Chương 5 Sâu hãi hùng
CHATTERTON BƯỚC VÀO TRONG U-505 − chiếc U-boat thời Thế Chiến II trưng bày ở Bảo tàng khoa học và công nghệ Chicago. Tứ phía là những cơ chế diệu kỳ nhô lên từ vách và thả xuống từ trần trong một khu rừng công nghệ: đồng hồ đo, núm vặn, ống dẫn, ống phát thanh, đường nước, van, điện đài, định vị thủy âm, cửa ngăn, công tắc, tay đòn. Mỗi phân mỗi tấc đều là một lời phản bác lại suy nghĩ con người không thể sống dưới nước.
Nơi rộng nhất may ra được 1,2 mét chiều ngang và 1,8 mét chiều cao, nhiều chỗ không đủ cho hai khách tham quan nhí đứng sóng vai. Để đi vào một số nơi, thủy thủ trên tàu sẽ phải lách đầu trước chân sau qua một một cửa thép tròn. Không một ai, kể cả chỉ huy, có giường nằm vừa người.
Lời thuyết minh phát qua tai nghe của Chatterton kể về cuộc sống trên U-boat. Đoàn thủy thủ chia làm ba ca ngủ trên những chiếc giường tầng tí hon. Khoang ngư lôi mũi tàu, nơi rộng nhất trên U-boat, có đủ chỗ cho hơn 20 thủy thủ ngủ, làm việc và ngồi dùng bữa trên những hòm khoai tây, đồ hộp, xúc xích với tối đa sáu ngư lôi. Biển động thường biến những chiếc U-boat như chiếc này thành đồ chơi trong bồn tắm, ném thủy thủ văng khỏi giường và lắc cái nồi nấu ăn duy nhất của tàu rơi khỏi lò đun nhỏ như đồ chơi búp bê. Trong biển băng, hơi nước đọng lại nhỏ xuống từ những ống trên trần, làm lạnh cứng đầu và cổ thủy thủ. Thường thì nơi duy nhất để trốn rét là khoang động cơ diezen, nơi hai động cơ khổng lồ gầm thét bản nhạc kim loại điếc tai, khiến nhiệt độ buồng lên gần 40 với độ ẩm cao đến khó thở và gây mất thính giác cho người vận hành. Khí CO từ động cơ gây mất tỉnh táo, làm rối loạn giấc ngủ và lấn át hương vị mọi món ăn mà anh nuôi có thể chế ra từ căn bếp nhỏ như lỗ mũi.
Chatterton thấy hệ thống thông hơi được thiết kể để đảm bảo tính mạng chứ không tiện nghi. Chỉ một thời gian ngắn là U-boat đã bốc mùi. Tuy hầu hết các tàu có hai phòng vệ sinh, còn gọi là “mũi*” nhưng một phòng thường dùng để đồ dự trữ, phòng còn lại phải phục vụ đến 60 người. Dội nước hố xí là kỹ năng tinh tế phải được huấn luyện; nếu làm không đúng cách, nước biển có thể tràn ngược vào và thậm chí đánh đắm tàu. Thời gian đầu của cuộc chiến, khi U-boat dành phần lớn thời gian trên mặt nước, người ta quăng rác khỏi tàu. Về sau, khi tàu phải ở dưới nước liên tục để tránh bị phát hiện, đoàn thủy thủ buộc phải ứng biến khi đống rác bắt đầu bốc mùi. Họ nhồi rác vào các ống phóng lôi và nhấn “BẮN” vài ngày một lần. Họ gọi thao tác này là Müllschuss, hay “pháo rác”. Không bao lâu thì mùi người còn nồng nặc hơn mùi rác. Tàu ngầm không có mấy chỗ cho vật dụng cá nhân, kể cả chỗ để quần áo. Không mấy người có đồ lót để thay, họ thường chọn “quần lót đĩ” − một chiếc quần đùi đen duy nhất giấu được vết tích một tháng lênh đênh ngoài biển. Chatterton nghĩ “Không thể tin 60 người chui rúc trong này hàng tháng trời vào cái thời họ khủng bố cả thế giới.”
Chatterton chậm rãi di chuyển cùng thiết bị thuyết minh, cứ vài giây lại nhấn STOP một lần để định hướng và ghi nhớ kỹ lưỡng. Anh nghiên cứu kết cấu các kệ, bộ phận, đồng hồ đo và sàn, tưởng tượng chúng khi bị hải quỳ và gỉ sét bao phủ sau 50 năm dưới đáy Đại Tây Dương. Anh nghển cổ nhìn các máy móc và những khu vực cấm vào, tìm kiếm bất kỳ thứ gì như một cái nhãn, bảng của nhà sản xuất, nhật ký… có ghi số hiệu của tàu để anh tìm thứ tương tự ở New Jersey. Tất cả những gì anh làm đều khiến du khách khác khó chịu. Anh làm tắc hành lang vốn đã chật, lủi vào trẻ con, chen qua người già. Khi một hướng dẫn viên yêu cầu anh di chuyển, anh rời khỏi U-boat, xếp hàng để đi lượt nữa.
Lần thứ hai anh chỉ giả vờ nhấn nút trên thiết bị hướng dẫn. Ở khu sĩ quan, anh ghi nhớ những tủ gỗ có vẻ sẽ sống sót sau nửa thế kỷ ngâm nước và đựng các hồ sơ quan trọng. Anh dừng hết năm phút trước bàn hải đồ, làm bộ không nghe thấy người ta phàn nàn đằng sau. Chiếc bàn hải đồ nằm dưới hàng kệ thiết bị điều hướng. Nếu tìm được những thiết bị ấy trên con tàu đắm, anh có thể sẽ có manh mối quan trọng để định danh nó.
Anh lại xếp hàng. Lần này, kế hoạch của anh là quan sát cách U-505 chìm dưới chân mình. Trrong đầu anh là những thước phim về con tàu đắm do bị bắn, do ngập nước, do nổ từ bên trong hay do hỏng hóc thiết bị. Trong mỗi bộ phim, anh tưởng tượng cách các căn buồng trước mắt sập, thiết bị treo tường rơi xuống, sàn tàu xô lệch, mảnh vụn cuộn lên. Anh tưởng tượng những nơi thành tàu có thể nứt ra, cho phép thợ lặn thâm nhập và nơi phù hợp nhất để bơi qua. Anh xếp hàng thêm sáu lần cho đến khi thuộc nằm lòng những thước phim ấy như thuộc các tập phim Honeymooners, còn hướng dẫn viên phải nhếch miệng cười khi anh giả vờ sử dụng tai nghe.
Ở sân bay O’Hare, Chatterton mua một cuốn sổ viết, một cây bút, một bút đánh dấu màu hồng và bắt đầu phác họa chiếc U-505. Anh đánh dấu mực hồng những chỗ có khả năng tìm được nhãn định danh hoặc những hiện vật hữu ích khác. Anh ghi chú bên lề như sau: “bảng nhà sản xuất trên kính tiềm vọng và làm bằng đồng, có thể chính là đây.” Khi bước lên máy bay quay về New Jersey, anh nghĩ “Mình đã đạt được mục đích khi đến đây. Mình đã có được cảm nhận, khái niệm và ấn tượng về U-boat.”
Chuyến đi quay lại con tàu ngầm bí ẩn được xếp vào thứ bảy, ngày 21 tháng chín năm 1991. Đoàn thủy thủ và hành khách vẫn như lần trước, trừ việc thêm một người và bớt một người: Ron Ostrowski bận việc gia đình và không thể tham dự, bổ sung vào danh sách là Dan Crowell − một thuyền trưởng và thủy thủ thâm niên của Seeker, đã bị lỡ chuyến đầu vì công chuyện. Khi ngày lớn gần tới, các thợ lặn hồi hộp đến đứng ngồi không yên.
Một số người, như Doug Roberts và Kevin Brennan, giết thời gian bằng cách kiểm tra an toàn thiết bị và tinh chỉnh cài đặt. Những người khác, như Kip Cochran, Paul Skibinski và John Yurga, tiếp tục nghiên cứu cấu tạo U-boat và các thông tin liên quan, hy vọng kiếm được manh mối giúp họ giải mã bí ẩn về con tàu. Tất cả đều tận hưởng cảm giác bồn chồn trông ngóng. Thợ lặn thám hiểm dành cả sự nghiệp mơ có dịp viết nên lịch sử. Và họ chỉ cách cơ hội đó ba ngày.
Có lẽ không ai phấn khích hơn Steve Feldman, nhân viên hậu đài 44 tuổi làm việc cho studio truyền hình của CBS, cũng là người đã cảm ơn Chatterton cuối chuyến đi khám phá đầu tiên. Feldman bắt đầu lặn scuba mười năm trước sau cuộc ly hôn đột ngột khiến anh choáng váng. Lúc ấy Feldman cô độc, béo phì và trầm cảm. Anh đốt hết bao thuốc Parliament này đến bao khác. Trong mắt bạn bè, anh là một người tử tế, khiêm nhường và họ không thể chứng kiến anh đau khổ thêm nữa. Bạn anh gợi ý anh học yoga, lặn scuba, tập gym, cái gì cũng được, miễn là anh có thể quay lại với cuộc sống bình thường. Với chất giọng New York đặc sệt, anh chỉ nói “Khồnggg….”
Một ngày nọ, anh ép mình đăng ký học lặn scuba. Dưới nước, một thế giới như mở ra với anh. Mọi thời gian rảnh anh đều dùng để tập lặn. Anh giảm cân và lấy lại gương mặt xưa: vẻ điển trai kiểu Địa Trung Hải với ria mép đen dày và đôi mắt xanh sáng. Anh cai thuốc, mua thẻ gym, tất cả để phụ trợ cho việc lặn.
Trong vài năm tiếp theo, Feldman lặn ở những vùng nước nông và ấm. Môn lặn thay đổi anh. Với Feldman, nước là thế giới nguyên thủy hơn, nơi người ta được là chính mình. Anh có bạn gái. Anh trở thành khách hàng thường xuyên trên những chuyến “săn bọ” vào thứ tư của thuyền trưởng Paul Helper, rồi nấu tôm hùm bắt được cho nhân viên trường quay và diễn viên phim truyền hình ở bếp của CBS. Anh mua cái lều để thay đồ trong những chuyến lặn bãi biển mùa đông.
Chẳng bao lâu sau, anh làm quen với lặn thám hiểm. Anh hiếm khi lặn sâu hơn 30 mét và cũng chỉ thăm bề mặt xác tàu, nhưng anh mê cái không khí lịch sử tỏa ra từ những con tàu đắm. Anh đăng ký mọi chuyến lặn thám hiểm mà anh biết. Giống nhiều người New York, anh không có xe hơi nên sẽ đứng trên vỉa hè ngoài căn hộ của mình ở phố 97 giữa hai đại lộ Tây công viên Trung tâm và Columbus, đeo trên lưng và bên hông đống đồ nghề lặn nặng cả tạ, cố vẫy taxi. Đa số tài xế sẽ giảm tốc để nhìn người đàn ông kỳ dị rồi nhấn ga phóng đi mất. Bạn của Feldman thích cái hình ảnh đó, nhưng họ yêu nhất là vẻ vui sướng của anh khi ngắm nhìn nét mặt những tài xế khi họ đi qua và việc anh không bao giờ lấy làm bực bội ngay cả khi phải đứng vẫy xe dưới mưa.
Feldman lên thuyền trong trang phục đã thành thương hiệu cá nhân: mũ lưỡi trai không logo, quần bò, áo thun, tay cầm một hộp lớn mỳ Quảng Đông sốt đậu phộng. Dù biển động tới đâu, dù lặn khó cỡ nào, Feldman vẫn ăn món mỳ đó và chiếc hộp rỗng trong thùng rác là dấu hiệu khẳng định “Feld” đã ở trên thuyền.
Ít lâu sau, Feldman trở thành huấn luyện viên. Anh thăm những xác tàu sâu hơn − 35, 50 mét − nhưng chủ yếu vẫn ở vùng nước ấm và nông, nhường những thứ khó nhằn ven bờ đông cho những tay lặn lão luyện. Khi Paul Skibinski − một người quen từ những chuyến săn bọ của Hepler − rủ anh truy tìm tọa độ của Bill Nagle, anh vồ lấy cơ hội. Cái tên Nagle và Chatterton và Seeker đã là huyền thoại trong vùng. Đây là cơ hội để anh lặn với những bậc thầy.
Sau chuyến lặn khám phá, Feldman trở thành con người mới. Anh đã vỡ nước bên các cao thủ, anh đã chạm đáy ở 70 mét − sâu hơn anh hằng mơ tưởng. Anh là một phần của một hội kín sắp viết nên lịch sử. Và biết đâu anh sẽ là người định danh con tàu. Chiều thứ bảy khi sắp sửa khởi hành trở lại U-boat, anh mua một hộp lớn mỳ Quảng Đông sốt đậu phộng và lôi đồ nghề ra phố. Mười năm trước anh lạc lối. Hôm nay, khi những tài xế taxi trố mắt nhìn và phóng qua anh, anh tin tưởng tuyệt đối vào con đường của mình và đây là lý do Feldman yêu lặn, luôn luôn là thế: dưới nước, tự thân vận động, người ta có quyền là chính mình và vì thế anh ta sẽ không bao giờ lạc lối.
Seeker rời bến Brielle khoảng một giờ sáng để trở lại chiếc U-boat bí ẩn. Biển đêm khá lặng và thuận cho giấc ngủ, nhưng ai cũng thức. Các thợ lặn dự tính thế này: có 13 tay lặn trên thuyền, mỗi người có thể lặn hai lần, tổng cộng là 26 chuyến để ai đó có thể kiếm được món đồ giúp định danh con tàu. Hôm nay, ai đó sẽ làm nên chuyện.
Chỉ một người là không phấn khích. Trong buồng lái, Nagle có vẻ bồn chồn khi anh điều chỉnh hệ thống loran và lái Seeker ra khỏi lạch.
“Có chuyện gì không ổn à Bill?” Chatterton hỏi.
“Tôi lo sẽ có tên khốn nào đó cướp tọa độ của mình” Nagle nói. “Đã có tin rò rỉ là chúng ta sắp trúng mánh lớn.”
“Tin rò rỉ ra rồi, đúng không?” Chatterton hỏi. “Có vẻ thế” Nagle nói.
“Hừm, không biết làm thế nào mà tin lộ ra nhỉ!” Chatterton cười, chất giọng sang sảng của anh vọng xuống cabin chính bên dưới. “Nếu khóa được cái miệng mẻ của anh lại một ngày thôi, Bill ạ, thì có lẽ anh đã được thư giãn hôm nay.”
“À, mẹ kiếp. Có phải mỗi tôi hở ra đâu.”
“Nghe này, Bill. Không ai ngoài chúng ta ra xa bờ 90 km cuối tháng chín cả. Bielenda và những tên kia sẽ không làm được trò trống gì đâu. Kể cả nếu chúng nghe phong thanh tụi mình đang có gì đó hay ho, chúng cũng quá lười nhác để động tay động chân. Chúng sẽ chờ chúng ta làm xong các việc khó trước đã.”
“Phải, John ạ, chắc cậu nói đúng…”
“Gượm đã! Bill, nhìn kìa!” Chatterton trêu. “Mạn phải có Bielenda kìa! Hắn đang bám đuôi mình đấy!”
“Cút.”
Sáu tiếng sau, Seeker tới nơi. Các thợ lặn vận đồ nghề. Chatterton sẽ vỡ nước trước và buộc dây, rồi tiếp tục lặn riêng. Trong khi các thợ lặn khác định chọn một điểm để tìm nhãn hoặc manh mối định danh khác, Chatterton dự tính bơi dọc tàu, định hướng theo những gì anh nhớ được từ bảo tàng Chicago. Anh không tìm gì mà chỉ muốn có ấn tượng về con tàu. Chỉ khi hiểu con tàu thì anh mới tự tin lập kế hoạch tiếp cận nó. Với chiến lược này, có khả năng cao một thợ lặn khác sẽ tìm ra danh tính con tàu trước anh, nhưng Chatterton chấp nhận rủi ro. Anh đặt cược cả nghề lặn của mình lên nguyên tắc chuẩn bị là tối thượng, nên anh sẽ không đào xới lung tung mong gặp may.
Chatterton trượt xuống theo dây neo. Tầm nhìn khá tốt, khoảng sáu mét. Khi gần chạm đáy, anh có thể thấy neo móc đã mắc vào một khối kim loại nằm cạnh con tàu trên nền cát. Dáng chữ nhật của nó không thể lẫn vào đâu: đây là tháp chỉ huy − đài quan sát ở trên đỉnh con tàu. Anh bơi về trước vài mét. Giờ anh có thể nhìn thấy con tàu ngầm. Nó nằm trên cát, nguyên vẹn, hình thù y hệt trong sách ảnh trừ một điểm nổi bật: con tàu này có một lỗ lớn bên sườn, dễ dài đến năm mét và rộng chín mét. Chatterton hiểu kim loại. Vết thương này chỉ có thể là kết quả của một thảm họa. Vết thương này chính là nguyên nhân tháp chỉ huy long ra và rơi xuống cát. Con tàu này không qua đời êm ả.
Cái lỗ vẫy gọi Chatterton. Anh có thể bơi vào trong và lục soát bằng chứng định danh trước khi các thợ lặn khác tới, nhưng như thế sẽ trái với kế hoạch. Thay vào đó anh bơi lên đỉnh con tàu và rẽ trái, nghiên cứu địa hình tàu và chụp lại những gì anh thấy vào trí nhớ. Gần một đầu xác tàu, anh bắt gặp cửa ống phóng lôi mà anh đã nhìn thấy trong chuyến lặn đầu tiên. Anh nhớ cửa đó nằm gần mũi tàu, có nghĩa là lỗ thủng nằm ở mạn trái. Bức tranh về con tàu dần thành hình trong đầu Chatterton.
Chatterton đảo chiều và bơi ngược lại. Anh gần đến đuôi tàu thì đồng hồ bấm giờ ra hiệu cho anh quay lại dây neo để bắt đầu nổi. Những thợ lặn khác, hiện đã bắt đầu xuống nước, gần như chắc chắn sẽ lao vào cái lỗ mà đào xới. Nhưng Chatterton đã có được cái anh cần: hiểu biết. Anh có thể dành việc khám phá cho lần lặn hai, sau khi đã nghiên cứu bức tranh trong óc và xác định chính xác nơi anh cần tới.
Trong lúc Chatterton ngoi lên theo dây leo, những thợ lặn tiếp theo đã tiếp cận con tàu. Skibinski và Feldman vào qua lỗ gần tháp chỉ huy đã đổ và bắt đầu sục sạo đống đổ vỡ. Skibinski tìm thấy một thiết bị hình ống dài 30 phân anh nghĩ có thể ghi số hiệu tàu. Mấy phút tiếp theo, anh và Feldman say sưa đào xới, bị mê hoặc bởi số lượng tàn tích quá lớn. Nhưng cả hai đã thề sẽ nổi theo dây neo chỉ sau 14 phút, bất chấp mọi cám dỗ. Đồng hồ của Skibinski chỉ 13 phút. Anh vỗ vai Feldman và chỉ lên trên. Feldman gật đầu đồng ý. Skibinski bơi về dây neo và bắt đầu nổi. Bỏ lại vô số hiện vật hứa hẹn như thế đòi hỏi kỷ luật thép, nhưng hai người tuân thủ kế hoạch thận trọng họ đã định ra từ trước.
Khi Skibinski ngoi lên, anh nhìn xuống tìm Feldman. Feldman có vẻ đang xem xét gì đó trên tàu. “Hắn phải thôi đào bới và vác xác lên đây ngay” Skibinski lầm bầm qua bộ điều áp trước khi tiếp tục nổi thêm dăm mét. Anh lại nhìn xuống và lần này anh nhận thấy không có bong bóng khí nào thoát ra từ bộ điều áp của Feldman. Cơn say nitơ bắt đầu rầm rì. “Có gì đó sai” Skinski nói với chính mình. “Mình phải xuống dưới kiểm tra.” Anh theo dây neo xuống tới chỗ bạn mình.
Skibinski chụp lấy Feldman và quay người anh lại. Bộ điều áp của Feldman tuột khỏi miệng. Mắt anh không chớp. Skibinski nhìn sâu hơn vào mặt nạ của bạn nhưng mắt Feldman vẫn mở thao láo. Con người thì phải chớp mắt chứ, mẹ nó chứ, làm ơn chớp mắt đi mà Steve! Vẫn không. Skibinski hét qua bộ điều áp: “Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!” trong khi cơn say nitơ đánh chiêng đùng đùng trong óc. Anh thử đặt lại bộ điều áp vào miệng Feldman nhưng cái miệng kia cứ há ra, chứng tỏ anh không thở. Skibinski hét: “Ôi, mẹ kiếp! Ôi, mẹ kiếp!” Feldman vẫn cứ nhìn trừng trừng vào anh. Đầu Skibinski như gõ búa, anh thở mạnh hơn và kim bình khí rớt nhanh hơn.
Skibinski vòng tay trái qua người Feldman. Các câu hỏi ào qua trong đầu: Mình có nên bơm khí vào bộ đồ lặn và cho Feldman nổi thẳng lên mặt nước? Không được, anh ấy sẽ chết vì bệnh thợ lặn. Hay là mình để Feldman lại để giảm áp an toàn cho bản thân? Không thể bỏ bạn, không thể bỏ bạn, không thể bỏ bạn. Chỉ còn một lựa chọn: anh sẽ mang Feldman lên mặt nước. Đôi khi những thợ lặn bất tỉnh lấy lại ý thức trong quá trình nổi, chắc chắn anh đã từng nghe chuyện đó.
Do vẫn có sức nổi âm, Feldman nặng như chì trong tay Skibinski. Skibinski lấy hết sức bình sinh kéo bạn mình, ngấu nghiến không khí trong bình. Chỉ bằng một tay, anh nâng cả thân mình và cả Feldman lên theo dây neo. Feldman vắt ngửa trong dòng nước, tay buông thõng, hai cẳng chân hơi cách nhau, mắt nhìn thẳng về trước. Với mỗi cú kéo, Skibinski yếu dần và thở nhiều khí hơn. Anh lên tới 52 mét, 50 mét, 48 mét. Rồi anh thấy hai thợ lặn − Brennan và Roberts − đang lặn xuống.
Skibinski buông dây neo để nghỉ một lát. Ngay lập tức anh và Feldman trôi theo dòng chảy. Biết rằng mình đang đốt không khí và có thể lạc giữa biển chỉ trong vài giây, Skibinski bắt đầu đạp điên loạn để về đến dây neo, vùng vẫy trong dòng biển cho đến khi anh không thể nắm chắc bạn mình nữa. Anh buông Feldman. Người thợ lặn bất tỉnh bắt đầu chìm xuống nhanh chóng, vẫn với đôi mắt trừng trừng, miệng há rồi mím nhưng không có bong bóng nào thoát ra.
Theo bản năng, Roberts lao tới cái xác nhưng Feldman tiếp tục chìm. Roberts biết nếu buông dây neo và đuổi theo người kia chính anh sẽ bị lạc, nhưng đó là phản xạ: anh không thể để một người khác rơi xuống vực thẳm. Ở độ sâu 60 mét, Roberts với tay ra và nắm được đai an toàn của Feldman, nhưng người thợ lặn bất tỉnh nặng như chì khiến cả hai tiếp tục lao xuống đáy. Roberts lấy lại cân bằng và vội vã tìm kiếm bộ cân bằng độ nổi hoặc van bơm hơi cho bộ đồ lặn khô của Feldman. Nếu bơm được hơi vào thiết bị của Feldman, Roberts có thể mang anh lên mặt nước dễ dàng hơn. Nhưng Feldman đeo một rừng thiết bị và Roberts không cách nào tìm được dụng cụ bơm hơi trong mớ hỗn độn ấy. Roberts bơm đầy khí vào bộ đồ lặn của anh nhưng vẫn không phanh được cú rơi của cả hai. Hai người chạm đáy cùng lúc. Cơn say nitơ bắt đầu rền vang bên trong Roberts. Anh nhìn mặt Feldman. Không thấy sự sống. Anh không thấy xác tàu. Anh không thấy dây neo. Bốn bề là cát. “Mình đang ở một nơi đồng không mông quạnh” anh nghĩ. “Mình đang ở miền cực lạc. Mình lạc mất rồi.”
Trong khi Roberts ngồi dưới đáy cùng Feldman, một Skibinski đầy hoảng loạn tìm lại được dây neo ở độ sâu 48 mét. Mắt trố ra, anh lao tới Brennan, làm động tác cắt cổ để ra hiệu mình hết khí. Brennan đã từng thấy bộ dạng này: đây là cơn hoảng loạn đang dâng lên. Skibinski lao vào chụp bộ điều áp của Brennan. Brennan lùi lại, anh không thể để Skibinski giết chết cả hai. Anh với tay ra sau lấy bộ điều áp dự phòng và đưa cho Skibinski đang vùng vẫy. Skibinski cầm lấy và ngấu nghiến khí dự trữ của Brennan. Brennan bắt đầu nổi lên cùng Skibinski, cùng anh dừng ở 15 mét, 12 mét để giảm áp ngắn. Suốt thời gian đó, Brennan nghĩ “Nếu Doug vẫn còn sống, chắc cậu ấy đang sợ chết mất. Dưới đó một mình, liều mạng cứu một gã đã chết. Mình có trách nhiệm với Doug, mình phải đi đón Doug.” Ở độ sâu chín mét, Brennan giao Skibinski cho một thợ lặn khác và lao xuống đáy tìm Roberts, biến mình thành ứng viên đi lạc hàng đầu.
Ngồi trên cát cùng Feldman dưới đáy đại dương, Roberts kiểm tra đồng hồ; anh đã đốt 60% khí vì vật lộn với Feldman. Nếu ở lâu thêm anh sẽ không còn đủ không khí để giảm áp. Thi thể Feldman nằm bên cạnh, mắt mồm há hốc. Tầm nhìn ngoại vi của Roberts hẹp dần cùng cơn say nitơ tăng dần: anh hiện chỉ nhìn thấy những gì thẳng phía trước. “Nếu mình không ra khỏi đây sớm, sẽ có hai cái xác ở đáy biển” anh nghĩ. Dây neo vẫn mất dạng. Anh sẽ phải bơi lên, dù như thế có nghĩa anh sẽ bị cuốn trôi xa Seeker hàng dặm khi ngoi lên mặt. Anh chỉ có thể cầu cho ai đó trên thuyền nhìn thấy anh bập bềnh giữa những con sóng trước khi anh lạc và chết đuối.
Ngay trước khi đi lên, Roberts buộc một đầu dây vào Feldman. Bằng cách này, nếu ai tìm được xác anh, họ cũng tìm được Feldman. Anh cố cuốn dây quanh Feldman, nhưng khả năng vận động của anh bị suy giảm khiến anh không thể thắt một cái nút tử tế. Anh thử lại. Cuối cùng anh cũng buộc được dây và bắt đầu nổi.
Roberts không biết chính xác anh đã ở dưới đáy được bao lâu. Anh nổi. Ở 30 mét, làn nước quanh anh bắt đầu lấp lánh ánh sáng và anh nhìn thấy một phép màu. Bằng cách nào đó, trong lúc nổi, anh đã bị cuốn lại về phía dây neo Seeker − một chuyện quá sức hy hữu. Anh buộc sợi thừng nylon mỏng nối với Feldman vào dây neo, rồi chọn một chặng dừng giảm áp ngẫu nhiên. Một thoáng sau Brennan tới chỗ anh. Cả hai cùng ngoi lên mặt nước.
Brennan lên Seeker trước. Chatterton và Nagle thấy anh leo thang và biết có chuyện: anh ở dưới nước chưa được bao lâu.
“Có vấn đề” Brennan nói, tháo mặt nạ ra. “Có một người chết trên xác tàu. Tôi nghĩ là Feldman.”
Chatterton gọi Steve Lombardo − một bác sĩ chưa kịp vỡ nước − và đề nghị anh chuẩn bị sẵn sàng. Nagle lao xuống từ buồng lái. Vài phút sau Skibinski leo lên thang. Ở nấc thang trên cùng, anh cởi mặt nạ và bật khóc “Anh ấy chết rồi! Anh ấy chết rồi!” Sau đó, khi chưa ai kịp tới đỡ, anh nghiêng về trước và ngã sấp mặt xuống sàn gỗ của Seeker − cú rơi từ độ cao một mét. Chatterton, Nagle và Lombardo lao tới người thợ lặn đang lẩm bẩm, nghĩ rằng cổ anh khéo đã bị gãy rồi. Họ rón rén di chuyển Skibinski, cố cởi bộ đồ lặn của anh. Skibinski chỉ có thể nói “Anh ấy chết rồi! Tôi không thở được! Bộ điều áp! Anh ấy chết rồi!” Chatterton lột đồ trùm đầu. Skibinski nôn mửa đầy mũ.
“Paul, nghe tôi này” Chatterton nói. “Anh đã giảm áp chưa?”
“ Tôi không biết…”
“Anh phải trả lời tôi” Chatterton nói. “Anh đã giảm áp chưa?”
“ Steve chết rồi!” Skibinski kêu lên trước khi lại ói mửa.
“ANH ĐÃ GIẢM ÁP CHƯA?”
Skibinski chỉ có thể gật xác nhận là anh đã giảm áp. Người tiếp theo nổi lên là Roberts.
“Feldman ở dưới đó! Các anh phải đi đón anh ấy!” Anh hét. Chatterton không di chuyển. Anh chăm chú nhìn mặt Roberts. “Nào, nhanh nào!” Roberts hét lên với Chatterton. “Feldman ở dưới đó!”
Chatterton để ý trên mặt Roberts có máu, bản năng lính cứu thương của anh trỗi dậy. “Để tôi xem mặt nạ cậu nào” Chatterton ra lệnh. “Có thể cậu đã bị tắc mạch.”
Chatterton lấy mặt nạ. Máu dính đầy bên trong. Roberts tiếp tục ho ra máu qua mũi và miệng. Có người hét: “Gọi trực thăng!” Chatterton định tâm. Anh nhìn kỹ miệng và mũi Roberts: máu đã ngừng chảy.
“Tôi nghĩ cậu ấy vỡ một mạch máu” Chatterton nói. “Không bị tắc mạch. Cho cậu ấy thở ôxy để phòng ngừa. Không cần trực thăng.”
Khi thở ôxy và bình tĩnh lại, Roberts xác nhận rằng Feldman không ngậm bộ điều áp trong gần nửa tiếng và anh đã buộc Feldman vào dây của anh và dây đó đang buộc vào dây neo ở độ sâu khoảng 30 mét.
Chatterton triệu tập Nagle và Danny Crowell.
“Trước khi làm gì khác, chúng ta phải tập hợp tất cả mọi người về thuyền và đảm bảo tất cả đều an toàn: không chấn thương, không suy sụp tinh thần” Chatterton nói. “Sau đó chúng ta sẽ đi lấy xác.”
“Ai sẽ đi?” Nagle hỏi.
“Danny và tôi sẽ đi” Chatterton nói. “Tụi tôi trong đoàn thủy thủ. Tụi tôi sẽ đi đón anh ấy.”
Crowell gật đầu. Anh và Chatterton tính chờ khoảng hai tiếng nữa để xả đủ nitơ từ chuyến lặn đầu rồi mới có thể xuống nước an toàn. Nagle quay về buồng lái và khóa cửa. Anh có những thứ khác cần quyết định.
Quy định của Tuần duyên là thuyền trưởng phải đánh điện đài ngay lập tức khi có thợ lặn mất tích, nhưng không có quy định nào bắt thuyền trưởng phải dừng tất cả để báo tin về một thợ lặn tử vong. Thường thì Nagle và các thuyền trưởng khác sẽ thông báo ngay về cái chết của Feldman. Đó là điều nên làm và cũng giúp cho công tác điều tra bắt buộc của Tuần duyên thuận lợi hơn. Nagle nhìn chằm chằm vào điện đài. Nếu bây giờ anh gọi Tuần duyên, khi mấy tiếng nữa Chatterton và Crowell có thể bắt đầu thử lấy tử thi, anh sẽ truyền vị trí xác tàu tới tất cả tàu thuyền trong bán kính 50 km và bất kỳ ai trong số đó có thể dùng máy dò hướng để định vị và ăn trộm tọa độ. Tệ hơn, anh tin Bielenda có gián điệp trong Tuần duyên. Nếu anh tiết lộ vị trí, bây giờ hay bất cứ khi nào, sớm muộn Bielenda sẽ càn quét xác tàu và cướp mất vinh quang của Seeker.
Nagle lên một kế hoạch. Anh sẽ đánh điện đài với Tuần duyên chỉ khi Seeker chuẩn bị kéo neo và quay về bờ. Ngay cả lúc đó, anh sẽ chỉ cho họ vị trí đại khái của tai nạn. “Tại sao họ phải biết vị trí chính xác?” Anh suy luận. “Đằng nào họ cũng chẳng vì một xác chết mà tới đây.” Anh rời buồng lái mà không đụng đến điện đài.
Hai giờ sau khi Skibinski nổi, Chatterton và Crowell đeo thiết bị và đi đón Feldman. Ở độ sâu khoảng 30 mét, họ tìm được dây Roberts buộc vào dây neo. Feldman ở đáy đại dương sẽ được nối với đầu dây còn lại. Chatterton đi xuống lấy xác. Anh tới đáy. Nối với dây là mặt nạ và ống thở của Feldman, nhưng không có cái xác nào hết.
Chatterton biết chuyện gì đã xảy ra: dưới ảnh hưởng của cơn say nitơ làm cho tầm nhìn hẹp lại và năng lực vận động suy giảm, Roberts đã buộc dây vào đầu Feldman thay vì vào đai lặn hoặc vào bình khí. Dòng biển kéo lê Feldman trên nền cát và cái dây đã tuột qua đầu anh, mắc vào mặt nạ và ống thở rồi cùng rời ra. Feldman vẫn ở đâu đó dưới đáy đại dương. Song Chatterton và Crowell đã cạn thời gian và không thể tiếp tục tìm anh. Họ quay về thuyền và triệu tập các thợ lặn khác.
“Chú ý” Chatterton nói. “Chúng ta phải đi xuống tìm Feldman. Anh ấy có sức nổi âm, nên chắc chắn là không lềnh bềnh đâu đó trên mặt nước. Anh ấy đang ở trên đáy cát và ngoài phạm vi xác tàu. Tôi không biết chúng ta tìm được hay không. Nhưng phải thử.”
Những người còn lại nín thở, mong Chatterton không nói điều anh sẽ nói.
“Chúng ta sẽ phải quét cát.”
Trong lặn thám hiểm, hiếm có kỹ thuật nào nguy hiểm hơn quét cát. Các công đoạn thoạt nghe thì không có gì phức tạp: thợ lặn buộc dây từ cuộn dây dẫn hướng của mình vào xác tàu, sau đó đi lùi lại theo hướng dòng biển. Tới một khoảng cách nhất định, chẳng hạn sáu mét, anh ta sẽ đi một cung 180 độ trên nền cát, tìm điệp hoặc hiện vật hoặc thợ lặn mất tích. Nếu không có kết quả, thợ lặn nới thêm dây, tiếp tục lùi xa và quét cung lớn hơn. Sinh mạng của người thợ lặn phụ thuộc vào dây dẫn. Nếu mất dây (dây bị cắt vì vướng vào mảnh vỡ, bị tuột khỏi tay hoặc bung sợi vì cọ vào xác tàu) thì anh ta coi như xong đời − một kẻ lang thang mất phương hướng trong một miền trống trải không một dấu mốc. Lúc đó anh ta buộc phải ngoi tự do, chấp nhận rủi ro giảm áp không tới nơi tới chốn, bị cuốn xa thuyền hàng dặm khi nổi lên mặt nước và lạc giữa đại dương.
Chatterton hỏi có ai tình nguyện. Yêu cầu này không hề dễ dàng. Ngày đã muộn và thần kinh của ai cũng căng như dây đàn − một vườn ươm lý tưởng cho cơn say nitơ. Và đằng nào, cũng chẳng ai giúp được gì Feldman nữa.
Nhiều tay lặn vẫn phải chờ hai đến ba tiếng để xả nitơ và không thể xuống nước trước khi trời tối. Nagle không đủ thể lực để lặn. Như vậy là chỉ còn bốn năm ứng viên.
Brennan lắc đầu.
“Anh ta chết rồi” anh nói với Chatterton. “Tôi sẽ không để mình dính bệnh giảm áp hay bị lạc để cứu một cái thây ma. Tôi đã suýt chết đuối vì Skibinski lên cơn hoảng loạn và tôi phải rút ngắn thời gian giảm áp. Dòng biển giờ cứ như roi quất. Tôi không làm được gì cho anh ta nữa. Tôi không liều mạng mình đâu.”
Chatterton không thể liều cho Roberts xuống nước. Skibinski vẫn suy sụp tinh thần. John Hildemann và Mark McMahon bước lên. Họ sẽ quét cát. Hildemann sẽ đi đầu: anh là thợ lặn duy nhất chưa xuống nước. Nếu cần thiết, McMahon sẽ đi tiếp.
Dưới đáy, Hildemann cài một đèn chớp vào dây neo. Tầm nhìn khoảng mười mét. Dòng biển ào qua mặt anh. Anh nới thêm một đoạn dây. Anh đi vòng cung và quét đáy đại dương. Tứ phía không thấy một ai. Màu xanh thẫm của làn nước trở nên kỳ dị hơn sau mỗi lượt quét. Anh không tìm thấy gì khác ngoài những mảnh gỗ vụn.
Đến lượt McMahon. Anh buộc dây dẫn hướng của mình vào đỉnh xác tàu rồi từ từ lùi lại, nới từ cuộn ra 12 mét dây, mắt vẫn dán chặt vào xác tàu. Khi dây căng, anh bắt đầu quét, nổi lơ lửng trên đáy cát tầm ba mét để mở rộng góc nhìn. Không thấy gì. Anh nới tiếp bảy mét rưỡi và bắt đầu trôi về sau. Xác tàu chìm vào bóng tối lăn tăn rồi biến mất hẳn. Lúc này, McMahon nhìn đâu cũng chỉ thấy nước xanh đục và những vụn trắng trôi hai bên và đường dây trắng dày ba li của mình nối vào bóng đêm. Nhưng không thấy cái xác. Tiếng chiêng rừng của cơn say nitơ lớn dần. Anh nới tiếp 7,5 mét dây. Một con cua ngoi lên từ đáy cát và nói với anh:
“Tiếp đi, Mark” con cua nói. “Tiếp nào, anh bạn.”
McMahon giật mình. Nhưng anh cũng bị mê hoặc. Anh ngưng quét để nhìn gần hơn. Những con cua khác ngoi lên từ cát. Chúng vẫy càng với anh. Mỗi con đều nói tiếng Anh lưu loát.
“Tới đây này, Mark, đây này” chúng nói. “Tiếp, tiếp đi…”
McMahon băn khoăn không biết có nên đi theo lũ cua ra biển. Anh thở một hơi sâu. Anh bắt đầu nói với chính mình. “Mình phải biến khỏi chỗ này” anh nói. “Cua đang nói chuyện với mình. Khi một con cua biết nói thì đã đến lúc đi về nhà.”
Trên thuyền, McMahon nói với mọi người rằng anh cũng trắng tay. Đến lúc này, Feldman có thể đã dạt ra xa thuyền đến năm dặm. Trời sắp tối. Bỏ thợ lặn lại là một điều tồi tệ và gia đình anh hẳn sẽ rất đau buồn. Nhưng Chatterton và Nagle đã tới hạn. “Sẽ có người chết nếu chúng ta cứ cố tìm” Chatterton nói. Anh và Nagle nhất trí nhổ neo quay về bờ.
Trong buồng lái, Nagle đánh điện đài cho Tuần duyên và báo có thợ lặn tử vong. Lúc đó là bốn giờ chiều − năm tiếng kể từ khi anh nghe tin về cái chết của Feldman. Khi Tuần duyên hỏi lý do không trình báo sớm hơn, Nagle nói rằng anh bận đón thợ lặn nổi lên và tổ chức truy lùng dưới nước. Khi họ hỏi về vị trí xảy ra tai nạn, anh cho họ tọa độ đại khái, bao phủ vài kilômét vuông, đủ để ngăn lũ nhảy tọa độ, đặc biệt là Bielenda, tìm thấy thứ thuộc quyền sở hữu của Seeker.
Tuần duyên lệnh cho Nagle về Manasquan, New Jersey và nói họ sẽ đón Seeker ở cầu tàu. Hành trình năm tiếng diễn ra trong yên ắng và buồn bã. Một số người cố an ủi Skibinski, quả quyết rằng anh đã làm tất cả những gì có thể cho bạn mình. Nhiều người phỏng đoán về nguyên nhân tai nạn và đều nhất trí rằng Feldman đã bị bất tỉnh nước sâu − hiện tượng mất ý thức không hiếm gặp với giới thợ lặn mà khoa học vẫn chưa hiểu rõ.
Seeker tới Trạm tuần duyên Hoa Kỳ ở lạch Manasquan vào khoảng mười giờ tối. Từng người trên thuyền phải vào trạm viết bản tường trình về tai nạn rồi mới được cho về. Trong lúc lái xe về nhà, Skibinski nghĩ về cuộc đối thoại giữa anh và Feldman khi cùng ăn tối ngày hôm trước. Họ bàn về chuyến đi: ai sẽ đi, họ có thể tìm được gì, danh tính con tàu và nhất là cơ hội này làm họ vui sướng ra sao. Đột nhiên Feldman nói: “Nếu có chết, tôi muốn chết trong lúc lặn vì tôi quá yêu lặn.” Giờ đây, khi gần tới nhà, Skibinski mở ví tìm một số điện thoại. Ở trạm xăng Exxon, anh gọi Buddy bạn thân của Feldman và báo tin dữ.
Đa số thợ lặn gọi cho vợ hoặc người yêu khi đến cảng và kể tin về Feldman. Họ gọi vì họ muốn người thân biết mình an toàn và vì cần có người thức khi họ về đến nhà.
Brennan tới nhà sau nửa đêm. Sau khi bạn gái anh ngủ, anh gọi cho Richie Kohler. Lần này, anh không chơi trò đố vui giọng Ý nữa.
“Ê Richie, Kevin đây. Có chuyện cực tệ.”
Giọng Brennan nghe bải hoải đến nỗi Kohler suýt không nhận ra bạn mình.
“Bây giờ là mấy giờ hả Kevin?”
“ Ông có biết Feldman không?”
“ Không. Là ai?”
“Chết rồi.”
“ Feldman là ai?”
“Bạn lặn của Paul. Anh ấy chết rồi. Ôi, Richie…”
“Kevin, chuyện gì đã xảy ra? Nói chậm lại và kể tôi nghe nào.” Brennan chỉ nghẹn ngào kể được những tình tiết cơ bản nhất. “Tôi dập máy đây, Richie. Tôi sẽ gọi ông ngày mai và kể hết chuyện.”
Kohler gác máy. Anh thấy tội nghiệp cho người thợ lặn tử vong, nhưng anh chỉ có một ý nghĩ duy nhất khi lên giường và nó treo trong đầu anh tới sáng: Anh phải thế chỗ Feldman trong chuyến tiếp theo.
Hôm sau, Brennan gọi lại và kể cho Kohler toàn bộ câu chuyện. Đến cuối, Kohler nói thẳng (hai người là bạn thân và luôn nói thẳng với nhau đúng chất dân Brooklyn):
“Kevin, ông phải giúp tôi đi chuyến tiếp theo.”
“ Tôi biết. Hôm nay, tôi sẽ nói chuyện với Bill.”
Brennan nói về Kohler chiều hôm đó. Nagle nghĩ đó là một ý tưởng tuyệt vời. Kohler lanh trí, cứng cỏi, kiên định, là một trong những thợ lặn thám hiểm giỏi nhất bờ đông này. Tay này đã đắm mình trong lịch sử Thế Chiến II, biết rõ hiện vật và các câu chuyện về nước Đức. Hắn ta thoải mái như ở nhà dưới những tầng nước sâu hãi hùng. Và sẽ không có chuyện hắn ta chết − thứ mà Nagle tuyệt đối không cần thêm sau vụ của Feldman.
Đúng ra Kohler đã nằm trong danh sách đi từ đầu nhưng có một số vướng mắc. Thứ nhất, Chatterton ghét Kohler, không chỉ trên phương diện cá nhân mà còn vì những gì anh đại diện. Kohler là thành viên của nhóm Atlantic Wreck pers tai tiếng − băng cuồng tín và khép kín, mặc đồng phục áo khoác denim khâu hình đầu lâu xương chéo và làm náo loạn các thuyền lặn mình thuê. Họ là những thợ lặn lão luyện và can trường, Chatterton thừa nhận, nhưng anh ghét tính cuồng si hiện vật của họ, cái bản năng tập quần lấy tất cả những gì có thể từ xác tàu để nhét trương các túi đồ và thổi phồng sĩ diện. Theo đánh giá của Chatterton, không ai trong số đó lặn vì yêu khám phá, tìm kiến thức hay vì muốn hiểu bản thân. Họ thích của cải, thật nhiều của cải, chấm hết.
Nếu Kohler chỉ đơn thuần là hội viên Atlantic Wreck pers, Chatterton có thể tha thứ. Anh thường lặn với một vài hội viên của nhóm và có thiện cảm với cá nhân những người ấy. Nhưng Kohler còn phạm một tội lỗi nghiêm trọng hơn nhiều, có thể nói là tồi tệ nhất và chính vết nhơ này mới khiến Chatterton lấn cấn. Hai năm trước, Kohler và đồng đội lên đường làm một việc tồi tệ với Seeker.
Cuối năm 1989, Chatterton đã luồn qua lỗ hổng bé xíu dẫn đến phòng ăn hạng ba trên Andrea Doria. Nhiều thợ lặn đã tìm cách vào chỗ này bao năm nay mà không thành công. Bên trong, Chatterton tìm thấy hàng núi đồ sứ sáng bóng, hơn tất cả chỗ chiến lợi phẩm của Seeker trong nhiều năm. Chatterton cho rằng đây là cơ hội lớn cho Nagle: thợ lặn sẽ chen lấn xin lên Seeker để được tiếp cận những hiện vật ấy. Vấn đề là không mấy ai ngoài Chatterton đủ kỹ năng để luồn qua một lỗ hẹp đến thế. Anh đề xuất một giải pháp táo bạo: trong chuyến tiếp theo, anh sẽ mang một mỏ hàn dưới nước hiệu Broco để cắt một trong những thanh thép chắn lối vào. Sau đó, ai cũng bơi vào được. Nagle nói với anh: “Cậu là một tay khốn tuyệt vời.”
Trong một chuyến đi đặc biệt tới Doria của Seeker, Chatterton lắp mỏ hàn vào chai ôxy và ống dẫn. Dưới nước, anh đổi sang mặt nạ lặn đã được dán thêm kính hàn và bật Broco. Mỏ hàn phóng ra những tia trắng đỏ chói lòa trong khi cái que nóng năm ngàn rưỡi độ nấu sôi nước biển xung quanh. Hôm ấy, thợ lặn trên Seeker mang lên tới cả trăm bát đĩa từ Doria − những hiện vật đầu tiên đến từ khoang hạng ba. Một thợ lặn quay video để kỷ niệm sự kiện lịch sử này. Cuối chuyến, Nagle triệu tập các thợ lặn.
“Năm nay thì không kịp quay lại nữa” anh nói. “Nhưng năm sau việc đầu tiên chúng ta sẽ làm là quay lại và có một chuyến ra trò với khoang hạng ba.”
Ít lâu sau, có người trên Seeker phản bội. Một bản copy của đoạn phim rò rỉ ra ngoài. Kohler và những người khác trong Atlantic Wreck pers coi băng, kinh ngạc xem Chatterton dùng mỏ hàn cắt lối vào. Không thể tin được! Khi thanh sắt rơi xuống và lối vào mở ra, đoạn băng cho thấy một núi đĩa sứ trắng bên trong như trong hoạt hình Disney. Vài người lẩm bẩm “Vãi thật!”
Đoạn băng chỉ kéo dài vài phút. Kohler chưa từng thấy nhiều của cải đến thế. Mọi tế bào trong cơ thể anh thèm muốn mớ kho báu lấp lánh trong căn phòng Chatterton vừa mở lối. Nhưng có tin xấu: nghe nói Chatterton và Nagle dự định quay lại Doria ngay đầu mùa sau, rất lâu trước khi những thuyền khác tính việc tới đó. Nhiệm vụ của họ: mang lên mọi hiện vật từ khoang hạng ba và không để lại miếng nào cho Bielenda và Wahoo.
Thông thường, vận may phút chót sẽ xuất hiện trong cuộc đời thợ lặn thám hiểm. Lần này, vận may đó nặng cả tạ. Bielenda đã có kế hoạch tới Doria chỉ hai ngày trước Seeker. Vừa kịp cho Kohler và đồng bọn lượn vào chỗ của Chatterton và vác đi tất cả những gì lấy được, để lại một nơi gần như trống không cho Seeker. Biết thâm thù giữa Bielenda và Nagle, Kohler tin đây là cơ hội trời cho của Bielenda. Nhưng việc giành Doria khỏi tay Nagle đi ngược lại với đạo đức của anh: không chộp chiến lợi phẩm thuộc về người khác. Song đoạn băng quá mê hoặc, đống đồ sứ quá tuyệt diệu và bất tận. Kohler từng gặp Chatterton một lần duy nhất, thoáng qua, nên anh không mấy bận tâm về tay thợ lặn gày gò với chiếc mỏ hàn. Anh có thiện cảm và kính trọng Nagle và luôn có trải nghiệm tích cực trên Seeker. Anh cũng cho rằng Bielenda là kẻ huênh hoang và tên theo đuôi, không phải người dẫn đầu. Anh cười vào cái danh hiệu “Vua biển sâu”. Nhưng đống đồ sứ quá đẹp, lại còn chồng lên nhau như núi tuyết và đồng đội trong AWD của anh đằng nào cũng đi và…
“Tôi tham gia” anh bảo Bielenda. Kohler chưa từng thấy Bielenda đói khát một chuyến đi đến vậy.
Chuyến đi của Bielenda được xếp vào ngày 23 tháng sáu. Kohler giữ kín về chuyến đi nhưng ai đó đã không chịu nổi sự cắn rứt lương tâm. Kế hoạch được tiết lộ cho Nagle, bao gồm cả ngày khởi hành của Wahoo. Nagle gọi cho Chatterton trong trạng thái say xỉn và phẫn nộ.
“Lũ khốn ấy!” Anh gầm lên trong điện thoại. “Chúng ta phải hành động!”
Chatterton lên kế hoạch. Anh và Glen Plokhoy − kỹ sư và thợ lặn thường xuyên trên Seeker − sẽ dựng một lưới kim loại chắn lối đi Chatterton đã mở vào khoang hạng ba. Seeker sẽ khởi hành tới Doria hai ngày trước Bielenda. Họ sẽ nhét đầy đồ sứ vào túi, sau đó Chatterton và Plokhoy sẽ gắn lưới. Khi Wahoo tới, đám thợ lặn sẽ chỉ thấy lối vào bị bít.
Kế hoạch có vẻ hoàn hảo với Nagle. Nhưng Chatterton chưa bao giờ dừng ở giai đoạn đầu của bất kỳ kế hoạch nào. Anh bổ sung:
− Anh và Plokhoy sẽ thiết kế lưới để có thể đóng mở. Chỉ hàn lưới sẽ bít đường tất cả mọi người, kể cả thợ lặn của Seeker.
− Tấm lưới phải có vẻ lỏng lẻo và dễ tháo để đám thợ lặn tàu Wahoo mất thời gian và trông thật ngớ ngẩn khi vật lộn với nó.
− Tấm lưới vẫn cho phép một thợ lặn đi qua cái lỗ bé tí mà Chatterton đã len qua lần đầu, để nếu có người muốn đi vào, tương tự như Chatterton đã làm, thì vẫn có cơ hội.
Chatterton và Plokhoy cùng thiết kế trong một phòng học của một tiệm đồ lặn địa phương. Họ nghiên cứu đoạn băng, ước tính thông số, phác họa tấm lưới sắt kích cỡ 1,5x1,8 mét, trọng lượng 140 cân. Thay vì hàn cố định, họ sẽ xích nó lại sao cho tấm lưới sẽ lung lay và đám thợ lặn của Wahoo sẽ nghĩ là nó lỏng lẻo. Họ chế thiết bị khóa chỉ có thể mở bằng chìa vặn đặc biệt và nhờ một người bạn chế ra cái chìa đó. Cuối cùng, họ bóp dầu vào hệ thống chốt chìm của tấm lưới để giấu đi sự đặc biệt của cái khóa. Đám thợ lặn của Bielenda sẽ như lũ khỉ cố mở lưới bằng cờ lê thông thường.
Seeker khởi hành tới Doria 48 tiếng trước chuyến đi của Bielenda. Trong hai ngày, các thợ lặn như yêu tinh Giáng sinh, nhét đầy túi bát đĩa hạng ba cho đến khi họ không khuân thêm được nữa. Chiều ngày thứ hai, Chatterton và Plokhoy mặc đồ xuống nước để lắp lưới. Họ bảo Nagle rằng họ định để lại lời nhắn cho Bielenda và đám thợ lặn của Wahoo, cái gì đó khôn khéo để truyền đạt hàm ý. Mặt Nagle đỏ lựng.
“Các cậu cứ viết, ĐM MÀY, BIELENDA, THẰNG CHẾT GIẪM!”
“Tôi không nghĩ ý mình như thế” Chatterton nói. “Dù sao thì chúng tôi cũng đã chuẩn bị sẵn một thông điệp rồi.”
Tấm lưới được cài một cách hoàn hảo. Nó rung mà không rời. Nó trông ngon ăn nhưng lại cực khó nhằn. Chatterton thò tay vào túi lấy ra một tấm biển và buộc vào lưới. Trên đó, anh viết chữ in hoa:
ĐÓNG CỬA KIỂM HÀNG LÀM ƠN DÙNG CỬA PHỤ TRÂN TRỌNG
THỦY THỦ VÀ HÀNH KHÁCH CỦA SEEKER
Tối hôm đó thuyền của Bielenda khởi hành tới Doria. Khi Wahoo dừng ở trên xác tàu, hai thủy thủ vỡ nước để đặt móc gần lối vào khoang hạng ba nhất có thể. Bielenda sau đó cho thợ lặn bốc thăm giành cơ hội vào đầu tiên. Người thắng là Kohler và đồng đội Pete Guglieri ở Atlantic Wreck pers của anh. Kế hoạch của họ rất đơn giản: nhét đầy túi cho đến khi không còn sức. Khi Kohler vỡ nước, anh cảm thấy phấn khích hơn bao giờ hết.
Hai người tới xác tàu sau một phút và đối diện với biển hiệu của Chatterton. Họ lềnh bềnh ở đó một lúc, không nói nên lời. Rồi họ nổi điên. Guglieri lay tấm lưới. Kohler đập búa tạ. Họ xem xét tấm lưới chắn từ mọi góc độ, tìm cách tháo khóa. Cả hai đều làm trong ngành xây dựng và biết cách phá dỡ. Họ dùng đủ mọi chiêu trò. Vô ích. Kohler suýt nữa thì ngất xỉu vì tức tối. Khi đã hết khí, anh không làm được gì khác ngoài việc giật tấm biển của Chatterton xuống.
Khi hai thợ lặn quay về Wahoo, Bielenda và những người khác vây quanh chờ tin tiền trạm.
“Tình hình thế nào?” Bielenda hỏi.
Hai người mô tả tấm lưới.
“Lũ chó đẻ!” Bielenda gào lên.
Điên loạn, Bielenda đi lại và giậm chân và gào rống. Có người gợi ý xích Wahoo vào tấm lưới để giật nó ra. Bielenda phủ quyết, nhắc họ rằng Wahoo chỉ là con thuyền 49 tấn.
Khi Kohler và Guglieri cởi đồ, Guglieri phá ra cười.
“Có gì vui thế?” Kohler hỏi.
“Thừa nhận đi” Guglieri nói. “Họ tìm thấy trước. Và tấm lưới ấy không phải dạng vừa. Chúc mừng họ.”
Trong một thoáng Kohler trừng mắt nhìn bạn. Rồi khoé mắt anh nheo lại. Một giây sau anh cũng cười ha hả cùng bạn.
“Cậu nói đúng” Kohler nói. “Mình định chơi họ nhưng họ chơi mình trước.”
Lúc này, sau hơn một năm, Nagle có thể tha thứ cho Kohler. Lặn là một nghề mạnh thắng yếu, những chuyện như thế xảy ra như cơm bữa và phải được phép lắng xuống. Trong thời gian đó, Kohler và Bielenda đã cãi vã thậm tệ và Kohler thề cạch mặt “Vua biển sâu” vĩnh viễn. Với Nagle, Kohler là lựa chọn hợp lý nhất để thay thế Feldman.
Với Chatterton lại là chuyện khác. Là người trọng danh dự và nguyên tắc, anh sẽ có quan điểm khác về việc chia sẻ chuyến lặn trọng đại đến vậy với kẻ từng có ý định chơi bẩn mình. Nagle cân nhắc các quan ngại. Anh tôn trọng Chatterton hơn ai hết. Nhưng chuyến lặn này quá lớn: nó sẽ đi vào lịch sử. Anh cần những thợ lặn giỏi nhất trong đội quân của mình. Anh bảo Brennan bật đèn xanh cho Kohler.
Tin về cái chết của Feldman vang vọng trong cộng đồng lặn thám hiểm. Giờ thợ lặn muôn nơi đều biết Seeker đã phát hiện một tàu ngầm đắm. Khi tuần làm việc mới bắt đầu, điện thoại của Nagle kêu liên miên vì thợ lặn xin tham gia, trong đó có những người từ chối chuyến đầu tiên. Anh mời hai người: Brad Sheard, kỹ sư hàng không vũ trụ kiêm nhiếp ảnh gia dưới nước và Steve McDougal, cảnh sát bang. Họ sẽ thay Lloyd Garrick (ngay sau sự cố đã quyết định nghỉ lặn một thời gian) và Dick Shoe (vẫn muốn lặn Doria và các xác tàu mạo hiểm khác nhưng thề không bao giờ quay lại nơi nguy hiểm như chiếc tàu ngầm đó).
Nagle xếp chuyến trở lại con tàu vào ngày 29 tháng chín, chỉ tám ngày sau sự cố của Feldman. Kohler trình diện ở cầu tàu khoảng mười giờ tối trong trang phục của băng từ đầu đến chân: áo khoác denim, miếng vá đầu lâu xương chéo, logo “Atlantic Wreck pers”. Chatterton đã ở trên thuyền và đang buộc đồ nghề. “Ay! Bên đây cần giúp ớ?” Kohler kêu đổng với chất giọng phố phường Brooklyn đặc sệt. “Thời tiếc ra sao? Có ai thấy Kevin hông?”
Đang trên thuyền cười đùa với một thợ lặn khác, Chatterton im bặt. Không cần nhìn lên anh cũng biết đây là giọng của băng lặn bờ đông, tiếng ồn của lũ cướp hiện vật, tiếng của gã đã từng có ý định chơi xấu anh ở Doria. Anh dừng nói chuyện và bước một bước về phía cầu tàu nơi Kohler đang đứng. Tiếng trò chuyện xôn xao quanh thuyền lắng xuống. Nagle, vốn yêu thích các cuộc cãi vã, gí mặt vào kính buồng lái từ phía trên. Kohler bước lên trước, mũi giày nhô khỏi cầu tàu. Hai người vận khí nhìn nhau. Vai Kohler giật nhẹ, vừa đủ để mang lại sức sống cho miếng vá “Atlantic Wreck pers” dàn ra như đôi cánh ngang lưng. Chatterton ghét cái áo đó và bước thêm một bước. Nếu bình thường thì một trong hai đã ra tay, nhưng hôm nay không ai bước tiếp. Feldman mới qua đời tám ngày và vẫn mất tích. Brennan lên trước và nói: “Này, Richie, đưa tôi đồ của anh.” Chatterton quay lại gói ghém đồ và Kohler bước lên Seeker cho chuyến đi đầu tiên tới chiếc U-boat bí ẩn.
Seeker rời Brielle lúc nửa đêm. Kohler và Brennan vẫn trên boong, nhìn đường bờ biển khuất dần và bàn luận về con tàu. Kohler tin, như anh đã tin ngay từ lúc được báo, rằng các thợ lặn đã tìm thấy Spikefish, tàu ngầm của Hoa Kỳ thời Thế Chiến II bị đánh chìm để phục vụ tập trận vào thập niên 1960. Brennan khẳng định đó là một U-boat của Đức và nói với Kohler: “Ông xuống là biết ngay. Ông sẽ nghe thấy nhạc hiệu.”
Chatterton vỡ nước đầu tiên và buộc móc. Kế hoạch của anh rất đặc trưng: quay video, bỏ qua hiện vật, mang kiến thức về. Anh thường dùng máy quay video vì chúng ghi lại được những chi tiết dưới nước mà mắt người không thấy, rồi lên thuyền xem lại đoạn băng, tìm hiểu địa hình tàu và lên kế hoạch cho lần lặn thứ hai. Ở nhà, anh xem đoạn băng thêm vài chục lần nữa.
Chatterton bơi đến lỗ thủng mạn tàu và hướng máy quay về mọi phía, cẩn thận ghi lại cách khối kim loại hỗn độn tủa ra từ vết thương hở của con tàu có thể bắt và bẫy thợ lặn. Sau đó anh lùi ra và bơi ngoài tàu, đầu tiên về phía cửa ống phóng lôi mũi tàu, rồi đến đuôi tàu, nơi chân vịt nằm chôn trong cát và chỉ có một chóp cánh quạt nhô ra. Khi hết thời gian, anh quay về dây neo và bắt đầu ngoi lên. Một lần nữa, anh kết thúc cuộc lặn mà không đem lên hiện vật nào.
Tới lượt Kohler và Brennan. Kohler lập tức nhận ra xác tàu hẹp bất thường khi so với tàu ngầm. Hai người bơi trên tàu về phía đuôi cho đến khi gặp một cửa sập mở. Cảnh tượng làm Kohler đứng hình: cửa sập trên tàu ngầm đáng ra phải đóng. Anh rọi đèn vào trong. Một cái thang dẫn xuống bóng đêm.
“Ai đó đã mở cửa này” Kohler nghĩ. Anh hình dung nước tràn vào, thuyền viên gào thét, chen chúc lên thang và mở cửa để trốn thoát.
Kohler rút đầu ra khỏi cửa và cùng Brennan ngoi lên. Kohler hy vọng sẽ tìm được hiện vật nào đó có chữ tiếng Anh để chứng minh đây là Spikefish nhưng không tìm được gì. Sau khi leo lên Seeker, anh cởi đồ và ngồi xuống dùng bữa trưa trong cabin chính. Gần đó, Chatterton xem băng hình trên chiếc ti vi bé tí. Những thợ lặn khác bàn luận những gì họ thấy. Hóa ra không ai tìm thấy vật gì đáng kể.
Tầm trưa, Chatterton mặc đồ để lặn chuyến thứ hai. Brennan, hơi oằn và đau khớp từ chuyến lặn đầu, gói ghém đồ và ngừng lặn. Kohler đeo thiết bị để lặn tiếp một mình. Anh và Chatterton không bao giờ nghĩ chuyện lặn cùng nhau, nhưng hai người vỡ nước cách nhau chỉ vài phút.
Lần này Chatterton dự định thâm nhập con tàu. Anh bơi về phía tháp chỉ huy, vốn rơi xuống cạnh con tàu như xác tên du côn nằm chiếc xe của hắn. Một ống duy nhất nối tháp chỉ huy với thân tàu. Từ sơ đồ đã thấy, Chatterton nhận ra ống này là một trong hai kính tiềm vọng của con tàu. Anh đi vào tháp chỉ huy, nơi đầu kia của kính tiềm vọng vẫn còn trong vỏ kim loại − một thứ áo giáp có hình dạng như mũ trụ Sparta, được cắt một phần để gắn ống kính. Chatterton nhớ là anh đã thấy biển nhà sản xuất gắn vào vỏ kính tiềm vọng trong các bức ảnh của U-505. Anh quay lại phòng điều khiển, tìm biển nhà sản xuất trong không gian chật hẹp của tháp chỉ huy nhưng không tìm thấy gì. Những bằng chứng định danh nếu từng tồn tại ở đây đã bị thiên nhiên ăn mòn hoặc bị phá hủy bằng vũ lực. Trên đỉnh tháp chỉ huy anh thấy cửa sập để thủy thủ ra vào. Cửa đang mở.
Chatterton quay ngược lại và thoát ra ngoài tháp chỉ huy. Giờ anh ở đối diện cái lỗ toang hoác ở mạn tàu. Anh bơi vào trong, sau đó qua cửa sập tròn, cửa mà thủy thủ chui qua để di chuyển giữa phòng điều khiển và khu sĩ quan hoặc phòng điện đài và phòng âm thanh. Vách ngăn nối cửa này và thân tàu bị thủng phía mạn trái. Chatterton biết đây là di chứng của một lực cực mạnh. Anh di chuyển từng chút, cẩn thận tránh rừng ống uốn cong, kim loại lởm chởm, cáp điện đứt chĩa ra từ trần và tường. Nước trong tàu tĩnh, bụi đại dương không nhiều và chỉ lơ lửng. Khung sườn tàu, vẫn còn nguyên vẹn và lộ rõ, uốn ngang trần cong của con tàu. Có khả năng Chatterton đang ở trong phòng âm thanh và điện đài, đối diện khu của chỉ huy tàu. Anh đi tiếp, rẽ trái qua một cửa chữ nhật rồi lại rẽ phải qua một cửa khác, cho đến khi tới một nơi đầy những ống chữ L và sàn kim loại nứt. Có gì đó gợi lên linh cảm của anh. Anh nghiền ngẫm ký ức từ Chicago, những thước phim anh dựng về cảnh U-505 sụp đổ xung quanh mình. Có thể có một tủ tài liệu ở đây, anh nghĩ, tuy có thể trông nó không còn giống tủ tài liệu nữa. Anh bơi về trái và rọi đèn. Những con cá tối màu với râu trắng lẩn đi. Anh đứng im và để mắt thích nghi. Hình thù cái tủ như dần thành hình trước mắt anh. Anh không di chuyển. Nhô lên từ trong tủ hình như là vành bát đĩa. Anh bơi tới và với lấy đống đồ sứ. Hai cái đĩa rơi ra. Anh đưa chúng lên nhìn. Vành đĩa có màu trắng viền xanh. Số năm 1942 được in bằng mực đen ở trôn đĩa. Trên dấu hiệu đó là con đại bàng và hình chữ thập ngoặc − biểu tượng của Đế chế thứ ba của Hitler.
Cùng lúc, Kohler đang hoàn thành cuộc l?