Chương 10 Lịch sử sai sót
Ít lâu sau khi cha con nhà Rouse qua đời, Chatterton và Kohler khởi hành tới U-Gì để mang thiết bị của hai người về. Họ được nghe về tình cảnh trong buồng cao áp ở Jacobi của Chrissy. Những bọt khí trong hệ tuần hoàn đã làm máu cậu đặc sệt. Kohler đốt 30 điếu thuốc trên đường tới xác tàu và tự hỏi anh có thể khước từ ma thuật của trimix để dùng không khí thêm bao lâu nữa.
Trong bếp của xác U-boat, Chatterton quay video tủ và những cái kệ đổ. Sợi dây dẫn rối Chrissy đã dùng để điều hướng hiện đang quấn quanh mảnh vải bạt dài ba mét mà cậu cố sức đào lên. Với tầm nhìn giờ đã nguyên vẹn, Chatterton nhận ra mảnh bạt này là của xuồng cứu hộ. Hàng chữ tiếng Đức là hướng dẫn sử dụng chung chung. Ngoài xác tàu, Kohler thấy ba bình khí dự phòng mà hai cha con đã không tìm được trong cơn rối trí. Mỗi bình đều ghi “Rouse” không bình nào có tên riêng của từng người. Cha và con dùng chung bình với nhau.
Ở nhà, Chatterton và Kohler quay lại với công tác nghiên cứu. Có trong tay thông tin từ lược đồ, họ lao vào sách tham khảo để tìm U-boat kiểu IXC đóng ở xưởng tàu Deschimag-Bremen tại Đức. Hóa ra 52 U-boat như thế đã không quay về sau khi thực hiện chuyến đi tuần. Hai người nhất trí rằng có thể dễ dàng thu hẹp danh sách 52 tàu đó. Bên những miếng bít-tết thăn lưng ở tiệm Scotty’s, họ thống nhất hai tiêu chí loại trừ như sau:
1. Loại trừ tất cả U-boat có thủy thủ sống sót sau đắm. Nếu có người sống sót thì danh tính con tàu đã được xác định và ghi lại chính xác trong sử liệu.
2. Loại trừ tất cả các U-boat có pháo boong. Các thợ lặn đã xác định được rằng U-Gì không được trang bị pháo boong, do đó mọi tàu kiểu IX đóng ở Deschimag-Bremen với pháo boong đều không thể là U-Gì.
Chatterton và Kohler khởi hành đến Washington để bắt đầu quá trình loại trừ. Các sách tham khảo cho biết 22 trong số 50 hai tàu trong danh sách có thủy thủ sống sót. Như vậy còn 30 chiếc. Trong số đó, mười chiếc có pháo boong. Danh sách thu lại còn 20 U-boat khả dĩ.
“Một trong số U-boat trên mảnh giấy này là tàu ngầm của chúng ta” Kohler nói.
“Chúng ta đang nhìn vào lời giải rồi” Chatterton nói. “Chúng ta chỉ cần thu hẹp danh sách hơn nữa.”
Cả hai đều chưa từng cảm thấy hưng phấn như hiện tại. Thế này mới gọi là nghiên cứu. Thế này mới gọi là khám phá.
Về lại New Jersey, hai thợ lặn tập trung tại chiếc bàn quen thuộc ở tiệm Scotty’s và bắt đầu bàn tính. Họ cần thêm tiêu chí loại trừ để tiếp tục thu hẹp danh sách 20 tàu. Họ nhanh chóng thống nhất kế hoạch như sau: Họ sẽ quay lại rà soát nhật ký tác chiến của BdU để xem tuyến đường mà bộ tư lệnh U-boat đã giao và dự tính cho các tàu còn lại trong danh sách của họ. Họ sẽ loại trừ bất cứ tàu ngầm nào mà người Đức cho là đã hoạt động ở khoảng cách ngoài vài trăm km tính từ bờ đông Hoa Kỳ. Dù sao thì người Đức sẽ biết rõ hơn ai hết về các tuyến tuần tiễu của U-boat.
Hai thợ lặn dự tính quay lại Washington tuần tiếp theo. Chatterton sẽ điều tra nửa số tàu và Kohler xử lý nửa còn lại. Đêm trước chuyến đi, điện thoại Kohler kêu lúc nửa đêm. Người gọi không nói gì. Bằng chứng duy nhất cho thấy có người ở đầu dây bên kia là tiếng nước đá lanh canh trong ly thủy tinh. Âm thanh đó chỉ ra người gọi là Nagle.
“Ê, Richie, tôi đây” Nagle nói. “Nghĩ chúng ta sẽ xác định được chiếc U-boat này chứ?”
“Chắc chắn rồi, Billy, chúng ta sẽ tìm được” Kohler nói. “Có chuyện gì sao? Nửa đêm rồi.”
“À, tôi đang ngồi đây một mình nghĩ ngợi về U-boat. Cậu biết đấy, Richie, đôi khi tôi chỉ muốn chấm dứt mọi thứ…”
“Ý anh là sao hả Bill?”
“Tất cả thật nhảm nhí, Richie. Tôi để súng ngay đây. Tôi đáng lẽ phải bắn vỡ sọ ngay bây giờ.”
“Ê này, Bill, khoan đã. Anh có tất cả mọi thứ mà. Anh có thuyền, có một gia đình tuyệt vời ở Pennsylvania, tiền bạc, nhà đẹp. Tất cả những gì anh phải làm là lái thuyền. Một cuộc sống tốt. Tôi cũng muốn sống như vậy.”
“A, cậu thì biết gì!” Nagle bùng lên. “Feldman chết rồi. Nhà Rouse chết rồi. Bạn lâu năm John Dudas của tôi cũng chết rồi. Tôi thấy họ trong mơ, Richie ạ. Tôi phải đi thôi…”
Nagle dập máy. Kohler vội vàng bấm máy gọi Chatterton.
“John, Richie đây. Bill sắp tự sát…”
“Anh ấy thỉnh thoảng làm thế đấy” Chatterton nói trong cơn ngái ngủ. “Thảm lắm. Tôi đã cố can thiệp. Gia đình anh ấy cũng cố can thiệp, cả bạn gái anh ấy nữa. Tôi đã đưa anh ấy đi cai. Anh biết anh ấy làm gì không? Tạm dừng vài tuần, hồi phục vừa đủ để có sức uống lại, ra trại rồi ghé cửa hàng bán rượu trên đường về nhà. Tôi không nghĩ anh ấy sẽ tự sát đâu, ít nhất là không phải bằng súng. Tôi nghĩ vũ khí anh ấy chọn là Jim Beam.”
“Chúng ta có làm được gì không?” Kohler hỏi.
“Chúng tôi đã cố gắng nhiều năm rồi” Chatterton nói. “Tôi không biết còn gì để mà làm nữa.”
Hai người về Washington để bắt tay vào nhật ký điều hành U-boat. Theo ghi chép của phía Đức, 18 trên 20 U-boat trong danh sách của họ đã hoạt động hoặc được phái tới các khu vực quá xa New Jersey nên không đáng phải tìm hiểu thêm.
Như vậy còn hai tàu là U-857 và U-879. Theo nhật ký, cả hai tàu đều nhận lệnh tấn công các mục tiêu bờ đông Hoa Kỳ. Tìm hiểu thêm, họ có một phát hiện chấn động: cả hai tàu cập cảng Na Uy đầu năm 1945, cùng nơi và đại khái cùng thời gian với U-869 của Horenburg. “Như vậy thì chuyện con dao có thể hiểu được!” Kohler nói. “Chính xác” Chatterton nói. “Có lẽ Horenburg cho ai đó tàu bên cạnh mượn dao. Hoặc anh ta đánh mất nó và nó lại xuất hiện trên U-boat gần đó. Hoặc có người chôm chỉa. Kiểu gì thì con dao cũng không còn vô lý nữa. Một trong hai con tàu này chắc chắn là U-Gì. Hoặc U-857 hoặc U-879. Chúng ta còn hai U-boat.”
Hai người lại lao đến chỗ sách sử. Theo sách, U-857 bị USS Gustafson đánh đắm ngoài khơi Boston, còn U-879 bị USS Buckley và USS Reuben James tiêu diệt ngoài khơi mũi Hatteras (bang Bắc Carolina). Như vậy thì có vẻ cả U-857 và U-879 đều không thể là con tàu bí ẩn.
“Thế này đi” Chatterton nói. “Chúng ta sẽ kiểm tra hồ sơ xem hai chiếc này đắm thế nào. Phải đọc tận mắt những gì hải quân lưu lại về cách tiêu diệt chúng.”
“Ý anh là hai U-boat này có thể đã không đắm ở nơi được ghi trong sách sử?” Kohler hỏi.
“Ý tôi là chúng ta phải kiểm tra” Chatterton nói. “Tôi có cảm giác chúng ta phải rà tất cả mọi chi tiết.”
Đã tối nên hai người thu dọn đồ và thuê một phòng trọ 35 đô ở ngoại vi thành phố. Sáng hôm sau họ quay lại NHC, thèm thuồng được đọc các hồ sơ của hải quân về hai chiếc U-boat còn lại. Một trong hai chắc chắn là con tàu bí ẩn của họ.
Đầu tiên, hai người đọc các hồ sơ hải quân về vụ đắm tàu U-857 ngoài khơi Boston và được thông tin như sau: Khi đang tuần mũi Cod vào ngày năm tháng tư năm 1945, U-857 bắn một ngư lôi vào tàu dầu Atlantic States của Hoa Kỳ, gây hư hại nhưng không làm đắm tàu. Các tàu chiến Mỹ được cử đến khu vực để tìm và diệt U-857. Hai ngày sau, một trong số đó là tàu khu trục USS Gustafson dò định vị thủy âm thấy một vật thể dưới nước gần Boston. Nó bắn một số pháo Hedgehog về phía mục tiêu. Các thủy thủ cho biết nghe thấy tiếng nổ không lâu sau đó, rồi ngửi thấy mùi dầu.
Chỉ có thế. Không có bằng chứng nào về U-boat nổi lên mặt nước. Không cả một váng dầu được thấy trên mặt nước. Đọc tiếp, hai người không tin nổi vào mắt mình. Các thẩm định viên của hải quân phân tích cuộc tấn công của Gustafson đã kết luận rằng:
Chúng tôi cho rằng tuy một tàu ngầm, được biết là đã từng xuất hiện ở khu vực này, có thể đã mất tích, cuộc tấn công này không phải là lý do nó mất tích. Sự kiện này được khuyến nghị xếp hạng “E” − có thể hư hại nhẹ.
“Gượm đã” Kohler nói. “Xếp hạng trong báo cáo tấn công là B − có thể đã đắm.”
“Đúng, nhưng nhìn vào đây” Chatterton nói, chỉ vào báo cáo. “Xếp hạng E ban đầu bị gạch đi. Ai đó đã sửa lại thành B.”
Hai người hiểu sự thay đổi này nghĩa là gì.
“Khốn nạn thật” Kohler nói. “Các thẩm định viên hậu chiến đã sửa báo cáo!”
Chatterton và Kohler gần đây mới biết về các thẩm định viên hậu chiến. Với tư cách là điều tra viên hải quân, nhiệm vụ của thẩm định viên sau cuộc chiến là lập báo cáo cuối cùng về số phận của tất cả các U-boat. Phần lớn trường hợp đều có bằng chứng rất rõ ràng, công việc của thẩm định viên thật đơn giản. Trong số ít trường hợp hiếm hoi hơn, khi số phận một U-boat không có thông tin rõ ràng, các thẩm định viên sẽ tìm cách biện dẫn: họ ghét phải để lại trong sách sử các câu hỏi ngỏ.
“Chắc hẳn là chuyện này cũng vậy” Chatterton nói. “Chiếc Gustafson không hề đánh đắm U-857. Chiếc U-boat sống sót qua đợt tấn công từ Hedgehog, tiếp tục đi qua Boston rồi đắm ở một nơi khác. Sau cuộc chiến, các thẩm định viên cần lời giải thích cho việc U-857 mất tích. Thế là họ vin vào cuộc tấn công hết sức đáng ngờ của Gustafson và nói ‘Chúng ta sẽ thăng hạng cho nó từ E lên B.’ Họ chẳng bận tâm chuyện thẩm định viên ban đầu biết rằng Gustafson không hề làm đắm tàu ngầm. Họ chỉ muốn có lời giải thích cho U-857 để rảnh tay làm việc khác.”
Trong một chốc cả hai người chỉ lắc đầu.
Cuối cùng Kohler lên tiếng: “Nếu Gustafson không đánh đắm U-857 ngoài khơi Boston thì chuyện gì đã xảy ra với nó?”
“ Chúng ta sẽ phải tự tìm hiểu thôi” Chatterton nói.
Hai người ra soát nhiều tài liệu của Đức khác. Một giờ sau họ có câu trả lời.
Theo nhật ký Đức, U-857 đã nhận lệnh đi tiếp về phía nam dọc bờ đông Hoa Kỳ. Cuộc tấn công cuối cùng của nó là nhằm vào một con tàu ngoài khơi mũi Cod. Có nghĩa là chỉ đi thêm 300 km nữa, về phía nam, là đến New York và New Jersey.
Chatterton và Kohler đều bất động. Ngay đây là một U-boat thỏa tất cả các tiêu chí họ đề ra, có lẽ đã neo đậu bên cạnh tàu của Horenburg, có khả năng đã sống sót sau pháo của Gustafson và được phe Đức cho là đang trên đường tới New Jersey.
“Chắc chắn là U-857” Chatterton nói.
“Tôi nghĩ chúng ta đã xác định được xác tàu rồi” Kohler nói.
Tuy nhiên họ vẫn còn phải kiểm tra hồ sơ của U-879. Một lần nữa, họ thấy lịch sử bị phá hỏng.
Trong vòng nửa thế kỷ qua, nhiều thẩm định viên đã cho U-879 ba số phận: đầu tiên họ tuyên bố nó mất tích không dấu vết, sau đó là chìm ngoài khơi Halifax trong lãnh hải Canada, rồi chìm ngoài khơi mũi Hatteras ở bang Bắc Carolina. Đào sâu tìm hiểu hơn, hai thợ lặn nhận thấy kết luận hiện tại của nhà sử học hải quân Đức Axel Niestlé rằng U-879 đã bị đắm ngoài khơi mũi Hatteras là chính xác. Nhưng bài học quá rõ ràng và giờ đã thành quen thuộc: lịch sử thành văn vẫn có thể sai. Các đánh giá cẩu thả và sai lầm được vội vã đưa vào thư lục chính thức, rồi lại được các sử gia tin tưởng và sau đó họ xuất bản tài liệu tham khảo trình bày lại sai lầm ban đầu. Trừ phi người nào đó, như Chatterton và Kohler sẵn sàng bỏ bê công việc để tới Washington, đào xới trong núi tư liệu lắt léo, ngủ đêm trong các phòng trọ xập xệ, ăn hot dog bán trên vỉa hè và cứ mỗi hai giờ lại chạy ù ra nhét xu vào đồng hồ tính tiền đậu xe, anh ta sẽ cho rằng sách sử là đúng. Khi họ rời Washington về New Jersey đêm đó, Chatterton và Kohler ăn mừng thành tựu điều tra của mình: một nghiên cứu độc đáo gần như đã chứng minh được U-Gì là U-857. Trên đường, cả hai kinh ngạc nhận thấy thật dễ dàng có cái nhìn phiến diện về thế giới nếu chỉ dựa dẫm vào chuyên gia và tầm quan trọng của việc tự thân vận động.
Bây giờ, khi đã có nhiều bằng chứng cho thấy con tàu là U-857, Chatterton và Kohler quyết dành phần còn lại của mùa nghỉ 1992-1993 để hoàn thiện công cuộc chứng minh.
Về phần mình, Chatterton đăng rao vặt trên tạp chí Proceedings – ấn phẩm của Viện hải quân Hoa Kỳ – để tìm thông tin về cuộc tấn công U-857 của USS Gustafson. Một số thủy thủ trên Gustafson, giờ đã ở tuổi thất thập, phản hồi lại mẩu rao vặt. Chatterton phỏng vấn họ về cái ngày họ tấn công chiếc U-boat ngoài khơi Boston. Tuy đây là niềm tự hào lớn của đời họ, không ai cung cấp được thêm bằng chứng gì ngoài những gì họ báo cáo năm 1945. Họ đã bắn Hedgehog và ngửi thấy mùi dầu. Hết.
Chatterton không đành lòng nói với những người lính đã săn tìm U-boat để bảo vệ tổ quốc này rằng chiến công mà họ hãnh diện bao năm qua có khả năng không hề tồn tại.
Trong một cuộc phỏng vấn, có thủy thủ mời Chatterton tham gia cuộc họp mặt “Greasy Gus” của họ sắp tới. Ông đề nghị Chatterton nói về nghiên cứu của mình. Trong lúc nghĩ về lời mời, Chatterton nhận ra một điều kỳ khôi: Anh đã vượt bão đạn để chạy tới nơi đồng đội ngã xuống ở Việt Nam, đã bơi dưới hàng tấn thép chỉa ra từ một con tàu ngầm hư hại, thế mà lại cảm thấy sợ hãi khi phải trình bày trước những người già cả trong cuộc liên hoan của họ. Anh đoán chắc mình không thể dự cuộc hội ngộ đó và nói với họ rằng câu chuyện họ vẫn kể cho cháu mình về việc đánh đắm chiếc U-boat là không đúng, rằng lịch sử đã có sai sót và rằng chiếc Greasy Gus đã bắn trượt. Chatterton cảm ơn người thủy thủ nhưng nói rằng anh không thể tham dự.
Về phần mình, Kohler lên đường tìm kiếm bậc thầy về U-boat. Suốt nhiều thập kỷ, Robert Coppock là người chăm lo tư liệu U-boat của Anh, trong đó có tư liệu lấy được của phe Đức và ông vẫn đang làm việc cho Bộ quốc phòng Anh ở London. Theo một cán bộ lưu trữ Kohler từng gặp, không ai có hiểu biết toàn diện về tư liệu U-boat như Coppock. Và không ai có liên hệ sâu rộng trong cái thế giới đôi khi mịt mù của các sử gia, nhà lý luận và nhà nghiên cứu về U-boat.
“Ông ấy vẫn làm việc sao?” Kohler hỏi.
“Từ đời nào rồi” người cán bộ đáp.
Hôm sau, Kohler gọi sang London.
Một phụ nữ giọng Anh trả lời trong tiếng lẹt xẹt nhiễu âm.
“Scotland Yard đây. Tôi có thể giúp gì?”
Kohler nghĩ mình đã nhầm số nhưng không dám gác máy. Việc được kết nối với trụ sở chống tội phạm huyền thoại là quá hấp dẫn, anh không dám bỏ lỡ. Anh lắng nghe tiếng nhiễu một thoáng, tưởng tượng ra những người đội mũ săn chạy nhốn nháo, miệng hô “Án mạng!”
“Đây là Scotland Yard. Có ai ở đó không ạ?”
Kohler cuối cùng cũng nói: “Hẳn là tôi nhầm số. Tôi đang tìm ông Robert Coppock ở Bộ quốc phòng.”
“Đợi một chút, tôi sẽ kết nối anh với ông Coppock” người phụ nữ nói.
Kohler không kiềm chế được cảm xúc khi chờ Coppock. Đây là lần đầu tiên anh nói chuyện với người có giọng Anh. Bên kia Đại Tây Dương, trong một văn phòng lớn với những tủ hồ sơ xám xịt cao tới trần, nội thất chuẩn văn phòng, băng đóng trên cửa sổ, ông Coppock với mái tóc bạc trắng ngồi xuống giữa những sử liệu U-boat và nhấc ống nghe. Kohler tự giới thiệu.
“À vâng, là anh thợ lặn ở New Jersey” Coppock nói. “Tôi có biết anh. Tôi vẫn rất quan tâm theo dõi cuộc phiêu lưu của các anh. Tôi cảm thấy đây là một bí ẩn hết sức ly kỳ.”
Coppock hỏi Kohler rất chi tiết: về nghiên cứu của các thợ lặn, về U-Gì, về những người họ đã liên hệ, về Horenburg. Kohler trả lời tất cả, trong lòng vui vẻ vì được Coppock đối xử như đồng nghiệp chứ không như một gã trai Brooklyn đang trễ hẹn thay cửa sổ cho một cửa hàng KFC, chính là tình cảnh của anh hiện giờ. Khi Coppock hỏi liệu các thợ lặn có đưa ra giả thuyết nào không thì Kohler trình bày về U-857.
Coppock lắng nghe chăm chú, rồi nói rằng lập luận của Kohler về U-857 chính là xác tàu tại New Jersey có vẻ rất thuyết phục. Ông hỏi Kohler có muốn ông kiểm tra tư liệu cùng nguồn tin mình có và tìm hiểu sâu hơn vấn đề không.
Kohler suýt nữa thì bật ra “Hết sảy!” Thay vào đó, anh kiềm chế được: “Vâng, thưa ông, tôi sẽ hết sức biết ơn nếu được như vậy. Cảm ơn ông rất nhiều.”
Trong khi đang phóng xe tải đến sửa cửa sổ cho tiệm KFC, Kohler gọi Chatterton.
“John này, tôi đã nói chuyện với Coppock. Ông già đó phải 75 tuổi rồi nhưng vẫn minh mẫn lắm. Lại còn làm việc ở Scotland Yard nữa chứ!”
“Ông ấy nói sao?” Chatterton hỏi. “Tôi tò mò muốn chết đây…”
“ Tôi trình bày giả thuyết về U-857. Ông ấy bảo nghe “thuyết phục đấy.” Ông ấy rất thích và sẽ tự tìm hiểu thêm.”
“Tuyệt” Chatterton nói. “Chúng ta đang có một chuyến phiêu lưu tuyệt vời.”
“Đúng thế” Kohler nói. “Một chuyến phiêu lưu tuyệt vời.”
Không lâu sau khi Kohler nói chuyện với Coppock, các thợ lặn liên hệ với Horst Bredow và “Charly” Grützemacher ở Đức để trình bày về U-857. Mỗi người đều lắng nghe bằng chứng, lấy ra tài liệu mình có, hỏi vài câu rồi nhất trí: U-Gì gần như chắc chắn là U-857. Kohler gọi lại cho Scotland Yard (thật ra là Great Scotland Yard, không phải đồn cảnh sát lừng danh) để cập nhật với Coppock. Cuộc trò chuyện lần này khá chóng vánh. Coppock nói với Kohler rằng ông đã tham khảo các tài liệu và ngẫm nghĩ về giả thuyết của các thợ lặn. Cũng như lần trước, ông tin rằng khả năng cao các thợ lặn đã khám phá ra U-857.
Trong những tháng đầu năm 1993, Chatterton và Kohler tiếp tục hẹn nhau ăn bít-tết hoặc pizza. Song họ không còn phỏng đoán về danh tính con tàu nữa: điều đó đã được xác định. Thay vào đó, họ bắt đầu hình dung cách con tàu bị kết liễu. Đến lúc này, họ đã tham khảo vài chuyên gia về hỏa lực. Tất cả bằng chứng đều chỉ về một hướng: chiếc U-boat bị phá hủy trong một cú nổ lớn, khả năng cao từ ngư lôi.
Nhưng ngư lôi của ai? Nếu một tàu ngầm Đồng Minh bắn ngư lôi thì việc đó đã được ghi lại rồi. Nếu một U-boat khác đã khai hỏa và vô tình trúng con tàu thì điều này cũng phải được ghi lại. Chẳng lẽ một trong những quả ngư lôi của chính con tàu đã vô tình phát nổ từ bên trong? Không thể nào, vì hư hại cho thấy con tàu bị tấn công từ bên ngoài. Có vẻ như chỉ còn một lời giải thích duy nhất. Các thợ lặn đã đọc về những vụ hệ thống dẫn hướng của ngư lôi bị trục trặc, khiến quả ngư lôi đổi hướng và quay về phía chính con tàu ngầm đã phóng nó. Những quả ngư lôi lạc lối như vậy được gọi là “đạn chạy vòng” và vài U-boat đã gặp tình huống đó.
“Hãy tưởng tượng anh là Rudolf Premauer − chỉ huy của U-857” Kohler nói với Chatterton ở tiệm Scotty’s một tối nọ. “Anh đã vượt qua những vùng nước đầy băng và những bầy máy bay Đồng Minh từ tận Na Uy đến Hoa Kỳ. Anh thoát chết hú hồn khỏi nanh vuốt một nhóm tìm và diệt ngoài khơi Boston và giờ thì anh ở New Jersey, chỉ cách Manhattan vài km. Anh xác định có mục tiêu từ xa. Anh lệnh cấp dưới vào vị trí chiến đấu, leo lên tháp chỉ huy, giương kính tiềm vọng. Anh đã khóa mục tiêu. Anh ra lệnh “Bắn ngư lôi!” Quả ngư lôi lao ra ngoài ống. Tất cả im lặng trong hy vọng, đợi chờ một tiếng nổ xa. Không thấy gì. Rồi từ phòng âm thanh, trắc thủ thủy âm nói: “Đạn-chạy- vòng! Chúng ta có đạn-chạy-vòng! Ngư lôi của chúng ta đang hướng về phía chúng ta!” Premauer lệnh cho tàu ngầm lặn gấp, đó là cơ hội sống sót duy nhất. Giờ thì là một cuộc đua giữa U-boat và ngư lôi của chính nó và chỉ có một câu hỏi: Liệu U-boat có kịp lặn trước khi quả ngư lôi tới? Tất cả tìm mọi cách để hạ tàu. Họ sẽ có 20 giây? Năm giây? Họ không biết. Họ cố hết sức. Quá muộn. Quả ngư lôi đã tới. Ba trăm ký TNT. Quá muộn rồi.”
“Và điều đó giải thích tại sao không có báo cáo sự cố nào trong khu vực này” Chatterton nói. “Cõ lẽ là vào ban đêm. Lúc ấy là mùa đông. Khi quả ngư lôi trúng U-boat, không ai trên tàu mục tiêu nghe thấy vì chuyện xảy ra dưới nước và cho dù có nghe thấy một tiếng nổ lờ mờ thì… hừm, thời chiến mà, đâu chẳng có tiếng nổ lờ mờ. Chiếc U-boat đắm và không ai biết nó đã ra đi.”
Hai người im lặng chọc chọc đồ ăn suốt cả phút.
“Tưởng tượng cảm giác của tay trắc thủ thủy âm khi nhận ra quả ngư lôi đang quay lại xem” Kohler nói.
“Tưởng tượng cảm giác khi anh biết chắc rằng hoặc đời anh sẽ tiêu tùng trong mấy giây nữa hoặc quả ngư lôi chạy vòng sẽ bắn trượt xem” Chatterton nói. “Không có khả năng ở giữa. Anh biết hoặc anh, hoặc nó.”
Sáng hôm sau, Chatterton tìm trong hàng chồng danh sách đoàn thủy thủ mà anh chép lại từ kho lưu trữ của Bredow ở Đức. Ở cuối là U-857. Anh nhìn danh sách: 59 người với tên như Dienst và Kausler, Löfgren và Wuff. Một số chỉ 19, 20. Sĩ quan thông tin là Erich Krahe, sinh ngày 14 tháng ba năm 1917. Nếu một quả ngư lôi chạy vòng đã kết liễu U-boat này thì có lẽ anh ta sẽ là người nhận ra đầu tiên. Kohler lục trong số sách anh có tìm ảnh của chỉ huy Premauer 25 tuổi. Chatterton và Kohler vẫn còn hai tháng trước mùa lặn năm 1993, đủ thời gian để tìm hiểu thêm về năm cuối cùng của chiến tranh U-boat, năm lên đường của những con người mà họ vừa khám phá được.
Đến năm 1993, Kohler đã tập hợp được một bộ sưu tập sách về U-boat xứng tầm thư viện một trường đại học. Giờ anh đang trải chúng trên sàn phòng khách như trẻ con bày thẻ bóng chày và chia chúng thành hai nửa. Anh sẽ cho Chatterton mượn một nửa để nghiên cứu, giữ nửa còn lại cho mình. Hai người họ đang nắm trong tay câu chuyện của những con người tham gia chiến dịch U-boat cuối cùng, những con người đã bỏ mạng trên xác tàu họ tìm được.
Chatterton và Kohler ngồi vào ghế đọc sách ở nhà và bắt đầu từ trang nhất: những tàu ngầm nguyên thủy đã tồn tại từ thời Cách mạng Hoa Kỳ. Họ bắt đầu táy máy ở trang hai: ngư lôi được một kỹ sư người Anh phát minh năm 1866. Không ai chờ đến trang ba. Hai thợ lặn cần biết chuyện gì đã xảy đến với đoàn thủy thủ của họ. Họ lật sách tới những chương cuối. Họ tìm được hàng trăm trang lịch sử đẫm máu.
Gần cuối cuộc chiến, hơn 30 ngàn thủy thủ U-boat trong lực lượng khoảng 55 ngàn đã hy sinh: tỷ lệ tử vong gần 55%. Không một binh chủng trong lực lượng vũ trang của một quốc gia hiện đại nào từng gánh chịu tỷ lệ tử vong lớn như vậy mà vẫn tiếp tục chiến đấu. Trừ U-boat. Nhưng chuyện còn tệ hơn thế. Thương vong lớn nhất hóa ra thuộc về thủy thủ U-boat trong thời kỳ chiến tranh sắp kết thúc.
Một U-boat ra trận đầu năm 1945, như U-857, chỉ có 50% cơ hội sống sót quay về từ chuyến tuần tiễu. Tuổi thọ trên tàu trung bình của một thủy thủ thời kỳ đó không quá 60 ngày. Những người được phái đến lãnh hải Hoa Kỳ và Canada gần như không bao giờ trở về. Nhiều năm qua, hai người đã đọc hàng chục quyển sách về chiến tranh, nhưng không gì khiến họ rúng động như những trang cuối của mấy tập sách này. Khi nghiền ngẫm con số thương vong, Chatterton và Kohler thấy mình mong mỏi một kết cục có hậu hơn, không phải cho Quốc Xã hay cho nước Đức, mà cho vài thủy thủ, một trong số những chàng trai trẻ, chủ nhân của đôi ủng vẫn nằm ngay ngắn trong U-Gì tả tơi. Khi không tìm được hy vọng nào cho những người lính U-boat cuối cuộc chiến, hai thợ lặn gọi điện cho nhau, nhất trí rằng trước đây mình chưa từng đắm chìm trong sách nhường này bởi chưa từng cảm thấy mình đang đọc về những người mà mình biết.
Trong hầu hết các câu chuyện, lính U-boat cuối cuộc chiến không những đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của Thế Chiến II mà còn chiến đấu một cách hào hiệp và quả cảm, dù luôn biết mình chẳng có mấy cơ hội sống sót. Quân Đồng Minh đã dự đoán chuyện nổi loạn trên những chiếc U-boat bạc phận này. Điều đó không bao giờ xảy ra. Quân Đồng Minh cũng kỳ vọng là những chiếc U-boat bạc phận này sẽ đầu hàng. Điều đó cũng không bao giờ xảy ra. Tháng một năm 1945, ngay cả khi quân Đồng Minh tìm và diệt U-boat với nhịp độ đều đặn không suy suyển, Churchill vẫn triệu tập các chỉ huy quân đội cấp cao nhất và cảnh báo họ về “tinh thần tiến công quyết liệt hơn nhiều” của các U-boat trên biển. Chính ý nghĩ rằng người lính U-boat bại trận đang nỗ lực không đơn thuần chỉ để sống sót khiến Chatterton và Kohler tiếp tục say sưa đọc sách.
Tháng mười năm 1940, ở cao điểm của “Thời kỳ hạnh phúc” theo lời lính tàu ngầm Đức, các U-boat đã đánh đắm 66 tàu mà chỉ hy sinh một tàu. Lực lượng U-boat có “Thời kỳ hạnh phúc” thứ hai vào đầu năm 1942 với chiến dịch Tiếng trống − hoạt động đột kích vào tàu Mỹ ngoài khơi bờ đông Hoa Kỳ. Trong chiến dịch đó, U-boat tới gần bờ biển Hoa Kỳ tới mức các thủy thủ có thể ngửi thấy mùi rừng từ trên boong, ngắm ô tô chạy trên đại lộ và bắt sóng phát thanh Mỹ để nghe thứ nhạc jazz mà nhiều người trong số họ yêu thích. Những tuần đầu của Tiếng trống là một cuộc thảm sát khi U-boat phóng ngư lôi vào các tàu không được phòng vệ. Xác người, dầu, mảnh vỡ tàu trôi dạt vào đất liền dọc bờ đông. Năm tháng sau, chỉ vài U-boat đã đánh đắm gần 600 tàu trên lãnh hải Hoa Kỳ mà đổi lại chỉ hy sinh sáu tàu − thất bại thảm hại nhất trong lịch sử hải quân Hoa Kỳ. Ở Đức, U-boat được chào đón về cảng với nhạc, hoa và các cô gái đẹp. Churchill viết: “Thứ duy nhất thực sự làm tôi sợ hãi trong cuộc chiến là hiểm họa U-boat.” Trong một thế giới mà kẻ tí hon có thể trở nên vô hình thì người khổng lồ không còn được an toàn nữa.
Song người Mỹ không để mình yếu thế lâu. Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện việc hộ tống − một chiến lược hàng hải cổ xưa trong đó các tàu có vũ trang sẽ bảo vệ cho các nhóm tàu đi cùng nhau. Giờ đây, khi một U-boat bắn vào một tàu Đồng Minh, sẽ có các tàu hộ tống phát hiện, truy đuổi và tiêu diệt nó. Khi số lượng các đoàn hộ tống tăng lên thì số tàu mà U-boat đánh đắm giảm xuống gần như bằng không.
Các nhà khoa học tham chiến từ các phòng nghiên cứu và đại học Hoa Kỳ. Một trong những vũ khí lợi hại nhất của họ là rađa. Ngay cả trong bóng tối tuyệt đối hoặc khi có bão dữ dội, máy bay và tàu trang bị rađa có thể phát hiện tàu ngầm nổi lên từ xa. Nếu như trước đây tàu ngầm được hưởng sự xa xỉ của việc vận hành trên mặt nước, nơi tàu có thể di chuyển nhanh hơn nhiều khi lặn trong nước, thì giờ đây tàu ngầm đột nhiên phải gánh chịu các cuộc tấn công từ máy bay Đồng Minh bỗng hiện ra trên bầu trời như có phép màu. Suốt một thời gian, tư lệnh lực lượng U-boat là Karl Dönitz đã không hình dung hết mối đe dọa từ rađa. Lính tàu ngầm của ông ta tiếp tục thiệt mạng. Ngay cả khi nước Đức cuối cùng cũng hiểu được sự nghiêm trọng của tình hình, các U-boat hầu như không làm được gì hơn là chìm xuống dưới nước và nằm dưới đó, nơi chúng được bảo vệ khỏi rađa nhưng cũng trở nên quá chậm chạp để truy bắt hay trốn chạy đối phương.
Môi trường dưới biển cũng có những hiểm họa riêng. Một tàu Đồng Minh nghi ngờ có U-boat chìm dưới nước ở gần mình có thể dùng định vị thủy âm, tức là phát các sóng âm, để tìm tung tích. Một khi định vị thủy âm vọng lại từ vỏ kim loại của tàu ngầm, chiếc U-boat coi như tàn đời: vừa không thể chạy thoát địch ở dưới nước, vừa như cá trong chậu nếu quyết định nổi lên mặt nước và dùng súng chiến đấu.
U-boat phụ thuộc vào điện đài để liên lạc với sở chỉ huy ở Đức. Các bộ óc phe Đồng Minh vồ lấy sự lệ thuộc này. Họ phát triển một hệ thống thăm dò điện đài gọi là “Huff-Duff ” (từ HF/DF high frequency detection finding, hay “dò hướng cao tần”) cho phép tàu Đồng Minh trên biển định vị được U-boat. Khi tàu ngầm dùng điện đài, dù chỉ để báo cáo về thời tiết, thì cũng đồng nghĩa nó đang phát sóng vị trí của mình cho địch. Quân Đồng Minh ngay lập tức cử các nhóm tìm-diệt tới chỗ các U-boat đã bại lộ.
Có lẽ đột phá hiểm hóc nhất mà phe Đồng Minh có được là phá mã. Từ đầu cuộc chiến, quân đội Đức đã mã hóa thông tin liên lạc bằng một máy mật mã gọi là Enigma − một thiết bị hình hộp, trông tựa như một cái máy đánh chữ, có khả năng tạo ra hàng triệu tổ hợp ký tự. Enigma được Bộ tổng tư lệnh Wehrmacht cho là bất khả chiến bại, là thứ mật mã vững chãi nhất từng được tạo ra. Những chuyên gia giải mã phe Đồng Minh ước tính khả năng một người có thể phá được Enigma mà không nắm trong tay mật mã là 1 trên 150 tỷ tỷ. Nhưng họ vẫn cứ tìm cách. Trên cơ sở công trình tiên phong nhiều năm của nhóm giải mã người Ba Lan, cộng với việc bắt được một máy Enigma cùng tài liệu then chốt, các đội chuyên gia về mật mã, toán học, Ai Cập học, khoa học, giải đố ô chữ, ngôn ngữ học và cờ vua đã dành nhiều tháng trời để thách thức Enigma, thậm chí còn xây dựng máy tính lập trình được đầu tiên của thế giới để hỗ trợ công tác này. Bất chấp áp lực và căng thẳng tinh thần chất ngất, họ vẫn kiên trì. Nhiều tháng sau, với sự hỗ trợ từ tình báo ngầm, họ đã phá được khóa: một trong những thành tựu trí tuệ vĩ đại nhất của thế kỷ XX. Đến cuối năm 1943, phe Đồng Minh đã sử dụng thông tin Enigma chặn bắt được để chỉ dẫn các đội tìm-diệt tới chỗ các U-boat mà U-boat không mảy may hay biết. Dönitz nghi rằng Enigma đã bị hóa giải, nhưng lại liên tục được các chuyên gia trấn an rằng Enigma là vô địch. Quân Đồng Minh tiếp tục đọc thư từ Đức và U-boat tiếp tục đắm.
Đến mùa xuân năm 1943, U-boat đã hoàn toàn rơi vào nanh vuốt Đồng Minh, không có nơi nào an toàn trên đại dương. Tháng năm năm đó, 41 U-boat bị lực lượng Đồng Minh tiêu diệt − thảm họa được gọi là “Tháng năm Đen Tối” và “không thể tưởng tượng nổi, ngay cả trong những giấc mơ hoang đường nhất của tôi” theo lời Dönitz. “Thời kỳ hạnh phúc” đã nhường chỗ cho Sauregurkenzeit. Thợ săn của những năm đầu chiến tranh đã biến thành con mồi.
Đến đầu năm 1945 thì cơ hội đánh phá địch thành công, thậm chí sống sót của U-boat đã suy giảm đáng kể. Trên tàu, các thủy thủ trẻ thế chỗ cho lính tinh nhuệ, tức lực lượng tuyển chọn từng hứa hẹn sẽ thống trị thế giới thời kỳ đầu cuộc chiến. Các thành phố Đức bị bom Đồng Minh tàn phá. Để mất Pháp. Quân đội Nga đã tiến vào lãnh thổ Đức. Trên tàu ngầm, với xung quanh là những sát thủ có khả năng biết trước mọi hành tung của mình, thủy thủ U-boat còn không thể mơ về một bến bờ an toàn ở quê nhà. Nước Đức của họ đang gục ngã.
Khi Chatterton và Kohler nghiền ngẫm những năm cuối của cuộc chiến U-boat, trong mỗi người đều dâng lên niềm tự hào mới mẻ về sự sáng trí và ngoan cường của quân Đồng Minh, về cách Hoa Kỳ có thể đào sâu vào bản năng khao khát tự do của quốc gia và vươn lên đối mặt với một trong những mối đe dọa kinh hoàng nhất trong lịch sử thế giới cho đến khi thế giới được an toàn trở lại. Song cả hai đều không thể quên về những thủy thủ nằm chết trong xác tàu. Họ không chia sẻ với vợ, với đồng nghiệp hay bạn bè những ý nghĩ ấy. Thay vào đó, họ hẹn nhau ở quán Scotty’s.
Cuộc trò chuyện tối đó không giống với lần trò chuyện trước bên bàn ăn tối của hai người. Trước đó, Chatterton và Kohler nói chuyện vĩ mô: về nghiên cứu, lý thuyết, chiến lược − những suy nghĩ lớn về việc giải đáp bí ẩn U-Gì. Lúc này, khi đã hiểu tình thế tuyệt vọng của thời kỳ cuối cuộc chiến U-boat, họ bắt đầu tư duy ở bình diện thấp hơn: bình diện cuộc sống của những người đã ràng buộc với cuộc đời họ.
Liên tục họ hỏi nhau “Làm sao những người ấy có thể tiếp tục chiến đấu nhỉ?” Một phần đáp án, theo Chatterton và Kohler, nằm ở lời mô tả của chính Dönitz về người thủy thủ U-boat. Ông ta gọi họ là một Schicksalsgemeinschaft, tức cộng đồng cùng chung số phận, trong đó mỗi người lại “phụ thuộc vào những người còn lại và vì thế cũng ràng buộc bằng thề nguyện với những người còn lại”. Đối với các thợ lặn, một đoàn anh em như thế thể hiện tình nghĩa cao quý nhất của con người và bên cốc cà phê sau bữa tối, họ thấy dường như tình nghĩa đó cũng biểu hiện cho mối quan hệ giữa chính họ.
Có một đáp án khác mà cả hai đều nghĩ đến nhưng không ai nói ra. Họ thấy đa số mọi người dường như sống cả đời mà không thực sự hiểu chính mình. Một người có thể cho rằng mình cao quý, quả cảm, công chính, nhưng trước khi trải qua thử thách đích thực thì những thứ đó chỉ là quan điểm cá nhân mà thôi. Trên hết, chính điều này đã khiến các thợ lặn rung động khi đọc câu chuyện về thủy thủ U-boat cuối cuộc chiến. Dù biết nỗ lực của mình là vô ích, thủy thủ vẫn ra biển với quyết tâm tiến công. Khi hai người tạm biệt nhau tối hôm ấy, họ băn khoăn phải chăng mình cũng đang tiến tới một thử thách tương tự. U-Gì đã cướp đi sinh mạng của ba thợ lặn. Chatterton và Kohler giờ có thể rút lui, bỏ ngang nỗ lực định danh con tàu. Dù sao họ cũng đã chắc chắn về danh tính của nó. Nhưng khi lái xe về nhà, mỗi người đều băn khoăn: Nếu bỏ cuộc thì mình sẽ thành người thế nào? Sẽ như thế nào nếu cuộc đời thử thách và mình không dám đương đầu?