← Quay lại trang sách

Chương 7 Con dao của Horenburg

CHỮ THẬP NGOẶC trên những chiếc đĩa ăn Chatterton lấy từ U-boat xuyên qua thời gian bao trùm tâm trí anh. Có dành cả đời tìm hiểu về Quốc Xã và U-boat thì đến cuối cùng tất cả những gì nhận được cũng chỉ là thông tin. Những chiếc đĩa có trọng lượng. Những đầu mút của chữ thập ngoặc cọ vào đầu ngón tay, nhắm mắt cũng cảm nhận được cái hình thù khét tiếng đó. Chưa ai từng liệt kê, tuyển lựa, thậm chí sờ vào những thứ này kể từ khi chiếc U-boat đắm. Chúng đã từ Đế chế thứ ba của Hitler đi thẳng vào phòng khách của Chatterton và vì thế nên trông chúng vẫn thật xảo trá trên bậu lò sưởi nhà anh.

Có thể vẫn còn một số ít người trong cộng đồng lặn chưa nghe về xác tàu bí ẩn sau cái chết của Feldman nhưng ai cũng biết chuyện sau khi những chiếc đĩa được đưa lên. Giờ đây, dường như mọi cuộc đối thoại trong mọi tiệm lặn ở bờ đông đều là về chiếc U-boat và danh tính của nó. Chatterton và Nagle tin rằng sự chú ý của dư luận sẽ phạm vào cái tôi của Bielenda và Vua biển sâu sẽ không thể chấp nhận có kẻ tiếm ngôi mình. Tuy chưa biết vị trí của con tàu, sớm muộn hắn sẽ moi được thông tin từ những quan hệ bên trong Tuần duyên và lên đường xâm chiếm xác tàu của họ. Thường thì Seeker sẽ quay lại xác tàu vào tuần tiếp theo. Họ tin chỉ cần một, hai chuyến lặn nữa là đủ để buộc U-boat khai tên. Nhưng giờ đã vào mùa bão, cái mùa mà cơ hội chỉ tính bằng giờ thay vì bằng tháng. Mắc cạn, Nagle một lần nữa thề sẽ cai rượu và luyện tập cơ thể sẵn sàng cho mùa lặn tiếp theo. Chatterton quay về công tác nghiên cứu. Nếu không thể thâm nhập con tàu ở đại dương, anh sẽ thâm nhập nó qua sử liệu.

Trong khi một số thợ lặn đã tới thư viện tìm thông tin con tàu, Chatterton tiếp tục tuyến nghiên cứu anh theo đuổi từ đầu bằng cách gửi thư yêu cầu tới cán bộ lưu trữ tại Trung tâm lịch sử hải quân (NHC) ở Washington, D.C. NHC là Fort Knox22*của tư liệu hải chiến và Chatterton hy vọng chuyên môn của người đó sẽ giúp anh tìm được những manh mối hữu ích. Nhưng mất hàng tuần mới có phản hồi và phản hồi không chứa gì hơn ngoài những tóm tắt khái quát tròn một trang. Nếu Chatterton muốn thâm nhập bên dưới lớp vỏ lịch sử, anh sẽ phải trực tiếp nghiên cứu.

Chatterton không chỉ là người duy nhất thực hiện điều tra nghiêm túc. Tại ngôi nhà ở New Providence, bang New Jersey, Kohler lăn xả vào bộ sách về U-boat mình có, đọc ngấu nghiến quá nửa đêm ngay cả khi chuyện kinh doanh kính đòi hỏi anh phải sẵn sàng trước bình minh. Buổi sáng, anh dành một mắt để cạo râu, mắt còn lại để lựa thêm những đầu sách mới từ danh mục của Naval Institute Press, rồi viết séc đặt hàng với số tiền anh hy vọng vợ sẽ không phát hiện ra. Anh tự tiến cử vào một câu lạc bộ Đức-Mỹ ở quốc lộ 130 (Burlington, bang New Jersey) và kể với các hội viên lớn tuổi câu chuyện về chiếc U-boat bí ẩn, rồi tuyển tình nguyện viên giúp anh dịch những cuốn sách tiếng Đức anh đã mua.

Một hôm, anh gọi điện cho một thuyền trưởng thuyền lặn chuyến. Người này đã từng nói là mình biết một cựu thủy thủ U-boat, nên Kohler nhờ anh tìm người thủy thủ kia và xem liệu ông ta có gợi ý gì về manh mối để định danh con tàu. Thuyền trưởng nói chuyện với người cựu chiến binh rồi gọi Kohler.

“Tìm ủng” thuyền trưởng nói.

“Hả?”

“Tìm ủng. Nếu anh tìm thấy ủng trên tàu thì nhìn bên trong. Ông ta nói họ đều viết tên mình vào trong ủng để người khác không dùng chung chạ. Họ không thích người khác đi ủng của mình. Họ còn để đồng hồ và đồ kim hoàn trong ủng và những thứ đó cũng có thể ghi tên họ.”

Kohler quyết định sẽ tìm ủng. Không thợ lặn nào khác nghĩ đến việc mày mò bên trong một chiếc ủng rữa. Họ thường bỏ qua giày dép để tìm thêm bát đĩa, bảng nhà sản xuất hoặc những hiện vật quyến rũ khác. Nếu có thể, Kohler sẽ lục từng chiếc ủng một mà anh nhìn thấy.

Sau đó, Kohler nảy ra thêm một ý tưởng nữa, có lẽ là ý tưởng hay nhất của anh. Anh nghe nói có một chỉ huy U-boat về hưu tên là Robert Werner sống ở Hoa Kỳ. Nhưng Werner không đơn thuần là chỉ huy. Ông ta là tác giả của hồi ký Iron Coffins (Quan tài sắt) − tác phẩm đã trở thành kinh điển trong thể loại này. Kohler lật danh bạ cho đến khi nhặt được vàng: Werner không những sống ở Mỹ mà sống chính tại New Jersey thân yêu. Kohler lấy được số điện thoại và run rẩy quay số gọi một trong những chỉ huy U-boat vĩ đại nhất.

Một người đàn ông trả lời với giọng pha chút chất Đức.

“Xin chào, tôi muốn tìm ông Herbert Werner” Kohler nói.

“Tôi là Herbet Werner đây.”

Tim Kohler đập gấp. Biết đâu anh lại có lời giải đáp về danh tính chiếc U-boat trước khi gác máy.

“Thưa ông, tên tôi là Richard Kohler. Tôi là thợ lặn. Tôi cùng bạn lặn đã tìm được một chiếc U-boat ngoài khơi New Jersey. Thưa ông, lý do tôi gọi là…”

“Tất cả những gì có thể nói tôi đã nói trong sách” Werner nói bằng giọng điềm tĩnh. “Tôi không còn gì để nói.”

“Nhưng tôi chỉ xin hỏi…”

“Tạm biệt” Werner chào khẽ và dập máy.

Kohler áp ống nghe vào tai cả phút trước khi anh dằn được lòng mà gác máy.

Nhiều tuần đã trôi qua từ khi những chiếc đĩa được đưa ra khỏi xác tàu. Nhóm thợ lặn đã dành hàng chục giờ đồng hồ nghiên cứu và một sự thật nổi bật hơn hết thảy: không có ghi chép nào về U-boat đắm trong bán kính 150 km quanh xác tàu bí ẩn. Chatterton cảm thấy như nghiên cứu của anh cùng cán bộ lưu trữ ở NHC đang đi giật lùi. Và anh cùng Nagle như nghe được tiếng Bielenda làm nóng động cơ Wahoo. Chatterton nảy ra một ý: Tại sao không loan tin về việc phát hiện chiếc U-boat ra với thế giới? Hẳn là ngoài kia có những nhà sử học, chuyên gia hay chính phủ biết danh tính con tàu, tại sao không đẩy nhanh tiến trình nghiên cứu bằng cách liên hệ với những người nắm thông tin? Vinh quang và danh tiếng từ khám phá vẫn thuộc về Seeker, Bielenda và những người khác sẽ mất cơ hội cướp công và bí ẩn về con tàu sẽ được giải đáp nhờ nghiên cứu của Seeker. Vẫn có rủi ro: ai đó khác sẽ thành người đầu tiên định danh con tàu. Chatterton quyết định anh chịu được tình huống đó. Anh thuyết phục Nagle viết một thông cáo báo chí. Nagle cảm thấy đây là ý tưởng rất hay. “Ghi tên và số điện thoại của tôi ở dưới nhé” anh bảo Chatterton.

Ở thư viện địa phương, Chatterton tìm được một sách hướng dẫn viết thông cáo báo chí. Đêm đó ở nhà anh thảo ra như sau:

ĐỂ ĐĂNG NGAY, NGÀY 10 Tháng mười, 1991

THỢ LẶN TÌM THẤY U-BOAT BÍ ẨN NGOÀI KHƠI NEW JERSEY

Thuyền trưởng Bill Nagle và các thợ lặn trên thuyền thuê chuyến Seeker từ Brielle (bang New Jersey) đã định vị một tàu U-boat thời Thế Chiến II của Đức bị đắm chỉ 100 km cách bờ biển New Jersey, tại tọa độ ước tính vĩ độ 40 và kinh độ 73,3. Xác tàu nằm thẳng và tương đối nguyên vẹn, tuy nhiên có dấu hiệu hủy hoại do bom chống ngầm.

Tàu U-boat nằm ở độ sâu 70 mét, chỉ một số thợ lặn thám hiểm giàu kinh nghiệm nhất có thể tiếp cận. Con tàu được phát hiện vào Ngày lao động, trên một chuyến đi của thuyền Seeker nhằm xác định những xác tàu vô danh. Trong chuyến đi tiếp theo, thành viên đoàn thủy thủ của Seeker là John Chatterton đã thu được hai đĩa sứ nằm sâu trong tàu, mỗi đĩa đều mang biểu tượng chữ thập ngoặc của Quốc Xã và năm “1942” là bằng chứng về nguồn gốc của con tàu.

Những hiện vật lấy được từ xác tàu chứng minh nó là một U-boat thời Thế Chiến II của Đức, nhưng cụ thể là tàu nào? Không có ghi chép nào về tàu ngầm Đức đắm trong bán kính 210 km quanh vị trí này và thư lục của Đức cũng không có ghi chú về U-boat mất trong lãnh hải New Jersey. Thợ lặn của Seeker sẽ tiếp tục cẩn trọng thăm dò xác tàu để xác định danh tính nó và giải đáp bí ẩn tại sao tàu lại ở đó. Một mẩu nhỏ trong lịch sử hải quân có thể sẽ được viết lại.

Liên hệ: Thuyền trưởng Bill Nagle

Kevin Brennan đưa Chatterton một tấm ảnh đen trắng chụp một trong hai cái đĩa để đính kèm cùng thông cáo. Chatterton lên danh sách tất cả các phương tiện truyền thông anh biết, tổng cộng mười cái tên, bao gồm báo địa phương, Associated Press, UPI và các tạp chí lặn. Anh gửi thông cáo báo chí và ảnh đến từng nơi.

Một ngày trôi qua mà không thấy hồi âm. Rồi vài ngày sau cũng thế. Chatterton kiểm tra điện thoại của Nagle nhiều lần. Anh gọi tới công ty viễn thông và yêu cầu họ kiểm tra đường dây của Nagle. Đường dây ổn. Cuối cùng, Chatterton gọi Nagle.

“Việc này không thành công rồi” anh nói.

“Có vẻ thế” Nagle làu bàu.

Vài ngày sau, điện thoại của Nagle reng. Anh chuyển cuộc gọi tới Chatterton. Đó là cuộc gọi từ một phóng viên Star-Ledger − tờ nhật báo trụ sở ở Newark, có sức ảnh hưởng của New Jersey. Người này nghe giọng có vẻ mệt mỏi và thờ ơ. Câu hỏi của anh ta thấm đẫm hoài nghi, như thế anh ta lại bị ép phỏng vấn một kẻ quê mùa đã tìm được du thuyền vũ trụ ở sau nhà.

“Thế là… có vẻ anh đã phát hiện một chiếc U-boat bí ẩn nào đó phải không?” Tay phóng viên hỏi.

Chatterton nói rằng đúng thế. Người phóng viên hỏi tiếp. Câu nào Chatterton cũng trả lời chi tiết. Đến cuối cuộc phỏng vấn, người phóng viên đề nghị tới thăm nhà Chatterton. Một ngày sau, anh ta đã đến ghi chép và sờ nắn chiếc đĩa. Người phóng viên nói câu chuyện này có lẽ đủ hay để đưa lên trang nhất.

Sáng hôm sau, Chatterton trong bộ áo choàng tắm và dép lê đi tới đầu nhà lấy tờ Star-Ledger. Ở dưới cùng là hàng tít: XÁC U-BOAT TÌM THẤY NGOÀI KHƠI POINT PLEASANT. Bên cạnh bài viết là một tấm ảnh Nagle và Chatterton đang kiểm tra mấy cái đĩa. Chatterton chạy vào trong nhà và gọi Nagle. Bài viết nói lên tất cả: hiểm nguy của lặn thám hiểm, sự xuất hiện đáng ngại của U-boat trên lãnh hải Hoa Kỳ, cái chết của Feldman, bí ẩn chưa có lời giải về danh tính con tàu. Người viết còn dẫn lời giáo sư Henry Keatts − một tác giả và chuyên gia về U-boat. “Chắc chắn họ đã tìm thấy một U-boat của Đức” Keatts nói với tờ báo. “Bí ẩn nằm ở lý do con tàu xuất hiện ở chỗ hiện tại… Khu vực này nhẽ ra không có U-boat đắm nào.”

Bài viết trên Star-Ledger tạo ra một làn sóng truyền thông. Tối đó điện thoại của Nagle và Chatterton kêu liên hồi với những đề nghị phỏng vấn từ đài phát thanh, kênh truyền hình và báo chí. Truyền thông quốc tế đăng tin về chiếc U-boat bí ẩn ngoài khơi New Jersey. CNN phái tới một đoàn đưa tin. Phòng viên truyền hình yêu cầu Nagle và Chatterton giơ đĩa lên, hướng mặt có chữ thập ngoặc ra trước trong khi trả lời phỏng vấn trên Seeker. Cả tờ lá cải Tuần báo tin tức thế giới cũng đăng một bài trên trang nhất: TÀU NGẦM ĐỨC QUỐC XÃ BỊ HẢI QUÂN HOA KỲ BẮT GIỮ! Tờ báo vốn đã hoang đường, mà bài viết này còn hoang đường hơn thế. Không chỉ kể về chiếc U-boat ở New Jersey, bài viết còn nói đến một U-boat nữa đã khởi hành từ Đức rồi lọt vào một lỗ hổng thời gian và đến hôm nay mới nổi lên, với đoàn thủy thủ trẻ tuổi vẫn tin rằng Hitler thống trị nước Đức. Báo trích dẫn lời một “sĩ quan hải quân làm việc tại Washington”: “Tôi không biết gì mấy về lỗ hổng thời gian, nhưng có vẻ đó là lời giải thích duy nhất cho tình huống này.”

Điện thoại của Chatterton vốn im lìm trong hai tuần sau khi thông cáo báo chí được gửi đi giờ rung liên hồi đến nỗi quấy phá cả bữa ăn giấc ngủ của anh. Hộp thư của anh đầy tràn. Các bưu kiện gửi tới anh chỉ ghi đơn giản “John Chatterton − thợ lặn, New Jersey”.

Nhiều người tuyên bố biết danh tính của chiếc U-boat và lý do nó đắm liên hệ. Những người con, người anh em, người mẹ, người cháu thề rằng có người thân đã tấn công và đánh đắm một tàu U-boat trong nhiệm vụ tối mật mà chính phủ vẫn từ chối công nhận. Những người khác tuyên bố nắm trong tay thông tin mật về chiếc U-boat. Những người khác nữa nói họ nhìn thấy thủy thủ U-boat bơi về bờ biển Hoa Kỳ để mua bánh mì và đi nhảy. Một ông già gọi điện kể về cuộc gặp gỡ một người Đức lớn tuổi khi đang đi câu thời thiếu niên. “Ông ấy nhìn vào địa điểm câu cá của chúng tôi trên bản đồ và nói đó là nơi U-boat của ông ấy bị mất” ông già nói với Chatterton. “Đó cũng là nơi anh tìm thấy xác tàu kia.” Vài bà quả phụ gọi điện nói chồng họ đã đánh đắm tàu U-boat nhưng chưa bao giờ được ghi nhận công lao. Một ông nghe có chất học giả gọi điện nói bí ẩn có thể được giải mã bằng cách lau sạch tháp chỉ huy, vì số hiệu của U-boat được sơn rõ ở bên hông.

Một người gọi và nói bằng giọng Đức đặc sệt.

“Tôi tìm người thợ lặn phát hiện U-boat” người đàn ông nói.

“Vâng, tôi đây” Chatterton nói.

“Anh có thể tro tôi biết về người thợ lặn đã tử zong không?”

“À, anh ấy là một thợ lặn khá giỏi. Đó là một tai nạn tồi tệ.”

“ Tên ảnh là Feldman sao?”

“Đúng.”

“Đánh zần thế nào?”

“ F-E-L-D-M-A-N.”

“Feldman có phải người Do Thái không?”

Chatterton dập máy.

Một bữa nọ, anh nhận cuộc gọi từ mội người khác cũng có giọng đặc Đức.

“Bọt khí của anh đang làm phiền giấc ngủ của các thủy thủ” người này nói rồi đột ngột gác máy.

Chatterton nghiên cứu nhiều câu chuyện anh nghe được, kể cả những câu chuyện có vẻ nhảm nhí. Chuyện thủy thủ U-boat trà trộn vào dân Mỹ hóa ra là sản phẩm tưởng tượng của nỗi sợ; chỉ số ít trường hợp người từ U-boat thâm nhập vào đất Mỹ thì đó là gián điệp hoặc bọn phá hoại. Tháp chỉ huy U-boat quả là có số hiệu tàu, thấy rõ qua các tấm ảnh, nhưng đó là trước khi Thế Chiến II bắt đầu. Sau đó, những dấu hiệu như vậy bị xóa đi hoặc sơn đè lên. Vẫn chưa có manh mối nào giúp Chatterton tới gần hơn lời giải đáp về con tàu bí ẩn.

Kohler cũng nhận các cú điện thoại. Tên của anh được một số tờ báo đăng và cũng như với Chatterton, những người gọi cho anh muốn người thân được ghi nhận công lao đánh đắm U-boat 50 năm trước. Anh cũng bắt đầu được các nhà sưu tầm liên hệ.

“Có thi thể trên tàu không?” một người hỏi.

“Chúng tôi chưa xác định được” Kohler nói.

“Tôi muốn mua một cái sọ lính Quốc Xã.”

“ Tôi không làm việc đó.”

“Tôi sẽ trả anh 2.000 đô la cho một cái sọ.”

“ Tôi đã nói là tôi không làm việc đó mà.”

“Không làm việc đó nghĩa là sao? Chúng ta thắng. Hay anh là một thằng yêu phát xít?”

Kohler nhận ra rằng mấy người xưng danh là nhà sưu tầm nổi nóng rất nhanh. Anh học cách dập máy với họ còn nhanh hơn.

Không phải ai liên hệ với Chatterton cũng là thành viên gia đình, fan cuồng hay người theo thuyết âm mưu. Anh đã sớm nhận được bức thư từ Đại sứ quán Đức ở Washington, D.C. Tác giả bức thư là Dieter Leonhard − thượng tá hải quân Đức. Bức thư mở đầu khá thân thiện, ghi nhận công lao khám phá của Chatterton và đề nghị hỗ trợ nghiên cứu con tàu. Song ở dưới Leonhard làm rõ quan điểm của Đức:

Cộng hòa liên bang Đức giữ quyền sở hữu các tàu ngầm, bất kể xác tàu hiện tại có nằm trong lãnh hải quốc gia hay không. Tàu chiến Đức bị đắm về cơ bản được xác định là “phần mộ của thủy thủ”.

Lặn và thăm dò xác tàu do đó bắt buộc phải có sự cho phép của chính phủ Đức và chưa có trường hợp tới nay được cấp phép. Để giữ vai trò phần mộ của xác tàu, Cộng hòa liên bang Đức cấm tất cả các hoạt động xâm phạm tới tàu ngầm Thế Chiến II và sẽ đảm bảo lệnh cấm này được thi hành bằng các phương tiện pháp lý.

Chatterton gọi số điện thoại in trên thư và được nối máy với Leonhard. Chatterton nói rằng anh đã nhận thư và hy vọng được hỗ trợ về tài liệu và nghiên cứu. Leonhard nói rất vui lòng giúp đỡ. Chatterton sau đó đưa ra câu hỏi lớn:

“Ông có biết về danh tính con tàu không?”

Leonhard nói chính phủ Đức thường viện nhờ một người tên là Horst Bredow ở Kho lưu trữ U-boat ở Cuxhaven-Altenbruch cho những thông tin kiểu này. Leonhard sau đó nhắc lại những gì ông viết trong thư, rằng nước Đức không cho phép lặn ở các U-boat đắm.

“U-boat nào?” Chatterton hỏi.

“Cái các anh tìm thấy đó” Leonhard đáp.

“Vâng, nhưng số hiệu cụ thể là gì?”

“Tôi không biết.”

“Thế còn vị trí chính xác?” Chatterton hỏi.

“Tôi cũng không biết.”

“Tôi sẽ thẳng thắn với ông” Chatterton nói. “Tôi không muốn tỏ ra bất kính. Các ông không biết con tàu đắm là tàu nào, do đó các ông không có quyền giành nó. Mục tiêu của tôi là định danh con tàu, đặt tên lên bia mộ. Tôi sẽ tiếp tục lặn xuống đó cho đến khi đạt được mục tiêu.”

“Anh hiểu lập trường của chúng tôi, anh Chatterton. Chúng tôi không muốn thợ lặn vào U-boat và làm phân tán phần thi thể có thể vẫn lưu lại trên tàu và xâm phạm con tàu” Leonhard nói. “Chúng tôi không thể và sẽ không chấp nhận điều đó.”

“Tôi hiểu và tôi không có ý định cho phép điều đó xảy ra” Chatterton nói. “Ưu tiên trên hết của tôi là cẩn thận và tôn trọng. Tôi cam đoan với ông như thế.”

Chatterton khi đó đã hiểu lập trường của Leonhard. Ông không thể chính thức phê duyệt cho một thợ lặn thăm dò mộ chiến tranh. Song anh cũng cảm nhận rằng Leonhard, với giọng điệu điềm tĩnh và thân thiện trong suốt cuộc đối thoại, sẽ không dùng thẩm quyền để cản trở anh nếu anh đối xử tôn trọng với xác tàu. Hai người cảm ơn nhau và kết thúc cuộc gọi.

Khoảng một tuần sau khi những tin bài đầu tiên về U-boat xuất hiện, Chatterton bắt đầu gom góp được vài manh mối hứa hẹn. Một trong những manh mối đầu tiên đến từ Harry Cooper − nhà sáng lập và chủ tịch của Sharkhunters International. Đây là nhóm hàng ngàn thành viên với trụ sở tại Florida, phương châm là “sứ mệnh bảo toàn lịch sử của U-bootwaffe”. Chatterton đã đọc các bản tin dày đặc chữ, chi chít dấu chấm than của nhóm − ấn phẩm phong cách cây nhà lá vườn pha trộn các bài phỏng vấn, tình tiết giật gân, lịch sử, xã luận, phê bình, thỉnh thoảng có cả quảng cáo. Tuy trông lộn xộn nhưng Sharkhunters có thành viên là các nhà sử học Mỹ, cựu chỉ huy và thủy thủ U-boat, giáo sư, cựu chiến binh hải quân Hoa Kỳ và các chuyên gia khác. Cooper thuyết phục Chatterton tham gia Sharkhunters, nói rằng nhóm có những liên hệ sâu xa có thể giúp giải mã bí ẩn. Cooper đưa ra những câu hỏi chưa từng ai hỏi: Xác tàu của anh có bể dằn ngoài không? Xác tàu của anh có hai ống phóng lôi ở đuôi hay chỉ một? Đó là những điểm dễ dàng thấy được khi lặn, Cooper giải thích và sẽ tiết lộ rất nhiều về kiểu U-boat và có thể là cả năm ra khơi. Chatterton quyết tâm kiểm tra thông tin đó về con tàu trong chuyến lặn tới và thông báo kết quả cho Cooper.

Một sáng nọ, có người gọi Chatterton nói rằng mình đã đánh đắm một U-boat từ trên khí cầu vỏ mềm năm 1942. Nếu là một tháng trước, Chatterton sẽ coi tuyên bố này chẳng khác gì những lời hoang đường khác, nhưng nhờ nghiên cứu, anh biết rằng khí cầu vỏ mềm đã giúp ích đáng kể khi buộc các U-boat phải ẩn dưới nước và hộ tống tàu dọc bờ đông, rằng có thời điểm trong Thế Chiến II hơn 1.500 phi công đã lái khí cầu với kích thước lớn hơn nhiều phiên bản dùng để quảng cáo hiện nay, rằng khí cầu vỏ mềm mang các công nghệ chống tàu ngầm tân tiến và rằng một khí cầu vỏ mềm đã từng chiến đấu trực tiếp với môt U-boat trên mặt nước, với kết quả là U-boat chịu tổn hại còn khí cầu thì rơi. Thế nên Chatterton lắng nghe.

“Tôi đã già rồi nên đầu óc không còn minh mẫn nữa” người đàn ông nói. “Tôi không nhớ hết các chi tiết. Nhưng tôi biết tôi đã đánh đắm một U-boat từ khí cầu.”

“Bác cứ nói tiếp đi ạ, cháu đang lắng nghe đây. Rất mừng là bác đã gọi.”

“Tôi đóng quân ở Lakehurst, bang New Jersey. Tôi tấn công một U-boat gần đó. Tôi đánh đắm nó bằng bom chống ngầm. Tôi rất tiếc nhưng đó là tất cả những gì tôi nhớ được. Hy vọng giúp ích cho cậu.”

Chatterton ghi sổ câu chuyện của người này và tự nhắc mình nghiên cứu mọi thông tin mà người của anh ở NHC cung cấp được về khí cầu vỏ mềm tấn công U-boat tại khu vực xác tàu.

Một sáng khác, Chatterton lái xe tới Trạm vũ khí hải quân Earle ở quận Monmouth (bang New Jersey) và chiếu băng video xác tàu cho các chuyên gia về vũ khí, đạn dược và phá dỡ. Họ xem đi xem lại băng. Họ trao đổi với nhau bằng những thuật ngữ kỹ thuật và vật lý. Họ nhất trí như sau:

− Hư hại ở phòng điều khiển của U-boat có vẻ do nổ hơn là do va chạm;

− Hình dạng và hướng của kim loại hư hại cho thấy cú nổ có khả năng xảy ra bên ngoài con tàu; và

− Hư hại có khả năng gây ra bởi một lực lớn hơn nhiều so với bom chống ngầm − vũ khí thường xuyên được quân Đồng Minh sử dụng để chống lại U-boat.

Chatterton ghi lại tất cả. Anh đề nghị các chuyên gia đoán vũ khí nào có thể gây ra hư hại nặng nề nhường ấy.

“Chúng tôi không dám chắc” một người nói. “Nhưng nếu phải đoán thì chúng tôi đoán con tàu đã bị trúng ngư lôi trực tiếp.”

Trúng ngư lôi trực tiếp sao? Trên đường lái xe về nhà, Chatterton xoay đi xoay lại ý nghĩ này cả trăm lần. Ai là người phóng ngư lôi chứ? Chuyện tàu ngầm Mỹ đánh chìm một U-boat sẽ đi vào tất cả các sách sử, nhưng lại không hề có sự kiện nào kiểu vậy được ghi lại ở khu vực xác tàu. Phải chăng một U-boat khác đã tấn công nhầm đồng đội? Chuyện đó đã từng xảy ra, nhưng chủ yếu với các U-boat theo chiến thuật bầy đàn, tức nhóm các U-boat phối hợp săn đuổi tàu địch và cũng không có ghi chú gì về hoạt động theo chiến thuật bầy đàn gần khu đó. Một điều chắc chắn: việc một U-boat lê lết từ vị trí khác với thương tích nặng nề như vậy (điều mà Nagle và một số thợ lặn khác đoán) có vẻ bất khả thi. Với Chatterton, dù thứ gì tấn công chiếc U-boat đó thì việc đó cũng diễn ra ở chính nơi họ tìm thấy xác tàu.

Bài viết trên Star-Ledger đăng mới một tuần mà Chatterton đã thu được rất nhiều manh mối từ đủ mọi nguồn lớn nhỏ. Song những gì hay nhất vẫn còn ở phía trước.

Một manh mối đến từ cuộc gặp ở nhà Nagle giữa Nagle, Chatterton và thiếu tá Gregory Weidenfeld − nhà sử học của Tuần không dân sự (CAP) đã liên hệ với Nagle thông qua phóng viên báo. Chatterton đã nghe về CAP; đó là nhóm phi công dân sự do Thị trưởng Fiorello La Guardia của New York cùng những người khác tập hợp lại vào năm 1941 với nhiệm vụ lái các máy bay tư nhân cỡ nhỏ nhằm giúp phòng vệ vận tải ven bờ. Mỗi đêm, người đi tuần trên bầu trời dọc bờ biển New York và New Jersey, săn U-boat với một cặp bom mini gá dưới cánh máy bay. Có thể là nhân viên quầy đồ ăn sẵn, kế toán viên hoặc nha sĩ. Hệ thống vũ khí này chắp vá tới mức phi công đôi lúc được yêu cầu không hạ cánh nếu cánh vẫn gắn bom, vì cú xóc có thể kích nổ bom. Thay vào đó, họ thường được khuyến nghị thả bom dù có nhìn thấy U-boat hay không. Weidenfeld giải thích rằng trong cuộc chiến, CAP đã phát hiện hơn 150 tàu và đã thả bom chống ngầm tới vài tàu trong số đó.

“Chúng tôi đánh đắm hai U-boat” Weidenfeld nói. “Nhưng đều chưa bao giờ được nhìn nhận công lao.”

“Tôi từng đọc về chuyện đó” Chatterton nói. “Các ông cho rằng hải quân không muốn ghi công cho lực lượng dân sự.”

“Đúng thế” Weidenfeld nói. “Hải quân không muốn công nhận vì dư luận sẽ hoang mang nếu biết rằng chúng ta phải cần dân thường tham gia đánh U-boat và rằng U-boat đến gần bờ biển của chúng ta đến thế. Dù sao thì một U-boat bị chúng tôi đánh đắm ngoài khơi Florida. Cái còn lại ở New Jersey.”

Chatterton lấy bút ra. Weidenfeld kể chuyện của mình.

“Ngày 11 tháng bảy năm 1942, hai phi công của chúng tôi lái Grumman Widgeon phát hiện một U-boat cách bờ khoảng 60 km ngay phía bắc thành phố Atlantic. Họ đuổi theo chiếc U-boat suốt bốn tiếng đến khi nó bắt đầu nổi lên tới độ sâu đủ để nhìn bằng kính tiềm vọng. Cuối cùng khi nó nổi lên mặt nước, họ thả một quả bom chống ngầm 150 ký và quả bom nổ. Họ thấy vệt dầu lan trên mặt nước ở vị trí trước đó của con tàu. Họ thả tiếp một bom chống ngầm thẳng vào vệt dầu. Chắc chắn là thành công. Hiện cả hai phi công đều đã qua đời. Nhưng hàng năm trời tôi đã đấu tranh để người của chúng tôi được ghi nhận công lao. Tôi nghĩ là anh tìm thấy chiếc U-boat họ đánh đắm.”

Câu chuyện của Weidenfled hoàn toàn mê hoặc Chatterton. Weidenfeld còn cho thời gian chính xác và một tọa độ chỉ cách xác tàu 40 km. Nếu Chatterton có thể lấy được danh sách các U-boat mất tích trong lãnh hải Mỹ vào tháng bảy năm 1942, cho dù vị trí đắm được ghi lại không trùng với vị trí xác tàu, có lẽ anh sẽ tìm ra nguyên nhân khiến con tàu tới nơi đắm hiện tại và giải mã bí ẩn. Anh cảm ơn Weidenfeld và hứa sẽ cố hết sức để giải đáp câu hỏi liệu con tàu mất tích có phải là con tàu mà Tuần không dân sự đã đánh đắm gần 50 năm trước không. Một ngày sau, giáo sư Keatts nhắc đến câu chuyện này khi trả lời tờ Bưu điện New York: “Đây là lời giải thích hợp lý nhất tôi từng nghe cho tới giờ. Hai con tàu rất có thể là một.”

Cùng tầm đó, Chatterton cũng nhận một cuộc gọi bất thường khác, lần này là từ một nhà sưu tầm các kỷ vật Quốc Xã. Tuy nhiên nhà sưu tầm nghiệp dư này không đề nghị mua bất cứ hiện vật nào.

“Một trong những món tôi sưu tầm là các bức ảnh về các chỉ huy U-boat” người này nói với Chatterton. “Tôi giữ liên lạc với nhiều người trong số đó. Có một người là Karl-Friedrich Merten, đứng thứ tám trong danh sách chỉ huy U-boat cự phách nhất* của Thế Chiến II.

Ông ta rất hứng thú khi đọc về chuyện của anh trên một tờ báo tiếng Đức. Có vài thông tin Merten muốn chia sẻ với anh qua thư nếu anh vui lòng cung cấp địa chỉ.”

“Tất nhiên rồi” Chatterton đáp.

Trong vài tuần tiếp theo, các lá thư từ Đức đến với Chatterton. Trong thư, Merten cảm ơn công sức của Chatterton và các thợ lặn, đồng thời cũng kể một câu chuyện lạ lùng.

Đồng đội của ông là Hannes Weingärtner cũng từng chỉ huy U-boat và cũng như Merten, Weingärtner đã thăng cấp lên vị trí huấn luyện chỉ huy tiểu hạm đội − chức vụ danh giá trên bờ. Nhưng Weingärtner vẫn còn máu chiến trận trong người và vào năm 1944, khi đã 35 tuổi, ông từ bỏ bàn giấy để chui lại vào cửa sập U-boat. Nhiệm vụ của Weingärtner: đưa U-851 − một U-boat kiểu IXD2, hay còn gọi là “U-cruiser” (tàu ngầm tuần dương), được thiết kế cho những tuyến tuần dài nhất, tới Ấn Độ Dương để tiếp tế cho các căn cứ của Đức ở Viễn Đông và chuyển hàng tới hải quân Nhật.

Merten đoán rằng nhiệm vụ này không phải là thứ Weingärtner trông đợi. Ông tin rằng Weingärtner là “một thủy thủ tàu ngầm giờ đầu” nghĩa là cái máu và bản năng trận mạc (để quyết liệt tìm và diệt tàu địch) chưa từng phai nhạt.

“Tôi có ấn tượng rằng Weingärtner coi cuộc chiến trên U-boat không có nhiều khác biệt so với lần cuối ông ta chỉ huy vào tháng 9/1939” Merten viết. “Tôi không biết câu chữ chính xác trong lệnh tuần tra mà ông ấy nhận được, nhưng U-851 chắc chắn đã không đến Ấn Độ Dương mà đến bờ biển Hoa Kỳ.”

Với Merten, có thể sự tẻ nhạt của nhiệm vụ chính là nhân tố thôi thúc Weingärtner hướng về New York.

“Cá nhân tôi khá chắc chắn rằng xác tàu mà anh tìm thấy chính là U-851” Merten viết.

Mấy chữ “cá nhân tôi” nhảy khỏi trang thư và đi vào trí tưởng tượng của Chatterton. Với thư của Merten, anh hiện nắm trong tay thông tin chân thực từ người trong cuộc − một chỉ huy U-boat cự phách. Giả thuyết này không thông qua kinh sách hay sử gia mà đi thẳng vào vấn đề. Merten biết bạn mình và giờ Chatterton biết Merten, vì thế anh chưa lúc nào phấn khích như lúc này.

Cũng như tất cả thông tin đã được thu thập, Chatterton không tiết lộ gì cho Kohler về liên lạc giữa anh và Merten. Tuy anh ngưỡng mộ lòng nhiệt thành của Kohler trên Seeker, anh vẫn coi Kohler như các thợ lặn khác trong chuyến đi, là người mà lòng tham hiện vật có lẽ sẽ lấn át những hứng thú về lịch sử và nghệ thuật. Thay vào đó, anh chia sẻ thông tin với Yurga − người tiếp tục nghiên cứu sâu các khía cạnh kỹ thuật về cấu tạo và thiết kế của U-boat, đồng thời đưa ra những phản đề khoa học vững chắc cho mọi lý thuyết của Chatterton.

Suốt quá trình đó, một ý nghĩ đầy hưng phấn hình thành trong đầu Chatterton. Trong vòng hai tuần, anh đã liên hệ với một chỉ huy U-boat cự phách, một phi công khí cầu, một nhà sử học và chủ tịch một câu lạc bộ U-boat. Mỗi người đưa ra những câu chuyện lịch sử không hề có trong sách vở, thậm chí mâu thuẫn với sách vở. Chatterton từ thuở bé đã luôn khao khát những hiểu biết sâu sắc hơn và cơ hội được hiểu về chính mình, nên anh cảm thấy những mở mang về lịch sử này đúng là một khám phá.

Trong khi Chatterton tiếp tục nhận các cú điện thoại từ khắp nơi thì Kohler nghiên cứu U-boat như sinh viên chuẩn bị thi tốt nghiệp. Anh dành mọi giây mọi phút rảnh rỗi để tìm hiểu U-boat: cấu tạo, quá trình tiến hóa, sơ đồ tổ chức, sự tích. Những việc anh làm xuất phát từ một động cơ trước nhất: định vị bản thân để khai quật được nhiều hiện vật từ xác tàu. Trong đời lặn của mình, anh không nhớ có khoảnh khắc nào như khoảnh khắc anh lần đầu thấy những cái đĩa thời Quốc Xã của Chatterton. Cầm đĩa trên tay, anh hiểu mình đang cầm một linh vật. Anh không diễn tả ngay được cảm giác của mình bằng từ ngữ, nhưng anh hiểu cảm giác đó. Trong một món đồ sứ dường như hội tụ tất cả những phẩm chất tuyệt diệu nhất của một hiện vật tàu đắm: lịch sử, tính biểu tượng, cái đẹp, sự kỳ bí.

Ngày qua ngày mải miết trong những nghiên cứu về U-boat, Kohler nhận ra thứ thu hút sự chú ý của anh nhiều nhất là những cuốn sách về thời đại và cuộc đời của những con người trên U-boat và anh ngạc nhiên vì sứ mệnh của mình rõ ràng hướng tới việc định danh con tàu và khai quật hiện vật. Đọc về những người ấy, Kohler không cảm thấy như đang làm việc. Anh như bị lôi cuốn vào một thế giới khác; với anh, bên trong U-boat không chỉ là máy móc mà còn là cảnh đời. Anh có thể cảm nhận môi trường tù túng và khắc nghiệt nơi những người lính kia chiến đấu, cái lạnh lẽo của quả ngư lôi bên gương mặt say ngủ của một người lính, mùi của đồ lót sáu tuần chưa giặt, nước miếng văng ra theo những câu chửi thề của những con người buộc phải chui rúc với nhau quá lâu, tiếng giọt nước đọng buốt giá rơi vào cổ của người lính cuối ca trực dài sáu tiếng. Anh có quan tâm đến thông tin kỹ thuật, nhưng công nghệ (và mọi thứ khác) không thể làm anh rung động như hình ảnh một thủy thủ U-boat bất lực chờ đợi trong khi bom chống ngầm của Đồng Minh đang rẽ nước tiến đến tàu mình, tiếng ping…ping…ping nhẹ bẫng đầy đe dọa của định vị thủy âm quân Đồng Minh mào đầu cho một cú nổ. Nhiều năm qua, Kohler vẫn nghĩ U-boat gần như là bất khả chiến bại. Bây giờ anh đã biết tới Sauregurkenzeit hay “Thời chua chát” − cái năm sự vượt trội về công nghệ và vật liệu của quân Đồng Minh đảo ngược hoàn toàn tình thế của chiến tranh tàu ngầm, khiến U-boat có thể hoạt động nhiều tuần mà không đánh chìm được dù chỉ một tàu địch, khi thợ săn biến thành con mồi. Có nguồn thông tin cho biết không có lực lượng nào trong lịch sử chiến tranh dù gánh chịu nhiều thương vong như lính U-boat mà vẫn tiếp tục chiến đấu. Tháng mười dần qua, Kohler băn khoăn liệu có thủy thủ nào vẫn còn ở trên xác tàu bí ẩn và gia đình họ có biết họ đang ở đó chăng.

Trong khi vẫn liên tiếp xử lý điện thoại và thư từ, Chatterton nghe được một âm mưu đen tối. Bielenda đã lấy được tọa độ chính xác của xác tàu. Hắn dự định sẽ tới đó khi nào muốn. Tệ nhất là có vẻ chính Nagle đã cung cấp tọa độ.

Như Chatterton nghe được thì kế hoạch là thế này: Bielenda dàn xếp chuyến đi đặc biệt để đưa xác Feldman về. Một thuyền trưởng khác tình nguyện góp thuyền và nhiên liệu, Bielenda sẽ góp thợ lặn để khám hiện trường tìm xác. Chatterton không nghĩ là Bielenda và những người khác sẽ tìm cái xác, dù là cho có. Sự cố xảy ra đã một tháng, thủy triều lại mạnh và Feldman chưa bao giờ đi vào trong xác tàu. Anh gọi tới nhà Nagle và nghe tiếng đá viên chạm vào ly kêu lanh canh.

“À, khỉ thật John ạ. Đúng là tôi cho tọa độ” Nagle thú nhận. Nagle phân trần rằng anh nhận một cú điện thoại đêm khuya từ một thuyền trưởng thuyền lặn khác, là người bạn lâu năm. Nagle lúc ấy đang uống rượu. Người thuyền trưởng tuyên bố có ba nhóm tọa độ và biết một trong ba sẽ là vị trí của chiếc U-boat. Nagle nghe người kia đọc các con số. Anh ta nói đúng: một trong ba là vị trí xác tàu. Dù đã ngà ngà say, Nagle vẫn đoán được rằng Bielenda đã moi được ví trí khái quát của xác tàu từ người quen trong Tuần duyên, sau đó nhờ người kia tìm trong cuốn sổ dày cộp của anh ta những tọa độ lân cận. Giờ thì người kia, được coi là bạn của Nagle, đang tìm cách khai thác thông tin chính xác của anh. Thường thì anh sẽ nhai đầu gã vì dám thăm dò như thế. Nhưng trong cơn say, cùng cảm giác áy náy về cái chết của Feldman và sự bất lực của Seeker khi không thể đưa cái xác về nhà, Nagle đã lầm bầm rằng tọa độ thứ hai “có thể” là tọa độ đúng.

“Tôi biết mình ngu rồi ngay từ lúc gác máy” anh bảo Chatterton. Không lâu sau khi Chatterton nói chuyện với Nagle, điện thoại anh reng. Bielenda gọi. Hắn nói rằng mình đang tổ chức một chuyến đi lấy xác Feldman và mời Chatterton tham gia.

Máu dồn lên mặt Chatterton. Trong một thoáng anh nghĩ tới việc ưng thuận, tin chắc Bielenda sẽ bỏ qua chuyện tìm xác và để thợ lặn xuống thẳng U-boat lấy hiện vật. Anh đòi Bielenda cho biết ý đồ thực sự. Bielenda quả quyết rằng mục đích chuyến đi là tìm xác Feldman. Chatterton không buông, hỏi thuyền trưởng tàu Wahoo định tìm cái xác ở chỗ nào. Bielenda nói rằng hắn sẽ tìm xung quanh xác tàu. Thế này là quá lố đối với Chatterton, vì anh tin ý đồ duy nhất của Bielenda là lặn U-boat. Anh nói cho Bielenda biết ý nghĩ của mình về kế hoạch đó. Bielenda thanh minh nhưng Chatterton không nghe. Vừa chửi xối xả, Chatterton vừa nói với Bielenda rằng anh không muốn dính dáng gì tới chuyến đưa xác về này của Bielenda rồi dập máy.

Vài ngày sau, Bielenda và vài thợ lặn ra khơi. Một số thợ lặn quả có cố gắng tìm xác Feldman. Những người khác lặn xác tàu. Không ai nhìn thấy thi thể nào. Theo một trong các thợ lặn trong chuyến đó, nhiều người về nhà với ấn tượng bao trùm: Xác tàu này quá nguy hiềm. Xác tàu này sẽ nuốt sống người ta.

Tin về chuyến đi tới tai Chatterton và Kohler sau đó một ngày. Họ chỉ hỏi người báo tin một câu duy nhất: Trong chuyến đó đã có ai định danh được chiếc U-boat chưa? Câu trả lời là chẳng ai biết chút gì. Cả Chatterton lẫn Kohler đều không ngạc nhiên. Nhưng cả hai nghi Bielenda sẽ quay trở lại. Chừng nào Nagle và Seeker vẫn là tâm điểm của dư luận, họ tin chừng ấy cánh buồm hải tặc đầy mưu đồ của Bielenda vẫn căng gió.

Một ngày thứ hai đầu tháng 11, ngay sau chuyến tìm xác, Mặt trời tỏa nắng tưng bừng trên New Jersey. Quang cảnh ấy đem lại sức sống mới cho Nagle và anh gọi Chatterton.

“Chúng ta có thể tới U-boat một lần nữa” Nagle nói. “Thứ tư đi được. Chúng ta có thể định danh con tàu này vào thứ tư. Cậu tham gia không?”

“Tôi đã bao giờ không tham gia à?” Chatterton hỏi.

Nagle và Chatterton gọi thợ lặn. Chuyến đi dự tính vào mùng 6 tháng 11 năm 1991. Sau cái chết của Feldman, một số người trên chuyến đi đầu quyết định không liều lĩnh với chiếc U-boat nữa. Những người còn lại đều tham gia. Vẫn còn hai giường trống cho thứ tư. Nagle gọi mấy huyền thoại của làng lặn.

Tom Packer và Steve Gatto có lẽ là đội lặn thám hiểm sâu sừng sỏ nhất của bờ đông. Trong môn thể thao mà việc chơi cặp bị coi là mối nguy hiểm cần tránh thì Packer và Gatto dường như là một thực thể thống nhất, người này phán đoán chuyển động và nhu cầu của người kia cứ như cặp sinh đôi cùng trứng. Trong cộng đồng lặn thám hiểm, nhiều người gọi họ là “Packo-Gacko” vì sự thống nhất khi hai người lặn. Packer từng là thành viên của đội Nagle khi đội này mang lên quả chuông của Doria. Vài năm sau, Gatto là người mang bánh lái của Doria lên. Hiếm khi họ từ bỏ một xác tàu khi chưa có được thứ mình muốn. Hai người nói với Nagle họ sẽ tham gia định danh chiếc U-boat.

Gần nửa đêm, các thợ lặn điểm danh trên Seeker. Một lần nữa, Kohler diện đồng phục băng nhóm tới, áo khoác bò, miếng vá đầu lâu xương chéo, logo “Atlantic Wreck pers”. Chatterton thấy vậy lắc đầu, nhưng Kohler nhìn lại với hàm ý “Có vấn đề gì không?” Không ai nói một lời. Ký ức về Feldman vẫn ám ảnh Seeker. Mỗi người trả lời “Yeah” hay “Yo” khi được gọi tên, rồi đi vào cabin mà không đùa giỡn như thường lệ.

Nằm trên giường hai đầu cabin chính, Chatterton và Kohler diễn tập kế hoạch lặn trong đầu. Chatterton sẽ dùng lần lặn đầu tiên cho hai mục đích. Trước tiên, anh sẽ theo lời Harry Cooper của câu lạc bộ Sharkhunters đi tìm bể dằn ngoài − các bồn gắn bên ngoài tàu dùng để chứa nhiên liệu cho U-boat kiểu VII phổ biến nhất trong hạm đội Đức. Nếu còn thời gian, anh sẽ kiểm tra xem liệu đuôi tàu có hai ống phóng lôi, tức những ống hình trụ dài qua đó ngư lôi được phóng khỏi tàu. Cooper đề xuất rằng U-boat cấu tạo như thế khả năng cao là tàu lớn hơn thuộc kiểu IX, vì kiểu VII chỉ chứa một ống phóng lôi ở đuôi.

Về phần mình, Kohler nhắm tới đại bàng và chữ thập ngoặc. Suốt sáu tuần vừa qua, ngày nào anh cũng đều tưởng tượng mình tự mang lên một cái đĩa thời Quốc Xã, tưởng tượng thò tay vào bí ẩn và kéo ra bằng chứng về một thời đại mà số phận của thế giới treo lơ lửng. Anh không thể chờ thêm một ngày không được sở hữu một mảnh của thời đại ấy. Anh sẽ nhắm thẳng vào những chiếc đĩa.

Chatterton lên đồ sáng sớm hôm sau. Anh, Packer và Gatto sẽ thả móc và lặn đầu tiên. Họ sẽ được hưởng tầm nhìn chưa bị quấy nhiễu nhưng sẽ tạo ra mây bùn cho các thợ lặn tiếp theo, khiến khó mang hiện vật về hơn. Nghe được kế hoạch, Kohler đùng đùng trèo lên buồng lái, nơi Chatterton đang tán gẫu với Nagle.

“Bill, gã này bị cái gì thế?” Kohler hỏi, tay chỉ vào Chatterton.

“Sao hả Richie?” Nagle hỏi.

“Hắn sẽ giết tầm nhìn của tôi. Tôi đang muốn lấy mấy cái đĩa. Lần trước hắn đã lặn đầu rồi. Hôm nay cho tôi lặn đầu.”

“John sẽ quay video” Nagle nói. “Cậu ấy xuống nước xong thì đến cậu. Đừng có lao lên trước làm rối tầm nhìn. Cậu ấy cần nước trong để quay.”

“Hả? Tại sao hắn luôn vỡ nước đầu tiên? Hắn chiếm hết tầm nhìn tốt còn bọn tôi phải hưởng mây bùn. Công bằng nằm chỗ nào?”

“ Nghe này Richie” Chatterton xen vào. “Anh chưa biết ở dưới đó thế nào…”

“Anh nói đúng” Kohler ngắt lời. “Không ai biết vì chúng tôi chưa bao giờ xuống đó với tầm nhìn tốt. Tôi đã tính hôm nay sẽ lên trước để tìm đĩa. Giờ thì Bill bảo tôi phải đi chỗ khác. Anh không thấy như thế có chút bất công à?”

“John sẽ đi đầu, cậu ấy là thuyền trưởng” Nagle nói. “Còn rất nhiều chỗ trên U-boat, Richie ạ. Tìm chỗ khác mà lặn lần đầu.”

Kohler lắc đầu quay lại boong, lầm bầm một tràng chửi tục đều kết thúc bằng từ “Chatterton”. Anh hận quyết định của Nagle nhưng vẫn tôn trọng ý kiến của thuyền trưởng. Anh sẽ lặn ở chỗ khác trên xác tàu.

Nước lặng và bầu trời có mây rải rác khi Chatterton, Packer và Gatto vỡ nước. Họ buộc móc vào xác tàu ngay trên phòng điều khiển hư hại, rồi vẫy tay chúc nhau may mắn và mỗi người một lối. Chatterton bơi dọc mạn tàu, tìm bể dằn ngoài mà Cooper nhắc tới. Không thấy. Đây là bằng chứng vững chắc cho thấy con tàu không phải kiểu VII và là manh mối vô giá để nghiên cứu tiếp xác tàu. Anh sẽ kiểm tra ống phóng lôi đuôi tàu sau, lúc này bơi đến đó sẽ tiêu tốn quá nhiều thời gian lặn quý giá. Thay vào đó, anh sẽ đi vào xác tàu qua phòng điều khiển bên dưới và quay video quãng đường tới khoang ngư lôi mũi tàu.

Khi di chuyển bên trong xác tàu, Chatterton thấy Packer và Gatto vẫn lơ lửng bên ngoài phòng điều khiển tan nát của chiếc U-boat. Anh hiểu ngôn ngữ cơ thể của những thợ lặn xuất chúng: cặp thợ lặn đã đánh giá mạng lưới hiểm họa bên trong tàu và quyết định sẽ không thách thức con tàu ngay lập tức. “Thông minh” Chatterton nghĩ khi anh trôi vào phía trong. Ít nhất thì trước mắt Packer và Gatto sẽ không định danh con tàu.

Tuy tan nát vì là tâm điểm của cú nổ, phòng điều khiển thân quen với Chatterton như nhà anh. Anh đã nghiên cứu các đoạn băng từ chuyến lặn trước như cách huấn luyện viên xem lại trận đấu, học thuộc các đội hình và điểm yếu, hình dung phương án vượt bao chướng ngại. Đã sáu tuần anh chưa quay lại chiếc U-boat, nhưng từ nghiên cứu băng hình, anh đã nhìn ra trật tự trong hỗn độn và cảm giác ưu thế đó chính là điều anh tìm kiếm.

Chatterton tiến lên phía trước qua phòng điều khiển, luồn lách qua dây dợ bùng nhùng và máy móc hỏng, quay camera về mọi hướng cho đến khi đi qua khu chỉ huy ở mạn trái và các phòng điện đài và âm thanh ở mạn phải. Anh di chuyển dễ dàng qua bếp để tới khu sĩ quan, nơi anh đã tìm thấy những chiếc đĩa hồi cuối tháng chín. Giờ là lúc đi tiếp tới khoang ngư lôi mũi tàu ở đằng mũi của U-boat. Nhưng những thước phim định hướng anh đã học thuộc từ những chuyến lặn trước bắt đầu nhiễu trong óc: anh chưa từng ở gần mũi tàu thế này. Nếu tiếp tục đi, anh sẽ phải trông cậy hoàn toàn vào dũng khí và bản năng.

Với máy quay phim hướng lên trên, Chatterton vẫy chân nhái và chậm rãi trườn. Một vách gỗ hiện ra phía trước: đường tới khoang ngư lôi đã bị chặn bởi một cái tủ. Chatterton bơi vào gần. Anh chờ cho nước ngừng chuyển động. Anh chậm rãi giơ cánh tay phải lên ngang vai và xòe bàn tay ra, rồi giữ tư thế đó bất động, như thể anh là một con rắn chuẩn bị tấn công con mồi. Khi mọi thứ trong ngăn đã lắng, anh thọc cánh tay ra trước, bàn tay đập vào vách gỗ. Mảnh gỗ vỡ tung, xổ ra một đám mây mùn cưa và gỗ vụn quanh phòng. Chatterton bất động, chờ cho gỗ mục lắng xuống. Khi phần lớn các mảnh vụn đã chìm xuống sàn và tầm nhìn được phục hồi một phần, anh thấy cánh cửa sập tròn dẫn vào khoang ngư lôi ở mũi tàu. Anh đạp chân nhái và tiếp tục trườn lên trước.

Bây giờ anh lơ lửng trong khu của hạ sĩ quan, nơi ngủ của các thành viên đoàn thủy thủ như hoa tiêu, thợ máy trưởng và sĩ quan thông tin. Chatterton nhớ lại từ chuyến đi Chicago rằng tại đây có thể tìm được đĩa và các hiện vật khác. Anh rà đống đổ nát và bùn cát chất trên sàn mạn trái tàu để tìm màu trắng sứ quen thuộc. Anh phát hiện màu trắng. Anh trườn lại gần. Màu trắng này khác. Anh đến gần hơn nữa, cho đến khi màu trắng đó trở thành một hình thù tròn trịa, có hốc mắt, gò má, lỗ mũi, hàm trên. Một cái sọ. Chatterton dừng lại. Anh để bùn lắng xuống một chút. Bên cạnh cái sọ là một khúc xương dài, có thể là xương cẳng tay hoặc xương chày và bên cạnh nó là những mảnh xương nhỏ hơn. Chatterton nhớ lại những cửa sập mở phía trên tàu ngầm. Nếu đoàn thủy thủ đã tìm cách thoát khỏi U-boat thì ít nhất vài người trong số đó vẫn không thể sống sót.

Giờ Chatterton phải ra quyết định. Vài người khuyên anh lục túi, ủng và vật dụng cá nhân khác tìm thấy được bên trong tàu ngầm. Đó là những nơi nhiều khả năng tìm được một chiếc đồng hồ đeo tay bằng bạc hoặc một ví tiền có khắc tên thủy thủ, hoặc biết đâu là một chiếc bật lửa hay hộp đựng thuốc lá mà thủy thủ có thể đã thuê thợ bạc khắc lên đó số hiệu tàu. Chatterton biết rằng quần áo và vật dụng cá nhân thường ở gần vị trí xương. Anh không nhúc nhích. Nhưng nếu lục soát vật dụng cá nhân, dù cẩn thận thế nào thì anh vẫn có khả năng quấy nhiễu thi thể và anh không muốn làm vậy. Anh đã ngẫm nghĩ về khả năng này sau khi tìm thấy cái đĩa và nhận ra rằng có lẽ vẫn còn thủy thủ bên trong tàu khi nó đắm và dù nghĩ đi nghĩ lại bao nhiêu lần thì anh vẫn kiên định một lựa chọn: đây là một phần mộ chiến tranh và kia là những chiến sĩ đã ngã xuống. Anh đã chứng kiến một chiến sĩ ngã xuống ra sao, cái chết của họ có ý nghĩa thế nào trong thế giới của chiến tranh và những kẻ đứng đầu điên cuồng. Anh đã chứng kiến sự sống rời bỏ những người lính trẻ trong khi chiến đấu bảo vệ tổ quốc và hiểu rằng dù động cơ chính trị hay tính đúng đắn của một quốc gia là gì thì người lính đã ngã xuống có quyền được tôn trọng. Anh cũng hiểu rằng ngày nào đó anh có thể sẽ phải trả lời một gia đình về những mảnh xương trước mắt và anh không muốn phải thú nhận rằng anh đã quấy nhiễu thi thể chỉ để định danh một con tàu và có thể là kiếm cho bản thân chút hào quang.

Chatterton quay đầu đi, không muốn nhìn chằm chằm vào cái sọ. Anh đạp chân nhái và tiến lên trước, để lại thi thể chìm khuất trong bóng tối phía sau. Một thoáng sau khoang ngư lôi ẩn hiện xa xa. Khi tiến lại gần, Chatterton thấy cánh cửa sập tròn, nơi thủy thủ ra vào khoang, đang mở nhưng có một cái máy đổ chắn ngang. Chatterton nâng chướng ngại vật lên, để nó sang một bên, rồi bơi vào trong. Hai ngư lôi, tính cả quả anh đã nhìn thấy từ phía trên tàu ngầm trong chuyến lặn khám phá vào Ngày lao động, nằm thẳng hướng ra trước, vẫn sẵn sàng khai hỏa như trong Thế Chiến II. Anh chỉ thấy được hai quả phía trên trong bốn quả ngư lôi trong khoang. Hai quả còn lại bị vùi dưới cả mét bùn cát và vụn vỡ chồng chất giữa buồng. Nghiên cứu cho Chatterton biết các cửa ống phóng lôi đôi khi gắn nhãn định danh. Anh cũng nhớ lại rằng lính ngư lôi thường ghi biệt danh của mình hoặc tên vợ hay bạn gái ở mặt ngoài cửa. Anh bơi lên trước và tìm những dấu tích đó, nhưng thời gian và nước biển đã ăn mòn mọi bảng tên và chữ viết. Con tàu này đến mũi vẫn từ chối tiết lộ bí mật của nó.

Chatterton chầm chậm lia camera quanh buồng, cố ghi lại thật nhiều chi tiết để nghiên cứu sau. Giường tầng từng treo dọc hai mạn tàu đã không còn. Hộp thực phẩm và quân nhu mà lính ngư lôi nằm cạnh hoặc nằm trên đã bốc hơi nhiều năm trước. Hệ thống truyền động giúp di chuyển những quả ngư lôi khổng lồ vào ống phóng lôi nằm đổ nát trong bùn lắng. Một ánh trắng lọt vào mắt anh. Anh hướng đèn về phía ấy. Cá lao qua các khe hở của máy móc để trốn luồng sáng. Trong ánh đèn là một khúc xương người, rồi một khúc khác, rồi một khúc khác nữa, hàng chục khúc liền. Nhiều người đã lìa đời trong căn buồng này, nơi cách xa phòng điều khiển bị tàn phá nhất. “Chúa ơi, chuyện gì đã xảy ra với con tàu này?” Chatterton lầm bầm qua bộ điều áp. Anh quay lại để rời đi. Trước khi anh kịp bơi ra ngoài thì đã mặt đối mặt với một khúc xương đùi − xương lớn nhất và cứng nhất trong cơ thể người. Anh tránh nhìn vào nó và chậm chạp bơi qua cho đến khi ra khỏi khoang ngư lôi.

Đón chờ Chatterton là một mây bùn đen ngòm khiến tầm nhìn bằng không. Để ra khỏi tàu, anh sẽ phải tuân theo một bản đồ chỉ tồn tại trong đầu mình. Chatterton bắt đầu bò lổm ngổm qua các khoang, đi ngược lại những tuyến đường đã học thuộc và nâng cao cảnh giác với nguy hiểm từng ghi nhớ. Khi bơi qua khu hạ sĩ quan, anh bám sát mạn phải tàu để không quấy nhiễu những thi thể anh đã thấy trên đường vào. Trong bóng tối gần như tuyệt đối, anh di chuyển qua những không gian mà các thợ lặn khác chưa chắc đã dám di chuyển bằng chân trong phòng tập sáng đèn. Một lần nữa, anh sống sót nhờ việc đặt tri thức lên trên của cải. Một lần nữa, sự chuẩn bị kỹ lưỡng đã giúp anh vượt qua nhằng nhịt những chướng ngại và cạm bẫy. Chatterton ra khỏi tàu từ phòng điều khiển, bơi về cái đèn chớp anh đã gắn vào dây neo và bắt đầu hành trình ngoi lên mặt nước dài 90 phút.

Vẫn cay cú việc Chatterton giành lấy phần trước tàu, Kohler quyết định chuyển sang thám hiểm phần đuôi. Nhớ lại khoảnh hư hại phía trên đuôi tàu, anh nghĩ biết đâu mình có thể qua đó thâm nhập vào nơi chưa ai khám phá. Bản năng của anh cực kỳ chính xác: khu vực hư hại đã bị bắn thủng bởi ngoại lực. Anh có thể đoán định như vậy vì vỏ kim loại oằn xuống ngả vào phía trong tàu và dù hư hại không trầm trọng như ở phòng điều khiển, nó đủ rộng cho một thợ lặn gan dạ chui vào. Kohler lơ lửng phía trên lỗ thủng, nhả một ít khí từ thiết bị kiểm soát độ nổi và chìm vào trong tàu.

Khi đáp xuống, Kohler nhìn thấy hình thù hai ống phóng lôi lân cận trong ánh đèn trắng mờ. Anh liền hiểu ra mình đang ở đâu và khám phá này có nghĩa gì: đây là khoang ngư lôi đuôi tàu, khả năng cao là thuộc về một U-boat kiểu IX – loại tàu được thiết kế để phục vụ tuần tiễu đường dài. Tuy Chatterton từng có dự định thăm dò các ống phóng lôi đuôi tàu, Kohler đã đến đây trước. Trong vòng nửa tiếng, hai người đã có lời giải cho hai câu hỏi kỹ thuật quan trọng nhất về con tàu bí ẩn.

Kohler rọi đèn quanh phòng. Bên dưới mấy mảnh vỡ là một nhãn kim loại và một túi khí thoát hiểm − tổ hợp áo cứu hộ và thiết bị thở mà thủy thủ dùng để thoát khỏi U-boat đắm. Tim Kohler rộn lên. Đây đúng là những thứ thường cho manh mối định danh tàu. Anh kéo chúng lại gần mặt nạ. Song chữ viết dập trên nhãn (nếu có) đã bị thiên nhiên ăn mòn. Túi khí, tuy là sản phẩm công nghệ kỳ diệu, cũng không cho thông tin gì. Kohler nhét chúng vào túi đồ rồi bơi một đoạn ngắn về phía đuôi để nhìn kỹ hơn ống phóng lôi. Cũng như Chatterton, anh biết cửa ống thường có nhãn và đôi khi được ghi tên người yêu của thủy thủ.

Kohler không bao giờ tới được ống phóng lôi. Trong khi bơi, anh để ý thấy rìa một chiếc đĩa trắng nhô lên từ đống đổ nát trên sàn. Trúng mánh! Vậy là anh vẫn kiếm được ít đồ sứ. Anh bò như cua tới chiếc đĩa, cẩn thận không khuấy động thêm bùn không cần thiết.

Liệu cái đĩa có hình đại bàng và chữ thập ngoặc không? Kohler phải cố lắm mới không lao về phía trước và vơ vét. Chậm thôi, chậm thôi, chậm thôi. Cuối cùng, anh đã vượt qua khoảng cách ba mét. Anh rón rén thò tay ra và chỉ bấu rất nhẹ vào đĩa. Cái đĩa oằn xuống. Kohler buông tay. Nó trở về hình dạng cũ. Kohler lập tức hiểu ra. Anh đã có một phát hiện số dách: một chiếc đĩa giấy dùng một lần − món đồ được phát minh ba thập kỷ sau khi chiếc U-boat cuối cùng ra khơi. Thợ lặn mới thường ngạc nhiên khi tìm thấy đồ vật hiện đại trên các xác tàu cổ, nhưng một tay lão luyện như Kohler đã nhìn thấy lon bia Budweiser, lọ thuốc bằng nhựa, ống tampon Kotex, cả một quả bóng bay hình khủng long Barney trên các xác tàu trăm năm tuổi