← Quay lại trang sách

Chương 9 Thương vong lớn

CHUYẾN ĐẦU TIÊN tới U-boat trong mùa lặn mới được xếp vào ngày 24 tháng năm năm 1992. Đến lúc này, các thợ lặn đã quen gọi con tàu là U-Gì, nhưng không ai nghĩ bí ẩn sẽ còn là bí ẩn lâu nữa. Đặc biệt là Chatterton. Thời gian nghỉ lặn, giữa các chuyến nghiên cứu ở Washington, anh còn mày mò với ma thuật.

Trong nhiều thập kỷ, thợ lặn scuba vẫn thở không khí bình thường. Tuy nhiên những tháng gần đây, một nhóm thợ lặn nước ấm tiên phong đã thay không khí thường bằng hỗn hợp ôxy, heli và nitơ, còn gọi là “trimix”. Các thợ lặn này thực ra không phát minh ra trimix mà chỉ tùy biến công nghệ lặn quân sự và thương mại có sẵn cho mục đích của mình. Theo như Chatterton nghe được, trimix vuợt trội không khí thông thường ở vô số điểm khi lặn sâu:

− Tầm nhìn ngoại vi rộng hơn;

− Năng lực chuyển động và phối hợp tốt hơn;

− Thời gian dưới đáy dài hơn;

− Thời gian giảm áp ngắn hơn;

− Giảm rủi ro ngộ độc ôxy và bất tỉnh nước sâu;

− Loại trừ sự say nitơ.

Chatterton tin rằng chỉ một trong số các ưu điểm trên cũng đủ tạo ra một cuộc cách mạng trong môn lặn thám hiểm vùng đông bắc. Hợp vào nhau thì chúng sẽ biến thợ lặn thám hiểm thành siêu anh hùng. Cứ nghĩ cảnh làm việc trên U-boat mà không bị ám ảnh bởi nỗi lo say nitơ khiến tim đập thình thịch, mà còn làm việc được lâu hơn, hiệu quả hơn, an toàn hơn bao giờ hết. Khi một thợ lặn Florida mở hội thảo về trimix ở New Jersey, Chatterton và Yurga vội vã đăng ký.

Kohler thì không tham gia. Anh cũng đã nghe về trimix. Anh cho rằng nếu thứ nào tốt đến khó tin thứ đó đúng là không đáng tin. “Rõ là tà thuật” anh nói với Chatterton. “Anh định ‘thí nghiệm’ ở độ sâu 70 mét sao? Trong một U-boat? Không ai hiểu tác dụng của khí đó lên não và cơ thể. Anh sẽ bị sốc giảm áp. Hoặc liệt. Hoặc ngỏm.”

Chatterton và Yurga vẫn tham dự hội thảo. Người hướng dẫn là Billy Deans − một chủ tiệm lặn ở bang Florida. Đóng phí 100 đô la, học viên được nhận một tập hồ sơ gồm các bài viết và bảng biểu photocopy. Chatterton thấy nguyên tắc đằng sau việc sử dụng trimix, còn gọi là lặn kỹ thuật, có vẻ khá hợp lý. Bằng cách thay nitơ bằng heli, thợ lặn sẽ tránh được rủi ro tích lũy nitơ trong cơ thể − thủ phạm của phần lớn tai nạn trong việc lặn với không khí thông thường. Các lợi ích của trimix được cho là bước nhảy vọt trong hiệu suất và an toàn lặn.

Nhưng cũng có một số bất lợi tiềm tàng. Thứ nhất, không tồn tại lớp dạy lặn kỹ thuật cũng như các đơn vị cấp chứng nhận. Thợ lặn sẽ phải tự thử nghiệm. Thứ hai, thợ lặn chỉ có thể lặn một lần một ngày thay vì hai như thường lệ, vì người ta vẫn chưa hiểu rõ nhiều chi tiết trong quá trình xả khí heli khi trên mặt nước. Thứ ba, vì thợ lặn thở một khí riêng, gọi là “nitrox” trong quá trình giảm áp, họ sẽ phải bổ sung bình nitrox vào bộ đồ, tức là thiết bị sẽ cồng kềnh hơn. Thứ tư, các tiệm lặn vùng đông bắc không bán trimix, ai muốn dùng thì phải tự điều chế. Cuối cùng, hầu như không có các bảng biểu hướng dẫn cho thợ lặn kỹ thuật thời gian cần thiết để giảm áp. Đây cũng là mảng mà thợ lặn phải tự thí nghiệm và ứng biến.

Khi hội thảo kết thúc, Deans nói với Chatterton và Yurga: “Nếu các anh quyết định thử thì các anh sẽ là những người duy nhất ở đầu này đất nước làm thế. Chúng tôi không biết rõ thứ này hoạt động ra sao trong nước lạnh. Các anh sẽ phải đi tiên phong.”

Đến giờ này thì Chatterton sẵn sàng đi tiên phong. Anh tin anh chỉ cần một, hai cuộc lặn nữa là lấy được bằng chứng định danh U-Gì từ xác tàu. Anh tin mình có trách nhiệm đối với gia đình các thủy thủ hy sinh và với lịch sử. Anh tin vào sự tiến bộ và lặn kỹ thuật có vẻ như là tiến bộ thực sự đầu tiên kể từ thời Cousteau.

Kohler lo cho tính mạng các bạn. Anh xin họ nghĩ lại: họ đã gặt hái được bao nhiêu là thành quả từ những chuyến lặn trên xác tàu, sao phải mạo hiểm? Anh cảnh báo Chatterton rằng sử dụng ôxy nguyên chất dưới áp suất cao như vậy có thể dẫn tới thảm họa: chỉ một tia lửa điện cũng có thể gây cháy nổ. Chatterton chỉ có thể nói: “Đối với U-boat thì, Richie ạ, tương lai thuộc về trimix.”

Vào tháng hai, khi các thợ lặn chuẩn bị tinh thần tự điều chế trimix thì có tin từ Tuần duyên: một thuyền cá cách thành phố Atlantic khoảng 150 km đã kéo lên một thi thể mặc bộ đồ lặn khô và bình khí. Mặt của xác chết đã bị động vật rỉa hết, chỉ còn lại một chất như sáp nâu phủ trên sọ. Năm cái răng vẫn còn gắn vào hàm dưới bị trật khớp. Tuần duyên xác định đó là Steve Feldman. Thi thể anh được tìm thấy cách chiếc U-boat khoảng 8 km. Anh đã mất tích từ tháng chín.

Tháng một năm 1992, Chatterton và Yurga khởi động việc điều chế khí. Họ thuê các bình cao 1,5 mét đựng heli và ôxy từ nhà cung cấp ga công nghiệp trong vùng và mua vòi cao áp, đầu nối tinh tế và các đồng hồ áp suất phức tạp. Họ sẽ trộn khí trong gara nhà Chatterton. Để giữ mạng sống nếu có nổ, Chatterton sẽ đứng ngoài gara và thò tay trái qua cửa sổ để vặn van. “Tôi thuận tay phải” anh giải thích với Yurga. “Nếu cái này nổ thì thà tôi mất tay trái.”

Chatterton trộn khí trong gara hàng tuần liền, thò tay qua cửa sổ, nín thở chờ đợi một cú nổ. Không lâu sau thì anh và Yurga đã là chuyên gia trong việc điều chế hỗn hợp gồm 17% ôxy, 30% heli và 53% nitơ mà họ hy vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng trong hoạt động lặn. Họ mua bảng biểu lặn từ một tác giả nghiệp dư đồng thời là kỹ sư. Anh ta có lẽ là một trong ba người trên cả nước từng thử nghiệm việc này. Rồi bằng trí tưởng tượng và sự liều lĩnh, họ ngoại suy từ các bảng biểu đó sao cho lặn được hai cuộc một ngày. Họ mua các bình scuba mới hơn, to hơn. Khi thời tiết ấm lên, họ mang đồ nghề mới cùng hỗn hợp khí mới chế và vỡ nước ở một mỏ đá ở bang Pennsylvania. Họ điều chỉnh lực nổi, sắp xếp lại thiết bị và học cách thở thứ khí ma thuật đó. Khi lặn dưới làn nước nông trong mỏ đá, tâm trí họ hết sức minh mẫn và phối hợp cơ thể vẫn chính xác. Song đáy Đại Tây Dương lại là chuyện khác. Và bên trong một U-boat đắm lại là chuyện khác nữa.

Tối 23 tháng năm năm 1992, các thợ lặn tập hợp ở Seeker để bắt đầu chuyến lặn đầu tiên của mùa mới tới U-Gì. Họ vỗ lưng, kiểm tra thiết bị, trao đổi tin tức. Ai cũng hỏi Chatterton và Yurga về trimix. Hai người luôn trả lời cùng một cách: “Đúng, tôi tin chúng tôi sẽ sống sót.” Kohler là một trong những người có mặt cuối cùng. Đứng kế bên đồ nghề mới của Chatterton, Kohler trông như mới ăn trộm đồ nghề từ trường quay năm 1958 của chuỗi chương trình truyền hình Sea Hunt. Trên lưng anh là miếng vá đầu lâu xương chéo của băng Atlantic Wreck pers.

“Anh là khủng long chưa tuyệt chủng hả Kohler!” Chatterton hét từ thuyền.

“Chắc thế” Kohler phản pháo, mắt nhìn bình khí mới của Chatterton, “nhưng kẻ bị tuyệt chủng sẽ không phải là tôi.”

Vài phút sau, Nagle xuất hiện. Ít người gặp thuyền trưởng của Seeker từ khi mùa lặn trước kết thúc, khi anh thề sẽ cai rượu và luyện tập để có thể lặn trở lại. Các thợ lặn mất một lúc để tiêu hóa được cảnh họ thấy. Da của Nagle lốm đốm vàng vọt, tóc anh nhờn bết, cơ thể như bộ đồ nhàu nhĩ treo trên mắc. Anh bốc mùi. Anh không mang theo đồ lặn. Mọi người hối hả di chuyển để tránh nhìn chằm chằm vào anh.

Tiếng rền của động cơ Seeker là nguồn an ủi đối với các thợ lặn. Họ chưa bao giờ được ngon giấc ở nhà mình như khi ngủ trên các tấm nệm xanh mỏng manh ố bẩn đang đưa họ tới nơi họ vốn thuộc về. Trong buồng lái, Nagle và Chatterton thay nhau cầm bánh lái. Chatterton cập nhật cho Nagle về hai cửa cược U-158 và U-851, cũng như việc Crowell và Yurga sẽ đo chiều dài con tàu và tìm dấu hiệu của pháo boong − hai phép thử đơn giản để kiểm chứng các giả thuyết ấy. Nagle nhìn thẳng về phía trước, những đốm rượu trên mặt anh đỏ lên dưới ánh sáng từ thiết bị. Anh không nói gì suốt mấy phút.

“Chiếc Seeker quan trọng hơn tôi” Nagle cuối cùng cũng mở lời. “Lặn quan trọng hơn tôi. Seeker sẽ tiếp tục chạy rất lâu sau khi tôi không còn nữa.”

Chatterton không nói gì. Mù biển lốm đốm trên kính chắn gió. Nagle tiếp tục lái tàu tới U-Gì − xác tàu vĩ đại nhất một thợ lặn có thể khám phá.

Chào đón các thợ lặn khi tỉnh dậy là một ngày huy hoàng. Mặt trời tỏa nắng và biển trong như thủy tinh. Tầm nhìn đáy, họ đoán, ít nhất phải được 30 mét. Chatterton và Kohler bắt đầu lên đồ. Từ nhiều tuần trước họ đã quyết định lặn cùng nhau và giờ đang ôn lại kế hoạch. Theo nghiên cứu của Chatterton, trên mặt cửa ống phóng lôi, tức các cửa tròn được đóng sập lại sau khi ngư lôi được đưa vào buồng đốt, là nhãn mang số hiệu U-boat. Trong lần lặn đầu tiên, Chatterton sẽ trườn qua con tàu vào khoang ngư lôi mũi tàu, quay video quãng đường để nghiên cứu lại trên thuyền. Lần hai, anh sẽ quay lại, đi đến cuối khoang ngư lôi và tháo nhãn khỏi cửa sập. Nếu may mắn thì cái nhãn sẽ tiết lộ danh tính con tàu. Một kế hoạch đậm chất Chatterton: quay băng, nghiên cứu rồi trở lại. Về phần mình, Kohler định thăm dò đuôi tàu, tìm trong khoang ngư lôi đuôi tàu nhãn trên cửa sập và các hiện vật hữu ích khác. Đo chiều dài tàu sẽ là trách nhiệm của Danny Crowell. Yurga sẽ tìm bằng chứng về sự tồn tại của pháo boong. Đến cuối ngày, bí ẩn sẽ được giải đáp.

Chatterton và Kohler vỡ nước sau khi Mặt trời mọc. Cả hai đều chưa từng thấy Đại Tây Dương lặng và trong như thế, cứ như chính biển cả cũng chuẩn bị cho dịp trọng đại này. Trimix của Chatterton chảy vào phổi và óc anh đúng như lý thuyết, giữ cho tư duy anh minh mẫn và kìm hãm cơn say nitơ. Ở độ sâu 30 mét, với tầm nhìn tuyệt diệu, họ thấy được toàn bộ con tàu. Trừ vết tử thương ở mạn tàu, trông nó vẫn sẵn sàng giao chiến − một con lươn thép với ngư lôi và súng, vẫn kín đáo và hiểm hóc. Trước đó, Chatterton và Kohler mới chỉ nhìn thấy từng đoạn năm-sáu mét của con tàu trong làn nước cuộn xoáy. Lúc này, trước mắt họ hiện lên một cỗ máy chiến tranh. Hai người lặn xuống sâu hơn. Ở độ sâu 45 mét, những giây phút bi thảm cuối cùng của U-boat hiện lên từ cái lỗ thông thống ở phòng điều khiển. Chỉ hiện tại, với tầm nhìn nguyên vẹn, người ta mới có thể cảm nhận hết sự tàn bạo mà chiếc U-boat phải gánh chịu. Chatterton và Kohler nhìn nhau. Miệng cả hai đều mấp máy hai từ “Chúa ơi.”

Hai thợ lặn tiếp tục xuống tàu và buộc móc. Chatterton kinh ngạc với sự sáng rõ của mắt và sự khéo léo của tay mình. Anh không cảm thấy bị say chút nào. Kohler nhìn anh tìm dấu hiệu mụ mị và các triệu chứng khác có thể xảy ra khi con người trêu đùa với tà thuật. Chatterton cười và ra dấu OK. Hai người rẽ hai hướng.

Chatterton đi vào phòng điều khiển, qua khu chỉ huy vào khu hạ sĩ quan. Một lần nữa anh thấy chồng thi thể: sọ, xương đùi, xương sườn, xương chày. Lần này, sau khi nghiên cứu cả mùa đông, anh cảm nhận một mối liên kết với những hài cốt này, như thể anh đang về nhà với những người thân. Anh đã đọc những lá thư của thủy thủ, đã nhìn thấy gương mặt họ trong những tấm ảnh khi họ chết đuối trên chiếc xuồng cứu hộ đang chìm. Và Chatterton cảm thấy các thủy thủ sẽ không cảm phiền với những nỗ lực tìm tên tuổi của họ.

Chatterton vặn mình qua các chướng ngại, tránh dây dợ và kim loại nhô ra cho đến khi anh vào được khoang ngư lôi mũi tàu. Hít thở trimix, anh cảm thấy bất khả chiến bại và muốn đi thẳng tới lấy những cái nhãn định danh anh tin là đính trên ống phóng lôi. Nhưng anh bám sát kế hoạch và quay video cảnh bên trong khoang, biết rằng camera sẽ ghi lại những cạm bẫy đáng để nghiên cứu trên thuyền. Quay được vài phút, anh quay người rời khỏi tàu và ngoi lên mặt nước.

Ở đuôi tàu, Kohler làm việc ở khoang ngư lôi đuôi tàu và bắt đầu tìm hiện vật. Cũng như lần trước, anh nhìn thấy một khúc xương đùi, rồi một cái sọ và một số xương khác. Năm ngoái, số hài cốt này làm Kohler lạnh sống lưng. Năm nay, sau khi đã đắm mình trong cuộc sống của những người thủy thủ U-boat, khoang tàu dường như có mạch đập. Khi Kohler nhìn vào hài cốt, anh có thể hình dung ra những tấm ga giường carô mà các thủy thủ nằm và dường như nghe tiếng họ nghêu ngao hát.

Kohler dành 20 phút tìm manh mối nhưng không thấy gì. Trên Seeker, anh và Chatterton so bài. Cả hai đều ở dưới nước khoảng 90 phút. Tuy nhiên, trimix cho phép Chatterton ở trên xác tàu 30 phút trong khi Kohler chỉ ở được 20 phút trước khi phải giảm áp.

“Cứ như lặn biển Caribe, Richie ạ” Chatterton nói. “Đầu óc sáng rõ. Vận động chính xác. Không hề say luôn.”

“Tôi vẫn trung thành với những thứ đã giúp tôi từ xưa, xin cảm ơn” Kohler đáp.

Lúc này thì Crowell đang chuẩn bị vỡ nước và đo chiều dài tàu, còn Yurga đã lên đồ, sẵn sàng tìm bằng chứng về pháo boong. Yurga đi kèm một khách hàng của tiệm lặn nơi anh làm việc: Lew Kohl, bác sĩ cấp cứu, tính tình thân thiện. Kohl cũng trang bị trimix.

“Cậu chắc về tay kia chứ?” Chatterton thì thầm với Yurga.

“Năm nay, anh ấy dùng trimix trong vài chuyến lặn ở vùng nước nông hơn. Anh ấy bảo đã sẵn sàng. Với lại có tôi lặn cùng” Yurga đáp.

Kohl chỉnh mặt nạ, cắn bộ điều áp và đi ngang ra mép tàu. Chatterton và Kohler không tin vào mắt mình khi chứng kiến điều xảy ra tiếp theo. Thay vì bập bềnh trên mặt nước như phần lớn thợ lặn sau cú vỡ nước, Kohl lao thẳng xuống đáy như mỏ neo. Thợ lặn trên thuyền hiểu ngay chuyện gì xảy ra: Kohl đã không chỉnh lực nổi phù hợp cho thiết bị trimix mới. Anh ta biến thành thứ mà thợ lặn gọi là “nỏ đất”.

Nỏ đất là thứ đáng sợ. Khi thợ lặn lao nhanh xuống nước, áp suất nước tăng chóng mặt sẽ ép bộ đồ lặn thành lớp da thứ hai. Tăng áp đột ngột khiến bộ điều áp mất kiểm soát, xoang và mạch máu vỡ bung, màng nhĩ bục, gây nôn mửa và chóng mặt. Đó là trước khi họ kịp chạm đáy.

“Khỉ thật, tay này xong đời rồi” Kohler nói. “Lew Kohl ngỏm rồi.” Nhưng Chatterton thấy Kohl đã đáp xuống đáy và vẫn thở: anh nhìn thấy bong bóng. Tâm trí Chatterton giảm tốc xuống 16 vòng/phút − tốc độ của lính cứu thương ở Việt Nam trong tình huống khẩn cấp.

“Nhìn vào bong bóng khí của anh ấy kìa. Anh ấy đang lang thang tìm xác tàu, có nghĩa là anh ấy còn sống” Chatterton nói. “Yurga, tôi sẽ cho anh dây. Dò theo bong bóng và mang anh ấy lên.”

“John, việc này quá nguy hiểm” Yurga nói. “Đây là lần đầu tiên tôi lặn với trimix và…”

“Tôi ở trên này sẽ giữ đường dây tôi cho anh mọi lúc. Richie và tôi không thể xuống nước bây giờ. Anh phải xuống đó, lần theo bong bóng và mang anh ấy lên.”

Yurga vỡ nước. Khi anh đang lần xuống theo dấu bong bóng của Kohl thì Kohl đã tháo được đai tạ. Với lực nổi dương, anh bắt đầu lên. Ở độ sâu 45 mét thì anh cạn khí: không có gì đi vào từ bộ điều áp. Lúc đó, anh không quan tâm tới quy chuẩn lặn nữa. Kohl quyết định bắn thẳng về phía có nắng. Vài giây sau anh nổi lên mặt nước.

“Giờ thì tay này chẳng khác nào tên lửa Polaris!” Kohler hét. “Nếu sống sót thì cũng sẽ sốc giảm áp cho mà xem.”

Kohl bắt đầu vùng vẫy trên mặt nước. Nhưng anh không nôn mửa hay run rẩy, bằng chứng cho Chatterton thấy Kohl chưa sốc giảm áp nghiêm trọng.

“Anh ấy mới chỉ ở dưới nước tầm mười phút” Chatterton hét. “Vẫn còn cơ hội.”

Kohl không bơi được. Tom Packer và Steve Gatto lao xuống biển, kéo Kohl lên thang và đặt anh ta trên bàn thay đồ. “Đưa tôi ống nghe và hộp cấp cứu” Chatterton ra lệnh. Kohler xẻ bộ đồ lặn khô của Kohl ra. Chatterton kiểm tra các dấu hiệu sinh tồn, ghi lại thông tin lặn và thông tin y tế khác mà bác sĩ sẽ cần biết. Trong khi ghi chú, anh hỏi bằng giọng đều đều: “Lew, anh có bị đau không? Lew, anh nghe tôi nói gì không?”

Kohl không thể đáp. Chatterton bảo Nagle gọi trực thăng cứu hộ của Tuần duyên. Anh tọng mấy viên aspirin vào họng Kohl, bắt anh ta uống thật nhiều nước để giảm thể tích khí trong máu và cho đeo mặt nạ ôxy. Anh dùng ống nghe để tìm tiếng òng ọc − dấu hiệu tắc mạch. Một phút sau, Kohl bắt đầu hồi tỉnh, cứ như anh được tái sinh trong phòng thí nghiệm của một nhà khoa học điên.

“Lew này, chúng tôi đang gọi trực thăng cho anh” Chatterton nói. “Ồ, không, đừng làm thế” Kohl đáp. “Tôi ổn. Tôi đang hồi phục.

Tôi còn không có triệu chứng…”

“Lúc này thì anh ổn” Chatterton nói. “Nhưng chúng ta đang cầm cự với aspirin và ôxy. Anh sẽ bị sốc giảm áp. Anh không thể không gặp vấn đề sau cú vừa nãy. Chúng tôi sẽ đưa anh vào viện.”

Chatterton rọi đèn pin vào mắt Kohl.

“Tôi không thấy dấu hiệu tổn thương thần kinh” Chatterton nói. “Nhưng anh sẽ bị sốc giảm áp. Chỉ là sớm hay muộn thôi.”

Các thợ lặn khác tiếp tục động viên Kohl và tiếp ôxy với nước cho anh. Kohl tỏ ra khỏe khoắn hơn sau từng phút. Một lát sau, Nagle thò đầu khỏi buồng lái và báo một trực thăng tuần duyên đang trên đường đến.

“Ôi trời, thành thật xin lỗi các anh” Kohl nói. “Cứ tính hết vào tôi. Tôi sẽ trả chi phí chuyến đi cho tất cả mọi người.”

Chatterton mỉm cười và để một thợ lặn khác ở lại với Kohl. Anh đi ra đuôi Seeker để giúp Yurga lên thuyền. Cách đuôi thuyền khoảng 60 mét, Yurga vẫy tay với Chatterton. Chatterton sắp giơ tay vẫy lại thì đông cứng. Rình rập sau lưng Yurga là một con quái vật dài năm mét.

“Cá mập!” Chatterton gào. “Yurga! Đằng sau! Cá mập!”

Yurga quay ngoắt ra đúng lúc con cá mập lặn xuống.

“Hả?” Yurga hét. “Tôi chẳng thấy gì cả!”

Con cá mập lại nổi lên, tiền lại gần Yurga.

“Cá mập! Đằng sau anh!” Chatterton hét.

Một lần nữa, Yurga quay lại. Một lần nữa, con cá lặn xuống.

“Đừng có đùa nữa!” Yurga hét. “Nghiêm túc đi nào!”

Giờ thì dù cá mập đang tiến đến, Chatterton vẫn không nhịn được cười.

“Bơi đi Charlie, bơi đi!” Anh hét lên câu trích trong phim Hàm cá mập.

Yurga bơi. Con cá mập bám theo. Yurga bơi hết tốc lực. Con cá mập cuối cùng cũng quay đi và biển mất.

Nagle cắt dây neo để đi về phía trực thăng tuần duyên. Kohl tiếp tục phục hồi. Trực thăng đưa anh đi. Anh sẽ bị đau khớp do sốc giảm áp nhưng sẽ hồi phục hoàn toàn. Khả năng cao là anh sống sót nhờ thời gian ở dưới đáy ngắn; nếu ở lâu hơn và bắn thẳng lên mặt nước mà không giảm áp, cuộc phiêu lưu làm nỏ đất hẳn sẽ kết liễu anh. Tuy nhiên, các thợ lặn đã mất một ngày hoàn hảo nhất mà họ từng có. Crowell chưa có cơ hội đo chiều dài tàu. Yurga chưa kiểm tra pháo boong. Và Chatterton chưa đi vào khoang ngư lôi để lấy nhãn. Song bây giờ mới là đầu mùa. Đó là cái hay của lặn. Miễn là bạn còn sống thì luôn có chuyến tiếp theo.

Nagle xếp chuyến tiếp theo đến U-Gì vào ngày 9 tháng sáu năm 1992. Bác sĩ Kohl đã được nếm đủ mùi U-boat cho cả đời. Thay thế anh ta là hai người không giống với bất kỳ thợ lặn nào mà Chatterton và Kohler từng biết.

Chris Rouse (39 tuổi) và Chrissy Rouse (22 tuổi) là cha con, tuy với thân hình gân guốc y hệt nhau và dung mạo Địa Trung Hải, hai người thường bị nhầm là anh em. Khi họ cười, rất dễ lầm tưởng đây là một cặp sinh đôi. Đôi mắt tinh quái hấp háy dưới hàng chân mày dày sậm nghịch ngợm. Họ cười liên tục và cãi vã còn liên tục hơn.

Cha con nhà Rouse sa sả không ngừng, quăng vào nhau những lời chửi rủa và tục tĩu mọi lúc mọi nơi chỉ từ những khích bác nhỏ nhặt nhất và tốt hơn hết là không cần khích bác nào cả.

“Mày chẳng được cái tích sự gì ngoài vết nhờn tao để lại trên nệm” Chris sẽ nói giữa một thuyền đầy thợ lặn.

“Này ông già khú đế, ông mà đòi đua với tôi à” Chissy sẽ đáp.

“Mày may là thừa hưởng vẻ đẹp trai của tao chứ không thì đừng hòng đụng được vào đàn bà” Chris sẽ nói.

“Ông chỉ ăn may với mẹ tôi thôi, đồ bịp bợm” Chrissy trả treo.

Cứ thế, cứ thế, đến khi họ được mệnh danh Bộ Đôi Khắc Khẩu.

Vài người cảm thấy khiếp đảm với kiểu giao tiếp đó. Nhiều người khác lại thấy thích thú. Chatterton và Kohler chứng kiến trong kinh ngạc.

Thế nhưng cha con nhà Rouse lại là những thợ lặn cừ khôi. Họ được tôi luyện trong môn lặn hang − một nhánh lặn scuba nổi tiếng vì đào tạo về an toàn liên tục và cực kỳ tỉ mỉ. Thợ lặn hang thường tránh lặn tàu đắm vì điều kiện khắc nghiệt và bất ổn ở đó, nhưng cha con nhà Rouse bị thu hút tới các xác tàu vì cơ hội được khám phá lịch sử và khai quật hiện vật. Nếu lặn thám hiểm, thợ lặn hang thường cố chấp, không chịu thay đổi những kỹ thuật và nguyên tắc đã ngấm vào họ từ lâu. Đối với cha con nhà Rouse thì đó không phải là vấn đề. Họ háo hức tìm học những kỹ năng mới và nóng lòng áp dụng chúng vào thực tế. Giống nhiều thợ lặn hang, họ có kinh nghiệm với lặn kỹ thuật và thở trimix và sẵn sàng bàn luận về các lý thuyết và ý tưởng.

Khi cha con nhà Rouse xuống nước, có thể thấy rõ họ là máu mủ ruột già. Hai người lặn đôi và có thần giao cách cảm với nhau − một sự ăn ý sinh ra từ cả cuộc đời sống chung một mái nhà. Ở dưới nước, họ tuyệt đối trung thành với nhau, người này sẵn sàng hy sinh vì người kia. Ý chí kiên định ấy, tình cảm ấy giúp cho cha con nhà Rouse trở thành đội lặn đáng gờm bậc nhất.

Khi Nagle mời cha con nhà Rouse tham gia chuyến đi U-Gì, Chrissy đã thề sẽ giải đáp được bí ẩn. Cậu nói với Chatterton rằng bằng cách định danh con tàu, cậu sẽ giúp cái tên Rouse lưu danh thiên cổ và viết một trang mới cho lịch sử thế giới. Về chuyện đó thì không thấy cha cậu có ý kiến gì.

“Họ có thừa tài cán và khả năng để làm việc đó” Chatterton nói với Kohler. “Biết đâu họ chính là người sẽ hoàn thành sứ mệnh.”

Thời tiết trong chuyến đi tháng sáu không hoàn hảo như chuyến tháng năm, nhưng kế hoạch của các thợ lặn không thay đổi. Chatterton sẽ lục soát khoang ngư lôi mũi tàu để tìm nhãn có số hiệu. Kohler sẽ tìm các hiện vật giúp định danh tàu. Crowell sẽ đo chiều dài tàu. Yurga sẽ xác định U-Gì có pháo boong không. Về phần cha con nhà Rouse, họ sẽ thâm nhập vào xác tàu và bắt đầu tìm hiểu về chiếc U-boat.

Như lần trước, Chatterton và Kohler sẽ lặn cùng nhau và buộc móc. Lần này, Kohler bơi lên đầu tàu với Chatterton, quét qua các khu mà thủy thủ cất giữ đồ vật và ghi chú cá nhân. Chatterton bơi qua phần đầu tàu, tới khoang ngư lôi và đến tận cửa sập của ống phóng lôi. Nếu như trước đây không nhìn thấy gì ở đó thì bây giờ anh phát hiện một miếng xù xì màu trắng hình cái nhãn trên cửa sập. Anh lấy dao cậy lớp sần sùi bên ngoài. Các vụn trắng rơi ra, lộ nguyên hình một cái nhãn. Chỉ có điều chẳng còn cái nhãn nào. Kim loại đã bị ăn mòn hết, chỉ còn lại dấu in. Lòng Chatterton chùng xuống. Anh kiểm tra ba cửa sập còn lại. Tương tự. Nước muối và bão tố trong nửa thế kỷ đã bào mòn lời giải. Khi Chatterton kết thúc cuộc lặn, anh cảm thấy thất vọng sâu sắc. Anh đã tìm được chứng cứ vững chắc khẳng định sự tồn tại của những cái nhãn và đã lên kế hoạch kỹ lưỡng để thu hồi chúng, cuối cùng chỉ để phát hiện chúng đã bị thiên nhiên lấy đi.

Ngay sau lưng Chatterton, Kohler gặp vận may tốt hơn. Ở khu hạ sĩ quan, anh tìm thấy một tủ đầy ủng và giày, vẫn xếp ngay ngắn trái-phải, trái-phải hệt như khi thủy thủ để chúng ở đó. Anh lấy một cái ủng, tin rằng chủ nhân có thể đã viết tên mình bên trong. “Có vẻ như các anh không cần giày nữa, nên tôi xin phép lấy một cái” anh giải thích với những thi thể trong buồng.

Kohler đi tiếp tới tháp chỉ huy nằm trên nền cát bên cạnh con tàu. Trong tháp, anh tìm thấy một thứ giống yên xe đạp. Anh lập tức nhận ra đây là ghế ngồi của chỉ huy khi đang nhìn vào kính tiềm vọng tấn công. “Đây có thể là nơi mà người chỉ huy chết” anh tự nhủ. “Nếu chiếc U-boat này đang tấn công khi bị đánh đắm, đây sẽ là nơi viên chỉ huy ngồi lúc đó.” Song chiếc ghế không có dấu hiệu định danh nào nên Kohler để nó lại. Anh gặp Chatterton ở dây neo. Người này lắc đầu với người kia. Chưa ai giải đáp được bí ẩn.

Trong khi Chatterton và Kohler giảm áp, Crowell và Yurga bắt đầu nhiệm vụ. Để đo chiều dài tàu, Crowell nối một đầu thước dây vào mũi U-boat, sau đó vừa bơi về đuôi tàu vừa nới dần dây. Anh đã gắn một nhãn vào điểm 76 mét trên thước trước chuyến đi. Đó là chiều dài của một tàu kiểu IX điển hình. Nếu chiếc U-boat này dài hơn thế thì đó là bằng chứng quan trọng cho thấy đây là U-851 − loại tàu ngầm tuần dương kiểu IXD hiếm hoi mà người đồng đội nổi loạn của Merten là Weingärtner chỉ huy.

Crowell để dây nới ra từ từ khi anh bắt đầu bơi dọc trên lưng tàu. Dây nhả êm ái từ cuộn. Khi chóp đuôi tàu hiện ra, cuộc dây kẹt nhẹ. Crowell nhìn xuống. Cái nhãn đánh dấu của anh đã xuất hiện. Con tàu dài khoảng 76 mét. Tàu ngầm tuần dương dài 87 mét. Con tàu này không thể là U-851.

Trong khi Crowell chuẩn bị nổi thì Yurga hạ xuống ngay trước khu vực phòng điều khiển bị hư hại. Anh đã nghiên cứu kỹ sơ đồ boong của kiểu IX và biết đích xác cần tìm bệ pháo boong ở đâu. Đây là một đặc điểm của U-158 − con tàu của viên chỉ huy táo bạo Erwin Rostin. Yurga bò dọc sống lưng tàu và mường tượng sơ đồ mà anh đã đọc say sưa không kém các tiểu thuyết giật gân vào mùa nghỉ. Anh kiểm tra khu vực có liên quan. Rõ như ban ngày: con tàu này không có bệ pháo boong. Nó không thể là U-158. Trong vòng 20 phút, cả hai giả thuyết hàng đầu của các thợ lặn đã bị đánh đắm.

Họ nhóm họp trên thuyền. Người nào cũng sốc. Một mùa đông nghiên cứu miệt mài hóa ra công cốc. Không ai nghĩ ra được bất kỳ lựa chọn nào khả dĩ ngoài hai con tàu mà họ vừa phải loại trừ. Họ hờ hững kiểm tra bên trong cái ủng mà Kohler mang lên. Nhất quán với những gì đã xảy ra trong ngày, chiếc ủng không tiết lộ thông tin gì. Cha con nhà Rouse nổi ít lâu sau. Cả hai đều chẳng tìm được gì đáng kể. Chatterton và Kohler lặn thêm lần nữa nhưng cũng không có thêm phát hiện nào. Khi con thuyền quay lại Brielle, các thợ lặn biết rằng mùa hè sắp tới, nghĩa là Nagle sẽ bắt đầu lái Seeker tới Andrea Doria − chuyến đi làm tiền của anh. Không ai biết khi nào con thuyền lại có thể đưa họ tới U-Gì thêm lần nữa.

Một ngày sau khi quay về từ U-Gì, Chatterton viết thư gửi Karl- Friedrich Merten. Anh giải thích rằng họ đã đo chiều dài tàu và xác định rằng nó không phải U-851 − con thuyền mà Merten cho là người đồng đội Weingärtner của ông đã lái tới New York. Merten hồi âm tỏ lòng biết ơn các nỗ lực của Chatterton và chấp nhận kết luận của anh. Chatterton không gọi điện cho thiếu tá Gregory Weidenfeld của Tuần không dân sự. Tuy đã loại trừ U-158, các thợ lặn vẫn để ngỏ khả năng con tàu bị CAP đánh đắm.

Ba tháng tiếp theo, Nagle chạy tới Doria. Khi anh có lịch trống dành cho U-Gì thì thời tiết lại không thuận lợi. Chatterton vẫn không thể tin rằng nhãn cửa sập ống phóng lôi của con tàu, thứ mà anh cho là được làm từ đồng bền chắc, lại bị ăn mòn hết. Anh còn tìm được một cựu binh U-boat già cả sống ở bang Nam Carolina, đã từng đóng U-boat ở xưởng tàu hải quân Đức. Người này giải thích rằng vì đồng trở nên khan hiếm, người ta đã đúc nhãn tàu từ các vật liệu dư thừa và hỗn hợp kim loại ấy không thể tồn tại lâu ở môi trường nước biển. Chatterton cảm ơn và chuẩn bị nói tạm biệt.

“Một điều nữa, tôi xin phép nói” người cựu binh U-boat nói.

“Vâng, tất nhiên. Điều gì ạ?” Chatterton hỏi.

“Cảm ơn cậu vì những điều cậu đã làm. Cảm ơn cậu đã có tâm với anh em bên dưới. Họ chẳng còn ai khác.”

Những thủy thủ ngã xuống đã trở thành tâm điểm trong suy nghĩ của Chatterton và Kohler kể từ chuyến đi U-Gì vừa rồi. Mặc dù không ai nói về nó, sự thật càng ngày càng khó phủ nhận là họ sẽ có cơ hội định danh con tàu tốt hơn nhiều nếu chịu lục lọi thi thể. Rất nhiều hài cốt vẫn còn trang phục bọc ngoài và các túi áo túi quần của họ có thể chứa ví, tiền xu, kẹp tiền có tên, thư tình, đồng hồ quả quýt khắc chữ và nhiều thứ khác. Những vật kiểu đó có thể tồn tại hàng chục năm trong xác tàu đắm. Bế tắc không manh mối, Chatterton và Kohler bắt đầu mơ tưởng về câu trả lời nằm lẫn trong xương cốt.

Chatterton gọi Kohler và hẹn gặp ở Scotty’s Steakhouse − một nhà hàng nổi tiếng gần đó.

“Anh muốn nói về các thủy thủ đúng không?” Kohler hỏi.

“Phải” Chatterton nói. “Đến lúc rồi.”

Tối hôm sau, hai người ngồi xuống dùng bít-tết và khoai tây nướng. Họ bàn về khả năng lục soát thi thể đoàn thủy thủ. Hài cốt có vẻ được bảo tồn khá tốt. Khả năng cao là có các vật dụng cá nhân ở đó. Câu hỏi là xử trí với thi thể ra sao. Mỗi người đưa ra quyết định của họ.

“Tôi đề nghị không động vào thi thể dù thế nào đi nữa” Kohler nói.

“Tôi đồng ý” Chatterton nói. “Chúng ta sẽ không đụng vào họ. Cho dù điều đó có nghĩa chúng ta không bao giờ giải đáp được bí ẩn.”

Cả hai im lặng thoáng chốc, ngạc nhiên về sự quả quyết và tương đồng trong tư duy của nhau. Một cách chậm rãi, từng người lập luận cho đến khi họ thấy rõ là cả hai có những lý do dẫn đến quyết định giống hệt nhau. Cuộc bàn luận của họ kéo dài nhiều giờ. Quyết định của họ xoay quanh năm nguyên tắc:

1. Sự tôn trọng với đoàn thủy thủ. Lính U-boat là thủy thủ. Họ đã liều mạng sống để phục vụ tổ quốc mình. Vì thế, họ xứng đáng được tôn trọng và nên được an nghỉ.

2. Sự tôn trọng với các gia đình ở Đức. Không người nào có thể đành lòng nói với gia đình thủy thủ rằng anh ta đã giải đáp bí ẩn bằng cách lục lọi trang phục trên thi thể người thân của họ. Cả hai cũng không muốn dối trá và phủ nhận với các gia đình việc họ thực tế đã làm.

3. Tôn vinh tình hữu hảo biển sâu. Là lính tàu ngầm, các thủy thủ U-boat sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy đến từ cuộc sống dưới đại dương. Các thợ lặn hoạt động ở đó, bị chi phối bởi cùng các quy luật đó, đối mặt với cùng các hiểm họa đó và vì vậy họ cảm nhận tình bằng hữu và mong muốn bảo vệ các thi thể.

4. Bảo vệ hình ảnh thợ lặn thám hiểm. U-Gì đã trở thành tin quốc tế, Chatterton và Kohler là đại sứ của môn lặn thám hiểm. Hành vi của họ sẽ gắn với hình ảnh của bộ môn này trong nhiều năm tới.

5. Làm điều đúng đắn. Cam kết giải đáp bí ẩn bắt nguồn từ bản năng làm điều đúng đắn với các thủy thủ U-boat. Xâm phạm thi thể của họ để tìm câu trả lời cũng là xâm phạm lòng tôn kính phẩm giá đã dẫn dắt sứ mệnh này từ đầu.

Chatterton và Kohler thống nhất một bộ quy tắc đơn giản. Nếu nhìn thấy một mẩu bằng chứng nằm sau (ví dụ) một cái sọ, họ được phép di chuyển cái sọ để lấy bằng chứng. Nhưng họ sẽ không lục soát thi thể để tìm bằng chứng, dù có tin rằng việc lục soát như thế sẽ đem lại kết quả. Hơn nữa, họ sẽ tạo áp lực để khuyến khích, thậm chí ép buộc, các thợ lặn khác hành xử tương tự.

Trên đường về nhà tối đó, Chatterton trầm ngâm nghĩ về lý do cuối cùng khiến anh quyết định không quấy nhiễu thi thể, một lý do quá cá nhân để có thể chia sẻ với Kohler. Hơn lúc nào hết, đối với Chatterton, lặn giờ đây đã trở thành hình ảnh phản chiếu của cuộc đời. Những nguyên tắc giúp anh trở thành một thợ lặn xuất sắc cũng là những nguyên tắc sống của anh. Nếu anh vì bế tắc mà hạ thấp tiêu chuẩn của mình thì anh sẽ là người như thế nào?

Kohler cũng có lý do mà anh không chia sẻ. Cội rễ Đức của anh − một phần quan trọng của bản ngã của anh từ thuở ấu thơ − đã thức dậy sau những tiếp xúc với hài cốt các thủy thủ hy sinh. Anh chưa bao giờ từ lừa dối mình về mục tiêu của chiếc U-boat và tên điên đã phái nó tới Hoa Kỳ. Là người Mỹ, anh cũng sẽ tự mình tấn công U-boat nếu đang đi tuần trên Đại Tây Dương. Nhưng anh cũng biết rằng những người đó là người Đức. “Những người đó…” Kohler tự nhủ, “đến từ nơi tôi đến.”

Phải ba tháng sau Seeker mới lại quay về U-Gì. Tháng chín là lúc thợ lặn phải tận dụng tối đa cơ hội có được. Thời tiết chẳng mấy chốc sẽ trở nên thất thường khi thu về và biết đâu đây sẽ là chuyến lặn U-boat cuối cùng mùa này.

Các thợ lặn không lạc quan như lần trước. Chatterton và Kohler đã loại trừ hết các giả thuyết và thất bại trong công cuộc săn tìm hiện vật giúp định danh tàu. Tuy nhiên, nỗi thất vọng của họ không hề lây sang nhà Rouse. Bước chân lên thuyền là cha con đó cãi vã oang oang, miệt thị nhau về dụng cụ, sinh lý, tuổi tác, năng lực lặn, khẩu vị sandwich và (lạ nhất với người ngoài) tổ tiên gia đình. Như lần trước, Chris vẫn giữ kín về mục tiêu anh đặt ra cho chuyến lặn U-boat. Chrissy thì cởi mở hơn.

“Tôi sẽ định danh con tàu” Rouse con nói với Chatterton. “Tôi sẽ là người làm được việc đó.”

Như lần trước, Chatterton và Kohler vỡ nước cùng nhau và buộc móc neo. Lần này, Chatterton bơi về đuôi tàu và chui qua phần boong bị bắn thủng dẫn vào khoang ngư lôi đuôi tàu. Những nghiên cứu khi nghỉ của anh cho thấy khoang này chứa một buồng máy lái phụ, có thể được đánh dấu bằng nhãn đồng. Nhưng khi nhìn quanh anh chỉ thấy một chiếc ủng, một áo cứu hộ vài cái sọ người, xương đùi và các thi thể khác – một nghĩa địa trải ra trước mắt. Rất có thể lời giải đang nằm lẫn giữa những thi thể này. Chatterton quay người bơi ra ngoài.

Trong lúc ấy, Kohler lựa chọn khám phá phía mũi tàu. Khi đi vào khu hạ sĩ quan, anh nhìn thấy cổ tay áo của một chiếc áo màu xanh đậm có vẻ như đang thòi ra từ ngăn tủ. Do nó nằm khá xa các thi thể trong khoang, Kohler tự tin kéo chiếc áo ra. Bùn đen dâng lên từ cổ tay áo. Khi nước đã trong trở lại, anh nhìn thấy trong áo có xương cánh tay. Anh buông chiếc áo và tạ lỗi thành tiếng: “Tôi rất xin lỗi. Tôi không biết.” Anh thay đặt chiếc áo về chỗ cũ và chuẩn bị rời đi. Bơi được vài mét, đến gần bếp, anh rọi đèn pin vào dưới một tấm gỗ. Hốc mắt trong một cái đầu lâu nhìn anh chằm chằm. Tim Kohler nảy lên. Một ngày xui xẻo. Anh lại xin lỗi và tìm đường ra khỏi xác tàu.

Cuộc lặn sau của Chatterton và Kohler cũng không đem lại kết quả. Cha con nhà Rouse thì gặp may hơn. Trong bếp, Chrissy đã tìm thấy một mảnh vải tựa như vải bố có ghi chữ tiếng Đức.

“Tôi không biết những từ đó nghĩa là gì” Chrissy nói với Chatterton ở trên thuyền. “Nhưng tôi chỉ biết là tôi phải lấy nó ra. Nó vẫn kẹt ở đó. Nhưng nó trông có vẻ quan trọng. Tôi nghĩ là tôi sẽ lấy được nó lần tiếp theo. Biết đâu đây lại là chìa khóa.”

Cha con nhà Rouse sẽ phải mong là thời tiết không quấy phá. Biển động và bão dữ sẽ phá hỏng bất kỳ kế hoạch nào trong mùa nghỉ dài. Khi Nagle nổ máy và quay Seeker về Brielle, tất cả thợ lặn đều cầu thêm một chuyến nữa trước khi mùa đông đến.

Đầu tháng mười năm 1992, Nagle tổ chức chuyến đi U-Gì chốt mùa của Seeker. Đây là chuyến đi vào hai ngày cuối tuần liền với Ngày Colombo. Các thợ lặn sẽ có cơ hội cuối cùng.

Một ngày trước chuyến đi, Nagle gọi cho Chatterton và xin miễn đi.

“Tôi chỉ cảm thấy không muốn đi” Nagle càu nhàu.

“Bill à, biết đâu lần này sẽ thành công. Chúng tôi cần anh” Chatterton nói.

“Anh vẫn chưa hiểu à?” Nagle gầm lên. “Tôi chết rồi thì còn gì quan trọng nữa! Kệ mẹ U-boat!”

Chatterton cố động viên bạn mình, nhưng anh nhận thấy sự biến đổi ở Nagle tích tụ qua cả mùa hè. Nagle khởi đầu mùa với ý nghĩ rằng dù anh không thể cai rượu và phục hồi sức khỏe để lặn được thì di sản của Seeker vẫn trường tồn. Nay với vẻ vàng vọt và ốm yếu hơn bao giờ hết, sau vô số lần cai nghiện thất bại, anh không đành lòng tự mình lái thuyền tới một trong những xác tàu vĩ đại nhất.

“Cậu và Danny chỉ huy thuyền” Nagle nói, tiếng nước đá lanh canh trong ống nghe. “Tôi chẳng quan tâm. Cứ đi không có tôi.”

Đêm mười tháng mười, thợ lặn tập trung tại Seeker ở cầu tàu Brielle. Không hỏi thì ai cũng biết vì sao Nagle không ở buồng lái.

Trong lúc các thợ lặn khác buộc đồ, cha con nhà Rouse bắt đầu cãi lộn. Cuộc cãi vã lần này có vẻ nghiêm trọng hơn thường lệ. Cả cha lẫn con đều không đủ tiền mua trimix cho chuyến đi: họ sẽ phải hít không khí bình thường, tiết kiệm được đến vài trăm đô la.

“Đáng lẽ lần này đến lượt Chrissy mua khí” Chris gắt.

“Không, lần này là lượt của ông già” Chrissy cãi lại.

“Không phải.”

“Phải.”

“Đồ bủn xỉn.”

“ Đồ hà tiện.”

Cứ thế cả tối.

Sáng hôm sau, Chatterton và Kohler vỡ nước đầu tiên, như đã thành lệ. Trong khi Kohler thăm dò khu hạ sĩ quan, Chatterton quay lại khoang ngư lôi mũi tàu để tìm thêm nhãn. Anh thấy một số nhãn nhựa nhưng đều không có thông tin định danh. Trên đường ra, anh để ý thấy một tấm nhôm bị bẻ cong kích cỡ như tờ báo lá cải nằm trong đống đổ nát. Thường thì anh sẽ bỏ qua những thứ rác rưởi như vậy. Hôm ấy, có điều gì đó đã thôi thúc anh nhặt nó lên từ đống rác và cho vào túi. Chatterton không hề nghĩ thêm về nó khi ngoi lên Seeker.

Trên thuyền, Chatterton đổ túi ra. Tấm nhôm gỉ thủng lỗ chỗ và lốm đốm hà bám rơi đánh keng lên bàn. Yurga bước tới xem. Chatterton mở tấm kim loại như mở tạp chí. Khắc bên trong là sơ đồ kỹ thuật − một lược đồ minh họa hoạt động cơ khí của một bộ phận nào đó trên tàu. Chatterton lấy một cái giẻ trong xô nước ngọt để lau hiện vật. Vết hà bám long ra dễ dàng, để lộ các dòng chữ tiếng Đức nhỏ dọc theo mép dưới nham nhở. Chatterton nhìn gần hơn. Anh đọc được “Bauart IXC” và “Deschimag25*, Bremen”.

25* Tên viết tắt của Deutsche Schiff- und Maschinenbau Aktiengesellschaft (Công ty cổ phần đóng tàu và chế tạo cơ khí Đức), là tập hợp tám xưởng đóng tàu của Đức với trụ sở tại Bremen trong giai đoạn từ 1926 đến 1945 (BT).

“Gượm đã” Yurga nói, “Deschimag-Bremen là một xưởng đóng U-boat của Đức. Như vậy xác tàu này là tàu kiểu IXC đóng ở Deschimag-Bremen. Chắc chắn chỉ có vài chục tàu kiểu IXC đóng ở đó trong cả cuộc chiến. Chuyện này cực lớn đó.”

Kohler nổi vài phút sau đó. Cũng như Yurga, anh hiểu được tầm cỡ của khám phá này.

“Cái này chắc chắn sẽ thu hẹp phạm vi tìm kiếm” Kohler nói, vỗ lưng Chatterton. “Mình chỉ cần về nhà, tìm trong sách và thế là sẽ có danh sách các tàu kiểu IXC đóng ở Deschimag. Tuyệt cú mèo.”

Các thợ lặn vỡ nước lần nữa nhưng không tìm được gì nhiều. Dù sao thì tâm trí của họ đều nằm ở chiến lợi phẩm tuyệt diệu của Chatterton. Bữa tối hôm ấy, khi Seeker bồng bềnh trên sóng với dây neo cột vào U-boat, nhà Rouse chiêm ngưỡng lược đồ của Chatterton và kể anh nghe về cuộc lặn của họ. Họ đã gần đào xong miếng vải bố có chữ tiếng Đức và tin là chỉ cần một lần lặn nữa là mang được nó lên thuyền. Tinh thần lạc quan tràn đầy trong cabin chính. Các thợ lặn chúc nhau ngủ ngon. Một ngày duy nhất đã biến đổi toàn bộ cục diện của một mùa lặn đầy bế tắc.

Đại Tây Dương khước từ niềm lạc quan của các thợ lặn. Khi họ ngủ trên Seeker, đại dương biến con thuyền thành đồ chơi trong bồn tắm, quăng thợ lặn văng khỏi giường và buộc hai thuyền trưởng Crowell và Chatterton phải tham khảo radio thời tiết. Biển động với sóng cao tới 1,5 mét và dự báo còn tồi tệ hơn. Vào 6:30 sáng, Chatterton bước xuống cabin chính và đánh thức các thợ lặn.

“Ngoài kia hiểm lắm” Chatterton nói. “Ai muốn lặn thì phải lặn ngay. Sau đó, chúng ta sẽ nhổ neo về nhà.”

“Anh có lặn không John?” có người hỏi.

“Ngày như hôm nay thì không” Chatterton nói.

Trong số 14 thợ lặn trên thuyền, chỉ có sáu người xuống giường mặc đồ lặn. Kohler là người đầu tiên và lên đồ không chút do dự. Nửa tiếng sau anh lăn xuống biển. Nhóm lặn của Tom Packer và Steve Gatto nối tiếp, cũng như Steve McDougal − cảnh sát bang New Jersey. Cha con nhà Rouse cũng xuống khỏi giường.

“Tôi không lặn đâu, quên đi” Chrissy nói, nhìn ra cửa sổ cabin. “Quá dữ.”

“Đồ chết nhát!” Cha cậu gầm lên. “Mày chẳng có gan.”

“Ông không nghe thấy gì à ông già?” Chrissy hỏi. “Chatterton nói là thời tiết rất hiểm và sẽ xấu hơn nữa. Ông không cảm nhận được à?”

“ Nếu mày không lặn được trong điều kiện này thì đến đây làm gì” Chris nói. “Tao không thể tin mày là con tao. Mày là một điều hổ thẹn.”

“Okay, ông già” Chrissy nói. “Ông muốn lặn chứ gì? Thì lặn. Đi thôi!”

Chris thoáng im lặng, rồi sau đó nói:

“À… không sao. Tao chỉ đang chọc mày thôi. Biển đúng là quá động. Bỏ qua đi.”

“Quá động? Chắc là quá động với ông thôi, ông già” Chrissy trả treo. “Nếu ông không đủ cứng để lặn thì tôi lặn một mình. Ông ở lại với đàn bà trẻ con.”

“Mày đừng hòng đi mà không có tao” Chris nói. “Nếu mày đi thì cả hai cùng đi.”

“Hai ông làm quá.” Chatterton cười, rời khỏi cabin chính. Cha con nhà Rouse tiếp tục cãi nhau khi chọn ăn sáng món gì, có cạo râu không, nên lặn lâu chừng nào. Chris giả bộ ra lệnh cho Barb Lander − người phụ nữ duy nhất trên thuyền − làm bữa sáng và rửa chén đĩa.

Cha con nhà Rouse vừa lên đồ vừa ôn lại kế hoạch. Chrissy sẽ quay về bếp để lấy miếng vải bố có chữ tiếng Đức. Nó kẹt dưới một tủ sắt cao tới trần. Chris sẽ đợi bên ngoài xác tàu, đèn của anh sẽ là tín hiệu cho con trai thoát ra. Chrissy sẽ làm việc 20 phút trước khi ra khỏi xác tàu. Ở bàn thay đồ, cha con nhà Rouse đội mũ lặn kiểu hockey đã thành thương hiệu riêng lên và bắt đầu đi ra mép thuyền. Sóng đập vào đuôi Seeker, xô Chrissy lúc ấy đeo chân nhái ngã sang một bên như xô một đứa trẻ. Yurga luồn tay qua nách xốc cậu đứng thẳng. Một con sóng khác xô vào thuyền. Lần này Chrissy ngã sấp mặt xuống boong.

“Ê Chris” Yurga hét. “Con ông cứ trượt mãi thôi!”

Cuối cùng thì Chrissy cũng tới được mép thuyền, cha cậu theo sau và cuộc lặn của họ bắt đầu. Chỉ mất một, hai phút hai người đã xuống được xác tàu và lần theo dây neo tới lỗ thủng ở phòng điều khiển. Ở đó, Chrissy tháo hai bình khí dự phòng nhỏ mà cậu sẽ dùng khi ngoi lên và đặt chúng trên boong U-boat. Tiếp theo, cậu gài một đầu dây nylon vào lỗ thủng và trườn vào trong, để cho dây nhả ra từ cuộn gắn vào đai trên người. Như vậy, nếu tầm nhìn giảm xuống 0 hay cậu bị mất phương hướng, cậu có thể lần theo dây ra khỏi U-boat tới chỗ cha mình. Thợ lặn hang như cha con nhà Rouse gọi kỹ thuật này là “chạy dây” và tôn thờ nó. Thợ lặn thám hiểm thì không tin tưởng vào dây nylon hay bất kỳ thứ nào khác mà có thể bị rối hoặc bị cứa đứt bên trong lòng tàu lởm chởm.

Chrissy chỉ mất một, hai phút để luồn vào bếp và bắt đầu công việc. Mảnh vải bố to cỡ cái gối mà cậu đã mất rất nhiều thời gian để lấy ra vẫn nằm dưới xác một cái tủ bằng thép dầy sụ cao từ sàn lên trần. Chrissy không hy vọng di dịch được cái tủ khổng lồ. Để lấy hiện vật cậu sẽ phải đào vào trong đống đổ vỡ mục nát bên dưới tủ cho đến khi có đủ không gian để kéo mảnh vải ra. Trong khoảng 15 phút, Chrissy đào bới bằng cả hai tay, tạo ra một cơn bão bùn kín đen cả buồng và giảm tầm nhìn về 0. Cậu vẫn tiếp tục đào và kéo. Mảnh vải bố bắt đầu lỏng ra bên dưới tủ. Chrissy kéo mạnh hơn. Mây bùn bung ra trong khoang. Cơn say nitơ dồn dập hơn. Cậu lại kéo. Thêm một ít vải bố lòi ra… và thêm nữa… rồi mãi không hết, cứ như trò ảo thuật, trong khi cơn say thêm dữ dội và Chrissy thêm cận kề với lời giải. Không còn được nâng đỡ phía dưới, cái tủ thép bắt đầu đổ xuống, ném vài trăm cân thép lên đầu Chrissy và ấn mặt cậu xuống chính cái lỗ cậu vừa đào. Chrissy cố di chuyển. Không xê xích. Cậu đã bị tắc.

Khi Chrissy hiểu được sự nghiêm trọng của tình hình cũng là lúc cơn say nitơ xổ lồng và lao vào tấn công cậu. Tim cậu đập thình thịch. Tâm trí cậu co hẹp. Cậu tin, chắc chắn hơn cả tên mình, rằng một con quái vật đang ở trên cậu, đè cậu xuống. Cậu cố dịch ra nhưng không được. Khi đổ, cái tủ đã lèn vào đống đổ vỡ và trở thành một phần của cái quan tài khóa bên trên người thợ lặn. Bên ngoài, Chris xem giờ và nhận ra con mình đã trễ. Anh vốn không có dự định thâm nhập vào U-boat, anh không quen thuộc với khu vực mà Chrissy đang làm việc. Anh bơi vào xác tàu.

Chris tới chỗ con trai và bắt đầu tìm cách giải thoát Chrissy. Chrissy vật lộn để thoát ra nhưng chỉ đốt chỗ không khí còn lại nhanh hơn và làm cơn say nitơ trầm trọng hơn. Chris vẫn cố. Cuối cùng, sau vài phút, Chrissy thoát khỏi cái tủ. Hai cha con giờ phải tìm cách ra khỏi tàu. Chrissy xem đồng hồ. Đồng hồ chỉ 30 phút. Cậu và cha mình đã quá thời gian mất mười phút.

Đáng lẽ cha con nhà Rouse sẽ lần theo dây nylon của Chrissy ra khỏi tàu và tới chỗ để bình khí dự trữ họ cần để ngoi lên mặt nước. Nhưng trong lúc Chrissy vùng vẫy thoát thân, dây đã bị cuốn quanh mảnh vải bố cho đến khi trở thành một mớ bùi nhùi. Cơn say nitơ ép trong não Chrissy như máy ép công nghiệp, che đi tầm nhìn ngoại vi của cậu và châm ngòi cho cơn hoảng loạn trong bản năng. Cậu và cha bơi về phía phòng điều khiển và ra được khỏi con tàu qua một khe nứt giữa vách ngăn và vỏ tàu. Bình khí và dây neo chỉ còn cách họ 12 mét về phía trước. Tất cả những gì cha con nhà Rouse cần làm là bơi về đuôi tàu, tìm bình khí và bắt đầu nổi. Song trong cơn quẫn bách, Chrissy có lẽ đã mất phương hướng và cho rằng mình nhầm hướng. Cậu quay lại và bơi về mũi tàu, ngược chiều hẳn với bình khí và dây neo. Cha cậu bơi theo.

Cha con nhà Rouse bấn loạn tìm bình khí. Chris vốn chỉ để một bình dự trữ của mình bên ngoài tàu. Anh đưa bình còn lại cho Chrissy. Một phút trôi qua và cha con nhà Rouse tiếp tục tìm, nhưng họ đang cách bình khí dự trữ 45 mét và cơn say nitơ đang dâng lên từng giây từng phút. Hai phút trôi qua, rồi ba phút, rồi năm phút… hai người vẫn không thể tìm được bình khí. Họ tìm thêm khoảng năm phút mà không hề biết rằng mình đã đi ngược chiều và ở rất xa cả bình khí lẫn dây neo. Chrissy nhìn đồng hồ. Cậu đã ở dưới nước 40 phút. Cha con nhà Rouse giờ đã quá thời gian 20 phút. Thời gian giảm áp bắt buộc của họ, đáng lẽ chỉ 60 phút, giờ đã kéo dài thành hai tiếng rưỡi. Cả hai đều không có đủ khí để thở lâu đến thế.

Một thợ lặn thở trimix với đầu óc minh mẫn hẳn sẽ dùng phần khí còn lại để giảm áp được chừng nào hay chừng ấy. Nhưng cha con nhà Rouse lần này không dùng trimix mà dùng không khí thường. Hoảng loạn vì đánh mất bình khí dự trữ và lạc trong xác tàu, Chrissy quyết định làm việc đáng sợ nhất đời với tất cả thợ lặn: lao lên mặt nước. Cha cậu lao theo. Nagle nói về các thợ lặn lao lên mặt nước sau thời gian lặn dài: “Họ đã tàn đời rồi. Họ chỉ chưa nhận thức ra thôi.”

Cha con nhà Rouse bắn lên mặt nước như hỏa tiễn. Ở độ sâu 30 mét, họ gặp một phép màu. Bằng cách nào đó khi lao lên họ thấy được dây neo, bơi về phía đó rồi bám vào. Giờ thì họ có cơ hội. Họ có thể ứng biến giảm áp với phần khí còn lại, rồi chuyển sang bình ôxy mà Seeker dòng xuống độ sâu 20 mét dành cho tình huống khẩn cấp.

Chrissy chuyển từ bình chính sang bình dự trữ mà cha cậu đưa. Cậu hít một hơi và sặc: miệng van đã bị rách và cung cấp nước cho cậu thay vì không khí. Như vậy là quá đủ đối với Chrissy. Cậu chuyển lại bình chính ở sau lưng và tiếp tục lao lên mặt nước. Cha cậu lại bám theo. Lần này, Chrissy sẽ không dừng vì bất kỳ lý do gì.

Ở buồng lái Seeker, Chatterton, Kohler và Crowell kiểm tra thời tiết và rùng mình: sóng dữ gió gắt đang ào tới. Một phút sau, họ thấy hai thợ lặn nổi lên mặt nước cách thuyền khoảng 30 mét. Chatterton nhìn kỹ hơn. Anh thấy mũ trùm kiểu hockey của cha con nhà Rouse. Họ nổi sớm hơn lịch một tiếng đồng hồ.

“Ôi trời” Chatterton nói. “Không ổn rồi.”

Chatterton và Kohler từ buồng lái lao xuống thang, chạy ra mũi tàu. Chatterton giơ tay lên và chạm đầu ngón tay vào đầu − tín hiệu “Ổn không?” phổ biến với các thợ lặn. Không người nào phản hồi. Con sóng cao gần hai mét ném hai thợ lặn tới gần thuyền. Chatterton và Kohler nhìn mặt hai cha con: cả hai đều có đôi mắt mở to, chớp nháy liên tục của những kẻ mới bị kết án tử.

“Hai người đã giảm áp xong chưa?” Chatterton hét.

Không lời đáp.

“Bơi về thuyền!” Chatterton hét.

Chrissy chuyển động tay và tiến gần tới Seeker. Chris cũng cố bơi nhưng anh đã nằm nghiêng và giãy chân như một con cá vàng bị bệnh.

“Chrissy, cậu đã giảm áp xong chưa?” Chatterton hỏi.

“Chưa” Chrissy gắng sức hét lại.

“Cậu đi thẳng lên mặt à?”

“ Đúng” Chrissy nói.

Kohler nghe xong tái mặt. Anh vẫn nhớ câu cửa miệng của các Atlantic Wreck per: Tôi thà tự cứa cổ còn hơn lao lên mặt nước mà không giảm áp.

Chatterton quăng hai sợi thừng cho cha con nhà Rouse. Seeker nhấp nhô giữa những đợt sóng như chơi thú nhún, mỗi lần lên xuống là một lần Chatterton và Kohler xém ngã xuống biển. Một con sóng cao 2,5 mét nhấn Chrissy xuống dướiSeeker trong khi mũi thuyền được bốc lên khỏi mặt biển như lưỡi rìu của đao phủ. Seeker rơi xuống từ bầu trời đang tối dần và Chrissy không còn đường tránh. Chatterton và Kohler nín thở. Lan can tàu lao xuống và đập vỡ bộ điều áp trên bình khí của Chrissy, trượt sọ cậu trong gang tấc, cứa rách vỏ đồng và làm không khí ào ra khỏi bình. Chatterton quăng dây. Mỗi người xoay xở bám được vào một dây. Chatterton và Kohler kéo họ dọc theo mạn thuyền, từ phía dưới Seekerlên về phía đuôi thuyền. Crowell chạy vào buồng lái.

Anh đánh điện đài liên tục cho tuần duyên thành phố Atlantic nhưng không nhận được hồi đáp.

“Không được rồi” anh nghĩ. “Mình phải gọi Mayday.”

“Mayday! Mayday! Mayday!” Crowell gọi vào chiếc mic cầm tay. “Đây là thuyền Seeker. Yêu cầu cứu hộ trực thăng khẩn cấp. Chúng tôi có thợ lặn bị thương. Làm ơn ghi nhận.” Trạm tuần duyên Brooklyn trả lời. Họ sẽ cử trực thăng tới.

Chatterton, Kohler và các thợ lặn khác tiếp tục kéo cha con nhà Rouse về đuôi thuyền trong khi mũi Seeker vẫn bốc lên và rơi xuống đùng đùng. Chris tới gần thang nhất. Chatterton nhào tới chỗ anh.

“Chris, leo lên thang!” Chatterton kêu.

“Đưa Chrissy lên trước” Chris lầm bầm.

Chatterton đang định n