay như chỗ đó.
John nhập học ở Trung học Garden City năm 1965 – năm mà thủy quân lục chiến lần đầu đổ bộ Đà Nẵng. Cậu đã cao lên nhiều, với mái tóc vàng cắt ngắn và bộ hàm vuông, càng ngày càng giống một người đàn ông trưởng thành. Cậu kết bạn dễ dàng, đặc biệt với đám con trai thích nét táo bạo ở cậu. Tính cách ấy khiến cậu sẵn sàng đi nhờ xe 80 km và độ lại côn chân cho xe máy.
Thành tích học tập làng nhàng của John tiếp diễn ở bậc trung học phổ thông. Nhưng bắt đầu năm thứ hai, John bắt đầu nhận diện rõ hơn cái ý nghĩ mơ hồ bên trong cậu từ tiểu học. Garden City là nơi cô lập, cậu nghĩ, trong một bong bóng ngăn cách cư dân với những gì đang diễn ra và phần còn lại của thế giới. Lo nghĩ của mọi người có vẻ nhỏ nhặt: ai sở hữu biệt thự nghỉ dưỡng đẹp nhất, chẳng biết ông già có chịu trả tiền cho bộ lò xo khí nén phụ cho chiếc Mustang mới không. Hàng xóm tuyên bố ủng hộ quyền bình đẳng và thậm chí còn cố viện dẫn những lợi ích đến từ việc có học sinh da đen ở trường, nhưng chẳng có nhóm thiểu số hay dân lao động nào sống ở Garden City.
Khi John lên năm trên, cậu tiếp tục hẹn hò với bãi biển. Nhưng cậu không bao giờ mơ tới chuyện trở thành ngư dân tầm cỡ thế giới, nhà vô địch lướt sóng hay một Jaques Costeau18*thứ hai. Ngoài ông ngoại, cậu không có hình mẫu nào khác. Cậu còn không có cả biệt danh, điều cậu tin là đủ để thấy cậu thời trung học như thế nào. Nhưng cậu luôn mơ về đại dương. Lần nào ngắm nhìn Đại Tây Dương cậu cũng kinh ngạc trước sự bao la của thế giới bên ngoài Garden City.
Năm 1968, năm thứ ba trung học của John, tin tức về những thương vong chiến tranh không thể tưởng tượng ở Việt Nam đổ về. Người nào cũng có quan điểm riêng và John lắng nghe tất cả. Nhưng càng nghe nhiều, John càng ngờ rằng họ thực sự chẳng biết gì. Không phải là cậu nghi điều họ tin tưởng; thực ra cậu ngưỡng mộ sự nồng nhiệt của người ta và cảm thấy được tiếp sức bởi bầu không khí xung quanh. Nhưng cậu đặt câu hỏi về cuộc sống của những người giữ những quan điểm ấy và càng hỏi thì cậu càng tin chẳng mấy ai trong số họ từng ra đi tự mình tìm kiếm.
Lúc này, cha mẹ John đã ly hôn và cha cậu chuyển tới bang California. Một tối, cha John gọi về nhà và hỏi con trai về dự định tương lai. John biết cha cậu muốn nghe gì: rằng cậu sẽ nộp đơn vào Yale và theo đuổi một ngành đáng đầu tư trí óc. Thế nhưng John lại nghe từ chính miệng mình những lời lạ lẫm. Cậu nói với cha cậu muốn khám phá thế giới, không phải trong vai trò khách du lịch hay trí thức, mà để tìm kiếm chân lý. Cậu nói với cha cậu không biết mình sẽ đi đâu, chỉ biết rằng phải đi, phải tự chứng kiến.
“Vớ vẩn!” cha cậu nổi nóng. Jack đang xây dựng doanh nghiệp riêng và mới phát minh ra bảng mạch cho Bar-O-Matic, thiết bị giúp bartender rót cùng lúc nhiều ly soda từ một vòi duy nhất. Ông đang hưng phấn. Ông có tiền. John có thể làm việc cho ông.
“Đấy là dự tính của cha, không phải của con” John nói.
“John này, con không làm thì chỉ có đi lao động chân tay thôi.”
John gác máy.
Đầu năm 1969, trong học kỳ trung học cuối cùng của John, một bạn gái đến lớp với một dải băng đen trên cánh tay. Đội máy bay B-52 vừa thực hiện nhiều cuộc oanh tạc dữ dội xuống các mục tiêu gần biên giới Campuchia. Nhiều người đã biểu tình đòi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam. Bạn gái trên đã đưa ra một tuyên ngôn đanh thép; cô có niềm tin vào thông điệp phản chiến của mình. Tưởng tượng mình là một người lính liều mạng trong trận chiến, John băn khoăn liệu mình có thể trân trọng bạn gái kia cùng dải băng đen và bàn tay xiết thành nắm đấm của cô, nhưng cậu không đi tới được kết luận cuối cùng. Cậu không có đủ thông tin. Và đây là vấn đề cốt lõi của đời John, ngay đây trong lớp, ngay cạnh cô gái với dải băng tay và những học sinh hô hào cổ vũ “Đúng lắm!”, cậu cũng không có câu trả lời. Cậu chưa bao giờ lên đường và tự mình chứng kiến.
John nảy ra một ý tưởng: quân đội có thể đưa cậu ra thế giới bên ngoài. Bằng cách nhập ngũ, cậu có thể chứng kiến tận mắt. Cậu băn khoăn mình có thể giết người hoặc chiến đấu vì một mục tiêu mình khinh ghét. Một lần nữa, cậu không có câu trả lời xác đáng. Và cậu chợt nghĩ ra: cậu có thể đầu quân làm cứu thương. Dù mọi sự có tệ đến đâu, trong vai trò quân y, cậu vẫn có thể giúp người thay vì giết người. Cậu có thể giữ sự tích cực và vẫn có những trải nghiệm trực tiếp về những câu hỏi lớn nhất đời người.
Thoạt đầu cậu tính gia nhập hải quân của ông ngoại, nhưng hải quân có đãi ngộ riêng với cháu của các người hùng mà John không muốn được đối xử đặc biệt. Những quân chủng khác không hứa hẹn về vị trí chuyên môn. Chỉ lục quân là đảm bảo cho lính tình nguyện vào vị trí cứu thương đổi lại cam kết làm việc bốn năm. John nhập ngũ.
Tháng một năm 1970, lục quân phân binh nhì Chatterton về khu giải phẫu thần kinh thuộc Quân y viện đa khoa 249 ở Asaka, Nhật Bản. Lúc đó anh 18 tuổi. Khu này có chức năng duy nhất: cứu chữa các thương tích chiến tranh. Mỗi ngày lính Mỹ bị thương nhập viện như lũ về: người mất phần sọ phía sau, người gãy cột sống, người mê sảng hoặc gào thét gọi mẹ hoặc khuôn mặt biến dạng. Chatterton tắm rửa, băng bó, trở người cho bệnh nhân trong khi họ phục hồi những vết thương gây ra bởi những thứ vũ khí tài tình mà tàn độc. Nhiều người chỉ tầm tuổi Chatterton. Đôi khi một người lính sẽ nhìn anh trước khi phẫu thuật và nói: “Tôi liệt rồi, cậu ạ.” Ở khu điều trị, Chatterton thỉnh thoảng thả hồn một khoảnh khắc và tưởng tượng về cuộc đời của một người đột nhiên bị cướp mất thân thể ở tuổi 18.
Có người lính nào sống tốt vào năm 1970 thì đó hẳn là Chatterton. Anh thường đi tàu, uống bia và ăn tối ở các tiệm sukiyaki tại Asaka. Anh thích công việc của mình: đầy xúc cảm và rất quan trọng. Anh có cơ hội ngắm nhìn thế giới. Tính mạng anh không bị đe dọa. Nhưng khi nhìn những mạng sống lần lượt bị hủy hoại được đưa vào khu điều trị, anh bắt đầu bị ám ảnh bởi những nghi vấn: Điều gì khiến con người tàn nhẫn với nhau đến thế? Tại sao chuyện như vậy lại xảy đến với những người này? Chuyện gì đang xảy ra bên kia đồi?
Chatterton quan sát bệnh nhân. Thường thì anh nhìn họ khi nghe bác sĩ nói về xe lăn và ống thở và mắt họ luôn hướng thẳng về phía trước như thể đang nhìn xuyên qua bác sĩ. Với Chatterton, những người lính này không giống miêu tả trong “Cuộc tấn công của lữ đoàn kỵ binh nhẹ19*.” Họ mang vẻ choáng váng, kinh hãi, đơn độc. Nhưng dường như họ cũng biết điều gì đó mà Chatterton không biết.
Tháng này qua tháng khác, người bệnh cần giải phẫu thần kinh nối gót nhau ra vào quân y viện 249, nghi vấn của Chatterton càng cấp bách. Anh ngấu nghiến sách báo và tìm cơ hội trò chuyện, nhưng chỉ được nghe về chính trị. Người ta không thể giải thích cho anh vì sao thế giới lại ra nông nỗi này. Anh lại có cảm giác ấy: cảm giác từng có trên bãi biển khi còn là một cậu bé, rằng anh sẽ phải đến nhìn tận mắt.
Chatterton bắt đầu nói với bạn bè rằng anh tính nộp đơn xin điều chuyển tới Việt Nam. Tất cả đều lập tức có chung một phản ứng: “Cậu có điên không?” Anh mang ý tưởng này thăm dò cấp trên. Họ khẩn thiết mong anh nghĩ lại và giảng giải rằng nhiệm vụ ở khu giải phẫu thần kinh là một trong những phận sự cao cả nhất của người lính. Anh nói rằng chuyện này không xuất phát từ lòng yêu nước hay những điều cao thượng khác; anh chỉ muốn lĩnh ngộ. Ngay cả người bệnh cũng mong anh đổi ý: “Đừng đi, đó sẽ là một sai lầm lớn.” Một người lính bị liệt nói với anh: “Ở đây đi, hoàn thành hạn công tác rồi về nhà. Đời tôi coi như bỏ, nhưng cậu vẫn còn khỏe và cậu phải tiếp tục như vậy.” Nhưng Chatterton vẫn xin điều chuyển. Tháng sáu năm 1970, anh lên máy bay tới Chu Lai, miền trung Việt Nam.
Chatterton được phân đến tiểu đoàn 4, trung đoàn bộ binh 31 thuộc sư đoàn Americal. Khi đến nơi, anh nhận lệnh tới trạm quân y tiểu đoàn trên một căn cứ chi viện hỏa lực gần biên giới Lào, có tên là Tây LZ. Anh tới đó vào cuối giờ sáng cùng ngày.
Tầm trưa, căn cứ nhận một cuộc điện thoại. Một người nhấc máy, im im một lát rồi lầm bầm “Khỉ thật” vào ống nghe. Chẳng mấy chốc mọi người ở căn cứ bắt đầu nháo nhác. Một sĩ quan hành chính gọi Chatterton: “Lấy dụng cụ đi! Một lính cứu thương vừa bị giết khi xuống trực thăng. Cậu sẽ thế chỗ.” Chatterton tưởng mình nghe nhầm. Anh sẽ thế chỗ một lính cứu thương vừa chết? Trên trực thăng? Ngoài chiến trường? Rồi sĩ quan kia bắt đầu khóc và đôi mắt dại đi, dáng vẻ Chatterton đã nhìn thấy ở những người bệnh bị suy sụp tinh thần ở quân y viện tại Nhật.
Chatterton đứng yên trong khi đồng đội lấy vũ khí, thiết bị và đi lòng vòng xung quanh. Anh không biết phải đi đâu và làm gì. Một phút sau, một người đàn ông nhỏ thó với mái tóc nâu bù xù nắm lấy cánh tay anh và nói: “Nghe đây, tôi cũng là lính cứu thương. Tôi sẽ giúp cậu chuẩn bị sẵn sàng ra trận.” Người lính cứu thương có vẻ lớn tuổi, ít nhất là 24. Anh tự giới thiệu mình là “Chuột” (Mouse).
“Theo tôi” Chuột nói.
Chuột dẫn Chatterton tới một boong-ke ở căn cứ. Còn vài giờ nữa là trực thăng sẽ đến đón Chatterton vào rừng. Từ giờ đến lúc ấy, Chuột nói sẽ chỉ dẫn cho Chatterton. “Nếu cậu muốn thì chúng ta sẽ vừa làm việc vừa nói chuyện” anh nói.
Trong boong-ke, Chuột nhét dụng cụ y tế dã chiến vào túi cứu thương của Chatterton: thuốc sốt rét, tetraxilin, moocphin, ống tiêm tĩnh mạch, băng dán, kéo, túi bông băng cá nhân và giải thích cách dùng chúng giữa trận địa. Đó là những phương pháp chẳng hay ho gì mà lại khẩn cấp hơn những gì Chatterton học được ở quân y viện. Song song, Chuột kể cho Chatterton về Việt Nam.
“Tôi ghét cuộc chiến này” Chuột nói. “Nhưng tôi đã ở đây. Tôi sẽ dùng hết sức để giúp các anh em. Tôi ở đây để làm một lính cứu thương tốt. Cuộc chiến không liên quan gì hết. Ở đây, làm một lính cứu thương tốt là sứ mệnh đời tôi.”
Chuột ghi nhãn các viên thuốc sốt rét và kiết lỵ, cài khóa quanh bộ dụng cụ của Chatterton và bảo anh mang thêm một túi cứu thương nhỏ ngoài cái túi lớn mà những lính cứu thương tầm trung khác nghĩ là đã đủ. Khi đi tuần, một lính cứu thương giỏi sẽ để đồ trị thương riêng, thuốc dị ứng và đau bụng riêng. Bạn cần gì vác theo thuốc kháng histamin để điều trị vết thương do đạn bắn vào đầu.
“Anh em ở đây là trách nhiệm của cậu” Chuột nói tiếp. “Phần tôi, tôi luôn phải hoàn thành nghĩa vụ với đồng đội. Đó là điều quan trọng duy nhất: đồng đội. Đồng đội là trên hết.”
Chatterton hỏi Chuột về khẩu súng côn 45 bên hông anh. Không phải là lính cứu thương tiền phương cần vũ trang tốt hơn sao?
“Nhiều lính cứu thương mang theo súng trường hoặc súng máy” Chuột nói. “Lý do duy nhất tôi mang theo vũ khí là để bảo vệ lính bị thương. Tôi không thể để đối phương giết người bệnh của tôi chỉ vì tôi không có vũ khí. Nhưng tôi sẽ không mang vũ khí tấn công. Tôi chẳng phải là chiến binh gì sất. Tôi để lại những thứ nặng đô phía sau. Nó cũng mang tính tượng trưng nữa. Nó gợi tôi nhớ lý do vì sao tôi ở đây.”
Trong vòng hai tiếng, Chatterton đắm chìm trong triết lý của Chuột. Chuột có những quan điểm về lòng can đảm, sự tận tụy và niềm tin mà Chatterton biết là chân lý nhưng không thể diễn tả thành lời. Trong hai tiếng ấy, Chatterton quên rằng ngày hôm nay tính mạng mình sẽ vào vòng nguy hiểm.
Trực thăng tới. Có tiếng hét: “Đi thôi!” Chuột giúp Chatterton nhét lựu đạn và áo mưa vào túi, rồi kiểm tra anh lần cuối thuốc nào chữa cái gì. Chatterton chụp lấy mũ cối. Anh đeo khẩu côn 45 lên hông.
“Một điều nữa: rất nhiều việc cậu làm ngoài kia, cậu sẽ phải theo cho đến cuối” Chuột nói. “Ở đó cậu sẽ phải tự quyết định. Khi ấy, cậu sẽ phải hỏi mình: “Mình sẽ muốn ở đâu 10, 20 năm tới? Mình sẽ nghĩ gì về quyết định này khi mình đã già?” Đó là câu hỏi dành cho những quyết định lớn.”
Chatterton gật đầu và bắt tay Chuột. Chuột ở lại căn cứ. Chatterton nghĩ liệu mình có được gặp lại người đàn ông này. Anh chỉ biết nói: “Cảm ơn anh nhé Chuột. Tạm biệt.” Rồi anh leo lên trực thăng và ngồi trên một thùng suất ăn dã chiến. Không ghế, không dây an toàn. Rồi cỗ máy cất cánh, biến mất trên những rặng cây và đi về phía Mặt trời tới với Việt Nam đích thực.
Chiếc trực thăng thả Chatterton và mấy hộp quân nhu giữa rừng rồi biến mất trên bầu trời. Trong khoảng thời gian tưởng chừng vô hạn, không ai xuất hiện. Cuối cùng Chatterton nghe tiếng loạt soạt trong một lùm cây. Anh quay về phía tiếng động và thấy một tá lính xuất hiện: những người phương tây với gương mặt bẩn thỉu, tóc dài, râu ria xồm xoàm. Chatterton tưởng như một băng đảng xe máy ở California đột nhiên hiện ra ở Việt Nam. Đám lính đi về phía anh trong bộ dạng áo thun xanh rêu xơ xác và quần rách tả tơi. Không ai có mũ cối, giáp chống mảnh hay món quân trang nào khác. Khi họ tới gần, Chatterton thấy tất cả dường như có chung một biểu cảm: biểu cảm của một người không còn biết bất ngờ là gì.
Những người lính mở hộp quân nhu và bắt đầu trang bị cho bản thân. Không ai nói một lời với Chatterton, kể cả người lính cứu thương được phân vào vị trí chỉ huy của toàn đội. Thỉnh thoảng một trong số họ sẽ liếc về Chatterton bằng vẻ khinh miệt rã rời với hàm ý không thể lẫn vào đâu ở Việt Nam: Chú mày chẳng biết cái quái gì. Chú mày sẽ không trụ được lâu. Nếu tụi này cần trợ giúp, chắc chú mày cũng vô tích sự thôi. Khi đội lính đã xong, một người gầm gừ với Chatterton: “Đi thôi!” Những người này hợp thành một trung đội nhỏ và đang hành quân tới địa điểm mới. Dọc đường, họ sẽ tìm và diệt quân đối phương khi cần. Toán lính đi vào rừng. Chatterton nhập đội cuốc bộ theo hàng một.
Toán lính đi qua những đồng lúa, xua côn trùng to như chim, lội qua những sông đầy cá sấu, bước qua một con trâu nước chết vì súng máy. Sau một giờ vào rừng thì có tiếng súng. Trung đội nằm rạp xuống. Chatterton là người chậm nhất. Đạn bắn lỗ chỗ trên mặt đất quanh chỗ họ. Chatterton tưởng tim mình sắp vỡ. Khi súng đã ngừng, anh nhìn quanh. Biểu cảm trên những gương mặt xung quanh vẫn y như lúc anh gặp họ. Vài phút sau, họ đi tiếp. Chatterton bình tâm và nhập đội. Khi nhịp thở quay về bình thường và não bộ hoạt động trở lại, anh nghĩ thầm: “Những gã này là những tên sát nhân mất trí rồi. Không ai nói gì với mình hết. Mình đang ở chỗ quái nào? Mình đã phạm lỗi gì?”
Trung đội nghỉ dưới đêm trăng nồng nực. Khi những người khác ngủ, Chatterton vẫn thao thức. Bình minh, anh nhìn thấy một con hổ lẩn vào rừng sâu. Ngày hôm sau, khi nhiệt độ lên tới gần 40 độ, trung đội tới rìa một ngôi làng bỏ hoang. Báo cáo cho thấy quân địch đang ở khu lân cận. Trừ Chatterton, tất cả những người còn lại đều vũ trang hạng nặng và sẵn sàng chiến đấu, nhất là John “Át” Lacko – thợ dán giấy tường 28 tuổi đến từ bang New Jersey mà Chatterton đoán là thủ lĩnh. Lacko, cao 1 mét 87 và nặng một tạ, đang đi chuyến thứ ba, có thể nói là kỳ cựu theo tiêu chuẩn chiến tranh Việt Nam. Anh ta mang theo một khẩu súng máy M-60 với 700 viên đạn quấn trên đai trang bị vắt chéo qua ngực. Theo định nghĩa thời kỳ đó thì đây đúng là vũ trang đến tận răng. Lacko nhận biệt hiệu “Át” vì được đồn rằng có thói quen để lại một lá bài đen trên ngực kẻ địch mình đã bắn hạ.
Trung đội đi tuần theo hàng một. Chẳng mấy chốc họ đến một cánh đồng lúa cạn nước trông thuận lợi để đi qua địa hình đồi núi nơi này. Họ tiến vào khu đất trống, dò tìm dấu hiệu địch trên đồi. Đi được khoảng 45 mét thì Lacko trèo lên một tảng đá để nhìn xung quanh rõ hơn. Tiếng súng nổ ra từ triền đồi phía trước bên trái. Năm phát, hai phát xuyên giáp, cắt qua hông trái của Lacko và xuyên tới hông phải. Anh ta thấy choáng. Lacko đặt thiết bị xuống đất và nằm xuống, nguỵ trang bán phần trong đám cỏ cao nửa mét. Máu bắt đầu rỉ ra từ vết thương. Những người khác quay lại và nấp sau một đụn đất đá cao ba mét gần chỗ vào ruộng. Có người hét: “Át trúng đạn rồi! Cứu thương! Cứu thương!” Chatterton và người lính cứu thương còn lại trườn lên phía trước. Hai người có thể nhìn thấy hình dáng Lacko trong đám cỏ cách đó chừng 50 mét. Anh ta đang lộ thiên – một mục tiêu dễ thấy.
Địch sẽ không kết liễu anh ta mà sẽ chờ lính cứu thương chạy tới: một tên trúng hai đích.
Tay lính cứu thương còn lại của trung đội – cấp trên của Chatterton – áp sát vào vách đất che chắn họ.
“Kệ mẹ, tôi không ra đâu” anh ta nói với Chatterton.
Toán lính chỉ biết trừng mắt nhìn người này. Với Chatterton, họ còn kỳ vọng thấp hơn. Không có tay mơ nào mới ở Việt Nam ngày thứ hai mà lại dám chạy vào tầm ngắm của địch.
“Để tôi mang anh ấy về” Chatterton nói.
Toán lính im lặng. Chatterton mới là người ngạc nhiên nhất. Anh bắt đầu gỡ trang bị ra, chỉ để lại đúng túi cứu thương nhỏ mà Chuột đã xếp giùm anh.
“Chúa ơi, thằng nhóc định đi thật” có người nói.
Trung đội bắt đầu vào vị trí để bắn yểm hộ. Mỗi giây qua đi, tầm nhìn của Chatterton hẹp dần và âm thanh càng trở nên xa xôi, cho đến khi anh chỉ nhận biết duy nhất hơi thở gấp gáp và nhịp tim thình thình của mình. Chatterton đã nghĩ đến những khoảnh khắc như thế này ở quân y viện tại Nhật Bản. Anh tin nếu mình phải đối mặt với một quyết định như hiện tại, anh sẽ nhớ về những bài học của ông ngoại. Giờ đây, khi anh sẵn sàng chạy vào lửa đạn để tới chỗ Lacko, anh nghĩ thầm: “Mình sẽ biết được mình là ai.”
Chatterton lao ra bãi đất trống. Một tràng súng nổ ra từ sườn đồi xa bên trái. Đạn bắn tung mù đất quanh Chatterton nhưng anh không dừng lại. Được nửa đường, anh nhìn thấy Lacko nằm trên đám cỏ. Anh tăng tốc. Phía trước đạn nã xối xả. Đằng sau, anh nghe đồng đội bắn trả dày đến độ bầu trời như nổ tung. Chatterton nghĩ mình sẽ chết, anh cứ chờ khoảnh khắc mình ngã xuống, nhưng điều gì đó trong thâm tâm không cho phép anh quay đầu: anh không muốn đi tiếp phần còn lại của cuộc đời mà biết rằng mình là kẻ bỏ cuộc. Một giây sau anh thụp xuống đám cỏ cạnh Lacko.
“Tôi nằm đó, sốc và bắt đầu tê liệt” Lacko nhớ lại. “Và tôi nhìn thấy cậu lính mới, đang tới đây và cậu ta bất chấp tất cả mà tới đây. Tôi không hề quen cậu ấy, tên cũng không biết luôn. Nhưng cậu ấy phi thẳng vào làn đạn. Cậu lính mới đang liều cả mạng sống của mình.”
Chatterton nấp trong đám cỏ bên cạnh Lacko. Đạn xới tung mặt đất xung quanh họ. Chatterton lấy một cái kéo từ túi đồ nghề, xẻ quần của Lacko từ trên xuống dưới và tìm xem động mạch có bị tổn thương không. Không thấy. Có thể di dời Lacko ngay lập tức. Giờ Chatterton phải đưa anh ta quay về sau vách đất – khoảng cách 45 mét mà xa tựa hai đầu Việt Nam.
Chatterton tính vác Lacko lên vai, nhưng người lính bị thương nặng hơn anh hai mươi mấy ký. Chatterton ngồi xuống đằng sau Lacko và nắm lấy hai cánh tay anh. Đạn tiếp tục xối xung quanh hai người. Chatterton bắt đầu đạp chân để lôi Lacko về phía sau, từng chút từng chút một, trong lòng vẫn chờ khoảnh khắc một viên đạn sẽ trúng vào mình. Hai phút sau họ đã thu hẹp khoảng cách tới vách đất còn một nửa. Lúc này trung đội đã định vị được hỏa lực địch và phản công lại đợt tấn công đang hướng vào Chatterton và Lacko. Chẳng mấy chốc hai người chỉ còn cách vách đất ba mét, rồi mét rưỡi, rồi nấp sau nó. Toán lính nhào tới chỗ họ. Không lâu sau, hai trực thăng tiến công Cobra của Hoa Kỳ đã tập kích và nã đạn xối xả vào phía đồi của đối phương. Một trực thăng chuyển thương Huey theo sau hai chiếc Cobra đến và đưa Lacko trong tình trạng sốc tới bệnh viện.
Khi chiếc Huey khuất dần, Chatterton khuỵu xuống đất. Anh bị mất nước và kiệt sức. Anh gần như không biết mình đang ở đâu. Nhưng anh có thể thấy sự thay đổi trong toán lính. Họ nói chuyện với anh. Họ xoa vai anh. Họ cười với anh. Họ gọi anh là “Bác sĩ”.
Khi hành quân qua rừng, một vài người lính hẳn băn khoăn không biết Chatterton sẽ can đảm như thế được bao lâu. Lính cứu thương Mỹ ở Việt Nam ở vị trí đặc biệt nguy hiểm khi tham gia tuần tiễu chiến đấu với đội. Vì nhiệm vụ là cứu trợ lính bị thương, họ thường phải lao vào nơi giao tranh nóng bỏng nhất: quanh bãi mìn, trong tầm bắn tỉa, qua bẫy mìn. Nhưng người lính cứu thương còn phải đối mặt với một hiểm nguy âm thầm hơn: đối phương thường nhắm vào họ hơn bất kỳ ai khác. Giết lính cứu thương nghĩa là binh sĩ nếu gặp nạn cũng không có ai cứu – một cú đánh chí mạng vào tinh thần của đội.
Những ngày sau khi Lacko bị bắn, Chatterton xung phong tham gia mọi cuộc tuần tiễu của trung đội. Mọi người cười khùng khục và vỗ vai anh, giải thích rằng việc tham gia vào tất cả các cuộc tuần tiễu là nhiệm vụ quá tải và nguy hiểm với lính cứu thương. Chatterton thấy xúc động. Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chuyến tuần tiễu đầu tiên và cảm xúc thắng lợi khiến anh choáng ngợp. Anh không thể quay lưng lại với công việc đầu tiên trong đời mà anh có thể thực hiện xuất sắc, công việc mà anh có thể có cống hiến đặc biệt.
Suốt hai tuần sau đó, ngày nào Chatterton cũng tham gia tuần tiễu cùng trung đội. Ngày nào họ cũng phải giao tranh. Chatterton luôn là người chạy tới chỗ đồng đội bị thương. Và anh luôn chạy theo cùng một cách. Trong khi phần lớn lính cứu thương bò từ từ trên mặt đất để giảm thiểu chiều cao, Chatterton đơn giản là đứng thẳng lên, với toàn bộ chiều cao 1 mét 87 và chạy mặc kệ đạn bom. Không lâu sau, “Bác sĩ” đã danh tiếng hơn bất kỳ huân chương hay danh hiệu nào. Bác sĩ, những người lính nói, là đồ điên.
Chatterton ở với trung đội khoảng hai tuần thì nhận tin: Chuột bị giết. Đội của anh bắt được tù binh và Chuột được giao nhiệm vụ trông giữ. Một tay súng bắn tỉa của đối phương lẻn vào tìm kiếm mục tiêu. Người đó đáng ra có thể chọn một trong số vài lính Mỹ trong tầm ngắm, nhưng Chuột, với khẩu côn 45, trông khác số còn lại. Trong mắt đối phương, anh có vẻ là sĩ quan. Tay súng đưa Chuột vào tầm ngắm vào bóp cò, bắn anh vài phát.
Chút ảo tưởng Chatterton còn lại về Việt Nam cũng bốc hơi cùng cái chết của Chuột. Anh đổi khẩu côn 45 lấy súng trường M-16.
Anh tới Việt Nam tìm câu trả lời về Hoa Kỳ và nhân loại, câu trả lời đột nhiên hiển hiện: Hoa Kỳ đã sai khi tới Việt Nam; người ta giết nhau vì con người cũng là thú vật. Anh đã có câu trả lời, nhưng phỏng có nghĩa lý gì. Song Chatterton vẫn xung phong tham gia mọi chuyến đi tuần và chạy tới tất cả đồng đội bị thương và khi tựa vào thân cây thở dốc, anh nghĩ cuộc đời mới đủ đầy làm sao khi người ta thành tài và rồi anh hồ nghi phải chăng anh tới Việt Nam để tìm câu trả lời cho nghi vấn kiểu khác.
“Người ta kể về thằng nhóc Chatterton này” quân y sĩ tiểu đoàn Norman Sakai nói. “Tôi chưa gặp hắn bao giờ. Nhưng điều đầu tiên anh nghe về hắn là hắn đi tiên phong. Tôi nghe mà không thể tin nổi. Lính cứu thương không có nhiệm vụ chiến đấu. Kể cả tham gia tuần tiễu cũng đã là hơi quá. Nhưng đi tiên phong? Làm gì có chuyện lính cứu thương đi tiên phong. Tôi nghĩ thằng này bị điên. Người ta bảo không phải đâu, cậu ấy khác biệt. Mọi người kể chuyện hắn suốt.”
Tuần này qua tháng khác, Chatterton tiếp tục có những cống hiến nổi bật. Anh quan sát mình và đồng đội trong chiến đấu, chứng kiến những người lính sống và chết, lúc quả cảm lúc suy sụp. Anh chú ý kỹ hành vi của những người xung quanh để tìm ra cách sống đúng. Dần dà, anh đúc kết được vài nguyên tắc mà anh tin là chân lý không thể chối cãi và tập hợp chúng trong tâm trí như gói thuốc vào túi cứu thương. Gần hết sáu tháng nghĩa vụ chiến trường, anh tin vào những điều như:
− Việc dễ thì người khác đã làm rồi.
− Theo chân người khác sẽ khiến bạn bỏ lỡ những vấn đề thực sự đáng để bạn giải quyết.
− Sự ưu tú có được từ sự chuẩn bị, tận tâm, tập trung và bền bỉ; khoan nhượng dù chỉ một điều thì bạn sẽ trở nên tầm thường.
− Có những lúc cuộc đời sẽ đưa tới một lựa chọn lớn, điểm giao mà tại đó một người phải quyết định đi hay dừng. Con người sẽ phải sống với quyết định của mình mãi mãi.
− Kiểm chứng mọi thứ. Không phải cái gì cũng giống bề ngoài hay đúng như lời người ta nói.
− Quyết định xuất phát từ một ý thức chân thực về cái đúng cái sai là dễ chấp nhận nhất.
− Những kẻ lo sợ thường mất mạng. Kẻ chẳng bận tâm mà tuyên bố “Tôi coi như đã chết: sống hay chết chỉ là chuyện vặt và điều quan trọng duy nhất là cách tôi nhìn nhận chính mình” sẽ là kẻ hùng mạnh nhất thế gian.
− Quyết định tồi tệ nhất là bỏ cuộc.
Trong bốn tháng, Chatterton ngẫm nghĩ về sống thế nào là đúng, thế nào là sai và anh tiếp tục chiêm nghiệm các nguyên tắc của mình. Cuộc tuần tiễu này nối tiếp cuộc tuần tiễu kia, những người lính tiếp tục ngã xuống, quan điểm của anh dần củng cố và anh bắt đầu tin rằng chính những bài học này là lý do anh tới Việt Nam, rằng thuở bé khi anh nhìn ra Đại Tây Dương và linh cảm mạnh mẽ về những điều mới mẻ bên kia chân trời, chính những bài học ấy là thứ vẫy gọi anh: bài học về cách sống của một con người.
Tháng sáu năm 1971, sau thời hạn phục vụ 12 tháng, Chatterton về nước nghỉ phép hai tuần trước khi quay lại Việt Nam để tự nguyện phục vụ thêm sáu tháng. Mẹ anh nhìn anh kinh ngạc. Con trai của bà không chịu ngồi trên ghế hay ngủ trên giường mà chỉ sống trên sàn. Anh ngồi khoanh chân dưới đất, dùng đồ ăn đặt trên bàn trà. Khi bà hỏi, anh yên lặng hồi lâu rồi bật khóc và kể với mẹ về những người lính mất phần sọ sau và thét gào đòi mẹ, về cái đói, về lần đầu anh giết người, chứng kiến những điều tồi tệ nhất một con người có thể chứng kiến. Sau đó anh lại rơi vào im lặng.
Mẹ anh nhấc máy gọi một người bạn của gia đình có sức ảnh hưởng trong quân đội. Chatterton không quay lại Việt Nam nữa. Anh được phân về một trạm xá ở Fort Hamilton ở Brooklyn và bắt đầu có thái độ xấu. Quân đội đưa anh tới gặp bác sĩ tâm thần; anh giả bộ chiều theo ý họ và lấy được chứng nhận khỏe mạnh. Anh cưới một cô gái quen từ thời trung học rồi nhận ra đó là một sai lầm và mấy tháng sau thì hủy hôn. Đó là cuộc sống của anh trong hai năm: chấm công, cảm thấy giận dữ và bối rối, băn khoăn về tương lai, cho đến khi anh hoàn thành bốn năm cam kết làm việc trong quân đội.
Và Chatterton quyết định bỏ lại tất cả phía sau.
Từ 1973 đến 1978, Chatterton loay hoay tìm chỗ đứng cho mình. Ở Florida, anh thử làm việc ở bệnh viện và học đại học. Sau khi cha anh mất vì đau tim năm 1973 ở tuổi 48, anh chuyển đến New Jersey và mở một doanh nghiệp xây dựng nhỏ ở thị trấn nghỉ dưỡng Cape May. Chẳng có công việc nào mang đến cảm giác xuất chúng anh từng có ở Việt Nam, thứ cảm giác mà anh đã mất kể từ khi về Hoa Kỳ.
Mùa xuân năm 1978, Chatterton cuốc bộ ra cầu tàu Cape May để gặp người quen giúp xin làm việc trên một thuyền đánh bắt điệp địa phương. Một ngày sau, anh ra khơi. Đoàn thủy thủ giải thích công việc: thuyền kéo hai lưới vét sắt rộng ba mét dọc đáy biển. Mỗi nửa giờ, lưới sẽ được kéo lên và những thứ trong lưới được đổ lên boong. Thủy thủ sẽ bới nhặt sò trong những thứ vét lên từ đại dương và ném phần còn lại xuống biển. Sau đó, họ sẽ mang sò tới khu chế biến để tách vỏ. Khi Chatterton hỏi anh sẽ tham gia ở khâu nào, họ đáp: “Tất cả.”
Chatterton bắt đầu với việc nhặt sò. Anh học cách cắt và hàn thép, buộc nút, bện cáp, nói cách khác là làm tất cả những gì cần làm, rất phù hợp với bản năng của anh. Những đầu bếp râu ria xồm xoàm hiểu điệp và tôm hùm hơn cả bếp trưởng nhà hàng năm sao ở Paris cho anh ăn uống như ông hoàng. Nhưng tạo cho anh nhiều cảm hứng nhất là ngắm nhìn đáy đại dương hiện lên trên boong tàu. Chiếc lưới vét khổng lồ kéo lên tất cả mọi thứ ở đáy Đại Tây Dương: bên cạnh hàng chồng điệp là lưới đánh cá Nga, sọ cá voi, bom, đạn đại bác, răng của voi răng mấu, súng hỏa mai. Và hiện vật từ tàu đắm. Rất nhiều hiện vật từ tàu đắm. Những thủy thủ khác coi đám hiện vật đó là rác. Với họ, điệp nghĩa là tiền, mọi thứ khác là rác để quăng qua mạn tàu. Với Chatterton, chỉ “mọi thứ khác” mới có nghĩa.
Thuyền trưởng trả cho Chatterton ba ngàn đô la và nửa yến điệp cho mỗi chuyến đi chín ngày − một khoản đẫy vào năm 1978. Tuyệt hơn nữa là Chatterton đã có vị trí trên tàu. Anh đi thêm vài chuyến trong năm đó: có chuyến thành công, có chuyến thất bại, nhưng không chuyến nào là thiếu những hiện vật dưới đại dương khơi gợi trong tâm trí anh bao nhiêu cảnh tượng. Anh bắt đầu tha chúng về cho đến khi nhà anh trông như tàu cướp biển trong một bộ phim hạng B: ti vi đặt trên bẫy tôm hùm, sọ cá voi treo trên tường, xương cá voi trên mái, một chiếc lưới đánh cá của Nga giăng trên trần và làm bẫy rơi xuống đầu khách khi họ đi qua cửa trước.
Suốt hai năm, Chatterton có thu nhập dư dả và học về biển cả trong vai trò ngư dân đánh bắt điệp. Anh hay thề sẽ học lặn scuba nhưng lịch làm việc thất thường và vất vả không cho phép anh thực hiện ý định đó. Chatterton tự hứa rằng khi nào khá hơn, anh sẽ đeo bình khí và tận mắt ngắm nhìn đại dương.
Năm 1980, rủng rỉnh sau một chuyến đánh bắt điệp thành công, Chatterton gặp Kathy Caster − đồng chủ nhân của một nhà hàng nhỏ bên bến cảng ở Cape May. Hai người chưa kịp uống xong ly đầu tiên, anh đã biết mình có hứng thú với cô. Trong khi nhiều phụ nữ Chatterton biết lựa chọn con đường an toàn và dễ đoán, Kathy lại sống đầy sáng tạo và cởi mở. Cô lớn lên tại thành phố Atlantic gần đó nhưng đến thử nghiệm cuộc sống ở California sau khi tốt nghiệp trung học. Cô diện váy kiểu đồng quê, áo khoác da cừu, mái tóc vàng kiểu Stevie Nicks và thái độ sống ngày nào hay ngày nấy rất chất. Khi có người nói về Woodstock20*, cô bảo rằng mình không những từng tham dự đại nhạc hội mà cô còn sống luôn ở thị trấn đó.
Có lẽ Chatterton yêu tính thực tế của Kathy hơn cả. Cô không ngó ngàng đến những hoạt động của con gái như nhiều phụ nữ anh biết. Cô ghét các tiệm làm đẹp và cho rằng việc mua sắm thật tẻ nhạt. Cô thích thể thao và các hoạt động ngoài trời và cô tôn trọng việc Chatterton kiếm sống từ biển bằng lao động chân tay.
Và Kathy không tỏ vẻ e sợ anh. Anh đã 29 tuổi nhưng không có ý định học đại học. Anh đi biển hàng tuần liền mỗi lần trong bão tố khủng khiếp. Anh còn xa mới tìm được chính mình. Kathy tôn trọng những phẩm chất ấy. Khi Chatterton nói với cô rằng anh không rõ hướng đi của đời mình, cô nói rằng cô tin tưởng vào anh.
Kathy và Chatterton dọn về sống với nhau. Anh mua cho cô một khẩu súng lục chín li để phòng vệ ở nhà khi anh đi biển. Tại trường bắn, anh khâm phục khả năng dùng súng của cô: cô chưa từng cầm súng nhưng liên tục bắn trúng hồng tâm. Đây là kiểu phụ nữ anh thích. Cả hai không vội cưới và sinh con; mối quan hệ có gì đó thư thái và cởi mở. “Nếu một người phụ nữ có thể chịu được đống xương cá voi này” Chatterton nghĩ, “thì có lẽ cô ấy cũng chịu được mình.”
Cặp đôi sống với nhau chưa đầy một năm thì vào năm 1981, thị trường điệp sụp đổ và thu nhập của Chatterton lao dốc. Quán ăn của của Kathy đã đóng cửa trước đó, khiến tài chính của hai người trở nên eo hẹp. Chatterton đăng ký tham gia một chuyến đi cực khổ dài 17 ngày. Khi thuyền trưởng ký cho anh một tờ séc 85 đô la lúc kết thúc chuyến, anh biết đã đến lúc rời bỏ ngành đánh bắt điệp.
Ở nhà, anh và Kathy bàn tính tương lai. Trợ cấp cựu binh của anh sẽ hết hạn trong một năm nữa vào năm 1983, nên nếu anh tính đi học trở lại thì phải làm ngay. Chatterton có hứng thú với máy tính và cho rằng tương lai sẽ thuộc về máy tính. Anh đăng ký một khóa lập trình và nhận được ngày nhập học.
Đêm trước ngày đi học đầu tiên, Chatterton tỉnh giấc và ngồi bật dậy. Anh lay Kathy tỉnh. Cô nghĩ anh bị ác mộng hoặc nhớ lại chuyện ở Việt Nam. Cô chụp tay anh mà không bật đèn.
“Kathy, Kathy, Kathy này…”
“John à, có chuyện gì thế?”
“Anh không thể trở thành lập trình viên máy tính được.”
“Thế là sao ạ?”
“Anh không thể dành cả cuộc đời ngồi dưới đèn tuýp được.”
“ OK, OK. Anh phải sống sao cho hạnh phúc, John ạ.”
“Anh biết mình sẽ làm gì. Anh sẽ trở thành thợ lặn chuyên nghiệp.”
“ Là việc gì thế?”
“Anh không biết chính xác. Anh chưa biết, nhưng cảm giác việc đó hợp với anh… một thợ lặn chuyên nghiệp.”
Anh ngủ tiếp, trong lòng thấy thỏa mãn.
Chatterton không biết thợ lặn chuyên nghiệp làm việc gì và làm ở đâu. Nhưng anh cảm thấy như mây đã tan và Mặt trời đang tỏa nắng. Ngày hôm sau, anh lao ra mua một quyển tạp chí Skin per. Bên trong là quảng cáo của các trường dạy lặn thương mại. Ý tưởng hóa ra là hoàn toàn hợp lý. Anh có kinh nghiệm làm mộc, làm thép, y tế hô hấp và lặn. Anh cảm thấy thoải mái trong nước. Một trường ở Camden có lớp. Hai tháng sau, anh lái chiếc Gremlin tím tới trường đó để theo đuổi ước mơ mới.
Chỉ mới ở trong lớp mấy phút, Chatterton đã kết luận lặn thương mại quả thực là đam mê của đời anh. Huấn luyện viên nói thợ lặn chuyên nghiệp là công việc độc nhất vô nhị, đòi hỏi ứng biến và giải quyết vấn đề tại chỗ, làm việc trong những môi trường khắc nghiệt và biến động nhanh chóng. Chatterton phải cố lắm mới ngồi yên. Đây là kiểu môi trường để anh có thể phát huy tốt như ở Việt Nam.
Anh thích cả những dụng cụ gân guốc của nghề này: mũ cát “Nồi DESCO” bằng đồng đúc nặng 11 ký, những vòi khí nối thợ lặn với máy phát khí trên thuyền, những chiếc găng tay cao su tổng hợp dày, bộ đồ lặn khô − tất cả tự nhiên và vừa vặn như chính làn da của anh. Khóa học bốn tháng dần trôi, Chatterton tự hỏi sao anh có thể sống lâu đến vậy mà không biết người ta có thể kiếm tiền bằng cách lặn.
Tốt nghiệp xong, Chatterton ký hợp đồng với một cơ sở lặn thương mại hoạt động ở cảng New York. Trong tháng đầu tiên anh thực hiện khoảng 50 chuyến lặn, chuyến nào cũng có khung cảnh và thách thức riêng. Trong cùng một tuần, anh có thể nhận yêu cầu phá bê tông dưới nước, thử nghiệm bọc cọc tại bãi đáp trực thăng của Cảng vụ hoặc hàn một rầm đỡ gỉ sét bên dưới phố Nam. Lần nào anh cũng nói với sếp: “Tôi làm được.”
Chatterton đối mặt với những thách thức khổng lồ trong vùng nước bên dưới đảo Manhattan. Anh thường phải làm việc với tầm nhìn 0: trong đường hầm, hang hoặc dưới các cấu trúc dầy đặc bùn và cặn lắng đến mức có áp tay vào mặt nạ cũng không thấy nổi tay. Anh phải luồn mình vào những khoảng hẹp không dành cho con người, rồi thực hiện công việc tỉ mỉ trong đó. Găng tay cao su tổng hợp dày làm rối loạn xúc giác. Vào mùa đông, bộ đồ lặn khô của anh chẳng khác gì màng bọc thực phẩm trong làn nước lạnh buốt của cảng New York. Mỗi đêm thủy triều lại phá hoại những gì anh đã làm được hôm trước.
Ở nhà, Chatterton nói với Kathy: “Nghề này sinh ra dành cho anh.” Anh cảm thấy được là chính mình khi ở dưới nước, thư giãn khi kẹp giữa những rầm sắt, bình tâm dù không nhìn thấy gì. Anh nhận mọi yêu cầu − một thói quen thân thương xưa cũ.
Chatterton thích thử thách bản thân. Những ngày tầm nhìn về 0, anh áp thân mình vào những ngóc ngách xung quanh, tập hợp những cảm nhận từ khuỷu tay, đầu gối, cổ và cả chân nhái cho đến khi quang cảnh xung quanh hiện rõ trong trí óc. Anh biến mọi bộ phận thân thể thành bàn tay, chẳng hạn đồng thời áp đùi trái vào một vách tường để định hướng, gối phải lên trên một bộ cờ lê quan trọng và thò một chiếc ủng qua lỗ hổng để giám sát sự thay đổi của dòng nước. Ở trong nước đủ lâu, xúc giác của anh được mài giũa tới độ có thể phân biệt được thép thường và thép cháy chỉ bằng nhịp rung của mỗi thứ dưới lưỡi dao. Thông thường, anh chỉ cần quệt mắt cá chân hoặc đai tạ vào vật thể để đoán định dạng và trạng thái của nó.
Làm việc không nhờ thị giác giúp giải phóng trí tưởng tượng của Chatterton. Anh bắt đầu vẽ kịch bản cho những chuyến lặn, tưởng tượng cách một cái khoen sẽ rơi nếu tuột khỏi tay anh, cách anh tái định hướng trong một đường hầm nếu một thanh rầm đỡ bị gãy, cách anh trườn qua khe nứt của một cái hang nếu cửa hang bị sập. Dần dà sau một năm, anh tin mình có thể nhìn bằng trí óc và cơ thể rõ như nhìn bằng mắt và điều này cho anh một sự bình tâm không thể tự luyện mà có. Khi sự cố xảy ra dưới nước, dù trong đêm đen tuyệt đối hay giữa hỗn loạn dâng cao, anh cũng không hoảng loạn vì anh tin mình vẫn nhìn được. Chẳng mấy chốc anh bắt đầu xử lý những khoảng không hẹp nhất, nguy hiểm nhất trong nghề lặn thương mại. Anh cảm nhận bằng thân thể, bằng thiết bị, bằng dụng cụ với sự tự tin rằng chừng nào còn có thể vẽ nên những bức tranh trong tâm trí thì mình còn an toàn. Đội trên mặt nước bắt đầu gọi anh là thợ lặn bẩm sinh.
Nếu tầm nhìn tốt, anh quan sát mọi thứ. Anh nghiên cứu cách vật thể rơi trong nước, tác động của dòng chảy lên cặn lắng, các giai đoạn phân hủy của kim loại, quy luật vờn của nước quanh những vật nhân tạo, hướng của những dăm gỗ vùi trong cát. Tất cả đều thú vị đối với anh. Tất cả, anh tin, sẽ có ích trong những chuyến lặn sau, dù hiện anh không biết chúng sẽ có ích theo cách nào.
Anh lập kế hoạch không ngừng. Khi đang lái xe đi làm, anh diễn tập những động tác khi lặn như cách vũ công ba lê hình dung trước bài biểu diễn, sắp xếp thứ tự các bước và thậm chí tính cả trình tự sử dụng công cụ. Anh sẽ không xuống nước nếu chưa yên tâm rằng kế hoạch đã tính tới mọi tình huống bất ngờ. Anh nhớ rõ những người lính ở Việt Nam khi buộc phải hành động mới bắt đầu suy nghĩ đã có kết cục thế nào. Bằng cách này, anh giảm thiểu việc phải ra quyết định trong nước, khi hàng loạt yếu tố khác có thể tác động đến sự sáng suốt của anh.
Trên hết, Chatterton nhất quyết không bỏ cuộc. Anh bắt đầu hiểu rằng thợ lặn chuyên nghiệp có thể là thợ hàn hàng đầu, chuyên gia phá dỡ, thợ lắp đặt đường ống xuất chúng, nhưng nếu anh không vì bản năng và máu nghề nghiệp mà hoàn thành nhiệm vụ, bằng mọi giá, anh sẽ không bao giờ giỏi. Chuyện “bằng mọi giá” xảy ra hằng ngày trong nghề lặn thương mại và chính những khoảnh khắc ấy là lẽ sống của Chatterton. Anh nhận ra rằng mình đã sống vì những khoảnh khắc ấy từ rất lâu rồi. Một hôm, anh làm vỡ kính hàn trên mũ lặn. Thay kính sẽ làm chậm tiến độ, anh quyết định nhắm mắt lại, hàn không dùng kính: một thợ hàn mù. Những người bên trên trố mắt khi thấy Chatterton nổi lên với chiếc kính vỡ và nói: “Xong việc rồi anh em ạ.” Tối đó, Chatterton lái xe về nhà, trong lòng hạnh phúc vì đã tìm được đam mê − sự nghiệp cho phép anh một lần nữa đạt đến sự ưu tú.
Năm 1985, Chatterton đã là thành viên công đoàn công nhân cảng và chuyển tới Hackensack, New Jersey. Có thu nhập và quyền lợi tuyệt vời từ nghề lặn thương mại, anh dành phần lớn thời gian rảnh để lặn scuba ở những bãi biển gần đó, đặc biệt là tại nhà tĩnh tâm đạo Kitô gần đó, nơi có hai con tàu, một bằng thép một bằng gỗ, đắm ở vùng nước nông cách bờ chỉ hơn trăm mét. Chatterton mày mò chúng không biết chán.
Hai xác tàu nhỏ khơi gợi tính tò mò của Chatterton. Anh ghé qua một tiệm đồ lặn để hỏi về những xác tàu lân cận. Một nhân viên hất hàm về phía một chồng tờ rơi in bằng khuôn màu xanh thông báo lịch thuê thuyền sắp tới của tiệm. Chatterton nhìn qua những dòng chữ nhoè, cảm thụ những cái tên tuyệt diệu như USS San Diego, Mohawk và Tháp Texas. Trong danh sách các chuyến trong tháng tám có một cái tên khiến anh dừng hình: Andrea Doria. Chatterton không tin vào mắt mình: chiếc Andrea Doria lừng danh, đã đi vào lịch sử. Truyền hình đã phát những phim tài liệu về nó. Anh hỏi người nhân viên liệu còn chỗ trên chuyến đi Andrea Doria không.
“Chiếc Doria là đỉnh Everest đấy anh bạn” người nhân viên nói. “Nó chỉ dành cho những người giỏi nhất. Người ta từng bỏ mạng trên Doria rồi. Anh bắt đầu từ những thứ nhỏ hơn đi.”
Chatterton đăng ký những chuyến tới các xác tàu khiêm tốn ven bờ. Chuyến nào cũng cho anh nhiều kỳ thú với phần lịch sử anh hình dung về con tàu. Sự hớn hở của anh khi trở về sau chuyến lặn lớn đến nỗi Kathy cũng đăng ký học lặn. Hai người cùng nhau khám phá hàng chục xác tàu gần đó và chỉ thế thôi cũng đủ để thỏa mãn Kathy. Nhưng Chatterton ngày càng thêm khao khát. Anh quyết định học lấy chứng chỉ huấn luyện viên lặn scuba ‒ cách hợp lý nhất anh biết để chuẩn bị lặn ở Doria.
Cuối hè 1985, một chủ tiệm đồ lặn để ý thấy đam mê lặn thám hiểm của Chatterton và gợi ý anh gia nhập một nhóm thợ lặn nhiều kinh nghiệm trên Seeker − chiếc thuyền lặn do Bill Nagle sở hữu và vận hành. Nagle là một huyền thoại trong làng lặn thám hiểm. Chủ tiệm nói với anh: “Nagle có thể là tên khốn thô lỗ, nhưng hai người có vẻ có chung một tinh thần trong chuyện lặn đấy.”
Seeker khiến Chatterton được mở mắt. Nagle và khách của anh mang bình khí kép, búa tạ, xà beng, đèn dự phòng và ba con dao. Họ nghiên cứu sơ đồ boong tàu và ra khơi, xa đến đâu cũng được, để khám phá những xác tàu tuyệt nhất. Đôi khi họ theo đuổi những tọa độ đáng ngờ với hy vọng tìm được một xác tàu mới toanh. Chattert