Chương 8 Ở đó không có gì
BUỔI SÁNG SAU NGÀY Chatterton tìm thấy con dao, anh khởi động cuộc truy tìm Horenburg. Thế nên anh viết một lá thư mô tả chi tiết khám phá của mình và gửi nó tới bốn chuyên gia, mỗi người trong đó anh đều tin có khả năng lần theo tung tích Horenburg và qua đó định danh được chiếc U-boat bí ẩn. Bốn chuyên gia đó là:
− Harry Cooper: chủ tịch Sharkhunters, có mối liên hệ mật thiết trong cộng đồng U-boat;
− Karl-Friedrich Merten: chỉ huy U-boat cự phách ở Đức, đang thư từ qua lại với Chatterton (và tin rằng con tàu bí ẩn là U-851 do đồng đội của ông chỉ huy);
− “Charly” Grützemacher: giám tuyển của Trung tâm tài liệu tàu ngầm quốc tế ở Deisenhofen (Đức) − nơi lưu trữ thông tin U-boat có tiếng tăm.
− Horst Bredow: cựu chiến binh U-boat và nhà sáng lập Kho lưu trữ U-boat ở Cuxhaven-Altenbruch (Đức) − nơi lưu trữ thông tin cá nhân về U-boat hàng đầu và là nơi chính phủ Đức thưởng giới thiệu cho các nhà nghiên cứu.
Theo tính toán của Chatterton, anh sẽ nhận được câu trả lời trong một tuần. Về phần mình, Kohler tiếp tục đào xới các tư liệu lịch sử, tìm hiểu về hoạt động tuần tiễu của các U-boat nhắm về Hoa Kỳ. Hai người − Chatterton lần theo con dao, Kohler lần theo sách vở − không đơn thuần là đang truy tìm lời giải cho một bí ẩn. Cả hai tin rằng một khi chiếc U-boat được định danh, họ có trách nhiệm giải thích với gia đình của những chiến sĩ đã ngã xuống và với lịch sử vì sao con tàu lại nằm trong lãnh hải Hoa Kỳ, cách nó biến mất khỏi sử liệu và đã bị kết liễu ra sao. Và nếu Horenburg đã kết hôn, người vợ xứng đáng được biết vì sao chồng mình đang nằm ở ngoài khơi New Jersey và vì sao không ai trên thế gian biết ông ở đó.
Một tuần trôi qua không có phản hồi. Rồi một tuần nữa. Chatterton ngồi bên điện thoại trông ngóng một tiếng chuông. Anh lục đống tờ rơi quảng cáo để tìm một phong bì thư gửi đường hàng không. Một tháng trôi qua vẫn không phản hồi. Anh lại gửi thư cho các nguồn tin lần nữa. Người nào cũng nói với anh cùng một điều: có chút hiểu nhầm, chúng tôi vẫn đang tìm hiểu. Ngay sau Giáng Sinh, gần hai tháng sau lần hỏi thăm đầu tiên của anh, điện thoại Chatterton reo. Bên kia đầu dây là một người đam mê U-boat mà Chatterton mới quen. Người đó có tin cần báo.
“Con dao là ngõ cụt, anh Chatterton ạ. Anh sẽ phải quay lại con tàu thôi.”
“Ngõ cụt nghĩa là sao?”
“Chỉ có duy nhất một người phục vụ trên U-boat có tên là Horenburg. Nhưng anh ta chưa bao giờ phục vụ ở tây Đại Tây Dương.”
“ Ông ta phục vụ trên U-boat nào?”
“Người ta không nhớ.”
Trong thoáng chốc Chatterton không nói lên lời. Chỉ có tiếng nhiễu điện thoại cho anh biết rằng đầu dây bên kia vẫn có người. Cuối cùng, anh hỏi:
“Horenburg còn sống không?”
“ Ông ấy còn sống” người kia đáp.
“Ông ta đã sống sót qua vụ đắm tàu?”
“ Tôi không nói thế.”
“Horenburg nói gì?”
“Ông ấy nói nó là ngõ cụt.”
“ Cái gì là ngõ cụt?”
“Con dao. Ông ấy không nhớ con dao đó.”
“ Ông ấy còn nói gì không?”
“Quên nó đi, anh Chatterton. Anh chuyển sang làm việc khác đi.”
“ Gượm đã. Tôi muốn nói chuyện với Horenburg…”
“Không thể được. Ông ấy không tiếp ai hết.”
“Làm ơn. Nhắn ông ấy rằng tôi mong được nói chuyện. Điều này có ý nghĩa lớn đối với tôi. Nếu đây là con dao của ông ấy thì tôi mong được trả lại nó.”
“Ông ấy không muốn nói chuyện.”
“Ít nhất anh cũng có thể cho tôi biết ông ấy đã làm việc trên chiếc U-boat nào chứ?”
“Ông ấy không nhớ gì cả. Anh phải tự tiếp tục thôi. Tôi rất tiếc không giúp được gì thêm. Tôi phải đi đây. Tạm biệt.”
Chatterton choáng váng, không gác máy nổi. Horenburg còn sống sao? Ông ta không nhớ về con dao? Ông ta không tiếp chuyện ai? Chatterton áp ống nghe vào tai, không để tâm đến lời cảnh báo tự động của công ty viễn thông vì mải tiêu hóa chuyện khó tin: Một con dao có tên thủy thủ − hiện vật tuyệt nhất mình từng tìm được − lại là ngõ cụt?
Những ngày sau đó, Chatterton không ngừng suy nghĩ về Horenburg. Người này sống sót qua cuộc chiến, đạt đến tuổi lão niên, có thể giải đáp bí ẩn. Thế mà nhất quyết không nói. Tại sao không? Lý do gì khiến ông ta không cung cấp dù chỉ số hiệu U-boat của mình?
Mấy ngày sau, Chatterton nhận phản hồi từ Merten, Bredow và Grützemacher. Tất cả đi đến cùng một kết luận: Chỉ có một Horenburg trong hải quân Đức là Martin Horenburg − một Funkmeister, tức sĩ quan điện đài, thuộc hạm đội U-boat. Chuyến tuần tiễu cuối cùng của anh ta là trên U-869 − U-boat bị quân Đồng Minh đánh đắm ngoài khơi châu Phi năm 1945. Toàn bộ đoàn thủy thủ, trong đó có Horenburg, chết trong cuộc tấn công. Đó là chuyến tuần tiễu duy nhất của U-869. Nó xảy ra cách vị trí xác tàu bí ẩn 5.874 km.
Chatterton nổi cơn thịnh nộ. Anh chắc chắn ba nguồn tin Đức của mình, đều là những chuyên gia uy tín, đã đúng về Horenburg. Nghĩa là người đam mê U-boat kia đã không nói chuyện với Martin Horenburg, nếu anh ta quả thật đã nói chuyện với ai đó. Ngay lập tức, Chatterton gạch tên người kia và thề không bao giờ nói chuyện với anh ta nữa. Song anh vẫn không tin là các nguồn tin Đức của mình đã truy đến cùng vấn đề như anh mong muốn. Có lẽ họ đã bỏ qua một Horenburg khác. Chatterton từng nghe về một đài tưởng niệm U-boat ở Đức có khắc tên của các chiến sĩ U-boat tử trận. Nếu tới Đức, anh có thể tự mình rà soát đài tưởng niệm đó, đọc từng dòng một nếu cần, để tìm một Horenburg thứ hai. Phải, nếu tới Đức, anh có thể nghiên cứu đài tưởng niệm, thăm bảo tàng U-boat và kho lưu trữ của Bredow. Anh nhìn lịch. Tháng ba sẽ là thời gian phù hợp để làm việc đó.
Chatterton mời Yurga và Kohler cùng anh tới Đức. Yurga nhận lời. Vì phải điều hành công ty riêng, Kohler không có thời gian cho chuyến đi kéo dài cả tuần. Nhưng lời mời làm anh cảm động. Chatterton rất coi trọng chuyến đi này và sẽ không mời người mà anh không tôn trọng hoặc không nhờ cậy được gì.
“Tôi sẽ làm việc từ bên Mỹ” Kohler bảo Chatterton. “Tôi sẽ lo phần mình tại đây.”
Khi chuyến đi tháng ba tới gần, Chatterton nhận một cuộc gọi lạ kỳ nhất kể từ khi cơn bão truyền thông bắt đầu. Một quý ông lớn tuổi tự giới thiệu là Gordon Vaeth − cựu sĩ quan tình báo cho phi đội khí cầu Đại Tây Dương trong Thế Chiến II. Ông đã đọc tin về khám phá của các thợ lặn và hỏi về nghiên cứu mà Chatterton đã tiến hành. Chatterton kể với ông về thư từ chậm chạp giữa anh và Trung tâm lịch sử hải quân.
“Nếu cậu muốn đến Washington, tôi sẽ rất vui lòng giới thiệu cậu với các lãnh đạo của trung tâm, đều là bạn tôi” Vaeth nói. “Biết đâu họ có thể giúp cậu tìm được thứ cậu đang tìm. Tôi không có ý chen vào, nhưng nếu giúp được gì đó thì tôi hết sức sẵn lòng.”
Chatterton không tin nổi vận may của mình. Vaeth từng tham gia chiến tranh chống ngầm, lại là tình báo. Và ông có quan hệ trong NHC. Họ hẹn gặp ở Washington cuối tháng hai. Khi gác máy, Chatterton tự hỏi có cần phải tới Đức nữa không. Nếu có ai nắm được đáp án cho bí ẩn này thì đó phải là chính phủ Hoa Kỳ. Giờ đây, với hậu thuẫn của Vaeth, anh sẽ được dẫn thẳng tới nguồn tin.
Mấy ngày sau, Chatterton lái xe bốn tiếng tới Washington, D.C. Anh sẽ gặp Vaeth tại NHC lúc 10:00 sáng. Anh tới sớm một tiếng và rẽ vào Xưởng đóng tàu hải quân Washington − khu phức hợp cổ lỗ đầy những ray xe điện, đường trải sỏi, thư viện, lớp học. Một tàu khu trục hải quân đã hết hạn phục vụ neo ở sông Anacostia lấp ló sau một tòa nhà bằng đá trên đường tới NHC, nơi lưu trữ nhiều sử liệu và hiện vật hải quân. Bên trong, một người đàn ông tóc bạc trắng mặc áo vét vải tuýt đứng lên chào Chatterton. Ông tự giới thiệu là Gordon Vaeth.
Hai người làm quen và Vaeth phác thảo kế hoạch chuyến thăm. Ông sẽ giới thiệu Chatterton với Bernard Cavalcante − người đứng đầu kho lưu trữ về tác chiến và là chuyên gia U-boat lừng danh thế giới, cùng giám đốc trung tâm là TS. Dean Allard. Theo gợi ý của Vaeth, hai người này có thể tiếp cận gần hết các tư liệu mà Hoa Kỳ có về U-boat. Chatterton thở sâu. Anh tin mình chỉ còn cách lời giải vài phút.
Vaeth đưa Chatterton tới văn phòng của Cavalcante. Những phòng này, Vaeth giải thích, chứa hầu hết các thư lục hải quân Hoa Kỳ và do Cavalcante − một sử gia đầy nhiệt huyết sinh ra để làm nhiệm vụ này − quản lý. “Và anh ấy hiểu rất sâu về U-boat” Vaeth thì thầm khi Cavalcante − người đàn ông trung niên dáng vẻ mảnh khảnh, mặc áo khoác thể thao ca rô và cặp kính đeo trễ − đi vào từ phòng kế bên. Cavalcante chào đón hai người nồng nhiệt nhưng chân mày hơi nhướn như có ý nói “Ôi trời, lại một kẻ cuồng U-boat trong văn phòng mình.”
Ba người ngồi xuống và Vaeth đề nghị Chatterton kể câu chuyện của mình. Chatterton trình bày thẳng thắn và súc tích. Anh cùng những thợ lặn khác đã phát hiện một U-boat thời Thế Chiến II cách bờ biển New Jersey khoảng 90 km. Hiện vật lấy lên được từ tàu đã chứng minh điều đó, nhưng không xác định được danh tính con tàu. Họ đã dò các sách sử nhưng không thấy chỗ nào nhắc tới U-boat trong bán kính 150 km quanh xác tàu. Các thợ lặn đã dùng loran để quay lại điểm đó ba lần, nên tọa độ đó là chính xác. Họ đã quay nhiều băng video và anh có mang tới đây băng tổng hợp.
Trong chốc lát cả phòng im lặng. Cavalcante nhìn về phía Vaeth, miệng thoáng mỉm cười, rồi quay ra Chatterton. Anh thò tay vào ngăn bàn và đưa ra một số giấy tờ Chatterton cần ký: nếu Trung tâm lịch sử hải quân nhận băng video, nó phải được hiến tặng đúng thủ tục. Chatterton chưa bao giờ cảm thấy việc ký tên quan trọng như lúc đó. Cavalcante cầm cuộn băng rồi nhìn thẳng vào mắt Chatterton.
“Chúng tôi là Hải quân Hoa Kỳ” Cavalcante nói. “Chúng tôi biết khá nhiều về những thứ nằm ở đáy biển, nhưng chúng tôi không cần phải tiết lộ thông tin. Anh hiểu điều đó đúng không, anh Chatterton?”
“Hoàn toàn hiểu, thưa ngài.”
“Chúng tôi có bảng kê các xác tàu đắm ở bờ đông. Chúng tôi theo dõi vì lý do quân sự, không phải vì lý do lịch sử, hay để phục vụ nghiên cứu, hay… xin thứ lỗi, phục vụ thợ lặn. Chúng tôi có danh sách ở đây, nhưng tôi không thể cho anh xem. Tôi rất tiếc.”
Lòng Chatterton trùng xuống. Câu trả lời ở ngay bên kia văn phòng Cavalcante, nhưng ông ta không chịu mở cửa. Vaeth vẫn ngồi, thẳng thớm và trang nghiêm, nhưng không nói gì. Cavalcante cũng im lặng. Chatterton băn khoăn hay cuộc gặp đã kết thúc. Anh không muốn chấp nhận khả năng đó.
“Ông Cavalcante, tôi không cần nhìn danh sách” Chatterton nói. “Tôi chỉ quan tâm cụ thể xác tàu này ở chỗ này. Với tôi điều này hết sức quan trọng. Đặt tên cho phần mộ này là điều nên làm cho các gia đình và cho lịch sử. Có hàng chục thủy thủ chết dưới đó và dường như không ai biết họ là ai và vì sao họ ở đó.”
Cavalcante tựa cằm vào giữa ngón cái và ngón trỏ. Vaeth nghiêng nghiêng đầu như muốn hỏi: “Hừm, giờ thì sao hả Bernie?” Cavalcante gật nhẹ.
“Tôi nghĩ là tôi có thể tra cứu thử” ông nói. “Nhưng anh không được phép có bản photo thông tin nào hay chụp ảnh.”
“Không vấn đề gì, xin cảm ơn ông” Chatterton đáp. “Tôi chỉ cần nghe ông nói những thông tin mà ông có về xác tàu này.”
Chatterton viết kinh độ và vĩ độ của U-boat rồi đưa cho Cavalcante. Ông xin phép lui vào một pháo đài tư liệu. Vaeth cười và gật đầu với Chatterton ra hiệu “Làm rất tốt”. Câu trả lời sắp đến rồi.
Mấy phút sau Cavalcante quay lại, tay kẹp một tập hồ sơ dày cộp và ngồi xuống bàn. Ông lại nhìn Chatterton với vẻ nhướn mày.
“Anh có chắc về tọa độ đó không?” ông hỏi.
“Chắc chắn” Chatterton đáp. “Chúng tôi đã tới đó ba lần.”
“Có vẻ như chúng tôi không có thông tin nào ở vị trí đó. Không có U-boat hay bất kỳ thứ gì khác ở đó.”
Nụ cười mỉm của Vaeth, vốn kiềm chế từ đầu cuộc gặp, nở lớn. “Thật thú vị” Cavalcante cuối cùng nói. “Hết sức thú vị. Chúng ta sẽ mang cuộn băng này tới chỗ TS. Allard rồi cùng xem. Ông ấy phải được xem. Tôi nói này, anh Chatterton, đã quá nhiều người liên hệ với chúng tôi vì tin rằng họ phát hiện được U-boat hoặc nắm thông tin mật về U-boat. Đa số trường hợp chẳng có gì. Nhưng lần này thú vị đấy.”
Cavalcante đưa Vaeth và Chatterton vào một văn phòng hoành tráng. Không lâu sau họ được tiếp đón bởi một người đàn ông trung niên với mái tóc muối tiêu lượn sóng rẽ ngôi giữa, đeo kính có viền, thắt nơ và mặc áo vét vải tuýt. Người này giới thiệu mình là TS. Dean Allard − giám đốc trung tâm − và mời các vị khác ngồi.
Cavalcante đi thẳng vào chuyện. Anh Chatterton, ông nói, đã tìm thấy một U-boat ngoài khơi New Jersey: tọa độ xác định, niên đại xác định, tử vong xác định, băng video có sẵn. Suốt thời gian đó, Allard lắng nghe với vẻ hững hờ. Ông đã nghe tuyên bố kiểu này cả ngàn lần. Lần nào cũng vô căn cứ.
Cavalcante dừng một nhịp tạo hiệu ứng.
“Vấn đề là thế này, TS. Allard” Cavalcante tiếp tục. “Tôi đã kiểm tra. Ở đó không có gì.”
Allard chậm rãi gật đầu.
“Ra thế” ông nói. “Anh Chatterton này, tôi biết là anh có mang băng video. Chúng tôi có thể xem được không?”
Trong khi Cavalcante chuẩn bị băng, Allard gọi cấp phó của mình là William Dudley vào văn phòng. Allard hạ đèn và năm người xem cảnh Chatterton di chuyển quanh tháp chỉ huy, rồi lên trước tới khoang ngư lôi. Những tiếng thì thầm “Thú vị” “ Khó tin” “ Ngạc nhiên thật” vang lên trong phòng đến khi kết thúc cuộn băng dài 40 phút.
“Tôi không thể tin có một U-boat thời Thế Chiến II của Đức ở ngoài kia mà chúng tôi không biết gì” Allard nói. “Anh Chatterton, nếu tôi có thể sắp xếp một tàu hải quân và thợ lặn tới vị trí của anh, liệu anh có sẵn lòng hợp tác với hải quân để định danh con tàu không?”
Mất một thoáng Chatterton mới hiểu được tầm vóc của lời đề nghị này. Anh chỉ là một kẻ đến từ New Jersey với cặp bình khí vật lộn giữa đại dương trên chiếc thuyền 11 nút. Giờ đây, Allard đang đề nghị cử một đội thợ lặn cứng cùng sức người và tài nguyên của Hải quân Hoa Kỳ để giải đáp bí ẩn của anh. Anh bắt đầu sắp xếp một lời ưng thuận đủ trang nghiêm để xứng với sự trọng đại của thời điểm. Nhưng thay vào đó, anh chỉ có thể thốt ra “Hẳn rồi!”
Dudley bước lên. Ông là người duy nhất trong phòng không cười.
“TS. Allard, tôi rất tiếc nhưng chúng ta không thể làm thế” ông nói. “Như anh đã biết, Hoa Kỳ đã khiếu kiện Pháp ở tòa quốc tế về con tàu Alabama thuộc phe Liên minh23*. Trọng điểm của vụ đó là người Pháp đang lặn trên tàu chiến Hoa Kỳ mà chúng ta cho rằng cần được bảo vệ vì là phần mộ chiến tranh. Chúng ta không thể cùng lúc lặn phần mộ chiến tranh của Đức trên Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ tự làm mình yếu thế trước tòa.”
Allard ngẫm nghĩ về lý luận trên.
“Ừm, anh nói đúng, Bill ạ” Allard nói. Ông quay ra Chatterton. “Tôi rất thất vọng. Nhưng anh Chatterton ạ, dù không thể chủ động ra đó và giúp anh, chúng tôi vẫn có thể trợ giúp về mặt nghiên cứu tại đây ở bất cứ phương diện nào anh cần.”
Allard đứng dậy, cởi áo vét và xắn tay áo lên.
“Thật ra hãy bắt đầu luôn thôi. Bill này, anh lấy cho anh Chatterton cuốn sổ hướng dẫn về nguồn lực của chúng ta được không?”
Dudley đưa Chatterton tới văn phòng mình. Ông đóng cửa phòng và quay lại nhìn thẳng vào Chatterton.
“Tôi không ưa cậu” Dudley nói. “Tôi không thích những thợ lặn sờ mó đồ trên xác tàu.”
Chatterton hiểu chuyện gì đang xảy ra. Một số học giả căm ghét thợ lặn vì họ sẵn sàng khuấy động các hiện vật trên xác tàu. Từ lâu Chatterton đã giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn, nếu anh khám phá một tàu Viking từ cả nghìn năm trước, anh sẽ hiến nó cho các nhà khảo cổ. Trên tàu Viking có nhiều thứ đáng nghiên cứu và bảo tồn. Nhưng một con tàu thời Thế Chiến II đã được nghiên cứu và ghi lại đến từng chân tơ kẽ tóc? Chatterton tin rằng anh đang có thiện cảm từ Allard và Cavalcante và NHC. Anh sẽ không tranh luận với Dudley.
“OK, không sao!” Chatterton nói.
Dudley quay lại văn phòng Allard cùng Chatterton. Tại đó, hai người cảm ơn Chatterton đã đem “một bí ẩn đúng nghĩa” đến với NHC. Vaeth và Cavalcante sau đó đưa anh tới khu lưu trữ và giới thiệu anh với chuyên gia lưu trữ Kathleen Lloyd − cánh tay phải của Cavalcante và là người sẽ hỗ trợ anh bằng mọi cách có thể. Chatterton cảm ơn Allard rồi biến mất cùng Lloyd và Vaeth trong một khu vực nghiên cứu đầy những quân nhân tại ngũ, tác giả, cựu chiến binh, sử gia, giáo sư. Tại đó, Lloyd kể với Chatterton về bốn công cụ nghiên cứu thiết yếu có thể sử dụng. Công cụ nào cũng khiến Chatterton mở mắt. Chúng là:
1. Báo cáo sự cố tác chiến chống ngầm (ASW): Ghi chép hằng ngày về các cuộc chạm trán dưới nước giữa quân Đồng Minh (tàu, máy bay, khí cầu, Tuần không dân sự, vệ binh trên tàu buôn) với tàu địch được cho là tàu ngầm. Báo cáo có thể nói về đụng độ, truy kích, phát hiện, định vị thủy âm − bất cứ thứ gì liên quan tới việc săn U-boat. Nếu có nhắc tới trận chiến, báo cáo có thể dẫn chiếu tới tường trình chi tiết hơn, được gọi là “Báo cáo tấn công”.
2. Nhật ký tác chiến biên giới biển phía đông (ESFWD): Ghi chép hằng ngày về các hoạt động và nhận định đáng chú ý của quân lực Đồng Minh dọc bờ đông Hoa Kỳ, trong đó có tất cả mọi thứ từ sự xuất hiện của vệt dầu cho tới cột khói bí ẩn hay áo phao cứu hộ. Không như với ASW, những báo cáo này không nhất thiết liên quan đến tàu ngầm.
3. Nhật ký tác chiến của BdU: Trích yếu hằng ngày từ Bộ tư lệnh U-boat Đức (Befehlshaber der U-Boote, tức BdU) về hoạt động của U-boat trên thế giới. Trong đó bao gồm mệnh lệnh gửi cho U-boat, liên lạc điện đài của tàu với tổng hành dinh và các giao tranh của tàu. Chỉ có các nhật ký tác chiến của BdU viết trước ngày 16 tháng một năm 1945 là còn tồn tại, những báo cáo viết sau đó đã bị quân Đức phá huỷ.
4. Tài liệu U-boat đơn lẻ: Các bộ hồ sơ thông tin về từng U-boat cụ thể do Hải quân Hoa Kỳ tổng hợp. Trong đó chứa các thông tin về kiểu U-boat, nhiệm vụ, hoạt động tuần tiễu, các liên lạc bắt chặn được, báo cáo tình báo, ảnh, nội dung thẩm vấn quân địch bị bắt sống, cũng như tiểu sử của chỉ huy tàu.
Lloyd gợi ý Chatterton bắt đầu bằng cách tra cứu báo cáo sự cố ASW, tìm thông tin về các cuộc giao tranh dưới nước của quân Đồng Minh quanh khu vực xác tàu bí ẩn. Nếu phát hiện sự cố gần xác tàu, anh có thể yêu cầu xem hồ sơ chi tiết về các sự cố đó. Ngoài ra, anh có thể kiểm tra chéo khung thời gian của sự cố với nhật ký U-boat Đức để xem tàu nào đã được cử tới Hoa Kỳ khi đó. Cô mang tới các thùng báo cáo đầu tiên có nhãn 1942. Vaeth cười và chúc anh may mắn.
“Tôi sẽ đọc từng tờ giấy một ở chỗ này nếu cần” Chatterton nói.
Nói xong, Chatterton ngồi xuống và mở thùng báo cáo sự cố ASW đầu tiên năm 1942. Đi từ ngày 1 tháng một, anh đọc lướt qua các trang để tìm kinh độ và vĩ độ trong bán kính 22 km quanh xác tàu.
Vài giờ sau, anh đã đi hết năm 1942. Anh đã đọc báo cáo của hơn 1.000 sự cố. Không sự cố nào xảy ra trong bán kính 22 km quanh U-boat bí ẩn. Tối đó, anh phải về nhà. Anh gọi điện cho vợ, nói rằng anh sẽ nán lại thêm hai ngày. Sáng hôm sau, anh là người xếp đầu hàng ở khu lưu trữ và yêu cầu các báo cáo năm 1943.
Chatterton rà hết toàn bộ báo cáo sự cố suốt cuộc Thế Chiến. Trong vòng bốn năm, không lực lượng Đồng Minh nào giao tranh với tàu ngầm trong bán kính 22 km quanh xác tàu.
Chatterton đề nghị Lloyd tiếp tục cho tra cứu Nhật ký tác chiến biên giới biển phía đông. Những báo cáo này sẽ cho thông tin về bất cứ điều gì đã xảy ra ở khu xác tàu, dù có liên quan đến U-boat hay không. Cô lại mang đến một núi hồ sơ. Tương tự như đã làm với báo cáo sự cố, Chatterton lăn xả qua các năm chiến tranh, săn tìm bất cứ dấu tích nào về hoạt động xảy ra quanh xác tàu của anh. Việc này kết thúc sau hai ngày. Trong cuộc chiến, không có một sự cố nào: không vật trôi dạt, không áo phao cuốn vào bờ, không thi thể thủy thủ, không vệt dầu, không cả làn khói xuất hiện ở bất kỳ nơi đâu lân cận xác tàu. Cứ như thế vùng biển ấy, nơi xác hàng chục thủy thủ đang nằm trong chiếc U-boat bí ẩn, không hề tồn tại trong cuộc chiến.
Chatterton xin phép Lloyd cho sử dụng những giờ còn lại của chuyến đi để tra cứu một số hồ sơ khác của kho lưu trữ. Chẳng mấy chốc anh đã ngập trong hồ sơ. Trong khi những người xung quanh lăn xả vào núi tư liệu, Chatterton khôn khéo hơn. Anh đọc nhãn mà không mở hộp, lật qua thông tin hướng dẫn để biết nội dung bên trong, tự điều hướng theo hàng loạt thứ kho lưu trữ cung cấp, sao cho khi quay về anh luôn có một kế hoạch và tầm nhìn. Như vậy, anh nghiên cứu cũng giống cách tìm đường trên xác tàu, từng chút thâm nhập để chuẩn bị cho cú chốt hạ hoành tráng. Khi dỡ thùng và tháo dây các phong bì làm bằng giấy manila, anh như trở về tuổi 12 trong căn nhà kỳ ảo mà anh tìm thấy sau một ngày lang thang, xung quanh là những câu chuyện và lớp bụi lịch sử. Chỉ khi Lloyd vỗ vào vai anh và nói: “Anh Chatterton? Anh Chatterton ơi? Chúng tôi chuẩn bị đóng cửa rồi…” anh mới nhận ra mình đã quên về nhà. Anh cảm ơn sự hỗ trợ của cô ba ngày qua và đi tới bãi đậu xe, với niềm tin rằng mình có thể quay lại nơi tuyệt vời này để tìm câu trả lời, rằng anh sẽ học được cách nhìn thấu những bản ghi mà đến giờ vẫn khước từ anh và anh có thể làm thế ngay ngày mai nếu có thời gian.
Hai tuần sau, Chatterton và Yurga đáp xuống Đức. Hai người mua một bó hoa lớn và tới Đài tưởng niệm U-boat ở Möltenort, gần thành phố cảng Kiel. Ở đây, khắc trên 89 bia đồng là tên của 30 ngàn thủy thủ U-boat hy sinh trong Thế Chiến II, nhóm theo tàu nơi họ hy sinh. Mưa buốt giá như kim châm lên cổ họ và làm nhòe mực trên những trang ghi chú mà họ mang theo. Suốt ba tiếng, hai người dò ngón tay dọc bia cho tới chữ H để tìm Horenburg. Họ chỉ tìm được duy nhất một người: Martin Horenburg – Funkmeister đã hy sinh cùng đồng đội trên U-869 ngoài khơi châu Phi, đúng như lời các chuyên gia.
Đêm đó, sau khi tắm nước nóng đến bỏng da mà vẫn thấy rét, Chatterton quay số gọi Merten − viên chỉ huy U-boat xuất sắc mà anh đã liên hệ. Anh biết gần đây Merten không được khỏe, nhưng hy vọng viên chỉ huy 86 tuổi vẫn đủ sức khỏe tiếp khách và suy luận về con tàu bí ẩn. Một người trẻ tuổi nghe máy và xin lỗi: Herr Merten không thể tiếp khách. Viên chỉ huy U-boat lừng lẫy một thời đang bệnh và không muốn ai thấy mình trong tình trạng suy nhược này.
Như vậy, chỉ còn Kho lưu trữ U-boat của Bredow ở Cuxhaven- Altenbruch. Lúc này, Chatterton bắt đầu hiểu hơn về kho tài liệu tư nhân kỳ lạ này. Là cựu chiến binh U-boat, Bredow đã biến nhà riêng thành kho lưu trữ, nhồi nhét giấy tờ, hình ảnh, bản ghi chép, vật lưu niệm, hiện vật, hồ sơ vào bên cạnh nhà bếp và đồ gia dụng. Chỉ cái neo khổng lồ ở sân là khiến nhà ông khác biệt các ngôi nhà khác. Trung tâm này dần được chính phủ Đức và các nhà sử học coi là kho tư liệu U-boat số một quốc gia, đặc biệt là tư liệu về các chiến sĩ. Bredow sở hữu những món đồ độc nhất vô nhị, trong đó có thư từ, nhật ký và ảnh. Nhà của ông là bảo tàng sống xoay quanh lính tàu ngầm. Khi các nhà nghiên cứu nghiêm túc cần giải đáp bí ẩn, chính phủ Đức thường giới thiệu họ tới Bredow.
Chatterton và Yurga bấm chuông khi đồng hồ điểm 9:00 sáng. Một người đàn ông 68 tuổi, thấp, hói, đeo kính với bộ râu trắng mở cửa và nói với giọng nặng âm sắc Đức: “A! Herr Chatterton và Herr Yurga, chào mừng tới Kho lưu trữ U-boat. Tôi là Horst Bredow.” Sau vai Bredow là các tủ hồ sơ đứng canh khắp nhà, hiện vật đặt trên dạ trong hộp kính và hàng tá ảnh đóng khung của các thủy thủ U-boat thời còn lạc quan. Khi hai thợ lặn bước vào trong, họ căng thẳng đến nỗi phải khó lắm mới cởi được áo khoác. Họ tin rằng chỉ chút nữa là sẽ có trong tay lời giải cho bí ẩn của mình.
“Tất cả những gì các anh thấy đều do tôi xây nên từ độc một mảnh giấy!” Bredow tuyên bố, hai cánh tay giang ra. “Mọi câu trả lời các anh tìm kiếm đều ở đây. Các anh không cần đi đâu khác.”
Chatterton hít sâu. Bredow sắp sửa nói ra danh tính con tàu.
“Nhưng trước khi cho các anh câu trả lời, tôi sẽ đưa các anh thăm quan khu lưu trữ đã” Bredow nói.
Chatterton sốt ruột sốt gan, nhưng anh và Yurga vẫn gắng gượng: “Ồ, thế thì… hay quá.”
Trong 90 phút tiếp theo, Bredow dẫn hai thợ lặn qua mọi căn phòng trong nhà. Trong thời gian đó, họ nói những câu như “Ồ, rất tuyệt” và “Ồ, thật thú vị” cố lắm mới kiềm chế được bản thân trong khi Bredow lan man dông dài, không vội vã đưa lời giải chút nào.
Cuối cùng, Bredow ngồi xuống bàn và mời hai thợ lặn an tọa phía đối diện. Ông lấy ra từ ngăn kéo một mảnh giấy có chữ đánh máy. Tim Chatterton đập liên hồi. Bredow úp mảnh giấy xuống rồi đẩy sang.
“Câu trả lời của các anh là đây” Bredow nói.
Tay Chatterton run rẩy khi cầm mảnh giấy. Anh lật lên. Trên đó, Bredow đánh máy tên của bảy U-boat.
Chatterton đơ ra. Yurga bất động. Đây là danh sách các U-boat mất tích ở bờ đông Hoa Kỳ, loại danh sách có sẵn trong sách ở các thư viện công cộng. Một trong các U-boat đó là kiểu VII và do đó không thể là con tàu bí ẩn. Những tàu khác đắm cách xác tàu hàng trăm km. Một số tàu có thủy thủ sống sót hoặc bằng chứng vững chắc khác về danh tính. Con tàu U-853 ngoài khơi Rhode Island đã được lặn nhiều năm rồi. Đây là các U-boat mà nhóm thợ lặn đã loại trừ đầu tiên.
Chatterton hít một hơi sâu. “Tất cả những tàu này đều có vấn đề, thưa ông” anh nói. “Tàu chúng tôi đang tìm không thể là một trong số này.”
“Phải là một trong số này” Bredow nói. “Vị trí của các anh chắc chắn là sai.”
“Không, thưa ông” Chatterton nói. “Vị trí mà chúng tôi cung cấp cực kỳ chính xác. Chúng tôi đã quay lại đó nhiều lần.”
Trán Bredow hằn lên những nếp nhăn. Má của ông ửng đỏ.
“Các anh tùy ý tra cứu hồ sơ tôi có” Bredow hậm hực. “Tôi không còn gì để nói.”
Chatterton và Yurga xin phép tới một phòng khác, khuất mắt Bredow và lấy tay ôm đầu. Chẳng biết làm gì nữa, hai người bắt đầu chép lại danh sách thủy thủ của tất cả các U-boat kiểu IX được cử tới bờ đông Hoa Kỳ. Hai giờ trôi qua và họ đã làm tất cả những gì có thể làm. Họ rời đi tay trắng.
Trên đường ra, Bredow cho một lời khuyên.
“Nếu các anh có thể lấy được túi khí thoát hiểm từ tàu, có thể chủ của nó đã viết tên mình lên đó. Hồi đó, chúng tôi hay làm vậy.”
Chatterton cảm ơn Bredow đã gợi ý và chúc ông một ngày tốt lành. Ở sảnh khách sạn tối đó, Chatterton mua một bưu thiếp và gửi tới Kohler. Trên đó anh viết: “Chúng ta biết nhiều hơn họ. Chúng ta phải quay lại con tàu.” Mấy ngày sau, Kohler nhận được bưu thiếp. Anh khoe với vợ.
“Tấm bưu thiếp này có ý nghĩa lớn với anh” anh nói với vợ. “Một cử chỉ rất thân mật, hoàn toàn không giống với cá tính Chatterton. Anh nghĩ bọn anh sẽ làm việc cùng nhau lâu dài nữa. Anh nghĩ bọn anh đang dần trở thành một đội.”
Sau khi quay về Mỹ, Chatterton gọi Yurga và Kohler để triệu tập một cuộc họp ở nhà anh. Đã đến lúc họ phải tự giải quyết vấn đề.
Kohler chỉ mất tám phút là tới nhà Chatterton. Nhiều năm rồi hai người chỉ sống cách nhau 8 km mà không biết. Ở phòng khách của Chatterton, anh và Yurga tường thuật cho Kohler về chuyến đi Đức, tranh nhau nhái lại biểu cảm bối rối của Bredow khi bị bảo rằng danh sách của ông ta không giúp giải quyết được vấn đề.
“Tôi phải nói, đây đúng là kiểu bí ẩn trong sách truyện” Kohler nói. “Một U-boat Đức đến hiên nhà của chúng ta ở New Jersey. Nó nổ và đắm mang theo khoảng 60 người trong khoang và không ai, chính phủ hay quân đội hay giáo sư hay sử gia, có chút ý niệm về chuyện nó ở đó.”
Chatterton kể lại nghiên cứu của anh ở D.C. “Tôi đi qua toàn bộ cuộc chiến, từng trang một” anh nói. “Kính tôi trễ xuống một bên. Cả căn phòng bắt đầu quay mòng mòng. Không một mảy may động tĩnh quanh xác tàu của chúng ta suốt cuộc chiến. Không gì cả.”
Một pizza và một lốc Coca-Cola tới. Kohler trả tiền và quên đòi tiền thối. Không ai dám mò tay lấy đĩa vì sợ gián đoạn cuộc trò chuyện. Ba người đang vào guồng.
“Tôi nghĩ chúng ta đều biết các nghiên cứu rằng lời đồn U-boat lên bờ và thủy thủ dự tiệc hóa trang với mua bánh mì ở chợ là nhảm nhí” Kohler nói. Anh đi đi lại lại trong phòng, miếng pizza xúc xích hình tam giác được dùng làm que chỉ. “Nhưng tôi phải thú nhận thế này. Các anh chắc là biết người ta đồn bọn Quốc Xã tìm cách tuồn vàng ra khỏi Đức cuối cuộc chiến chứ? Hoặc kể cả chuyện Hitler đã trốn thoát trên một chiếc U-boat khi Berlin thất thủ? Thử nghĩ xem. Nếu U-boat của chúng ta được dùng cho mục đích như thế thì chắc chắn sẽ không có bản ghi nào về nó, đúng không?”
“Whoa! Whoa! Whoa!” Chatterton và Yurga kêu lên từ sôfa. “Ý anh là Hitler có thể đã ở trên U-boat của chúng ta?”
“Tôi không dám chắc cái gì hết” Kohler đáp. “Ý tôi là chúng ta cần nghĩ rộng hơn. Chúng ta cần nghĩ tới những kịch bản giúp giải thích tại sao không ai trên thế giới biết rằng chiếc U-boat này và đoàn thủy thủ ở New Jersey. Nếu chúng ta không tính tới mọi tình huống, kể cả những tình huống nghe hoang đường, lời giải có thể tuột khỏi tay chúng ta. Bởi vì, các ông bạn ạ, bí ẩn này đã quá đủ hoang đường rồi.”
Một thoáng im lặng. Kohler giật giật chân mày khi nghĩ đến những khả năng mới. Anh sẵn lòng theo đuổi chuyện này đến cùng. Vừa từ Đức trở về trong thất vọng, Chatterton đắm mình trong sự hồn nhiên và quả quyết của Kohler. Kohler tỏ ra kiên định, khóa mắt nhìn Chatterton và nhẹ gật như muốn nói: “Chúng ta sẽ làm được.” Chatterton thấy mình gật đầu đáp lại. Lần cuối anh chứng kiến một tinh thần như thế là ở Việt Nam, nơi mà người ta có thể chạy qua làn đạn đơn giản vì đó là việc đúng đắn.
“OK, nói về kịch bản…” Chatterton đứng lên khỏi ghế và nhường chỗ cho Kohler. “Tôi đề nghị bắt đầu phác thảo chúng.”
Chatterton nhắc hai người kia rằng vẫn còn hai giả thuyết khả dĩ. Một: chiếc U-boat đã bị Tuần không dân sự đánh đắm vào ngày 11 tháng bảy năm 1942. Hai: đây chính là U-851 − con tàu Merten tin rằng người bạn lập dị của ông đã bất tuân thượng lệnh mà lái tới New York. Chatterton trình bày kế hoạch. Còn hai tháng nữa là tới mùa lặn. Các thợ lặn sẽ dùng quãng thời gian đó để quay lại D.C. và nghiên cứu hai giả thuyết trên.
Gần mười giờ tối, ba thợ lặn ngừng làm việc. Khi họ khoác áo ở cửa, có người nói: “Anh nghĩ là có vàng trên tàu không?” Một người khác nói: “Anh có thể tưởng tượng là Hitler ở trên tàu không?” Người thứ ba nói: “Mẹ kiếp, đến lúc này tôi nghĩ biết đâu tờ Tuần báo tin tức thế giới nói đúng. Biết đâu U-boat của chúng ta đã từ Đức lạc vào một lỗ hổng thời gian.” Tất cả ồ lên cười. Sau đó, Chatterton nói: “Dù đáp án có là gì thì cũng sẽ đáng kinh ngạc đấy.” Lần này, không ai cười vì họ đều biết đó là sự thực.
Mấy ngày sau hội nghị kín ở nhà anh, Chatterton quay lại NHC ở Washington. Trong chuyến đầu, anh đã tra cứu các bản ghi về các hoạt động diễn ra trong bán kính 22 km quanh xác tàu. Anh ra về tay trắng. Lần này, anh sẽ mở rộng bán kính tìm kiếm ra 45 km, rồi 90 km nếu cần. Nghiên cứu lần này kéo dài bốn ngày.
Anh vẫn không tìm thấy gì. Không một sự kiện hay quan sát nào xuất hiện trong vòng 90 km quanh xác tàu.
Chuyến tiếp theo, đi cùng Yurga, Chatterton tập trung vào U-851, con tàu mà Merten cho rằng đồng đội Weingärtner của mình đã lái tới New Jersey để săn thêm tàu địch. Chatterton chia sẻ giả thuyết của Merten với Cavalcante − viên quản lý khu lưu trữ. Cavalcante ngay lập tức hứng thú với giả thuyết đó và cũng bắt tay vào nghiên cứu.
Trong khi Chatterton chờ kết quả nghiên cứu của Cavalcante, anh hướng sự chú ý vào giả thuyết Tuần không dân sự. Anh đặt ra câu hỏi cơ bản: Đức có cử U-boat nào tới bờ đông Hoa Kỳ đầu tháng bảy năm 1942, khi CAP tuyên bố đã đánh đắm một tàu ngoài khơi New Jersey không? Câu trả lời nằm trong nhật ký tác chiến của BdU, tức từ tổng hành dinh U-boat Đức. Chatterton yêu cầu các nhật ký đó từ phòng nghiên cứu.
Bingo. Hóa ra một số U-boat đã đi săn trong lãnh hải Hoa Kỳ vào thời gian đó. Theo các nhật ký, trừ U-157 và U-158, tất cả đều trở về Đức an toàn. Cả U-157 và U-158 đều thuộc kiểu IX, giống với U-boat các thợ lặn tìm thấy. Chatterton yêu cầu các báo cáo tấn công liên quan tới U-157 và U-158.
Theo hải quân, U-157 đã bị một tàu tuần duyên Hoa Kỳ đánh đắm ở phía đông bắc Havana ngày 13 tháng sáu năm 1942, giết chết toàn bộ 52 người trên tàu. Sự việc xảy ra cách xác tàu của các thợ lặn gần 3.000 km. Thông tin của báo cáo cực vững chắc: có một số nhân chứng, đã thu được mảnh vỡ từ xác tàu, cho thấy con tàu đã chìm ở nơi bị tấn công. Do đó, Chatterton kết luận rằng U-157 không thể là con tàu bí ẩn. Anh kiểm tra tiếp báo cáo tấn công của U-158. Báo cáo này đáng chú ý hơn. Vào ngày 30 tháng sáu năm 1942, một thủy phi cơ phát hiện U-158 ngoài khơi Bermuda, với khoảng 15 thủy thủ đang tắm nắng trên boong. Khi con tàu lặn gấp, phi công thả hai quả bom chống ngầm, một quả trúng ngay tháp chỉ huy của tàu: một phát trúng hồng tâm hiếm có. Khi con tàu chìm xuống nước, quả bom nổ và, theo báo cáo, phá hủy con tàu, giết toàn bộ 54 người trên tàu. Như vậy vẫn có khả năng con tàu không đắm nơi nó bị tấn công. Kho lưu trữ đóng cửa vào cuối tuần. Chatterton chép lại thông tin và cho vào một phong bì giấy manila đề RICHIE. Kohler sẽ là ứng viên lý tưởng để điều tra những ngày cuối của U-158.
Chatterton và Yurga ở Washington đã được ba ngày. Khi họ thu đồ quay về New Jersey, Cavalcante ghé qua phòng nghiên cứu và thả một quả bom.
“Các anh biết là tôi có tìm hiểu đôi chút về U-851, là con tàu của bạn ông Merten” Cavalcante nói. “Trong cuộc chiến, mạng lưới gián điệp của chúng ta ở Đức cung cấp một số thông tin tình báo khá cụ thể về kiểu hàng mà chiếc U-boat đó chở.”
Hai thợ lặn nín thở. Chỉ mấy ngày trước họ đã phỏng đoán về vàng giấu trên U-boat.
“Hóa ra U-851 được chất hàng tấn thủy ngân để đưa tới Nhật Bản” Cavalcante nói. “Hồi đó, họ có làm phân tích chi phí. Với thời giá năm 1945, ngần ấy thủy ngân có giá trị đến vài triệu đô la.”
Chatterton và Yurga suýt ngất. Cả hai đều là thợ lặn chuyên nghiệp. Họ bắt đầu vẽ ra kế hoạch bơm thủy ngân từ xác tàu. Họ cảm ơn Cavalcante và gần như lao ra xe. Trước khi Chatterton kịp tra chìa khóa vào ổ thì cả hai đã thốt lên “Mình giàu rồi!” Trên đường về, họ lên một kế hoạch. Yurga sẽ tìm hiểu giá hiện tại của thủy ngân. Chatterton sẽ liên hệ với luật sư để xem xét tính pháp lý của việc khai thác. Họ nói về những thách thức mà các triệu phú mới nổi phải đối mặt. Vài giờ sau, họ ngẩng lên và thấy biển chào mừng tới bang Pennsylvania. Việc sắp biến thành ông trùm khiến họ bỏ lỡ lối rẽ vào bang New Jersey.
Sáng hôm sau, Yurga gọi điện cho cha mình là một thương lái sắt vụn và nhờ ông tìm hiểu giá hiện tại của thủy ngân. Một giờ sau, cha anh gọi lại. Thủy ngân hiện được coi là rác thải độc hại. Bạn phải trả tiền cho người ta để mang nó đi. Chatterton và Yurga được làm triệu phú trong đúng 12 giờ.
Mang theo báo cáo tấn công về việc đánh chìm U-158, Kohler khởi hành tới Washington để tự nghiên cứu. Thay vì lặp lại công việc của Chatterton ở NHC, Kohler tới Cục quản lý lưu trữ và ký lục quốc gia Hoa Kỳ (NARA), nơi lưu giữ Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp và phần lớn những văn thư quan trọng nhất của Hoa Kỳ, trong đó có rất nhiều tài liệu hải quân. Anh đã biết rằng nhiều văn bản Đức bị thu giữ nằm ở NARA và nóng lòng muốn tra cứu những thông tin còn tồn tại về chiếc U-boat này cùng chỉ huy của nó.
Ở bàn đăng ký, trong nhiều phòng nghiên cứu khác nhau, Kohler nhận ra tên của một số tác giả và sử gia có tác phẩm mà anh ngưỡng mộ từ thuở bé – điều thật khó tin đối với một cậu bé đến từ Brooklyn chưa từng học đại học. Anh yêu cầu thông tin về U-158. Nhân viên mang lại hàng chồng hồ sơ và hộp vi phim, yêu cầu Kohler đeo găng trắng khi xem ảnh. Phần lớn thông tin bằng tiếng Đức, khiến Kohler phải vỗ vai những nghiên cứu viên khác để hỏi “Từ này có nghĩa là ‘súng máy’ phải không?” và họ sẽ đáp rằng “Không, từ đó là ‘vẹt đuôi dài’ cơ.” Anh tiếp tục nghiên cứu. Anh chép nhật trình tái dựng về chuyến đi thảm họa của U-158 và nhật ký các chuyến tuần tiễu trước đó của nó với hy vọng thâm nhập được vào tâm trí Erwin Rostin – viên chỉ huy tàu. Trên đường ra, anh phải chờ cho cán bộ dập dấu GIẢI MẬT vào tài liệu của anh – chút ý vị thần bí khiến Kohler nghĩ “Ta đã quay lại cuộc chơi.”
Vài đêm sau, Kohler triệu tập cuộc họp ở nhà Chatterton. Khi Chatterton và Yurga yên vị trên sôfa, anh bắt đầu kể một câu chuyện độc đáo từ nghiên cứu của mình. Vào ngày 30 tháng sáu năm 1942, như tất cả đã biết, một thủy phi cơ Mỹ bay tuần ngoài khơi Bermuda đã thả bom chống ngầm trúng tháp chỉ huy của U-158. Theo lời người phi công, khi U-boat lặn xuống để trốn, quả bom phát nổ và đánh đắm nó, giết chết tất cả người trên tàu.
“Nhưng nếu…” Kohler hỏi, xoay người lại, “U-158 chỉ bị thương? Hoặc hoàn toàn tránh được hư hại? Giả như tháp chỉ huy bị hư nhưng tàu vẫn di chuyển được. Thì nó sẽ làm gì?”
“Nó sẽ tìm cách về Đức” Yurga nói.
“Chính xác” Kohler đồng ý. “Đặc biệt vì nó đi tuần gần xong và đã hết ngư lôi. Nhưng trong trường hợp đó, nó có một lựa chọn còn tốt hơn. Nghiên cứu của tôi cho thấy nó có lịch gặp ‘bò sữa’ tức là một trong số U-boat làm nhiệm vụ tiếp tế, ở ngoài khơi Đại Tây Dương. Như vậy, U-158 chắc sẽ hướng về phía đông bắc gặp bò sữa để được tiếp nhiên liệu và quân nhu, đúng chưa?”
“Đúng” Chatterton nói.
“Các anh sẵn sàng chưa?” Chatterton hỏi. “Tôi cho là tàu không hề đi về Đức hay gặp bò sữa. Tôi cho là chỉ huy Rostin nghĩ: ‘Mình đang ở cự ly đột kích thành phố New York. Mình sẽ tới New York để đánh chìm tàu Mỹ bằng pháo boong.’ Thế là ông ta lái U-boat theo hướng bắc về phía New York. Đến được New Jersey thì bị Tuần không dân sự phát hiện và cho ăn đòn. Lúc đấy thì U-158 thực sự bị hư hại. Nó sẽ lê thêm vài chục km trước khi tháp chỉ huy cuối cùng cũng long ra và nó đắm, ngay ở khu vực xác tàu của chúng ta. Tuần không dân sự không được ghi công vì công được ghi cho chiếc thủy phi cơ.”
“Gượm đã” Chatterton nói. “Chỉ huy nào lại nghĩ chuyện đem tàu U-boat bị thương không có ngư lôi lên phía bắc đến New York khi có cơ hội sửa chữa tàu hoặc thoát về hướng đông?”
“Tôi sẽ kể cho các anh về người chỉ huy đó” Kohler nói. “Tôi đã tìm hiểu rất nhiều về ông ta. Tên ông ta là Erwin Rostin. Mấy tháng trước đó, trên chuyến tuần đầu tiên, ông ta đã bắn chìm bốn tàu. Chuyến tuần này, ông ta bắn chìm 13 tàu. Không chỉ huy U-boat nào trong lịch sử có thành tích tổng cộng hai chuyến tuần cao như thế. Tay Rostin này là thợ săn tiền thưởng có số có má. Ông ta hạ tàu Đồng Minh cứ như bắn tập. Ông ta lia súng máy vào một tàu Tây Ban Nha và bắt giữ thuyền trưởng! Tôi đã đọc về các chỉ huy U-boat vĩ đại, chuyện họ không bao giờ đầu hàng, chuyện thế hệ đó nhiệt huyết không ai bằng. Rostin quyết liệt đến nỗi họ trao cho ông ta huân chương Hiệp sĩ qua điện đài khi U-boat vẫn đang ngoài biển! Không có chuyện Rostin lết về nhà, không đời nào! Ông ta chỉ cách New York có 1.500 km thôi. Ông ta vẫn còn địch để giết!”
Chatterton và Yurga không đồng tình với kịch bản của Kohler. Họ quả quyết một chỉ huy còn ít nhiên liệu đến thế sẽ không bao giờ đặt tàu và thủy thủ của mình vào vòng nguy hiểm để bắn tàu địch bằng pháo boong. Họ gọi anh là Tom Clancy24* vì cho rằng chiếc U-boat đã bị thương hai lần rồi mới chết ở địa điểm xác tàu bí ẩn. Kohler không hề nao núng. Anh yêu cầu họ tưởng tượng về thời đại mà U-boat được cả thế giới coi là bất khả chiến bại. Anh yêu cầu họ hình dung về cái thời mà chỉ huy U-boat đi vào huyền thoại trong sách truyện, chương trình truyền thanh, hồi ký, bản tin và các cuộc diễu binh. Tuy không nhất trí với kịch bản mà Kohler vẽ ra, Chatterton bị cuốn theo sự nồng nhiệt của Kohler. Khi nhìn Kohler vung vẩy tay và giơ nắm đấm, anh nhận ra cảm tính đại thể của Kohler là hoàn toàn chính xác: nếu chúng ta không coi sử liệu là kinh thánh thì vô vàn cánh cửa mới sẽ mở ra.
Đến lượt Chatterton phát biểu. Anh thừa nhận rằng Kohler đã đưa ra một tình huống thú vị về việc con tàu bí ẩn chính là U-158, do Tuần không dân sự kết liễu. Giờ là lúc anh lý luận rằng con tàu bí ẩn là U-851 do đồng đội của Merten là Weingärtner chỉ huy.
“Merten hiểu bạn mình” Chatterton nói. “Ông ấy biết bạn mình trong thâm tâm vẫn là một thợ săn. Richie này, anh nói rằng hiểu được tính người là cực kỳ quan trọng. Vậy thì chúng ta đã nghe từ chính miệng một trong các chỉ huy U-boat cự phách rằng ông ấy hiểu bạn mình và tin rằng tay này đã tới New York. Đó là lý do vì sao không có ghi chú nào về U-851 ở khu xác tàu: con tàu đã được lệnh đến Ấn Độ Dương, Weingärtner bất tuân lệnh. Khi ông ta biến mất, Đức cho rằng tàu của ông ta chìm ở nơi nó đã được cử đến.”
“Tôi không tin là thế” Kohler phản pháo. “Không chỉ huy nào bất tuân thượng lệnh như vậy. Họ sẽ bị xử bắn. Lái U-boat tới New York khi đã nhận lệnh tới Ấn Độ Dương sao? Quá lố. Tôi đã đọc nhiều về chỉ huy U-boat. Chưa từng nghe thấy người nào bất tuân như thế.”
Đến lượt Yurga. Nghiên cứu của anh đi sâu vào khía cạnh kỹ thuật và anh cũng phát biểu từ mặt này.
“Chúng ta có hai phương án ưu tiên” Yurga nói. “Richie thiên về U-158. John thiên về U-851. Nhiều khả năng một trong hai là đúng. Tôi biết cách phân xử. Theo nghiên cứu của tôi, U-158 được trang bị pháo boong. Nhưng một số tàu kiểu IX thì không. Lần xuống nước tiếp theo, chúng ta sẽ tìm dấu hiệu của pháo boong. Nếu U-boat của chúng ta không có thì nó không thể là U-158. Thế thôi.”
“Tiếp đến là U-851. Nó là kiểu IXD − một mẫu đặc biệt gọi là tàu ngầm tuần dương. Tàu ngầm tuần dương dài hơn kiểu IX thông thường khoảng mười mét. Chúng ta chỉ cần kéo thước dây từ đầu này đến đầu kia xác tàu. Nếu chiều dài là 87 mét, nó là tàu ngầm tuần dương. Nếu ngắn hơn, nó không phải là U-851. Lần lặn tới, chúng ta sẽ quan sát một chút, đo đạc một chút và thế là đánh giá được hai giả thuyết trên.”
Các thợ lặn bắt tay nhau và kết thúc cuộc họp. Gần nửa đêm hôm đó, Kohler rón rén ra khỏi giường vào bếp. Anh thấy số điện thoại của Chatterton dán trên cửa tủ lạnh. Gọi bây giờ là quá muộn. Nhưng anh vẫn quay số.
“John à, Richie đây. Nghe này ông anh, tôi xin lỗi vì gọi muộn… Khi ở Cục lưu trữ quốc gia, tôi tình cờ thấy một số ảnh chụp.”
Kohler tả lại những bức ảnh anh đã thấy: cánh tay một thủy thủ U-boat nằm trên boong một tàu Mỹ, chỉ cánh tay mà thôi, với hình xăm trên bắp tay rõ như ban ngày, một thủy thủ Anh đang mỉm cười, xách một xô đựng ruột với chú thích đại khái “Ba mét ruột người, một phổi người tìm thấy từ mảnh vỡ U-boat đắm” lá gan người nằm cạnh một hộp thiếc đựng sôcôla thuộc bộ cà mèn của Đức. Anh kể với Chatterton rằng đã đọc về U-boat từ lâu và không hiểu sao cứ tưởng tượng ra cảnh U-boat đắm: tàu sẽ nứt, chìm dần, thủy thủ cào cấu này nọ một chút, sau đó tất cả lặng lẽ chìm. Giờ thì anh đã hiểu hơn. Những tấm ảnh đó khiến anh phải suy nghĩ về con người trên U-boat, anh nói và rồi hỏi Chatterton rằng các thủy thủ đã nghĩ gì trong 30 giây trước khi trời sập đó.
Chatterton nói với Kohler rằng anh cũng đã xem những tấm ảnh tương tự. Anh tả về một tấm có 30 thủy thủ U-boat trên một chiếc xuồng cứu hộ, đang với tay tới con tàu địch vừa húc vào họ. Anh nói về những tấm ảnh thể hiện hư hại kinh hoàng mà bom chống ngầm gây ra cho U-boat. Điều kinh khủng nhất, anh bảo Kohler, là nhiều ảnh trong số này được chụp vào giai đoạn sau của Thế Chiến, khi những thủy thủ tàu ngầm lên đường mà biết rằng mình gần như không có cơ hội trở về. Anh nói với Kohler rằng không tưởng tượng nổi họ lúc ấy nghĩ gì.
Cả hai đầu dây đều thoáng im lặng. Sau đó, Kohler xin lỗi đã gọi muộn, còn Chatterton nói rằng không sao.
23* Liên minh các tiểu bang miền Nam trong nội chiến Hoa Kỳ (ND).
24* Nhà văn Mỹ nổi tiếng với các tiểu thuyết về tình báo và quân sự (ND).