Chương 11 Tín hiệu bỏ lỡ
CUỐI THÁNG NĂM NĂM 1993, khi các cư dân của Brielle bắt đầu dụi mắt tiễn biệt mùa đông, các thợ lặn đặt Seeker cho chuyến lặn U-boat đầu tiên của mùa. Đến giờ thì Chatterton và Kohler đã gọi xác tàu là U-857 và thậm chí đã công bố phát hiện của mình trước các khán giả xem lặn biểu diễn. Nhiều người hỏi vì sao họ vẫn dự định tiếp tục thăm dò con tàu nguy hiểm đến vậy khi đã suy đoán được danh tính của nó. Họ đáp rằng chừng nào họ chưa tìm được bằng chứng từ chính con tàu, tất cả mọi thứ chỉ là quan điểm cá nhân. Họ không vượt qua chừng ấy gian nan chỉ để đứng trên quan điểm thuần tuý.
Chuyến lặn U-boat đầu tiên của năm 1993 được xếp lịch vào ngày 31 tháng năm, tức Ngày chiến sĩ trận vong27*. Khi lái xe tới cầu tàu của Seeker, Chatterton và Kohler đều cảm thấy mãn nguyện hơn bao giờ hết. Chatterton là tác giả của tất cả các khám phá quan trọng trong xác tàu, đã tới những chỗ trong tàu mà chưa thợ lặn nào đặt chân tới. Anh đã nghiên cứu không ngừng nghỉ đến khi trí não anh cho ra một đáp án mà ngay cả những chuyên gia U-boat vĩ đại nhất thế giới cũng không thể phản bác.
Kohler cũng có một sự mãn nguyện tương tự. Hai năm trước, anh là vua đào xới và là một kẻ cuồng tín của Atlantic Wreck pers. Anh từng sống vì hiện vật và quậy tưng giữa những cuộc lặn. Nhưng khi anh tìm hiểu về chiếc U-boat và cảm nhận những thủy thủ của nó, khi anh quan sát Chatterton dành cả chuyến lặn chỉ để quay video phục vụ nghiên cứu sau đó, khi anh tự mình nghiên cứu và góp phần sửa lại lịch sử, gọng kìm của thói quen cũ bắt đầu lỏng dần và anh cảm thấy mình không chỉ là thợ lặn mà còn là nhà thám hiểm − người nắm trong tay tấm vé đi vào lãnh địa của ước vọng thơ ấu.
Không phải ai cũng hân hoan chào đón sự biến đổi này. Trong mùa nghỉ vài đồng đội trong Atlantic Wreck pers với Kohler đã to tiếng với anh vì sự phản bội này. “Sao, cậu đang lặn với bạn mới hả?” Họ hỏi khi Kohler sắp xếp được thời gian để lặn cùng họ mùa xuân năm đó. “Lặn với thằng khốn gắn rào vào Doria có hay lắm không?”
Suốt một thời gian, những lời chỉ trích ấy làm tổn thương Kohler. Đó là những người đã đưa Kohler đến với lặn thám hiểm, nhờ được họ dìu dắt anh mới sống sót đến giờ. Chatterton có thể thấy sự đả kích của họ cứa sâu vào lòng Kohler như thế nào và anh lên tiếng.
“Bạn của anh đã có dự định cho mùa này” Chatterton nói với Kohler. “Lặn Oregon thêm lần nữa. Lặn San Diego thêm lần nữa. Họ muốn gì, một cái đĩa nữa từ Oregon sao? Một cái bát chẳng khác gì cả tá bát họ có? Thật nhảm nhí, Richie. Việc đó đi ngược lại tinh thần của lặn. Anh không tin vào nó. Nếu tin thì anh đã chẳng lặn U-boat.”
Kohler luôn trả lời cùng một cách: “Anh nói đúng, John ạ. Tôi giờ đây khác rồi.”
Khác đến độ Kohler thậm chí dành thời gian trong mùa nghỉ để chuyển đổi sang trimix. Anh thấy lợi ích và tính an toàn của loại khí mới đã biến đổi hoạt động lặn của Chatterton và Yurga như thế nào. Và anh tin rằng cái chết của cha con nhà Rouse đến từ quyết định một lần dùng khí thường. Kohler chuyên chú đến mức anh còn cai cả thuốc lá để có thể tối ưu hóa năng lực khi ở dưới nước.
Bãi đậu xe của Brielle thậm chí còn hiu quạnh hơn cả thông thường, nhưng không thợ lặn nào lấy làm lạ. Nếu cái chết của Feldman khiến U-Gì bắt đầu mang tiếng là cái bẫy tử thần thì cái chết của cha con nhà Rouse đã củng cố vững chắc tai tiếng đó. Cộng đồng lặn đồn với nhau rằng có cả ngàn cách chết trên xác tàu này và nếu không phải chết vì độ sâu thì cũng là vì những dây dợ và thép tua tủa trên tàu. Chuyến lặn khá đắt đỏ: 150 đô la chỉ để ra đó. Hầu như chẳng có hiện vật nào đáng để trưng trong nhà. Báo đài từ lâu đã không còn đưa tin. Những thợ lặn đủ khả năng xuống độ sâu này muốn có chiến lợi phẩm và sống sót trở về. Đa số thẳng thừng từ chối U-Gì.
Trên Seeker, các thợ lặn bắt tay và trao đổi chuyện mùa nghỉ. Gần nửa đêm, một bộ xương lảo đảo đi từ Horrible Inn về phía Seeker. Không ai nói một lời. Nhân vật này tới gần, chân lê trên nền đất của bãi đậu xe khi đi về phía cầu tàu. “Bill kìa” có tiếng thì thào.
Mặt Nagle vàng vọt vì bệnh vàng da và lốm đốm các vết bầm tím. Tóc anh nhờn dầu và áo thì cáu bẩn. Anh có lẽ chỉ nặng năm mấy ký, da chân nhão ra, duy nhất cái bụng ỏng cho thấy đây là một người đàn ông từng ham hưởng thụ. Dưới tay anh là chiếc túi ngủ cao bồi-và-thổ dân vẫn dùng từ thuở nhỏ, chính chiếc túi ngủ anh mang theo khi lấy chuông từ Andrea Doria trong những ngày tháng ở đỉnh cao thế giới.
Các tay lặn cố tỏ ra hân hoan. “Chào Bill” có người nói. “Seeker trông tươm đấy Bill” một người khác nói. Khi rời bến đêm đó, tất cả những người trên tàu đều cảm tạ là trên tàu có Chatterton và Crowell − hai thuyền trưởng lành nghề và tỉnh táo.
Trong lúc Seeker rẽ sóng về U-Gì, các thợ lặn duyệt lại kế hoạch lần cuối. Packer và Gatto, đội lặn có lẽ là cừ khôi nhất nước, sẽ thâm nhập vào khoang động cơ diezen. Ngoài các động cơ diezen đồ sộ của con tàu, nơi này còn chứa bảng đồng hồ đo, máy truyền khẩu lệnh và các thiết bị khác có khả năng mang thông tin định danh U-boat. Đến giờ, khoang động cơ diezen vẫn nằm ngoài tầm với, cửa vào bị chắn bởi một hệ thống ống dẫn khí đồ sộ rơi xuống từ phần trên của tàu.
Nhưng Packer và Gatto đã chuẩn bị di dời chướng ngại, kể cả việc phải dùng dây thừng và túi nổi, phương án mạo hiểm trong không gian hẹp. Thâm nhập vào khoang động cơ diezen còn mang lại một lợi ích khác: các thợ lặn sẽ dễ dàng đi vào khoang động cơ điện − nơi duy nhất mà các thợ lặn vẫn chưa thể thâm nhập.
Kế hoạch của Chatterton thì đơn giản hơn. Anh sẽ quay lại phần phía trước của tàu: phòng điện đài, phòng âm thanh, khu chỉ huy, khu sĩ quan − những nơi anh từng thăm dò. Đến được đó rồi thì anh sẽ trở nên gần như bất động.
“Mục tiêu là quan sát” anh nói với Yurga ở trên thuyền. “Mục tiêu là quan sát một đống rác lớn cho đến khi một vật nho nhỏ nào trong đó bắt đầu trở nên đặc biệt hơn những thứ xung quanh. Tôi cần tìm một tia trật tự trong hỗn độn. Nếu bắt tay vào đào xới, tôi sẽ mãi mãi chỉ nhìn thấy đống rác. Nhưng nếu giữ yên lặng và nhìn đủ lâu, tôi nghĩ mình sẽ thấy được thứ gì đó.”
Kế hoạch của Kohler cũng tương tự. Các nghiên cứu trong mùa nghỉ đã hé lộ một loạt ảnh, trong đó thủy thủ U-boat cầm bật lửa, đồng hồ quả quýt hoặc đội mũ mang số hiệu hoặc logo của U-boat. Cũng như Chatterton, anh tin rằng những vật quan trọng sẽ nằm ở phần phía trước của con tàu, nơi thủy thủ ngủ và cất giữ vật dụng cá nhân. Nhưng không như Chatterton, anh sẵn sàng đào xới. Anh tin rằng tay mình sẽ trở thành đôi mắt trong đám mây bùn do chính mình khuấy lên. Anh sẵn sàng thò tay vào mọi nơi anh chắc chắn là không có thi thể.
Ánh dương chói lọi buổi sáng đánh thức tất cả. Cũng như mùa lặn trước, Chatterton và Kohler vỡ nước cùng nhau. Kohler hít trimix, thứ khí ma thuật anh từng cam đoan sẽ giết chết những kẻ ngoại đạo dám sử dụng nó. Anh vẫn sống. Ở độ sâu 30 mét, Kohler kiểm tra xem mình có dấu hiệu say nitơ không, còn Chatterton kiểm tra việc Kohler kiểm tra chính mình. Không dấu hiệu. Ở độ sâu 60 mét, Kohler dừng lại trên dây neo để cảm nhận cảnh tượng trước mắt.
Nếu hít khí thường ở độ sâu này, tầm nhìn của anh đã hẹp lại. “Không thể tin được” anh nghĩ. “Như kiểu xem TV bỏ túi trong bếp so với xem phim ở rạp.” Anh ra dấu OK cho Chatterton. Chatterton mỉm cười. Hai người luồn vào bên trong xác tàu và bơi về phía trước tàu, nơi biết bao thủy thủ đã bỏ mạng, nơi tầm nhìn là then chốt.
Kohler thâm nhập xa nhất tới tận khu hạ sĩ quan, cái nơi anh biết là một nghĩa trang. Chatterton đáp xuống ở khu chỉ huy. Tuy không nói ra với ai, anh tin mình có cơ hội lấy được nhật ký hải trình (nhật ký tác chiến) ở khu vực này. Ở những xác tàu cổ xưa hơn từng có các hiện vật vẫn còn đọc được chữ viết và nhật ký tác chiến sẽ là chiến lợi phẩm tối thượng: tường thuật trực tiếp về nhiệm vụ, mục tiêu, niềm hy vọng, nỗi sợ và kết cục của con tàu. Nếu nhật ký tác chiến vẫn còn thì cũng chỉ những con mắt tinh tường mới tìm thấy nó. Chatterton bắt đầu bất động.
Thoạt đầu, những tàn tích trong khu chỉ huy hiện ra như đống rác, đúng như anh dự đoán. Anh yên lặng cảm nhận quang cảnh. Vẫn rác. Thời gian dần trôi và anh vẫn chuyên chú quan sát, rồi trật tự bắt đầu thành hình từ hỗn độn.
“Cái hình thù đó đáng chú ý đây” Chatterton nghĩ khi vươn tay vào trong đống rác. Anh lôi ra một chiếc ủng da nguyên vẹn.
“Mẩu kim loại kia có vẻ láng bóng hơn thông thường” anh nghĩ và thò vào một đống rác khác. Anh lôi ra một cây pháo sáng.
“Màu nâu đó không phải màu tự nhiên” anh đoán định khi lần mò trong một đụn gỗ vụn. Anh lôi ra túi khí thoát hiểm dành cho thủy thủ, đủ cả bình ôxy, thiết bị thở và áo chẽn.
Trong 20 phút, Chatterton lấy được ba hiện vật quý giá mà anh đã bỏ qua trong những chuyến lặn trước tới khu vực đầu tàu này. Mỗi thứ đều có khả năng có chữ viết. Túi khí thoát hiểm có vẻ hứa hẹn nhất. Ở Đức, Horst Bredow đã hối các thợ lặn tìm thiết bị này: một bình khí mini đi cùng đầu vòi tráng cao su mà các thủy thủ tàu ngầm dùng để thoát khỏi U-boat đang chìm, vì thủy thủ thường viết tên mình ở bên trong. Khi ngoi lên thuyền, Chatterton cảm thấy hãnh diện lạ thường, dù trong phần lớn thời gian giảm áp anh không rõ lý do. Ở độ sâu sáu mét, khi thấy chiếc thuyền lắc lư phía trên, anh hiểu ra. Bằng việc tìm thấy cái đẹp được nguỵ trang bên dưới đống đổ nát, anh đã làm được chính điều từng khiến Nagle trở nên vĩ đại và anh luôn ước mơ trở thành một thợ lặn như Bill Nagle. Khi Chatterton lên thuyền, Nagle lê tới để xem hiện vật. Chatterton có thể ngửi thấy mùi cơ thể của Nagle và nhìn thấy bụi bẩn bám trên tóc anh. Anh khoác tay lên Nagle và nhờ người thuyền trưởng giúp anh tháo đồ. Thật tuyệt, Chatterton nghĩ, khi mình vẫn ước mơ được lặn như Nagle.
Theo sau Chatterton, Kohler lên thuyền và quăng bình khí xuống. Anh chỉ tìm được mấy mảnh vỡ của một bình cà phê, nên anh cũng vội tới bàn lặn để xem hiện vật của Chatterton. Các thợ lặn đặt cái ủng da, cây pháo sáng và túi khí thoát hiểm vào trong một xô nước ngọt rồi tráng. Nagle lấy chiếc ủng ra đầu tiên, chấm chấm khăn vào vết bẩn. Các thợ lặn tụ lại, người nào cũng cố tìm một cái tên, chữ viết tắt hay những ghi chú khác. Nhưng cái ủng trắng trơn: chủ nhân của nó đã không ghi gì.
Tiếp theo, Nagle lấy ra cây pháo sáng hình viên đạn từ xô nước. Đây là thứ mà các thủy thủ sẽ dùng súng lục để bắn lên không trung khi nguy cấp. Anh nhẹ nhàng lau nó như thể chà cây đèn thần. Đáp lại, những dòng chữ tiếng Đức hiện ra. Tuy nhiên chúng chỉ cho biết tên nhà sản xuất và cỡ đạn.
Chỉ còn lại túi khí thoát hiểm. Nó bao gồm một áo chẽn cứu hộ vải bạt tráng cao su màu nâu, một ống cao su xếp nếp màu đen, một đầu vòi bằng cao su màu cam và một bình ôxy bằng nhôm cỡ như bình thủy để cung cấp dưỡng khí trong trường hợp khẩn cấp. Trong ba hiện vật, nó ở tình trạng xuống cấp nhất. Nhiều phần đã bị nước biển ăn mòn. Bình ôxy bị lõm ở giữa và cong vẹo. Nagle lau thiết bị. Bùn rơi ra. Không có chữ viết nào cả. Nagle tiếp tục chà. Lần này, từ tay cầm của đầu vòi hiện ra một con đại bàng tí hon quắp chữ thập ngoặc.
“Có chỗ nào có viết tên không?” Kohler hỏi.
Nagle lau chùi thêm chút nữa.
“Không có tên” Nagle nói. “Có thể thuộc về bất kỳ ai.”
Hy vọng của Chatterton rơi khỏi Seeker và bốc hơi trong gió biển buổi sáng.
“Ba cái mà không được cái nào” anh nói. “Con tàu khốn này quả là khó nhằn.” Anh cầm lấy túi khí thoát hiểm và đặt vào thùng mát. “Thôi thì tôi sẽ mang nó về nhà, rửa đi rồi chờ cho khô” anh bảo Yurga. “Biết đâu đấy? Có khi tôi lại thấy chữ viết nếu để vải bạt khô hoàn toàn.”
Từ thang, Packer và Gatto ngoi lên với tin tức khả quan. Hệ thống ống dẫn sụp chặn lối vào khoang động cơ diezen đã biến mất trong mùa nghỉ − món quà đến từ một cơn bão mùa đông. Bên trong, đội lặn đã nhìn thấy một số thiết bị và dụng cụ, bất kỳ cái nào trong số đó cũng có thể được khắc số hiệu U-boat. Chỉ cần một cuộc lặn nữa là họ có thời gian để khám xét chúng.
“Các anh thấy được bao nhiêu bên trong khoang động cơ diezen?” Kohler hỏi.
“Không nhiều lắm” Packer nói. “Tụi tôi mới vào sâu được khoảng ba mét. Có một chướng ngại vật lớn khác chặn đường. Vẫn không thể vào khoang động cơ điện. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi đã vào đủ sâu để kiếm được cái gì đó ra trò.”
“Chúc mừng” Chatterton nói. “Tôi nghĩ các anh đã làm được.” Biển động và tầm nhìn giảm sút buộc các thợ lặn phải cắt ngắn cuộc lặn lần hai. Khi Nagle nhổ neo và khởi động thuyền, nhiều người cất tiếng mơ mộng về những thứ Packer và Gatto sẽ lấy được từ khoang động cơ diezen khi họ có cơ hội quay lại. Thoạt đầu Chatterton dẫn dắt cuộc đàm đạo, kể lại những của báu anh nhìn thấy ở khu vực tương tự trên U-505 trong bảo tàng Chicago. Nhưng trong khi các thợ lặn tiếp tục chuyện trò thì Chatterton rơi vào trầm tư. Anh nhìn vào thùng mát của mình, nghĩ đến túi khí thoát hiểm tả tơi bên trong. Anh tự hỏi liệu trong hiện vật rách nát này còn có trật tự không và băn khoăn về chiếc U-boat này, nơi mà không thể nhìn mặt bắt hình dong bất kỳ thứ gì.
Gần nửa đêm thì Chatterton về tới nhà sau chuyến lặn Ngày chiến sĩ trận vong. Anh nhẹ nhàng dỡ đồ để không đánh thức vợ. Cuối cùng còn cái thùng mát, anh lấy túi khí thoát hiểm ra và mang vào gara. Khắp nơi là những kệ chứa hiện vật tàu đắm mang từ trong nhà ra, khiến nơi đây trở thành bảo tàng về các chuyến phiêu lưu trong lòng biển của Chatterton. Anh tìm được một chỗ cho cái túi khí thoát hiểm tả tơi, bên cạnh những liễn xúp, thìa dĩa, chén đĩa mang lên từ Andrea Doria suốt nhiều năm. Anh tính sẽ mất vài ngày để nó khô hoàn toàn. Bên trong nhà, Chatterton rửa mặt và nghĩ “Packer và Gatto sẽ lấy được bằng chứng về danh tính con tàu.”
Vài ngày sau, Chatterton vào gara để kiểm tra túi khí thoát hiểm. Anh sững sờ dừng lại trước cánh cửa: mảnh sứ vỡ nằm rải rác trên sàn, kính vỡ găm vào trần và tường, một kệ gỗ dày gãy treo lủng lẳng.
“Có người làm nổ gara của mình” Chatterton kêu lên. “Thằng nào đó đã nổ bom ở đây.”
Vẫn sửng sốt, anh tìm một cây chổi và bắt đầu quét. Hầu như không còn thứ gì trên kệ thoát được. Anh quét tiếp. Trong đống đổ nát có một thứ ánh bạc. Anh nhặt lên. Đó là bình ôxy của túi khí thoát hiểm, nhưng nó không còn là hình trụ đóng kín. Hiện nó nằm bẹp dí, như một tuýp thuốc đánh răng bị xẻ toạc ra.
“Khỉ thật” Chatterton nói. “Bình ôxy phát nổ. Thứ đó vẫn hoạt động. Chính cái túi khí thoát hiểm đã làm nổ gara của mình.”
Chatterton nhìn kỹ hơn vào khối trụ bẹp. Vụ nổ đã đánh tung lớp vỏ cặn tích lũy từ nửa thế kỷ vốn không chỉ đơn giản lau đi là được. Chatterton đưa nó lại gần mặt. Dập trên vỏ kim loại là một số ký tự: 15.4.44.
Chatterton ngay tức khắc hiểu những con số đó nghĩa là gì. Anh chạy vào nhà gọi Kohler.
“Richie này, bình ôxy làm nổ tung gara của tôi” anh nói.
“Hả?”
“Túi khí thoát hiểm đấy. Nhớ cái bình ôxy không? Nó vẫn còn khí. Tôi phơi khô nó trong gara. Chắc vì bị ăn mòn nên nó phát nổ. Mấy thứ tôi lấy từ Doria trong gara bị hỏng hết cả. Gara của tôi giờ như bãi chiến trường ấy. Nhưng nghe này: vụ nổ cho mình một manh mối. Cái chai có ghi ngày: mười-lăm-chấm-bốn-chấm-bốn-mươi-bốn. Đó là ngày 15 tháng tư năm 1944 ghi theo kiểu châu Âu. Đó là ngày kiểm tra thủy tĩnh, là ngày mà người ta kiểm tra cái chai và chứng nhận là đạt chuẩn.”
“Điều đó có nghĩa U-boat của chúng ta ra khơi sau ngày 15 tháng tư năm 1944” Kohler nói.
“Chính xác.”
“Tôi tới ngay đây.”
Chatterton quay về gara. Anh nhặt cây chổi lên nhưng không thể quét. Bây giờ, anh mới nhận ra mình may mắn thế nào khi cầm túi khí thoát hiểm trong tay. Anh đã để nó trong túi đồ trong một tiếng giảm áp, ngắm nghía nó trên Seeker, đặt nó bên cạnh bình xăng của chiếc xe bán tải, dịch chuyển nó trên kệ gara. Trong lúc anh chờ Kohler, hai ý nghĩ nổi lên trong đầu. Đầu tiên, khả năng con tàu là U-857, vốn bắt đầu tham chiến vào tháng hai năm 1945, trở nên chắc chắn hơn bao giờ hết. Thứ hai, có lẽ họ đang tới quá gần… nghe có vẻ điên rồ nhưng những người thủy thủ chết trận kia bắt đầu kháng cự họ.
Vài giờ sau khi phát hiện gara của mình bị nổ, Chatterton gọi thiếu tá Gregory Weidenfeld − nhà sử học của Tuần không dân sự đã dành nhiều tâm huyết để chứng minh hai dân thường lái phi cơ tư nhân đã đánh đắm một chiếc U-boat ngoài khơi New Jersey năm 1942.
“Nghe này Greg” Chatterton nói. “Chúng tôi tìm được ngày kiểm tra thủy tĩnh chứng tỏ con tàu đã ra khơi sau ngày 15 tháng tư năm 1944. Như vậy không có khả năng đây là U-boat ông nhắc đến. Tôi rất tiếc.”
Trong một thoáng, Chatterton nghĩ anh có thể nghe tiếng Weidenfeld vật lộn để giữ bình tĩnh. Anh chưa từng gặp ai tận tâm với ký ức của những kẻ bị coi nhẹ đến thế.
“Cảm ơn anh, John” Weidenfeld nói. “Có nghĩa là ngoài kia có một U-boat khác anh sẽ phải tìm.”
Mấy ngày sau, Chatterton nhận tin bạn anh − viên chỉ huy U-boat cự phách Karl-Friedrich Merten − đã từ trần ở tuổi 87. Tin này không quá bất ngờ vì Merten đã lâm bệnh một thời gian. Nhưng Chatterton hiểu rằng sự qua đời của Merten cùng lời từ biệt của chính anh tới Weidenfeld có nghĩa là một chương trong chuyến phiêu lưu của các thợ lặn đã khép lại. Suốt một năm, Chatterton, Kohler và Yurga đã coi U-158 (theo Tuần không dân sự) và U-851 (theo thông tin của Merten về người đồng đội Weingärtner) là hai đáp án hàng đầu cho bí ẩn này. Họ mài giũa năng lực nghiên cứu với hai giả thuyết ấy và coi hai người kia là bạn.
Do thời tiết và lịch trình, phải đến 31 tháng bảy Seeker mới có thể quay lại U-Gì, tức hai tháng sau chuyến đi đầu tiên của mùa. Các thợ lặn phải ngồi lên tay để giữ bình tĩnh khi con thuyền cuối cùng cũng khởi hành đến xác tàu. Đây sẽ là chuyến đi để Packer và Gatto mang lên hiện vật từ khoang động cơ diezen.
Sáng ngày tiếp theo, Chatterton và Kohler vỡ nước và tiến về các khoang phía trước của con tàu. Họ vẫn cho là ở đó sẽ có những hiện vật định danh. Tương tự như lần trước, Chatterton quan sát cảnh đổ nát, để tâm trí mình lắng xuống cho đôi mắt nhận ra trật tự trong hỗn độn. Trong khu chỉ huy, ngay trước mắt, anh thấy một cái ống nhòm.
“Mình đã ở đây cả chục lần mà chẳng thấy cái ống nhòm nào cả” Chatterton nghĩ. “Không thể có chuyện mình bỏ qua nó.”
Chatterton cầm cái ống nhòm lên trước mặt nạ. Một số lăng kính đã bị mất, đa phần bị hà bám đầy. Anh cho nó vào túi. Nếu cái ống nhòm thuộc về người chỉ huy, có thể bên dưới lớp chất bẩn có khắc tên ông ta. Thời gian còn lại Chatterton không tìm được gì mấy. Trong suốt thời gian ấy, anh nghĩ thật thi vị khi tìm được cái ống nhòm trong chuyến lặn nhằm để quan sát.
Kohler tiếp tục đào xới trong khu hạ sĩ quan. Anh rất cẩn thận tránh cái tủ quần áo, nơi giày của các thủy thủ được xếp đặt ngay ngắn, cũng như những khu vực khác gần nơi có nhiều thi thể trong khoang. Trong một đụn bùn, anh phát hiện ra thứ trông như một cái bát và mang nó lên gần mặt nạ để kiểm tra. Kohler nhanh chóng nhận ra anh đang cầm một cái sọ. Bùn chảy ra từ hốc mắt và hốc mũi. Nếu là một năm trước thì anh đã hoảng hốt quăng cái sọ về lại đống đổ nát, nhưng hôm nay anh cầm cái sọ và nhìn sâu và hốc mắt.
“Tôi sẽ cố hết sức để tìm được tên anh” Kohler nói thành tiếng. “Gia đình anh cần được biết anh đang ở đâu.”
Đã đến lúc rời khỏi xác tàu. Anh cầm chiếc sọ và nhẹ nhàng đặt sao cho nó nhìn được cả khoang và những người đồng đội.
Trên thuyền, Chatterton và Kohler rửa ống nhòm. Nó cũng không được đánh dấu. Giờ thì họ chỉ có thể chờ Packer và Gatto − hai con người đang làm việc bên trong khoang động cơ diezen đầy hứa hẹn. Một tiếng sau, họ leo lên thuyền. Túi đồ của Packer căng phồng. Anh mở cái túi lưới và lấy ra một cái áp kế to như cái đĩa ăn − một trong số các thiết bị mà Chatterton và Kohler từng thấy trong sách là có dập số hiệu tàu. Các thợ lặn xúm lại nhìn. Khắc trên mặt nhôm của cái áp kế là con đại bàng và chữ thập ngoặc. Còn lại thì chỉ có từ ngữ và con số chung chung. Packer lau cái áp kế. Suýt nữa thì nó vỡ vụn trong tay anh. Cũng như những cái nhãn ở khoang ngư lôi, thiết bị này được chế tạo từ hỗn hợp kim loại rẻ tiền mà Đức sử dụng cuối cuộc chiến do thiếu thốn nguyên liệu. Thật đáng buồn, điều này ám chỉ là những hiện vật khác trong khoang động cơ diezen, bao gồm những cái nhãn định danh, có lẽ cũng được chế tạo từ cùng một loại nguyên liệu cấp thấp và không sống sót nổi trong môi trường đại dương.
Những dòng biển giằng xé cắt ngắn lần lặn thứ hai. Đêm đó, khi Seeker lướt qua Đại Tây Dương xanh thẫm trở về Brielle, hầu hết các thợ lặn chẳng biết nói sao. Trong buồng lái, Nagle lẩm bẩm “Cái U-boat khỉ gió này…” Chatterton ghi vài dòng trong nhật ký hải trình: “Tiếp theo đi đâu đây?”
Trong sáu tuần tiếp theo, Seeker đi bốn chuyến tới U-boat. Packer và Gatto tiếp tục làm việc ở khu vực đã thông ở khoang động cơ diezen. Họ mang lên nhiều hiện vật đẹp và thú vị: một bảng đồng hồ đo, nhãn nhựa, thậm chí cả máy truyền khẩu lệnh − dụng cụ dùng để phát các hiệu lệnh như TẤT CẢ DỪNG, THẲNG TIẾN và LẶN. Tất cả các ký hiệu đều là loại phổ thông, không giúp định danh được con tàu. Lối vào sâu hơn đã bị chắn bởi một đường ống thép đồ sộ vắt chéo qua hành lang hẹp giữa hai động cơ diezen. Kohler nhận ra đây chính là buồng thoát hiểm có thang bên trong mà qua đó, thủy thủ có thể thoát khỏi U-boat đang đắm. Giờ, lèn giữa hai động cơ và kéo dài từ sàn lên trần, buồng này chắn mọi lối vào sâu hơn bên trong khoang động cơ diezen và vào khoang động cơ điện tiếp giáp. Điều này có vẻ không phải là mất mát lớn: nếu đống hổ lốn hiện vật mà Packer và Gatto đã mang lên không cho dấu hiệu gì về danh tính con tàu thì có lẽ phần còn lại của các khoang kỹ thuật này cũng sẽ không mang lại câu trả lời.
Chatterton và Kohler dành chuyến lặn của họ cho khu vực phía trước U-boat. Họ mang lên rất nhiều hiện vật: bát, tách, giày, đồng hồ đo và không thứ nào mang dấu hiệu định danh. Chatterton còn lấy được hai bảo bối từ xác tàu − những hiện vật xứng đáng bày trong bảo tàng khiến đồng đội lặn của anh phải xuýt xoa. Một trong số đó, nằm trơ trọi trong khu vực mà Chatterton đã rà soát hơn chục lần trước đó, là bộ dụng cụ phẫu thuật − tập hợp các dụng cụ y tế bằng thép không gỉ kèm theo sơ đồ hướng dẫn (in bằng mực đỏ và đen vẫn rất đậm) trên vải bố thô. Song cũng chẳng có có thứ nào tiết lộ danh tính con tàu.
“Các anh cứ lấy hết những thứ này” Chatterton nói với các thợ lặn khác. “Tôi sẽ cầm sơ đồ về nhà.”
“Ôi trời, John, bộ dụng cụ phẫu thuật là số dzách đấy, độc nhất vô nhị” có người nói. “Anh đừng cho đi như thế.”
“Tôi muốn định danh con tàu,” Chatterton đáp. “Bộ dụng cụ này không phục vụ mục đích của tôi. Các anh cứ lấy về.”
Chuyến tiếp theo, Chatterton mang từ khu chỉ huy lên cái thời kế − đồng hồ chính xác cao của U-boat. Đây tiếp tục là một khám phá lớn. Cũng như bộ dụng cụ phẫu thuật, anh thấy chiếc thời kế nằm lồ lộ ở một nơi trong khu chỉ huy mà anh từng lục soát nhiều lần. Trên thuyền, anh tìm dấu hiệu định danh trên thiết bị đẹp đẽ đó. Ngoại trừ con đại bàng và chữ thập ngoặc thì không có gì hết. Chatterton định ném cái hộp gỗ chứa thời kế qua lan can xuống biển.
“Anh định làm cái quái gì vậy?” Kohler hỏi, chạy vội tới. “Cái hộp chẳng cho chúng ta thông tin gì” Chatterton nói. “Nhưng nó là một chiến lợi phẩm tuyệt vời! Anh điên sao? Thứ đó cả đời có một đấy!”
“Không quan trọng.”
“Đưa tôi cái đồng hồ và cái hộp” Kohler nói. “Tôi biết người phục chế. Đưa đây cho tôi và tôi sẽ sửa sang nó để bày trong nhà anh.”
“Anh muốn gì cũng được, Richie.”
“Khỉ thật, John, anh đang làm sao thế?”
Trên thuyền về Brielle tối hôm ấy, Chatterton kể cho Kohler vấn đề của anh. Anh bắt đầu mùa lặn với niềm lạc quan sôi sục, chắc mẩm rằng sự chăm chỉ, chuẩn bị kỹ lưỡng và bản năng của mình − kỹ nghệ của anh − sẽ mang lại thành quả là bằng chứng định danh con tàu. Lúc này, sau bốn tháng và sáu chuyến đi, đầu anh ong ong những ý nghĩ điên rồ. Lần đầu tiên, anh có lo sợ rằng một thợ lặn non nớt nào đó sẽ leo lên thang của Seeker với một cái nhãn định danh mắc vào chân nhái và vô tình trở thành người chính thức tìm ra được danh tính của U-Gì.
“Không phải là tôi quan tâm ai được ghi công” anh bảo Kohler. “Mà điều đó có nghĩa phương pháp của tôi đã không có hiệu quả.”
Anh lo nghĩ chuyện bằng cách nào anh và Kohler đã bỏ lỡ những hiện vật quan trọng trong nhiều chuyến lặn trước đó chỉ để tìm thấy chúng “lộ thiên” trong chuyến lặn tiếp theo.
“Cứ như là các thủy thủ tàu ngầm đang để đồ ra cho tôi” Chatterton nói. “Nhưng tôi không muốn những thứ đó. Cứ như là họ đang nói: ‘Này, cho tay đó cái ống nhòm, hẳn là hắn sẽ thích thú lắm’ ấy.” Kohler đặt lon bia xuống.
“Nghe này John, chúng ta có thể làm được” Kohler nói. “Kể cả có phải chèo xuồng ra đây thì tôi cũng làm. Anh luôn có tôi. Tôi tin vào việc chúng ta đang làm. Chúng ta phải cố tiếp. Cứ nói anh cần gì và tôi sẽ có ở đó. Chúng ta sẽ không bỏ cuộc.”
Khi ấy Chatterton cuối cùng cũng hoàn toàn hiểu ra giá trị mà Kohler đem lại cho dự án. Kohler là thợ lặn hàng đầu, một trong những người xuất sắc nhất và là nghiên cứu viên nhiệt huyết và sáng tạo. Nhưng sâu xa hơn anh có niềm tin và khi Chatterton nhìn Kohler đưa tay ra bắt, anh biết đây là điều quan trọng hơn tất cả, rằng trong một hành trình mà mỗi người phải đối mặt với chính mình, niềm tin không suy suyển vào cơ hội thành công là thứ có thể vượt qua mọi gian nan. Chatterton bắt tay Kohler.
“Chúng ta sẽ không bỏ cuộc” anh nói.
Dù mùa thu tháng mười đang dần phủ lên New Jersey, Chatterton và Kohler vẫn tin họ có thể chèn thêm một hai chuyến nữa tới U-Gì. Nagle thì nghĩ khác. Hiện không hơn gì một bộ xương khô, anh không còn đủ sức để chỉ huy Seeker.
Công việc kinh doanh của anh bắt đầu bệ rạc. Khi có khách hàng hỏi thuê thuyền, Nagle sẽ nói: “Ồ, đề nghị nghe hay đấy, nhưng thế này đi: Kệ mẹ các ông! Tôi sắp chết rồi! Tôi đếch quan tâm đến các ông hay nụ cười rạng rỡ của các ông hay mấy xác tàu thành rạn nhân tạo phọt phẹt của các ông! Tôi chưa bao giờ quan tâm đến hết! Không hiểu à? Tôi sắp ngoẻo rồi! Xin chào!” Mùa lặn dần trôi và càng ngày Chatterton càng cảm thấy buồn lòng khi nhìn người bạn cố tri cũng là đàn anh của mình.
Vào tháng mười, bạn gái Nagle vội đưa anh vào viện vì họng anh chảy máu. Nhiều năm nghiện rượu đã gây ra giãn tĩnh mạch thực quản, tức các tĩnh mạch trong cổ họng bị giãn rồi bục ra. Các bác sĩ đưa anh vào thẳng phòng phẫu thuật để đốt chỗ tổn thương. Trong phòng hồi sức, họ bảo anh: “Muộn 15 phút là anh chảy máu đến chết rồi. Nếu anh tiếp tục uống rượu, dù chỉ là một ly, thì chúng tôi không chắc cứu được anh lần tới đâu.”
Bạn gái của Nagle nói lời chia tay khi anh còn đang nằm viện. Chị không đành lòng nhìn anh giết chết chính mình. Vài tuần sau, Nagle tự làm thủ tục xuất viện. Trên đường về nhà anh ghé qua cửa hàng bán rượu. Đêm ấy, sau khi uống gần cạn một chai vodka, anh xuất huyết họng đến chết. Bill Nagle − một trong những thợ lặn thám hiểm vĩ đại nhất mọi thời, người đã mang quả chuông của Andrea Doria lên − qua đời ở tuổi 41.
Thợ lặn khắp miền đông bắc tới dự đám tang Nagle ở bang Pennsylvania. Là một trong những bằng hữu thân thiết nhất nhưng Chatterton định không đi. Kohler không thể chấp nhận quyết định ấy.
“Anh nói không đi dự đám tang nghĩa là sao?” Kohler hỏi.
“Cái tên trong quan tài không phải Bill Nagle” Chatterton nói. “Cái tên trong quan tài đã giết bạn của tôi.”
“Anh nên đi” Kohler nói. “Anh cần nói lời từ biệt với bạn mình.”
Chatterton không đành lòng tham dự. Trong đám tang, Kohler là một trong những người khiêng quan tài. Khi đưa Nagle ra mộ, Kohler không khỏi suy nghĩ rằng quan tài thật nhẹ. “Cứ như không có gì bên trong” anh nghĩ thầm và khi đó anh không ước gì hơn có Chatterton bên cạnh.
Ba mùa lặn đã trôi qua kể từ ngày U-Gì được phát hiện. Tuy tin chắc con tàu là U-857, Chatterton và Kohler vẫn không tiến thêm được bước nào để chứng minh điều đó so với năm 1991.
Khi mùa đông tràn về New Jersey, Chatterton bắt đầu nhận ra những dấu hiệu lung lay trong cuộc hôn nhân của anh. Trong thời gian anh miệt mài chinh phục U-Gì, Kathy đã trở thành một trong những nữ xạ thủ súng ngắn hàng đầu thế giới. Lịch làm việc vênh nhau khiến hai người không còn mấy thời gian bên nhau và những mối bận tâm dần khác biệt khiến khoảng thời gian bên nhau trở nên gượng gạo. Khi Kathy hỏi chồng về nỗi ám ảnh ngày càng lớn của anh với chiếc U-boat, Chatterton đáp: “Anh đang bị thử thách. Những gì anh làm với cái U-boat này chính là cốt cách con người anh.”
Cả Chatterton và Kathy đều không lo lắng về tương lai lâu dài của cuộc hôn nhân; họ vẫn yêu nhau và cho nhau không gian để theo đuổi đam mê. Nhưng thi thoảng, khi Chatterton ngẩng đầu lên từ bàn làm việc và nhận ra anh và Kathy đã không nói chuyện với nhau nhiều ngày, anh lại nhớ về thời gian mình đi bắt điệp. Đôi lúc khi đang kéo lưới, các ngư dân cảm thấy một cái bóng đang đổ xuống. Sau khi hối hả truy tìm thì họ phát hiện nguồn gốc của cái bóng luôn là một con sóng lớn sắp sửa trừng phạt con thuyền. Khoảnh khắc này, ngồi trong nhà, Chatterton bắt đầu cảm nhận một cái bóng tương tự.
Ở nhà Kohler cách đó 8 km, con sóng đã xô vào tàu. Hơn một năm qua, anh và vợ Felicia đã cãi vã về việc Kohler không dành đủ thời gian cho vợ và hai con nhỏ của họ, cũng như con gái mười tuổi của Felicia từ mối quan hệ trước. Chị hiểu công việc kinh doanh kính của Kohler đòi hỏi hy sinh từ gia đình. Công ty đang tăng trưởng, buộc Kohler phải luôn sâu sát vì anh muốn mở rộng nó. Nhưng chị có ít kiên nhẫn hơn với cách Kohler sử dụng thời gian rảnh rỗi còn lại. Anh dành gần như mọi ngày với U-Gì: lặn nó, nghiên cứu nó, gặp Chatterton, phóng tới Washington. Anh và Felicia dường như ngày nào cũng cãi nhau. Felicia nói với anh: “Nếu anh bỏ lặn thì cuộc hôn nhân này mới khá lên được.” Bài ca đó là dấu chấm hết với Kohler. Khoảng Giáng sinh năm 1993, anh và Felicia ly thân. Chị cùng các con dọn đến Long Island còn anh dọn đến một căn hộ độc thân ở mũi đông bắc của duyên hải New Jersey. Anh nhất quyết đòi quyền chăm các con vào cuối tuần.
Trong vòng một hai tháng đầu, Kohler tận hưởng tự do mới có. Anh hẹn hò với gái trẻ, nhảy nhót trong hộp đêm và đọc sách về U-boat mà không bị cằn nhằn. Nhưng anh nhớ con trai Richie, con gái Nikki và con riêng Jennyann của vợ. Những chuyến thăm vào cuối tuần là không đủ. Anh nghĩ đến việc hòa giải với Felicia, nhưng anh tin chị sẽ chỉ suy nghĩ lại nếu anh chịu từ bỏ lặn và thế chẳng khác gì bắt anh bỏ ăn uống. Tháng hai năm 1994, khi những bãi biển gần căn hộ của anh đóng băng, anh tin rằng có điều gì đó cần phải thay đổi, rằng nếu không được giục các con đi học thì anh không thể là chính mình.
Cuối tháng hai, Chatterton và Kohler nhận thư từ Robert Coppock của Bộ quốc phòng. Đứng trong bộ áo choàng tắm, với cốc cà phê trên tay, Chatterton đọc thư:
U-869… [ban đầu] đi về bờ đông Hoa Kỳ [và] được phân một khu vực tuần tiễu… khoảng 170 km về phía đông-nam New York…
Chatterton sững người. U-869 là tàu của Horenburg. Nó đáng lẽ nhận lệnh tới Gibraltar.
U-869… có thể đã không nhận được lệnh [mới] yêu cầu đi về
Gibraltar…
Tim của Chatterton đập loạn trong lồng ngực.
Xét điều kiện khí quyển… hầu như chắc chắn rằng U-869 đã không nhận được lệnh [mới] của bộ tư lệnh cử tới Gibraltar…
Giờ thì Chatterton cảm thấy váng đầu.
Do đó, trên cơ sở thiếu bằng chứng rõ ràng rằng U-869 đã nhận lệnh của bộ tư lệnh cử tàu đến khu vực Gibraltar, [cùng] bằng chứng là con dao và vị trí lân cận của xác tàu với khu tuần tiễu ban đầu của U-869, tôi thừa nhận khả năng xác tàu là U-869 là không thể bỏ qua.
Chatterton lao tới điện thoại và gọi Kohler.
“Richie, chúng ta vừa nhận được một bức thư quá sức khó tin từ Coppock. Ông ấy vừa thả một quả bom nguyên tử. Anh không thể tin được đâu…”
“Gượm đã!” Kohler nói. “Thư viết gì?”
“Thư viết là: U-869 − tàu của Horenburg, tàu mà tất cả sách sử đều nói là đắm ở ngoài khơi Gibraltar − lúc đầu nhận lệnh tới New York. Và không chỉ tới New York mà còn tới phía nam của New York, ngay tới chỗ xác tàu của chúng ta! Nó viết là sau đó bộ tư lệnh đổi lệnh thành Gibraltar. Nhưng nghe nhé, Richie: “hầu như chắc chắn U-869 đã không nhận được lệnh [mới] của bộ tư lệnh cử tới Gibraltar” tôi đọc nguyên văn đấy.”
“Thế còn các báo cáo rằng U-869 đã bị tàu hộ tống của phe Đồng Minh đánh đắm ngoài khơi Gibraltar thì sao?” Kohler hỏi.
“Chúng ta đã thấy mấy cái báo cáo đó chính xác cỡ nào rồi mà.”
“ Không thể tin được. Tôi sốc quá.”
“Richie, anh kết nối với Coppock từ văn phòng của anh được không? Chúng ta phải đề nghị ông ấy giải thích nguồn gốc cho thông tin này.”
“Tôi đang quay số rồi đây” Kohler nói.
Một thoáng sau chuông điện thoại reo ở Great Scotland Yard. Coppock chỉ trò chuyện được vài phút. Ông nói với các thợ lặn rằng thông tin đó đến từ các liên lạc điện đài bị bắt chặn giữa U-869 và bộ tư lệnh U-boat ở Đức. Theo lời ông, có thể tìm được các thông điệp bắt chặn và nội dung giải mã của các chuyên gia phá mã Hoa Kỳ ở Washington, D.C.
Chatterton và Kohler lặng người sửng sốt. Họ từng nhìn thấy các thông điệp bị bắt chặn nhưng chưa từng nghĩ đến việc rà soát những tin tức liên quan tới U-869 − con tàu được khẳng định trong lịch sử là đã đắm ngoài khơi Gibraltar. Không ai trong số các chuyên gia họ từng trao đổi, bao gồm Coppock, nghĩ đến việc đó.
“Ngày mai tôi sẽ tới D.C. điều tra” Chatterton nói. “Toàn bộ câu chuyện nằm ở đó.”
Kohler muốn đến Washington cùng Chatterton nhưng anh vẫn phải lo cho hoạt động kinh doanh với đối tác của mình và không kiếm được thời gian rảnh. Thế vào chỗ anh là Barb Lander − người đã nhiều lần lặn U-Gì và có niềm quan tâm lớn về lịch sử của nó. Chatterton hứa sẽ gọi Kohler để cập nhật tình hình và mang theo vài xâu tiền xu để thực hiện lời hứa.
Điểm đến đầu tiên của Chatterton và Lander là Cục quản lý lưu trữ quốc gia, nơi họ yêu cầu tóm tắt thông tin tình báo về U-boat của Hạm đội X bắt đầu từ ngày 8 tháng 12 năm 1944 − ngày U-869 khởi hành ra trận. Các cán bộ lưu trữ đẩy ra hàng xe tài liệu có dập chữ CỰC KỲ (Ultra) − TỐI MẬT. Chatterton biết về thuật ngữ Ultra dùng để chỉ thông tin phe Đồng Minh có được nhờ theo dõi và giải mã Enigma. Nhiều thập kỷ sau cuộc chiến, vẫn chỉ rất ít người biết rằng giờ Chatterton và Lander cũng sắp sửa đọc chúng.
Hai người rà soát tóm tắt tình báo của Hải quân Hoa Kỳ. Họ tìm thấy một báo cáo đề ngày 3 tháng một năm 1945. Tình báo hải quân đã bắt chặn được liên lạc điện đài giữa U-869 và bộ tư lệnh. Các chuyên gia phá mã viết như sau:
Một U/Boat (U-869) hiện ước tính ở giữa khu vực bắc Đại Tây Dương đã được lệnh đi tới điểm cách 135 km về phía đông-nam luồng New York.
Chatterton gần như không tin vào mắt mình: điều đó có nghĩa U-869 sẽ ở ngay vị trí xác tàu. Anh đọc tiếp. Trong một báo cáo đề ngày 17 tháng một năm 1945, tình báo hải quân viết:
Chiếc U/Boat đang hướng đến luồng New York − U-869 (Neuerburg) − hiện ước tính cách Flemish Cap 290 km về phía nam đông nam… Tàu dự tính sẽ đến khu vực New York đầu tháng hai.
Chatterton kiểm tra danh sách đoàn thủy thủ. Neuerburg là chỉ huy của U-869. Anh đọc tiếp, tim đập loạn trong lồng ngực. Trong báo cáo ngày 25 tháng một, tình báo hải quân phát hiện vấn đề liên lạc giữa U-869 và bộ tư lệnh:
Một U/Boat có thể ở phía nam Newfoundland hướng về luồng New York, tuy vị trí tàu không được xác định rõ do có chỉ thị lẫn lộn và bộ tư lệnh cho rằng tàu đang hướng về Gibraltar… [Nhưng] căn cứ vào tín hiệu tàu nhận được, có khả năng U-869 vẫn tiếp tục hướng đi ban đầu tới New York.
“Tôi không thể tin được” Chatterton nói với Lander. “Họ nhận lệnh đến ngay chỗ xác tàu của chúng ta. Bộ tư lệnh thay đổi lệnh để cử U-boat tới Gibraltar. Nhưng có vẻ U-869 không bao giờ nhận được lệnh mới. Nó vẫn tiếp tục đi về New York.”
“Ồ trời” Lander vừa nói vừa rà tài liệu. “Đọc phần còn lại trong báo cáo hải quân này.”
USS Core sẽ bắt đầu rà tìm U/Boat này ngay trước khi đối phó với các U/Boat quan trắc thời tiết ở bắc Đại Tây Dương.
“USS Core là một tàu sân bay đi cùng nhóm tìm-diệt” Chatterton nói. “Hải quân biết đích xác U-869 đang đi về đâu và đã phục sẵn.”
Chatterton lấy xu và chạy ra bốt điện thoại. Anh gọi Kohler và kể lại phát hiện của mình.
“Thật khó tin” Kohler nói. “Hải quân phái một nhóm tìm-diệt truy sát U-869 nhưng họ không bắt được nó, thậm chí còn không nhìn thấy nó ở đâu cả, vì nếu được thì chúng ta đã biết rồi. Thời năm 1945, U-boat đơn giản là không thể chạy thoát khỏi nhóm tìm-diệt, John ạ. Gã Neuerburg là một chỉ huy không vừa đâu.”
Hai người thoáng im lặng.
“Thứ chúng ta tìm thấy hoàn toàn không phải U-857” Kohler lên tiếng. “Mà là U-869.”
“Chúng ta đã tìm thấy U-869” Chatterton nói. “Hóa ra vẫn luôn là U-869.”
Vẫn chưa được giải đáp là báo cáo U-869 bị đánh đắm ngoài khơi Gibraltar bởi hai tàu L’Indiscret và USS Fowler. Tất cả các sách lịch sử đều ghi như thế. Chatterton và Lander lao tới Trung tâm lịch sử hải quân và yêu cầu báo cáo tấn công vụ đánh đắm U-869. Mấy phút sau cái họ được thấy là một lịch sử sai lạc.
Ngày 28 tháng hai năm 1945, tàu khu trục hộ tống USS Fowler của Hoa Kỳ dò được tín hiệu định vị thủy âm trong khu vực phía tây Rabat, ở tây nam Gibraltar. Chiếc Fowler bắn ra một loạt 13 bom chống ngầm. Hai cú nổ xảy ra và mảnh vỡ của một “thực thể không xác định” xuất hiện trên mặt biển. Chiếc Fowler bắn tiếp một loạt bom chống ngầm nữa. Khi khói đã tan, các thủy thủ dùng khăn để hớt các mảnh vỡ, được mô tả là “trông như những tảng và cục cặn dầu nhưng không thu được mẫu nào”. Con tàu khu trục rà soát khu vực này để tìm thêm chứng cứ thiệt hại nhưng không thấy.
Nhiều giờ sau, một tàu tuần tra của Pháp là L’Indiscret cũng tấn công một mục tiêu theo định vị thủy âm trong cùng khu vực, khiến “một vật thể lớn màu đen nổi lên mặt nước rồi chìm xuống ngay tức khắc”. Con tàu không thể xác định được vật thể này và không phát hiện thấy mảnh vỡ.
Tình báo hải quân không đánh giá cao các cuộc tấn công này và những chứng cứ ít ỏi có được. Họ xếp chúng vào hạng “G − Không tổn thất”.
Nhưng như Chatterton đọc trong báo cáo, các thẩm định viên hậu chiến sớm thăng hạng từ “G” lên “B − Có khả năng đắm”.
“Tại sao họ lại làm thế?” Lander hỏi.
“Tôi đã gặp chuyện thế này trước đây” Chatterton nói. “Các thẩm định viên hậu chiến loay hoay tìm cách giải trình về những U-boat mất tích. Một trong số đó là U-869. Các thẩm định viên không biết gì về các thông điệp điện đài bắt chặn (đó vẫn là thông tin mật) nên họ không biết rằng U-869 đi tới New York. Họ kiểm tra ghi chép của Đức. Người Đức tin rằng U-869 đang hướng về Gibraltar, họ tưởng tàu đã nhận được lệnh mới đi về Gibraltar. Khi không thấy con tàu quay về, người Đức cho là nó đã đắm ngoài khơi Gibraltar. Rồi các thẩm định viên hậu chiến đọc báo cáo tấn công của Fowler và L’Indiscret gần Gibraltar. Họ gắn các cuộc tấn công đó với U-869, chuyển hạng từ G lên B và coi như xong việc.”
Chatterton lại chạy ra bốt điện thoại. Anh nói với Kohler rằng sách sử đã sai.
“Chúng ta đã tìm được U-869” Kohler nói. “Chúng ta đã tìm thấy Horenburg, đúng không?”
“Horenburg đã luôn ở đó” Chatterton nói. “Nghĩ mà xem, Richie. Nếu có vấn đề điện đài giữa U-869 và bộ tư lệnh, chính Horenburg sẽ là người đầu tiên biết đến và là đầu mối xử lý. Anh ta là sĩ quan thông tin. Nghe này Richie, tôi hết xu rồi, nhưng tôi bảo anh câu này: Horenburg chắc chắn đã chứng kiến toàn bộ sự việc.”
27* Ngày chiến sĩ trận vong, hay còn được gọi là Ngày tưởng niệm/Ngày liệt sĩ, của Hoa Kỳ là thứ hai cuối cùng của tháng năm hằng năm (BT).