← Quay lại trang sách

Chương 6 Richie Kohler

NẾU CÓ NGƯỜI SINH RA ĐỂ LẶN một chiếc U-boat mới toanh, người ấy phải là Richie Kohler.

Năm 1968, Richard và Frances Kohler cùng ba con nhỏ chuyển về sống trong căn nhà ở khu Marine Park ở Brooklyn, nơi cộng đồng gốc Ý và Do Thái khá gắn bó, trẻ con làm việc vặt giúp các bà góa lớn tuổi và người nhập cư trồng vả trong sân nhỏ sau nhà. Richard − một chủ doanh nghiệp kính 28 tuổi − là người gốc Đức và tự hào về gốc gác của mình. Frances, 27, có tổ tiên đến từ đảo Sicilia và cũng không kém hãnh diện về nguyên quán. Mỗi người đều mong truyền đạt cho con cái truyền thống văn hóa của mình, đặc biệt là với cậu con trai sáu tuổi Richie đã đủ lớn để biết trân trọng những giá trị ấy. Song trong quá trình nuôi dạy con, bố mẹ cậu để ý một điều lạ ở Richie: cậu đọc rất nhiều, nhưng không đọc sách truyện chữ to dành cho trẻ lớp một. Thay vào đó, cậu nghiền ngẫm National Geographic, lịch sử chiến tranh và mọi thứ liên quan đến vũ trụ. Khi đã đọc hết mọi thứ trong nhà, cậu sẽ đọc lại tất cả từ đầu. Mẹ gợi ý cậu ra ngoài chơi với bạn, lăn lộn trên cỏ, vầy vò đất cát, cậu lại xin mẹ đặt tạp chí Popular Mechanics. Frances không biết nên ăn mừng hay nên tìm bác sĩ. Chị chưa từng thấy ai, trẻ con hay người lớn, lại ham thích tìm tòi không ngơi nghỉ nhường này.

Frances mua thêm sách và Richie đọc: tiểu sử quân sự, chuyện về các trận chiến, cẩm nang vũ khí và mọi thứ cổ vũ lòng can đảm. Chẳng mấy chốc, Frances phải bắt con ra ngoài chơi.

Khi Richie biết tới chương trình Apollo, ý niệm thâm nhập một môi trường xa lạ và chế ngự nó dường như tuyệt diệu đến khó tin. Cậu đọc về Neil Armstrong và quyết định trở thành nhà du hành vũ trụ. Cậu uống Tang21* lấy năng lượng, mặc cho mô hình G.I. Joe những “bộ đồ du hành vũ trụ” tự chế từ giấy thiếc và nài mẹ mua các hộp đồ ăn chế biến sẵn hiệu Swanson − thứ gần giống với đồ ăn của phi hành gia vũ trụ nhất mà có sẵn ở Brooklyn.

Trong khi đó, cha cậu làm việc quần quật với cơ sở kinh doanh kính. Anh dành hết thời gian còn lại cho việc nuôi dạy con tử tế. Anh hài lòng với tình yêu sách vở của Richie, nhưng cũng muốn con cứng cỏi lên, học những bài học không sách nào dạy. Anh dạy con những việc tay chân: ở nhà, ở tiệm, trên thuyền và anh còn giao phó cho cậu bé nhiều trách nhiệm lớn. Richie lên bảy đã có thể cắt thủy tinh, lên tám đã thành thạo với cưa đĩa. Khi Richie mắc lỗi, Kohler sẽ mắng: “Mày có ngu không?” và “Đừng có ngớ ngẩn như thế!” Richie chỉ biết cúi gằm xuống. Cậu thần tượng cha mình và cảm thấy vô cùng buồn bã nếu phải làm thất vọng người đàn ông mạnh nhất trần gian. Mẹ Richie kinh sợ những lời ấy. “Sao anh có thể nói thế?” chị hỏi. “Anh biết cha anh đã làm tổn thương anh bằng những lời ấy, sao anh có thể làm vậy với con trai mình?” Richard Kohler không trả lời được vợ.

Chẳng mấy chốc Richie muốn làm hài lòng cha mình hơn cả muốn làm phi hành gia. Khi cha cậu hỏi: “Con chơi với G.I. Joe à? Đám búp bê đó?” Richie liền chuyển sang xây mô hình chiến hạm và chiến cơ. Khi cha đưa cậu đi thuyền và giao những việc quan trọng, cậu run lên vì sợ thắt nút sai hay lái thuyền quá gần chướng ngại vật. Chỉ nghĩ đến chuyện bị mắng là ngu đủ khiến cậu đánh tuột sợi thừng đang cầm trên tay. Nhưng cậu đúng là đã buộc thuyền và lái thuyền ngoài khơi xa cùng cha mình. Có đứa trẻ bảy tuổi nào ở khu cậu sống làm được thế không? Chẳng bao lâu sau, Richie có thể làm những thứ vượt tầm thanh thiếu niên thông thường, tất cả vì cha cậu tin vào cậu và đảm bảo cậu làm được.

Trong khi vẫn ngấu nghiến lịch sử, Richie bị cuốn vào một chủ đề khác. Cả cha và mẹ cậu đều tăng cường dạy cậu tự hào về di sản mình thừa hưởng. Mùi thức ăn Sicilia mà Frances nấu, hành động ôm ấp, bẹo má và dấu son từ những nụ hôn vốn là chuyện tự nhiên trong gia đình chị, những ngày thứ sáu kiêng thịt, sự cởi mở về tình cảm, tiếng hàng xóm la hét với con cái bằng phương ngữ Sicilia − đó là những dấu ấn về cội nguồn Ý của Richie. Diện mạo của cậu cũng toát ra chất Ý. Mái tóc đen dày, chải sang một bên kiểu Donny Osmond, tựa như thảm xù dưới răng lược. Da màu ô liu thẫm như màu đáy chai dầu ô liu tinh khiết nhập khẩu mẹ mua. Mắt nâu sẫm như màu vỏ cây. Đuôi lông mày rủ xuống giống cánh tay của cầu thủ bóng bầu dục đang được khênh khỏi sân, nhưng chúng cũng là những chân mày biết nói: kiểu lông mày nhướn lên và chùng xuống khi kể chuyện đời sôi nổi. Thuở bé, lông mày của Richie luôn trong trạng thái chuyển động, kể cả khi anh đọc sách.

Cha của Richie phản biện rằng với máu Đức trong người, anh và con là thành viên của một dân tộc cần cù, chân thật, không chấp nhận bố thí hay sầu khổ. Triết lý sống chủ đạo của anh là “Muốn có nhiều hơn thì phải đảm nhiệm nhiều hơn” và anh không ngừng gieo triết lý ấy vào Richie. Anh dặn con trai phải tự hào về di sản mình kế thừa và không bao giờ cho phép ai trong cái “khu Ý” này, hay ở bất kỳ đâu trên thế giới, nói rằng cậu kém cỏi vì gốc Đức. Trong Richie đã hình thành một niềm kiêu hãnh Đức căn bản từ sách truyện và chương trình truyền hình lịch sử và cậu nhận ra từ sách và phim rằng dù cho có quan điểm ra sao về người Đức, người ta vẫn luôn ngưỡng mộ ý chí vươn tới đỉnh cao của họ.

Khắc sâu nhất có lẽ là ký ức của cha cậu về Segal − người hàng xóm mà anh thần tượng khi còn bé. Segal − người Đức nhập cư − từng là lực sĩ trong một gánh xiếc Đức và đã vài lần lưu diễn khắp đất nước trước khi trốn chạy lúc Hitler nổi lên nắm quyền. Segal đã kể với Richard Kohler về đất nước ông từng yêu: miền đất của những nghệ nhân với những sản phẩm đẹp đẽ, của những nhà khoa học và nghệ sĩ tiên phong, của những ngôi làng như trong cổ tích với truyền thống ngàn đời, của niềm kiêu hãnh kín đáo và đạo đức nghề nghiệp sâu sắc. Trước khi gặp Segal, Kohler chưa bao giờ để tâm đến cội nguồn của mình. Sau khi gặp Segal, Kohler là người Đức. Đôi khi cha của Richie đắm chìm trong những ký ức về Segal, như thể anh một lần nữa là một cậu bé và Richie biết rằng cha mình coi Segal như người hùng. Cậu bé cảm thấy choáng ngợp với ý nghĩ có một người đàn ông đủ dũng mãnh để trở thành người hùng của người hùng của cậu.

Richie bắt đầu đọc về lịch sử nước Đức, đặc biệt là Thế Chiến II. Trên truyền hình, cậu thấy người Đức thường được khắc họa như lũ chuột bọ gian xảo và cậu băn khoăn tại sao người ta lại đánh giá thậm tệ về người Đức như thế trong khi tên quái vật duy nhất − Hitler − hủy hoại đất nước. Cậu đọc về nước Đức trước chiến tranh và hành trình trỗi dậy của Hitler. Cứ khi nào nhà trường giao làm dự án nghiên cứu hoặc viết bình luận sách, cậu sẽ viết về Đức. Cái tên Kohler, cậu kể với những người cùng khu, bắt nguồn từ tiếng Đức nghĩa là “thợ lò”.

Trong khi càng ngấu nghiến lịch sử, Richie cũng nhận ra cậu tư duy khác với bạn cùng trang lứa. Nhiều bạn thích đọc về chiến tranh và trận mạc, nhưng riêng Richie quan tâm đến cuộc sống của những người lính. Cậu băn khoăn về những điều kỳ lạ mà bạn cậu không bao giờ để ý: lá thư những người lính viết trong không gian chật hẹp của chiếc giường tầng, lý do những thứ nhỏ nhoi nơi quê nhà lại khiến các binh nhì thương nhớ hơn cả, tuổi thơ của một phi công chiến cơ, cảm xúc của gia đình khi nhận tin con trai mình tử trận. Khi xem sách thấy những tấm ảnh binh lính nằm chết trên chiến trường, cậu cầu mong quyển sách không được lưu hành ở quê nhà những người lính kia.

Tuy phải lao động cực nhọc, cha của Richie luôn đảm bảo dành thời gian cho con cái vào cuối tuần. Song anh không phải là kiểu ông bố chơi bóng chày với con hay đến trường xem con diễn kịch. Nếu Richie muốn ở bên cha (và cậu rất muốn), cậu sẽ tuân theo cách của cha, luôn có nghĩa là ở trên thuyền.

Cậu sẽ run rẩy khi buộc dây mũi hay vuốt sáp những thanh lan can mạ crôm dưới mắt quan sát của cha mình vì cậu biết nếu phạm lỗi, cha cậu sẽ mắng mỏ hoặc nói những câu như “Đừng có vô tích sự như thế!” Nhưng anh lại vô cùng hoan hỉ khi cậu làm tốt. Cha giao phó cho cậu nhiều trách nhiệm trên thuyền và chẳng mấy chốc Richie đã thấm thuần triết lý “bằng mọi giá” của cha. Đó là niềm tin rằng nếu quyết tâm thì không có gì ta không thể làm được.

Ngoài khơi, thế giới mở ra trước đôi mắt đã rất kinh ngạc của cậu bé bảy tuổi. Cha của Richie thích câu cá và, như mọi ngư dân, giữ một cuốn sổ ghi các tọa độ, cuốn hộ chiếu tới những nơi bí mật. Thường thì họ câu cá trên xác tàu và trong khi ngắm cần câu, Kohler sẽ kể cho con về la liệt các xác tàu nằm dưới kia đều bị hạ bởi U-boat, cỗ máy săn mồi khủng khiếp nhất, phát huy được cả trong những môi trường khắc nghiệt nhất trên Trái đất. Richie từng mơ một ngày chinh phục những lãnh thổ xa lạ ngoài không gian, nên việc có một cỗ máy như thế từng vận hành nhiều thập kỷ trước, ngay tại nơi cậu đang sống, còn kỳ diệu hơn nhiều những bộ phim khoa học giả tưởng trên truyền hình. Khi thuyền đưa hai cha con qua lạch Rockaway, Richie hỏi về cột đá hình trụ cắm dưới nước, cách đều Brooklyn và mũi Breezy, trông như một lâu đài. Cha cậu giải thích rằng Binh chủng công binh của lục quân Hoa Kỳ dùng cấu trúc đó để chăng lưới sắt dưới nước, ngăn U-boat vào vịnh Jamaica. “Con có tin được không, Richie?” cha cậu hỏi. “Người Đức tới ngay chỗ này. Nhìn kìa, con thấy cầu Verrazano không, U-boat từng đến gần như thế đó.” Richie say sưa nghe chuyện nhưng không hở một lời cho bạn bè. Với cậu, câu chuyện về U-boat trước thềm Hoa Kỳ là bí mật chỉ nên lưu truyền giữa những ngư dân như hai cha con cậu.

Sau khi nghe cha kể về những tấm lưới sắt, Richie ra tiệm mua mô hình U-boat và sơn cho nó trông như bị mắc vào lưới. Khi nghiên cứu hải đồ của cha, cậu kinh ngạc khi thấy một U-boat đắm − chiếc U-853 − ngoài khơi đảo Block ở bang Rhode Island, bên cạnh là một cảnh báo chữ đỏ đầy ly kỳ: “CHÚ Ý: ĐẠN CHƯA NỔ.” Một phần tư thế kỷ sau khi những chiếc U-boat cuối cùng ra khơi, chúng dường như vẫn ẩn giấu sức sống.

Một ngày nắng ấm năm Richie tám tuổi, cha đưa cậu tới vịnh Dead Horse thuộc vùng nước Mill Basin ngoài khơi Brooklyn − khu vực nhỏ dành cho môn trượt nước. Trong một lần Richie trượt, dây bỗng chùng lại và cậu ngã xuống nước: cha cậu đã tắt động cơ. Kohler xoay ngược thuyền, hét với Richie: “Lên thuyền! Lên thuyền!” rồi kéo con trai lên. Sau đó, anh bắt đầu chạy chậm vòng quanh một vật thể. Kohler bảo con: “Đi vào khoang, cấm nhìn.” Cả đời của Richie là để nhìn. Cậu chỉ đi nửa chừng vào cabin và vẫn theo dõi vật thể mà cha cậu đang lượn vòng quanh cho đến khi nhận ra đó là một cái xác: một phụ nữ. Cậu biết đó là phụ nữ vì thấy được mảnh quần bikini của người đó. Cha cậu gọi Tuần duyên và tiếp tục lượn quanh. Richie nhìn kỹ hơn. Người phụ nữ nằm úp xuống, mái tóc xoã lềnh bềnh trên mặt nước, hai chân dạng ra, mông hở ra từ bộ đồ tắm, những vết thương trắng bệch đối xứng rải rác trên lưng và đùi. Cái xác bập bềnh trong lằn nước từ thuyền của cha Richie. Tim Richie đập liên hồi, nhưng cậu không thể rời mắt. Cậu không khóc. Cậu không trốn. Cậu băn khoăn sao một người có thể bị bỏ lại trên biển mà không ai biết.

Khi mùa đi biển gần kết thúc, cha Richie quyết định học lặn scuba. Ở nhà, Kohler để Richie tháo lắp bình khí và bộ điều áp của anh: anh muốn ba đứa con thấy thoải mái với thiết bị cơ khí, không ngần ngại khám phá. Anh quăng thiết bị xuống đáy hồ bơi nổi sau nhà và bảo Richie bơi xuống, lắp ráp thiết bị rồi dùng nó để thở. Nếu Richie có thể chinh phục được thế giới dưới nước này thì cậu sẽ sánh vai cùng những thợ lặn cậu đã xem trong phim Hai vạn dặm dưới biển.

Và Richie vẫn tiếp tục đọc sách. Nếu một người chỉ nhìn thấy cậu gắn với sách vở, họ dễ tưởng cậu là con mọt sách. Richie không tham gia đội thể thao nào, không thường ra ngoài chơi như phần lớn những cậu bé khác trong khu. Cậu dành phần lớn thời gian để đọc và dựng các mô hình Thế Chiến II mà cậu tùy biến ngày càng chi tiết. Nhưng Richie chẳng phải loại yếu đuối. Khi cha cậu nghe nói một thằng bé to lớn, đầu phi dê, tính cách hung hăng tên là Vinnie đã đánh Richie sau giờ học, anh cuốc bộ cùng con trai quanh khu cho đến khi tìm được thủ phạm và bắt con trai cho thằng bé kia ăn đòn. Lũ trẻ trong khu nhìn Richie bằng con mắt khác sau cuộc ẩu đả ấy. Giờ thì có tin đồn là nếu bạn làm càn với Richie Kohler thì thằng bé sẽ nổi khùng. Không ai dám làm phiền cậu sau đó.

Hè năm Richie chín tuổi, cậu cùng cha và một thợ cơ khí cảng lái chiếc thuyền hiệu Viking Sport Fisherman dài mười mét mang tên Lisa Frances đi liên hoan cả ngày. Lúc này Richie đã được phép làm hoa tiêu, bơi giữa biển, thậm chí pha mấy bình vodka gimlet cho người lớn. Cậu là thành viên thiết yếu của đoàn thủy thủ. Kohler nhường bánh lái cho Richie, cho phép cậu tự lái ra khỏi lạch vào Đại Tây Dương. Chỉ sau mười phút rời bến, Richie đã bẻ ngoặt bánh lái khiến cha cậu chú ý.

“Con đang làm gì thế?” Cha cậu gọi.

“Có một cái lốp phía trước, con không muốn đụng vào” Richie đáp lại.

Kohler chồm sang nhìn xuống nước.

“Đó không phải là lốp” anh nói.

Richie nheo mắt nhìn. Khi con thuyền trôi về trước, cậu nhận ra thứ cậu nghĩ là cái lốp thực chất là cơ thể của một người đàn ông. Người này nằm sấp, tay giơ ngang, chân lềnh bềnh trong nước, chiếc áo gió đen phấp phới trên đầu như tấm vải liệm. Khi thuyền đi qua, lằn nước làm cái đầu người đàn ông ngửa lên và Richie thấy mặt ông ta. Hai mắt nhắm, râu ria nhẵn nhụi. Tóc vướng vào mắt và người đàn ông vận một cái áo cổ lọ sáng màu bên dưới áo gió. Da trắng bệch. Ông ta đã chết.

Cha Richie cầm bánh lái và quay thuyền. “Vào cabin, cấm nhìn!” Anh ra lệnh. Richie rời buồng lái nhưng vẫn nhìn. Cha cậu và người kia lấy cái lao mấu dài ba mét và kéo cái xác về phía thuyền. Nước biển động, nhồi cái xác lên xuống nhưng hai cánh tay vẫn giang ra như bị đóng đinh trên thập giá. Kohler gọi Tuần duyên.

“Mang cái xác lên thuyền” người điều vận yêu cầu.

“Không đời nào” Kohler đáp.

Kohler biết nếu đưa cái xác lên thuyền, anh sẽ vướng vào một cuộc điều tra lằng nhằng và anh không có thời gian cho chuyện đó. Thay vào đó, anh quyết định ở lại chờ Tuần duyên tới. Trong khi nhà chức trách phi tới hiện trường, Kohler và bạn đùa: “Kiểm tra xem có mang ví không!”, “Liệu có cái nhẫn kim cương nào không nhỉ?”

Khi Tuần duyên tới, họ đánh điện đài cho Kohler.

“Lôi cái xác lên sàn bơi đuôi tàu anh và đi theo chúng tôi.”

“Còn lâu” Kohler đáp. “Tôi sẽ thả cái xác đi nếu các anh không tự đến lấy.”

Ý nghĩ đó làm Richie sợ hãi hơn cả xác chết. Cậu không thể chịu đựng nổi cảnh ngưởi chết trôi dạt trên biển và lạc vĩnh viễn. Cậu biết cha mình không đùa. Cậu cầu mong Tuần duyên sẽ đến lấy xác.

Thuyền của Tuần duyên tiếp cận giữa làn nước động. Richie vẫn chăm chú nhìn vào gương mặt của người chết và hai cánh tay giang hai bên. Khi thuyền Tuần duyên đi qua, Kohler đưa cái lao mấu cho người lính. Người này nhìn thấy cái xác thì nôn mửa. Thuyền Tuần duyên yêu cầu Kohler bám đuôi vào bờ. Khi tất cả về đến trạm Tuần duyên, cái xác được chuyển lên cáng. Nước chảy tong tỏng từ miệng người chết. Một cậu bé trạc tuổi Richie chạy tới bên cáng và khóc “Bố ơi! Bố ơi!” Richie run rẩy, phải vận hết dũng khí để không khóc. Mấy phút sau, có người nói với Kohler rằng nạn nhân mắc bão khi đi thuyền buồm, bị hất khỏi thuyền rồi chết đuối. Theo lời họ, người chết là một mục sư.

Trên đường về nhà, Richie nghĩ chuyện sẽ ra sao nếu hai cha con không tìm thấy vị mục sư đó. Chuyện nhìn thấy người phụ nữ chết trôi xảy ra đã một năm, nhưng Richie vẫn không ngừng băn khoăn tại sao một người có thể bị bỏ lại trong làn nước khi người thân của họ vẫn còn ở nhà và cần được thông báo về vị trí nạn nhân.

Khi Richie 11 tuổi, cha cuối cùng cũng đưa cậu đi lặn. Hai người tới cầu tàu nơi Kohler buộc thuyền. Richie kiểm tra đồng hồ đo, nhổ vào mặt nạ để nó khỏi bị mờ khi ở dưới nước và vỗ hông để đảm bảo con dao vẫn đúng vị trí. Khi tất cả đều ổn, cậu lộn ngược xuống nước như diễn viên trong loạt phim Sea Hunt. Nước biển New York đầy những ly xốp và mẩu thuốc lá, bề mặt váng dầu và có cả một cái ô gãy, nhưng Richie vẫn kinh ngạc với vẻ đẹp dưới mặt nước: sam trườn, cá tuế vụt qua và một con sứa lờ lững trôi theo dòng nước. Khi cậu di chuyển ở nơi không dành cho con người này, nơi những chiếc U-boat từng lướt đi ngay dưới mũi nhân loại, cậu hiểu rằng cậu đã thâm nhập vào một thế giới khác, rằng cậu đã trở thành nhà du hành của ước mơ xưa.

Khi Richie lên 12 tuổi thì cha mẹ cậu đã chia tay và cha cậu đang hẹn hò với người khác. Một đêm tháng hai năm 1975, Frances rón rén vào phòng ngủ của Richie. Chị đánh thức cậu bé, đưa va li bảo cậu gói ghém đồ đạc và giúp em cậu chuẩn bị.

“Mình đi đâu hả mẹ?” Richie vừa dụi mắt vừa hỏi.

“Mình sẽ đi Florida” Frances nói. Chị ngạc nhiên với chính câu trả lời của mình. Chị chưa từng nghĩ tới Florida trước khoảnh khắc ấy.

Hai giờ sáng, Frances đưa ba con lên chiếc Buick Riviera màu đen và đi về phía nam trên tuyến cao tốc thu phí New Jersey. Ở trạm xăng, chị mua bản đồ và giao Richie nhiệm vụ dẫn đường. Khi bình minh lên, chị tấp vào một trạm nghỉ và chợp mắt cùng các con. Sau đó chị lái xe tới nhà mẹ ở New Port Richey, bang Florida. Chị chưa báo cho mẹ rằng mình sẽ tới. Bà Rosalie Ruoti hôn con gái và ôm các cháu ngoại. Lúc ấy, Frances biết mình sẽ không bao giờ quay lại New York.

Vài tuần sau khi rời New York, Richie mừng sinh nhật tuổi 13 tại nhà bà ngoại ở Florida. Không lâu sau, Frances mua nhà riêng gần đó. Qua điện thoại, Richie nói với cha “Con yêu bố, mà bố không ở đây với con” còn Kohler chỉ có thể nói “Con biết mà nhóc, bố chẳng làm gì được. Mẹ con và bố không ở được với nhau.” Sau mấy lần gọi như vậy, Richie biết cậu sẽ sống phần còn lại của tuổi thơ ở Florida.

Năm 14 tuổi, Richie nhập học trường Trung học phổ thông Hudson gần nhà. Có lần, trong giờ thể chất ngoài trời, một bạn dáng người phục phịch bắt đầu xô đẩy một bạn khẳng khiu, tóc vàng học cùng lớp đại số với Richie. Richie bước tới và bảo tên kia ngừng bắt nạt. Tên bắt nạt nói: “Lo chuyện của mày đi không thì tao sẽ…” Richie lấy đà hết cỡ và cho cằm thằng đó ăn trọn nắm đấm. Thằng bắt nạt sụm xuống nền bê tông, rên rỉ và ú ớ. Cha cậu nói đúng: luôn ra đòn khi đối phương mải kể lể sẽ cho bạn ăn đòn ra sao.

Cậu bạn khẳng khiu cảm ơn Richie và tự giới thiệu là Don Davidson. Cậu mời Richie tới nhà sau giờ học. Phòng ngủ của Don khiến Richie mở mắt. Treo trên trần là năm, sáu mô hình chiến cơ Thế Chiến II, mỗi cái chi tiết như trong các bức ảnh chụp cận cảnh máy bay thật. Richie nằm ngửa ngắm khung cảnh bên trên và trong phút chốc cậu như nằm dưới bầu trời Philippin đỏ máu năm 1944 của trận vịnh Leyte, súng máy xé toạc cánh máy bay địch và phi công nhảy khỏi buồng lái đang cháy. Don không phàn nàn việc Richie nằm ngửa trên sàn vì cậu cũng hay làm thế. Trên giá sách của Don có ít nhất 20 cuốn sách về Luftwaffe, lực lượng không quân của Hitler. “Tớ là người Đức” Don bảo Richie. “Tớ rất hứng thú với công nghệ của Thế Chiến II, đặc biệt là chế tạo của Đức và vũ khí ưu việt của họ.” Richie kể với Don về Kriegsmarine (hải quân Đức) và chuyện những chiếc U-boat đã đến thềm cửa New York, chỉ cách nhà cậu vài kilômét. Richie nói với Don rằng cậu cũng là người Đức. Hai cậu lập tức thành bạn thân.

Khi Richie và Don bước sang tuổi 15, hai cậu đăng ký học scuba và nhận chứng chỉ dành cho thanh thiếu niên. Họ lặn liên tục, săn cá bằng lao, thậm chí từng gặp cá mập. Richie cảm giác hệt như nhà du hành vũ trụ dưới nước, tự do thám hiểm những thế giới cấm cửa với những bạn cùng lớp ngồi ngám ngẩm bên cạnh trong những tiết sinh học hoặc giờ tự ôn tập. Cậu mê đắm những thiết bị tinh tế vừa là tấm khiên che chắn, vừa là cánh cổng dẫn vào đại dương. Cậu sung sướng với cảm giác độc lập mà việc lặn săn cá đem lại; thợ săn như Don và Richie có thể dành cả tiếng đồng hồ trong thế giới không lằn ranh ấy, không có cha giám sát, chỉ lấy chính mình làm chỗ dựa.

Vào năm ba trung học, Richie bắt đầu gần gũi hơn với đám bạn bè nghịch ngợm. Những năm tháng vùi đầu trong sách vở dần nhường chỗ cho những lon Miller High Life trên bãi biển, những hộp phim 35mm nhồi đầy cần sa và việc độ con xe Oldsmobile Cutlass Supreme màu đen đời 1974. Trang phục của cậu là đồng phục của lũ thanh niên cá biệt thập niên 1970: tóc chấm vai, ria mép mỏng, quần soóc rách viền, áo thun đen kiểu rocker in lụa lấp lánh. Cái nắng Florida nướng cháy làn da ô liu của cậu. Quai hàm cậu vuông dần. Đám con gái thèm muốn cậu. Đôi lông mày cậu vẫn sinh động như xưa.

Ở trường Richie giành toàn điểm A và B nhưng giáo viên vẫn ghi vào sổ liên lạc những cảnh báo như “Chưa chuyên tâm” hay “Chỉ hoàn thành vừa đủ”. Tính cứng rắn bụi bặm cha gieo vào cậu dễ dàng tìm cơ hội biểu lộ. Có lần, khi cậu em Frank 14 tuổi thú nhận bị một gã người lớn hăm dọa, cậu thiếu niên Richie 16 tuổi liền cho gã ăn đòn đến phát khóc. Lần khác, Richie và bốn đồng đội trong đội bóng bầu dục thiếu niên của trường quyết định trêu mấy học sinh năm cuối bằng cách châm lửa đốt quần áo thể chất của họ qua khe hở tủ đồ. Nhà trường khởi tố. Ở toà, thẩm phán nói với lũ trẻ nếu biết điều thì tội này được xóa khỏi biên bản. Sau đó, Richie không gây rối nữa.

Năm học dần trôi, Richie bắt đầu nghĩ về tương lai. Cậu chán ngấy trường lớp rồi: tuy thích thú với học hành nhưng cậu phải là một con người của hành động ngoài đời thực thay vì tiếp tục ngồi ở bàn nghe giảng. Một ý tưởng định hình trong đầu: cậu có thể gia nhập hải quân. Bằng cách đó, cậu có thể sống trên mặt nước, ngao du thiên hạ, làm việc với những vũ khí ngoạn mục bậc nhất. Biết đâu (và điều này khiến tim cậu thực sự rộn ràng) cậu có thể phục vụ trong một tàu ngầm chiến đấu. Không phải là kiểu tàu ngầm hạt nhân lù đù mà là một con tàu săn uy mãnh.

Cuối năm ba trung học, nhà tuyển quân của Hải quân Hoa Kỳ tới thăm trường cậu vào ngày hướng nghiệp. Richie hỏi rất nhiều. Người kia nói rằng có các chương trình đào tạo sĩ quan dành cho những người đạt điểm cao nhất trong kỳ sát hạch năng lực của lực lượng vũ trang. Những chương trình đó cho phép tân binh chọn lĩnh vực đào tạo, bao gồm cả tàu ngầm. Richie đăng ký và đi thi mà không ôn tập. Điểm của cậu thuộc 2% cao nhất. Hải quân Hoa Kỳ nói họ rất sẵn lòng chiêu mộ cậu. Cậu lại hỏi về tàu ngầm.

Nhà tuyển quân bảo đảm với Richie rằng nếu cậu cam kết làm việc cho hải quân sáu năm, hải quân sẽ dành cho cậu một suất trên tàu ngầm. Người đó đưa ra một bản giao kèo ước định điều khoản ấy. Richie và mẹ ký các giấy tờ. Ước mơ làm nhà du hành của cậu đã tắt từ lâu. Giờ đây, tuy nghe có vẻ kỳ lạ nhưng cậu tự nhủ: “Mình đã trở lại cuộc chơi.”

Sau khi tốt nghiệp trung học, Richie và mấy chục lính mới khác được xe buýt đưa tới một căn cứ hàng không hải quân tại Florida để nhập ngũ. Phi cơ hải quân gầm trên trời. Các lính mới tuyên thệ. Richie chính thức trở thành thành viên của Hải quân Hoa Kỳ.

Cùng ngày hôm đó, sĩ quan mặc quân phục xanh triệu Richie tới văn phòng và bảo cậu ngồi xuống.

“Con trai ạ, có một vấn đề” Ông nói. “Cậu đã khai đơn sai sự thật.”

“Ý ngài là sao ạ?” Richie hỏi.

Người sĩ quan giải thích rằng họ tìm thấy biên bản về vụ phóng hỏa của Richie ở trường. Hải quân không có ý định cho phép người nào có liên đới tới hành vi phóng hỏa phục vụ trên tàu của họ. Không bao giờ.

Richie hụt hẫng. Cậu thanh minh rằng tất cả chỉ là một trò đùa và thẩm phán đã xóa tội khỏi biên bản. Người sĩ quan không động lòng. Ông đề nghị để Richie tiếp tục huấn luyện nhưng phải hiểu rằng cậu sẽ không bao giờ phục vụ trên tàu hải quân rồi yêu cầu cậu ký văn bản tương ứng. Richie không đồng ý. Vài tiếng sau Richie ra đường với cảm giác lạc lõng và thất vọng tràn trề. Cậu đã là thành viên của Hải quân Hoa Kỳ trong một ngày. Giờ thì dự định về một tương lai xán lạn của cậu đã bị dập tắt bởi quy định và lỗi lầm thời niên thiếu. Cậu lang thang suốt mấy ngày sau đó, nhìn lại cuộc đời mình và tự hỏi làm sao cậu có thể bù đắp lại sự mất mát một cơ hội nhường ấy. Khi không thể nghĩ ra mình sẽ làm gì, cậu quyết định quay về New York làm việc cho cha mình.

Trong ba năm, Kohler làm việc miệt mài và xây dựng bộ phận sản xuất gương cho công ty của cha. Không một lần anh động vào đống thiết bị lặn cất ở tầng hầm của Fox Glass. Một ngày, anh được gọi sửa cửa sổ ở Wantagh South Bay pe Center − một tiệm scuba ở phía đông Long Island. Trong khi làm việc, anh để ý thấy tấm ảnh thợ lặn trên một xác tàu. Người trong ảnh có vẻ đang gỡ vòi nước từ một chiếc bồn tắm. Kohler hỏi chủ tiệm − một người đàn ông tên Ed Murphy − về tấm ảnh.

“Đó là Andrea Doria” Murphy nói.

Kohler đã đọc sách về Andrea Doria và biết con tàu đắm ngoài khơi New York, nhưng anh chưa từng nghĩ ai đó sẽ lặn tìm nó. Murphy lấy ra hàng chồng ảnh chụp Doria. Đây không phải là kiểu tàu đắm mà Kohler đã thấy ở Florida: những con tàu bị thiên nhiên cấu xé và sinh vật biển thống trị. Doria trông như một con tàu đắm của Hollywood, với những căn phòng nguyên vẹn, hệ thống đường ống còn rõ ràng cùng những vang vọng từ sức sống và thảm kịch.

“Tôi muốn lặn ở đó” Kohler thốt lên. Chính anh cũng bất ngờ với những lời bất chợt ấy. Đã ba năm anh chẳng nghĩ gì đến lặn.

“Ôi không không không không” Murphy nạt. “Doria là thứ mà anh phải phấn đấu dần dần mới được. Nó sâu 76 mét. Chỉ dành cho những thợ lặn hàng đầu thôi.”

“Tôi cũng hàng đầu” Kohler nói. Anh kể về kinh nghiệm lặn vo săn cá ở Florida của bản thân.

“Chuyện này không phải lặn săn cá đâu chú em” Murphy nói. “Nhưng có chuyện này. Cuối tuần này tôi có một nhóm khách chuẩn bị lặn một xác tàu tên là USS San Diego. Đây là một tàu tuần dương thời Thế Chiến I bị thủy lôi Đức đánh chìm xuống cát. Một con tàu đắm khá hay. Cậu có thể nhập hội. Nó sâu 33 mét, chắc cậu kham được. Mang đồ lặn của cậu theo.”

“Tôi sẽ có mặt” Kohler nói.

Kohler lao về tầng hầm ở Fox Glass. Thiết bị của anh mốc meo phủ bụi. Anh lấy ra và xả nước bình khí, bộ điều áp, mặt nạ, chân nhái. Mùi cao su tổng hợp bọc kín bay lên từ bộ đồ lặn.

Cuối tuần đó, Kohler căng buồm tới chiếc San Diego. Khi thuyền lặn tới vị trí xác tàu, anh bắt đầu mặc đồ. Những thợ lặn khác cười khúc khích và hắng giọng. Kohler không mang găng tay, đồ trùm đầu hay ủng, chỉ một bộ đồ lặn ướt kiểu Farmer John thậm chí còn không che tay. Có người hỏi có phải sáng nay anh vừa trồng ngô xong không.

“Dưới đó lạnh cóng đấy” một thợ lặn bảo anh. “Florida ở xa đây lắm chú em.”

“À, tôi không sao đâu” Kohler nói.

Lặn được một phút Kohler đã run lên. Làn nước xanh xám không quá mười độ. Khi xuống đến xác tàu anh nhận ra nó nằm lật ngược, một “con rùa”. Anh bơi dọc mạn tàu tìm lối vào và cuối cùng cũng thấy một gian mở. Kohler không được đào tạo kỹ năng đào, sàng hay những nghệ thuật khai quật tinh tế khác. Anh chỉ đơn thuần sục tay xuống bùn và lôi ra hàng tá đầu đạn. Tuyệt! Cơ thể anh bắt đầu run lên vì lạnh. Anh kiểm tra đồng hồ: anh mới ở dưới này năm phút. Anh bắt đầu ngoi lên vì sợ chết cóng. Trên đường lên anh nhìn chăm chăm vào những viên đạn. Thứ đạn dược này đã chu du từ Thế Chiến I vào thẳng lòng bàn tay anh. Anh mê rồi.

Sau đó, Kohler mua thiết bị đúng chuẩn để lặn thám hiểm vùng Đông Bắc: bộ đồ lặn khô, găng, một con dao giá 50 đô la. Anh đăng ký mọi chuyến tàu thuê của tiệm đồ lặn. Bản năng của anh nghiêng về những khu vực nhiều hiện vật; anh thường mang lên những thứ nhiều năm bị thợ lặn khác bỏ qua. Anh tự tin di chuyển quanh chiếc SS Oregon, chiếc San Diego và những xác tàu khác. Anh thâm nhập vào những nơi cả huấn luyện viên cũng dè chừng. Niềm đam mê lặn trở lại trong mạch máu. Những con sóng trập trùng, tiếng rền của động cơ thuyền, sắc xanh xám của nước lạch, vệt trắng phản chiếu của dải Ngân Hà trên mặt biển đêm − tất cả đều gợi anh nhớ về quãng thời gian đẹp đẽ khi là đồng đội với cha trên biển, những mùa hè cha anh còn là người hùng và biển sẽ đưa anh đi bất cứ đâu.

Với Kohler, lặn thám hiểm cũng cho phép con người đi bất cứ đâu. Anh đọc trên một tạp chí lặn về nhóm người thuê thuyền tới lặn Doria năm 1967. Trong số đó, John Dudas đã tìm được chiếc la bàn của con tàu. Kohler cảm thấy Dudas như thuộc về giống loài khác. Vào thời kỳ thợ lặn không có đồng hồ đo, chết cóng trong bộ lặn ướt và lúc nào cũng nơm nớp lo nước tràn vào đồng hồ đeo tay, Dudas đã lặn sâu tới 76 mét và lấy được hộp la bàn từ bên trong Andrea Doria. Với Kohler, người bắt đầu hiểu thế nào là tác động của say nitơ và nghĩa của từ lạnh, Dudas đồng thời là nhà du hành không gian, lính đánh thuê, đấu sĩ và một con cá heo.

Cùng kinh nghiệm dần tích lũy, Kohler cũng hình thành thương hiệu riêng về lòng can đảm. Trong một chuyến lặn San Diego, anh chui qua một lỗ mục vào một phòng đen đặc dầu. Trong tầm nhìn 0, anh nhồi đầy những chén đĩa, đèn lồng, kính viễn vọng, kèn binh vào túi lưới xanh rồi chia chiến lợi phẩm cho bạn lặn trên thuyền. Chuyến lặn đưa anh lên các tạp chí dành cho người đồng điệu. Ở các xác tàu khác như Oregon, Relief, Coimbra, R.P. Resor, anh sục vào bùn và bơi vào những nơi đổ nát − việc dễ dàng gây mất phương hướng. Anh luôn ra ngoài với bình còn dư khí. Trong đa số lần, anh sẽ bơi lên với chiến lợi phẩm từ những căn buồng nguy hiểm ấy. Cùng lúc đó, anh hình thành đam mê bất tận với hiện vật. Càng lấy được nhiều, anh càng khát khao nhiều hơn.

Một hôm, Murphy gọi Kohler ra nói chuyện riêng. Ông kể cho anh về nhóm sáu thợ lặn (phải gọi là một băng mới đúng) mà ông nghĩ có cùng chí hướng với Kohler. Băng đó không có tên chính thức, nhưng người ta gọi họ là Du Côn. Đó là một nhóm đáng sợ, Murphy nói, vì lòng tham hiện vật và lối sống bất chấp. Họ cũng đồng thời là những thợ lặn xuất chúng nhất ở bờ đông.

“Họ lặn sâu phát hoảng đấy Kohler” Murphy nói. “Họ đến những nơi không ai đến. Họ đúng là đồng loại của cậu.”

“Ông giới thiệu tôi với họ được chứ?” Kohler hỏi.

“Nghe này, một số người coi họ là lũ cướp biển chuyên ‘nhậu’ những xác tàu…”

“Thế thì ông càng phải giới thiệu tôi” Kohler nói.

Murphy mời băng thợ lặn đi một chuyến tới Oregon. Kohler cũng đăng ký. Murphy giới thiệu hai bên. Băng Du Côn gồm sáu người: năm công nhân và một kỹ sư hàng không vũ trụ, mỗi người đã có ít nhất mười năm kinh nghiệm lặn thám hiểm. Trên thuyền họ là đám ồn ào quậy phá nhưng lại khác hẳn khi ở trên xác tàu. Kohler quan sát băng thợ lặn nhập vào nhau thành một thực thể thống nhất, dùng tay ra hiệu cho nhau và rõ ràng là theo kế hoạch đã định. Họ nhồi thành viên tên Pinky qua một lỗ bé xíu đi vào khoang chứa hàng ở đuôi tàu, rồi thay phiên nhét đầy túi từ cửa mạn, bình rượu lậu, đĩa ăn và những thứ khác Pinky lấy được. Mỗi thành viên dường như đoán trước chuyển động của tất cả các thành viên khác, để không lãng phí dù chỉ một động tác và nhét tối đa hiện vật. Kohler chưa bao giờ chứng kiến sự phối hợp như thế. Từng mê mẩn những máy móc tinh xảo thuở bé, anh cảm thấy có thể ngắm nhìn những người này làm việc mãi.

Trên thuyền, băng Du Côn ăn mừng chiến lợi phẩm bằng cách nốc bia, chửi thề và ngốn một lượng thịt nguội đủ để mở cửa hàng đồ ăn sẵn lưu động. Kohler chỉ cho họ hai con tôm hùm khổng lồ anh bắt được trên xác tàu. Họ cười khẩy. “Hiện vật của cậu đâu? Nếu muốn bắt tôm hùm thì cứ ở trên kè ấy.” Kohler cười và hỏi thăm có thể lặn cùng họ lần tới không.

Băng Du Côn không thích người ngoài, nhưng họ thích Kohler. Cậu trai trẻ uống tới bến với họ và ghét những thuyền trưởng tàu thuê mà họ cũng ghét. Hay nhất là cậu ta có cùng tinh thần cướp biển như họ. “Cậu lo phần bia” họ nói. “Mang bia thì cậu có thể đi cùng tụi tôi chuyến tiếp theo.”

Kohler mang cả bể bia và anh tiếp tục mang suốt một năm. Anh chưa từng gặp ai tận lực ăn chơi như những người này. Băng thợ lặn khuấy đảo quán pizza trước những chuyến lặn, chổng mông vào những du thuyền gia đình đi ngang qua, đeo mũi lợn nhựa và khụt khịt với thuyền trưởng thuyền đối thủ, đồng thời ăn uống còn nhiều hơn cả hội sinh viên trường đại học. Thời gian còn lại, băng thợ lặn cho Kohler khóa đào tạo mà thợ lặn khác muốn mua cũng không được.

Như sĩ quan quân đội, họ lột thứ đồ dân sự khỏi Kohler và trang bị cho anh thiết bị chuyên dụng cho lặn thám hiểm. Đai an toàn của anh? Quá tệ, mua loại này này. Đèn của anh? Vứt cái của nợ từ Florida đó đi và mua cái sáng hơn, đây là Đại Tây Dương, giời ạ. Con dao năm chục đồng của anh? Quá sang chảnh, dùng loại mà cậu không tiếc của đuổi theo nếu đánh rơi. Bài học rất rõ ràng: nếu muốn tới những nơi mà người khác không dám tới, tay lặn phải có đồ nghề phù hợp.

Sau đó, họ tiến hành nâng cấp tư duy cho Kohler. Họ bắt anh nghiên cứu sơ đồ boong và ảnh chụp để xác định những nơi màu mỡ nhất của xác tàu. Tay lặn nào xông vào và đào xới lung tung sẽ không bao giờ lấy được chiến lợi phẩm như của người có tri thức. Họ tuyên truyền nội quy nhóm: cả băng sẽ phối hợp làm việc và chia nhau chiến lợi phẩm. Kohler phải luôn sẵn sàng chuẩn bị túi đồ của người khác hoặc hoàn thành nhiệm vụ nặng nhọc của họ và tìm mọi cách để mang lên nhiều nhất có thể. Và thái độ bon chen của Kohler đối với hiện vật? Rất tốt chú em à, nhưng không áp dụng với người trong nhóm. Luôn nhớ rằng trong nhóm, chúng ta không bao giờ “chơi” nhau.

Băng Du Côn dạy những bài học sâu sắc nhất trên đường tới xác tàu, phương pháp của họ là vĩnh cửu. Họ dạy cách xem góc nghiêng tàu để đoán nơi có hiện vật. Họ cho thấy vẻ đẹp của việc dùng não cùng nêm thép thay vì cơ bắp cùng búa tạ. Họ là bách khoa toàn thư sống về các tai nạn lặn. Họ nghiên cứu những pha suýt mất mạng, những ca giảm áp, những trường hợp chết đuối trong môn này, phân tích từng vụ cho đến khi hiểu rõ nguồn cơn và đoán định cách phòng ngừa. Họ tin rằng nhiều năm thẩm thấu cách những người khác mắc lỗi và chết sẽ giúp một thợ lặn tăng khả năng tránh được số phận tương tự.

Nhóm thợ lặn phủ đầu Kohler với những bài học sinh tồn. Họ dạy anh rằng chừng nào anh còn thở thì anh còn ổn. Họ dạy anh đáp lại cơn hoảng loạn đang dâng lên bằng cách giảm tốc, lùi về sau và thảo luận với bản thân về tình huống hiện tại. Họ khắc vào tâm anh sự kinh hoàng của việc ngoi lên mặt nước mà không giảm áp. Khi họ phát biểu “Tôi thà tự cứa cổ còn hơn là dính sốc giảm áp kiểu vậy” anh tin họ nói thật vì họ đã từng nhìn thấy những người leo lên thuyền, sùi bọt máu và nghẹn tim. Họ không ngừng cảnh báo anh về “hiệu ứng lở tuyết” khi thợ lặn lờ đi một hay hai vấn đề nhỏ rồi gặp phải những vấn đề khác mà khi kết hợp với nhau sẽ giết chết anh ta. “Luôn giải quyết vấn đề đầu tiên ngay tức khắc và triệt để” họ nói, “không là cậu sẽ toi đấy.”

Kohler nuốt từng lời. Khi cùng băng tới những xác tàu nguy hiểm nhất, anh tự lo liệu, vẫn kiếm được hiện vật và bảo toàn tính mạng. Trong một năm tiếp theo, anh đăng ký mọi chuyến lặn của băng. Trong mắt những người kia, Kohler chỉ thuộc hàng trẻ trâu, nhưng anh mang tới những phẩm chất họ chưa từng biết ở ai khác. Cậu thanh niên này không có mảy may một gợn hoài nghi hay khinh bạc; không mục tiêu nào bất khả thi đối với Kohler, không ý tưởng nào ngoài tầm với. Ví dụ: anh tin cả băng có thể tháo quả chuông khỏi mũi tàu Coimbra, dù xác tàu đó dài hơn 120 mét, nằm sâu 55 mét trong làn nước lạnh cóng và chưa thợ lặn nào từng có dịp thăm thú mũi tàu. “Khôn lắm cơ, làm thế là chết cả nút đó” họ nói và quăng túi bụi lon bia vào Kohler. Mặt khác, tuy cười vào những viễn tưởng của Kohler, tuy trêu chọc và thích thú thấy anh đỏ mặt mà vẫn ngoan cố khẳng định “Làm được!” họ không khỏi tự hỏi biết đâu Kohler có lý. Một tháng sau khi Kohler đề nghị săn tìm quả chuông của Coimbra, cả băng vũ trang thêm bình khí dự phòng, lập kế hoạch tác chiến chung và trở thành những thợ lặn đầu tiên thám hiểm phần mũi con tàu. (Đến nay, vẫn chưa ai lấy được quả chuông từ xác tàu này.)

Trên đường về sau một chuyến lặn, mọi người quay ra bàn về tình đoàn kết của băng. Nếu băng có thể kết nạp thành viên mới và biết cách tổ chức, họ có thể cho thuê thuyền lặn riêng, vừa tiết kiệm tiền vừa tự chủ được địa điểm. Việc này đòi hỏi cam kết lớn: thành viên sẽ phải hùn chi phí thuê tàu dù không tham gia, nhưng bằng cách đó nội lực của băng sẽ tăng lên đáng kể.

Lần lượt từng người nói “Tôi tham gia.” Băng sẽ cần tên chính thức. Có người đề nghị “Atlantic Wreck pers” (Hội thợ lặn thám hiểm Đại Tây Dương). Tuyệt. Có người lại đề nghị mặc áo gió đồng phục. “Bọn này đếch phải là đội bowling” những người còn lại đồng thanh phản đối. Thế đồng phục áo khoác bò với miếng vá đầu lâu xương chéo thì sao? Có vẻ được. Giờ thì sáu thành viên ban đầu của băng sẽ phải bầu thêm bốn thành viên mới và phiếu bầu phải là đồng thuận tuyệt đối. Chỉ những thợ lặn xuất sắc nhất được đề cử, là những tâm hồn đồng điệu từng lặn cùng băng với cách nghĩ tương thích. Khi nêu tên Kohler, bốn ngón cái giơ thẳng và hai ngón giơ ngang. Anh lặng người. Không ai nói gì. Khi hai thành viên giơ ngang ngón cái thấy rằng họ đã cho Kohler một vố đau, họ xoay ngón cái lên trời. “Quái quỷ đến tận xương tuỷ” Kohler nghĩ. Khui bia. Tuyên thệ. Hội Atlantic Wreck pers chính thức chào sân.

Cùng thời gian Kohler trở thành thợ lặn của Atlantic Wreck pers, anh nghe đồn cha anh đang cặp kè với bạn gái cũ của mình. Mới năm ngoái cô này còn sống cùng Richie. Anh hỏi thẳng cha và cha anh thừa nhận đúng có chuyện như vậy, mối quan hệ đã diễn ra nhiều tháng. Richie bị sốc. Mất một phút anh mới có thể cất lời.

“Sao cha có thể làm thế?” rốt cuộc anh nghẹn ngào.

“Tao là cha mày và tao làm gì kệ tao” ông Kohler nói. “Nếu mày không thích thì cút ra khỏi cửa.”

Cửa… Nếu Richie bước qua cửa thì sẽ chẳng bao giờ quay lại. Trong thế giới của cha anh, bước qua cửa nghĩa là một đi không trở lại. Richie nghẹn họng và trán anh ửng đỏ. Tiếng hít thở phì phò qua lỗ mũi. Giờ anh có thể rút lui: văng tục giữ thể diện và bảo toàn nghề nghiệp của mình, tương lai của mình cùng mối quan hệ với cha mình. Bên cạnh đó, anh đâu còn yêu cô kia nữa, cô ta là cái gì mà khiến anh phải cút khỏi cửa? Anh nhìn vào mắt cha. Cha anh không chớp mắt. Nếu Richie đi bây giờ, anh sẽ mất người đàn ông này − người lực sĩ hiểu biển cả, hiểu kinh doanh, người đã tôi luyện anh để đối mặt với cuộc đời. Anh có làm được thế không? Kohler biết mình. Anh có thể kiên định với bất kỳ lựa chọn nào nếu anh tin là nó đúng.

“Con chọn đi ra khỏi cửa” anh nói với cha.

Ngày hôm đó, Richie dọn đồ khỏi tầng hầm ở Fox Glass. Phải nhiều năm sau anh mới gặp lại cha mình.

Giờ thì Richie phải đi tìm việc. Một người bán kính giới thiệu cho anh một công ty trả lương hậu hĩ và đang cần người có kinh nghiệm giống anh. Vài ngày sau, anh bắt đầu làm thợ cơ khí cho Act II Glass and Mirrors ‒ doanh nghiệp chuyên phục vụ cộng đồng Do Thái Chính thống của New York. Anh nhanh chóng kết thân với người chủ và bốn tháng sau trở thành quản đốc.

Trong hai năm sau đó, Kohler làm việc cần mẫn và cho công ty một tầm nhìn. Phần thưởng cho những cống hiến ấy là anh trở thành đồng sở hữu công ty. Đời lại đẹp. Anh dành mùa hè cho Atlantic Wreck pers. Biển cả chưa từng thấy băng thợ lặn như thế bao giờ.

Trên thuyền của AWD, thực là đạo. Thành viên đóng góp những thịt nguội, phô mai, xúc xích, bánh trái hảo hạng nhất, dư sức phục vụ một cuộc truy hoan La Mã. Nếu một người mang tới món xa lát cà chua và phô mai mozzarella đặc biệt của vợ thì một người khác sẽ tiếm ngôi tuần sau với món thăn lợn hầm. Băng thợ lặn đôi khi nướng bò, gà và cả cá bơn xiên được ở đuôi thuyền.

Được yêu thích hơn cả thức ăn là những trò táo tợn. Nhiều khi, không cảnh báo thuyền trưởng trước, cả băng sẽ hét “Bơi thôi!” và khoả thân nhảy xuống biển, tay vẫn nắm lon bia cả khi bập bềnh trên mặt nước. Các thành viên mang theo súng và ném thú nhồi bông lên không trung để tập bắn. Khi một thuyền tiệc tùng sang chảnh chạy qua, cả băng sẽ ném lon bia vào thuyền đối phương và đồng thanh hát những lời đã thành thương hiệu:

Váy tốc, đít mốc, vừa già lại vừa ngốc;

Sáu chín con bó lại cho tròn;

Óc nhỏ, trôn to, phò phạch cả lò;

Thợ lặn là chúng tao, các cháu tuổi nào?

Nếu thấy khách bên kia chưa đủ phẫn nộ, cả băng sẽ vạch quần chổng mông chốt hạ.

Mỗi thành viên AWD có một biệt danh. Pete Guglieri lớn tuổi nhất, điềm tĩnh nhất là “Hoàng Đế”. Jeff Pagano là “Thù Nhân” vì cách nhìn đời tiêu cực. Pat Rooney là “Búa” do mang dụng cụ xuống nước, John Lachenmeyer là “Jack Lủng Lẳng” vì hay trần truồng đi lại, còn Brad Sheard − kỹ sư hàng không vũ trụ − được gọi là “Đũ Keo” vì khi anh muốn đẽo một miếng gỗ thành hình thuyền buồm thì sản phẩm lại trông giống cái linga hơn là phương tiện đi biển. Biệt danh của Kohler sinh ra sau một cuộc bàn luận về tai nạn khi dùng cocain của Richard Pryor. Do công việc đòi hỏi phải tới những khu ô nhiễm ma tuý nhất Brooklyn, anh đã giảng giải được cho băng sự khác biệt giữa cocain bột và cocain tinh thể. Sau đó, anh trở thành Thằng Nghiện.

Cùng thời gian này, Kohler gặp Felicia Becker − nhân viên bán hàng da nâu xinh đẹp của một trong các khách hàng mua kính. Chị hiểu đam mê lặn của anh. Họ kết hôn vào mùa thu năm 1989 và sau đám cưới không lâu, Felicia có bầu.

Một tối năm đó, Kohler ghé một nhà hàng Tây Ban Nha ở Brooklyn để ăn tối. Anh đi một mình. Khi anh ngồi ở quầy bar thì có người vỗ lưng. Hóa ra là cha anh. Hai người không gặp và cũng không nói chuyện với nhau từ năm năm trước. Ông Kohler tỏ ý muốn ngồi cùng. Richie đồng ý.

“Cha sắp thành ông nội rồi” Richie nói. Cha anh còn không biết con trai mình đã lấy vợ.

Hai cha con dành hàng giờ kể cho nhau chuyện gia đình, chuyện cuộc sống. Không ai nhắc đến bạn gái cũ của Richie. Cha anh đề nghị anh quay về Fox Glass. Richie nói rằng anh không thể làm việc cho ai vì đã đồng sở hữu công ty riêng. Cha anh đề xuất hai cha con cộng tác cùng mở công ty kính ở New Jersey và Richie ưng thuận. Anh vẫn kiên định với lựa chọn của mình, chính cha anh là người thay đổi. Anh vui vì được quay lại công việc kinh doanh của gia đình. Anh còn vui hơn vì nhận ra nếu anh đã quyết làm gì, dù là việc đau đớn như rời bỏ cha mình, thì anh sẽ theo quyết định ấy đến cùng.

Năm 1990, Kohler và Felicia mừng sự chào đời của con đầu lòng: một bé trai. Kohler làm việc quần quật và dành hết thời gian rảnh cho Atlantic Wreck pers. Lịch trình họ tự chế rồi đem photocopy là thứ được các nhà sưu tầm trong cộng đồng lặn săn tìm. Trên tờ lịch một trang đó đầy hình gợi cảm cắt ra từ những tạp chí rẻ tiền dành cho đàn ông. Số điện thoại kiểu như 1-800-EAT-SHIT được đăng làm địa chỉ liên hệ. Một lịch trình hứa hẹn có “nếm bia, học gọi lợn, xem ô môi, vũ khí tự động, tiếp tục nếm bia, bắt nạt ma mới… cùng những cuộc lặn tuyệt cú mèo”. Một cái khác ghi “Nếu bạn không có số điện thoại của chúng tôi, chúng tôi đếch cần bạn lặn cùng”. Ở trung tâm có một danh sách ngày, thuyền và địa điểm xác tàu. Thường thì băng sẽ thuê Wahoo − thuyền của Steve Bielenda.

Ban đầu Kohler không có vấn đề gì khi đi trên Wahoo. Nhưng gần đây anh xung đột với Bielenda, có lần suýt đánh lộn, nên giờ Kohler cần tìm chiếc khác để đi Doria. Anh từng lặn vài lần với Nagle trên Seeker tới Durley Chine, Bidevind vàResor và từ lâu đã ngưỡng mộ kỳ tích của Nagle. Và tuy mang tiếng thô lỗ và nóng nảy, Nagle luôn tỏ ra tôn trọng Kohler. Kohler đăng ký một số chuyến trên Seeker vào năm 1990 và 1991. Tuy lúc đó trên thực tế Chatterton đã điều hànhSeeker, anh và Kohler chưa bao giờ đụng độ trên thuyền.

Mùa thu năm 1991, Kohler nghe chuyện chiếc U-boat mới toanh vừa được phát hiện. Tin này đảo lộn cuộc sống của anh. Suốt nhiều ngày, anh sống trong khát khao, đi đi lại lại ở nhà và cơ quan, bỏ quên gia đình và bè bạn, không tìm được cách thỏa niềm mong mỏi. Thế rồi Brennan gọi và nói: “Nhập hội đi.” Lời ấy đưa Kohler về lại những ngày anh nghe cha kể về ông Segal và dâng lên lòng hãnh diện về họ, về cách người Đức chế tạo máy móc. Lời ấy đưa anh qua ngàn vạn trang sách anh đã đọc về Thế Chiến II, về lòng quả cảm của các chiến sĩ và tấm lưới sắt chăng ngang New York. Nó đưa anh qua con thuyền buồm anh và người bạn Don đã thiết kế để đi vòng quanh thế giới, qua người sĩ quan đã hứa hẹn cho anh lên tàu ngầm, qua đám thiết bị anh đã dùng để chinh phục những thế giới xa lạ và anh biết anh phải trở thành một phần của chiếc U-boat mới toanh ấy vì 29 năm nay, nó luôn là một phần của anh.

21* Sản phẩm thức uống đóng gói của General Foods, được dùng trong những chuyến bay vào không gian thời kỳ đầu (ND).