Chương 12 Chúng tôi đều sẽ không trở về
Xưởng đóng tàu Deschimag tại Bremen, Đức Tháng một năm 1944
"MỘT BUỔI SÁNG LẠNH LẼO đầu năm mới, khi lửa còn âm ỉ cháy trên những đống đổ nát gây ra bởi những quả bom Anh ở Berlin, hàng trăm nam thanh niên từ mọi miền nước Đức tìm tới xưởng đóng tàu Deschimag ở thành phố cảng Bremen để bắt đầu chương trình huấn luyện của hải quân. Đa số chỉ mang theo một va li nhỏ quần áo và có lẽ thêm một tấm ảnh quý hay một bùa may mắn. Trong số đó, khoảng 50 người có lẽ đã nhận thông báo họ sẽ trở thành thủy thủ trên một tàu ngầm tạm ký hiệu là W1077. Trong vài ngày tới, con tàu sẽ được biên chế vào lực lượng với cái tên U-869.
Tuy chỉ một số nhỏ có kinh nghiệm làm việc trên U-boat, nhiều người hoặc đã xung phong phục vụ trên tàu ngầm hoặc được cử lên đó vì có chuyên môn và kinh nghiệm kỹ thuật. Họ là một nhóm trẻ tuổi (tuổi trung bình là 21, trong đó 22 người dưới 20 tuổi, có cả một người 17) và khác xa những đoàn thủy thủ của năm 1939, khi U-bootwaffe chỉ tuyển lựa những binh sĩ tinh nhuệ nhất.
Trong số những người dày dặn kinh nghiệm nhất được phân công tới U-869 có Herbert Guschewski – lính thông tin 22 tuổi, từng tham gia ba chuyến tuần tiễu trên U-602. Guschewski cho rằng mình còn sống đã là may mắn. Anh đã nhận lệnh rời khỏi U-602 ngay trước khi nó bắt đầu chuyến tuần gần đây nhất; do tổn thất lớn với U-boat, lực lượng lính thông tin bị thiếu hụt và anh cần được điều sang phục vụ chỗ khác. Guschewski rất thất vọng; anh coi đoàn thủy thủ như anh em và con tàu là nhà mình. U-602 ra khơi hướng về Địa Trung Hải. Nó không bao giờ trở về.
Tối hôm đó ở Bremen, trong khi đang dỡ hành lý thì Guschewski nghe tiếng gõ cửa.
“Ai đó?” Guschewski hỏi.
“Đồng đội đây” người kia đáp.
Guschewski mở cửa. Một người đàn ông điển trai với mái tóc nâu lượn sóng và mắt sẫm như mực xin phép vào phòng. Anh tự giới thiệu mình là Martin Horenburg – Funkmeister được bổ nhiệm tới U-869. Anh nói mình rất mong được làm việc cùng Guschewski.
Guschewski bắt tay Horenburg nhưng tim thì chùng xuống. Anh đã nghĩ mình sẽ là lính thông tin cấp cao nhất trong đoàn thủy thủ. Nhưng cấp của Horenburg còn cao hơn: anh là Funkmeister, tức sĩ quan thông tin. Hai người trò chuyện qua loa rồi chúc nhau ngủ ngon. “Chí ít thì…” Guschewski vừa đóng cửa vừa nghĩ, “tay này có vẻ sáng trí, có năng lực, lại thân thiện. Chí ít thì Horenburg có vẻ có phong độ.”
Mất mấy ngày đoàn thủy thủ mới chính thức được tập hợp. Trong thời gian đó, những người đã được bổ nhiệm tới U-869, trong đó có Guschewski và Horenburg, nhảy tàu điện tới xưởng đóng tàu Deschimag với hy vọng được ngó qua U-boat của họ. Bên trong cánh cổng, khói diezen hòa với mùi biển và cá, phủ lên nền đất mùi của hải chiến. Họ hỏi thăm U-869. Một người canh gác chỉ ụ tàu cho họ.
Và con tàu ở đó. Hẹp dài và kín đáo, vỏ tàu thuôn như điếu xì gà ngập trong nước ở đuôi và mũi, trông nó như chiếc lông mày vồng lên khỏi mặt biển để quan sát những kẻ tò mò. Toàn thân tàu được sơn một màu xám mịt mùng, cái màu không thể phát hiện khi bầu trời chuyển từ ngày sang đêm và đêm sang ngày – khoảng thời gian mà U-boat nguy hiểm nhất. Gắn vào tháp chỉ huy U-869 là các vòng tròn Olympic – dấu hiệu cho thấy chỉ huy của tàu là một cựu học viên hải quân tốt nghiệp năm 1936, tức năm mà Berlin tổ chức Thế vận hội. Guschewski đứng sững sờ nhìn cỗ máy một lúc. Ở mọi phương diện: vũ khí, kích cỡ, thiết kế, nó vượt trội tàu kiểu VII mà anh đã phục vụ trước đây. “Không thể so sánh được” anh tự nhủ. “Đây là một con tàu vĩ đại. Nó ở một đẳng cấp khác.”
Trong hai tuần tiếp theo, lính của U-869 tham dự tập huấn chung với các đoàn thủy thủ khác ở xưởng đóng tàu. Họ sẽ không được gặp ba sĩ quan cao cấp nhất của tàu – chỉ huy, chỉ huy phó và kỹ sư trưởng – cho đến khi U-boat được biên chế vào lực lượng vào cuối tháng một. Cho đến lúc đó, họ chỉ có thể đồn đoán về những người sẽ dẫn dắt họ vào cuộc chiến.
Con tàu sẽ chính thức được biên chế vào lực lượng vào ngày 26 tháng một năm 1944. Hôm đó, những người được phân về U-869 sẽ mặc lễ phục hải quân và đi tới ụ tàu. Đây cũng là lần đầu tiên họ tập hợp thành một đoàn thủy thủ. Một sĩ quan điểm danh, gọi tên từng người: “Brizius, Dagg, Dietmayer, Dietz…” cho đến khi tất cả thủy thủ xác nhận có mặt. Suốt lúc ấy, các thủy thủ liếc sang bên cạnh, nơi một người đàn ông cao lớn, hết sức điển trai với mái tóc đen, bờ vai rộng và đôi mắt sẫm màu tinh tường đang quan sát nghi thức. Họ biết đây là chỉ huy của họ; họ nhận thấy anh mang sự đĩnh đạc trong tư thế, sự tự tin trong nhịp thở chậm rãi và nét cương nghị trên gương mặt với các góc cạnh rặt Đức. Những người này lớn lên trong một đất nước tràn ngập hình ảnh các chỉ huy U-boat anh dũng và bất khả chiến bại – những con người không coi điều gì là ngoài tầm với. Nơi đây, hình ảnh đó hiện lên ở viên chỉ huy 26 tuổi Helmuth Neuerburg.
Các thủy thủ leo lên tàu và xếp hàng ba ở đuôi tàu, tay xuôi theo người, đứng nghiêm. Chỉ huy Neuerburg nhìn bao quát các thủy thủ, bao quát biển cả, bao quát quê hương. Lúc này, các thủy thủ biết đây là lần nắm quyền chỉ huy đầu tiên của Neuerburg; vài người còn thì thào rằng anh từng là phi công chiến đấu thuộc Luftwaffe trước khi xung phong phục vụ U-boat. Neuerburg bắt đầu phát biểu với lính của mình từ sau lan can đài đón nắng. Bài phát biểu của anh súc tích và dùng tiếng Đức chuẩn, giọng điệu đậm chất quân đội và chính xác. Anh nói rất ngắn nhưng trang trọng và tiết chế về cảm xúc. Chỉ đôi ba từ của anh đã khiến cả lính U-boat dày dặn kinh nghiệm như Guschewski nghĩ “Người đàn ông này thật là quả cảm và đầy bản lĩnh. Không thể kháng cự giọng điệu này. Không thể kháng cự con người này”.
Phát biểu xong, Neuerburg ra lệnh thượng cờ tàu. Khi cờ đã lên đỉnh, Neuerburg không chào cờ bằng động tác heil của Quốc Xã mà dùng cách truyền thống của quân đội.
“Tàu đã được biên chế vào lực lượng” Neuerburg tuyên bố.
Chỉ có thế. Không ai trao cho Neuerburg mô hình U-boat như với chỉ huy U-602 trước đó của Guschewski. Không có đội kèn thổi những bài ca ngợi đất nước. Các thủy thủ đơn thuần xuống tàu và quay vào bờ.
“Thời nay khác rồi” Guschewski nghĩ.
Tối hôm ấy, các sĩ quan và thủy thủ của U-869 tụ tập liên hoan tại một nhà khách nhỏ ở Bremen. Ngồi cạnh Neuerburg là chỉ huy phó Siegfried Brandt 21 tuổi và kỹ sư trưởng Ludwig Keßler 30 tuổi. Guschewski nhìn quanh căn phòng thưa thớt và thấy tương lai của nước Đức. Hai năm trước, anh cũng dự bữa tối mừng U-602 được biên chế vào lực lượng – một bữa náo nhiệt với thịt lợn quay, bánh hấp và rượu vang, tiếp sau là tiệc cho đoàn thủy thủ (cả sĩ quan và lính nghĩa vụ) ở quận Reeperbahn lừng danh của Hamburg. Ở nhà hát, các thủy thủ được ngồi ghế đặt riêng xem nhạc kịch, sau đó làm náo loạn khu phố. Đêm nay chẳng có tiệc tùng nào hết. Họ ăn cá trích và khoai luộc trên những chiếc bàn đơn sơ và uống bia. Các cuộc trò chuyện có vẻ dè dặt.
Nhưng Guschewski vẫn thấy phấn khích. Anh trai Willi đã tới Bremen thăm anh. Trước đó, Guschewski đã hỏi đầu bếp liệu anh có thể làm thêm một đĩa đồ ăn cho Willi được không, Guschewski sẵn lòng trả tiền. Đầu bếp đồng ý và Willi ngồi vào bàn dùng bữa cùng em trai và các thủy thủ khác. Neuerburg đứng dậy và tiến đến hai anh em.
“Người này đang làm gì ở đây?” Neuerburg hỏi.
“Đây là anh trai tôi, thưa chỉ huy” Guschewski đáp. “Anh ấy đã lặn lội từ Bochum để tới chia tay tôi.”
“Anh ấy không phải là thành viên của đoàn và không được phép ở cùng trong phòng này” Neuerburg nói và quay sang Willi. “Anh phải rời khỏi đây ngay lập tức, thưa anh. Anh có thể mang đồ ăn tới một phòng khác trong nhà khách này. Em trai anh có thể tới chỗ anh sau mười giờ tối. Xin mời đứng dậy.”
Guschewski kinh ngạc. Anh trân trọng người chỉ huy chấp hành nghiêm ngặt quy chế quân đội, nhưng anh cũng mong chỉ huy của U-869 là người có tâm. Nhìn anh trai mình mang đĩa ăn ra khỏi phòng, anh cho rằng một phần cốt cách của Neuerburg vẫn còn là dấu hỏi.
Việc huấn luyện trên tàu bắt đầu sau khi U-869 được biên chế vào lực lượng. Khi các thủy thủ len qua ba cửa sập trên boong tàu, họ thấy mình bước vào một thế giới kỳ diệu của công nghệ. Hàng loạt dụng cụ, đồng hồ đo, núm vặn, đường ống, dây dẫn bao phủ mọi phân vuông của con tàu. Nơi nào cũng toát lên mùi sơn mới, mùi dầu và mùi của sự kỳ vọng. Họ nghe nói các đồng hồ đã được chỉnh theo giờ Berlin và sẽ giữ như thế bất chấp con tàu đi tới nơi đâu trên thế giới. Không một bức ảnh, kể cả ảnh của Hitler hay Dönitz, xuất hiện ở bất kỳ đâu trên tàu.
Suốt mấy ngày sau, các thủy thủ chất đồ lên tàu và làm quen với quy chế trên U-boat. Trên tàu, không ai cần giơ tay chào sĩ quan. Các sĩ quan gọi nhau bằng tên riêng. Chỉ trong mấy ngày, dù U-boat vẫn còn ở cảng, sự gắn bó dần hình thành trong đoàn thủy thủ, mỗi người có lẽ đều cảm nhận được điều mà nhiều năm trước Dönitz từng viết: đoàn thủy thủ của U-boat là một Schicksalsgemeinschaft, tức một cộng đồng cùng chung số phận.
Ngay từ đầu, các thủy thủ đã dõi theo Neuerburg. Dù với nhiệm vụ gì, anh cũng tỏ ra tiết chế và điềm tĩnh, một tấm gương của kỷ luật quân đội. Họ để ý tìm tiếng anh đùa cười khi đi qua khu sĩ quan, nhưng chỉ nghe thấy anh đang trò chuyện đầy nghiêm túc với Brandt và Keßler và luôn bằng tiếng Đức chuẩn. Anh không dùng bất kỳ tiếng lóng nào để chỉ thiết bị trên tàu và không bao giờ văng tục. Ngay cả khi tin tức về số phận tụt dốc của nước Đức truyền tới Bremen, Neuerburg vẫn không tỏ ra mảy may sợ hãi hay nao núng. Thay vào đó, anh chỉ nói về trách nhiệm và khi nói không về trách nhiệm, anh đứng và đi và hành động như thể trách nhiệm là kim chỉ nam. Tuy sĩ quan hải quân phải rời bỏ tư cách thành viên đảng chính trị khi đang thi hành nhiệm vụ (bao gồm cả đảng Quốc Xã), các thủy thủ quan sát sự quả quyết của Neuerburg và băn khoăn liệu trái tim anh có thuộc về đảng Quốc Xã hay không. Tuy nhiên không ai hồ nghi về sự tận tụy của anh. Khi anh dẫn dắt họ qua những tuần đầu huấn luyện, họ cảm thấy người đàn ông này thà chết chứ không chống lệnh cấp trên.
Bất chấp những quan điểm của đoàn thủy thủ về nhân cách của Neuerburg, họ hầu như không biết gì về cuộc đời anh. Anh từng là phi công hải quân, anh kể mỗi thế và mới chỉ điều chuyển sang U-boat gần đây. Vài thủy thủ đồn đoán rằng có lẽ Neuerburg tham gia lực lượng U-boat để chữa “viêm họng” – tiếng lóng chỉ ham muốn của một sĩ quan được đeo trên cổ Huân chương chữ thập sắt, tuy Neuerburg không hé lộ động cơ của mình. Có người đã từng nhìn thấy vợ của anh – một phụ nữ đẹp lộng lẫy – trên bờ, tuy Neuerburg không bao giờ nói về gia đình. Sự kín đáo của anh không làm giảm lòng tin của các thủy thủ dành cho chỉ huy của mình. Nhưng điều khiến đoàn thủy thủ của U-869 băn khoăn nhất trong những ngày huấn luyện đầu tiên vẫn là bí ẩn về cuộc đời của người được chọn làm chỉ huy của họ.
Ở tuổi 19, Helmuth Neuerburg đến từ Strasbourg quyết định gia nhập hải quân. Quyết định này có lẽ làm nhiều người quen anh ngạc nhiên.
Thời niên thiếu, anh đã thể hiện năng khiếu chơi vĩ cầm và vẽ tranh châm biếm, nhiều bức trong số đó đả kích những người lớn mà anh biết. Anh đã đậu Abitur – điều kiện tiên quyết để học lên cao. Những người thân nhất cho rằng anh sẽ theo đuổi ngành nghệ thuật. Đây có lẽ là ý định của Helmuth ngay cả sau khi gia nhập hải quân: anh biết nếu anh cam kết phục vụ vài năm, quân đội sẽ trả anh một khoản tiền khi giải ngũ và anh có thể đầu tư tiền đó để học lên cao. Anh không bao giờ nghĩ đến chuyện gia nhập lực lượng U-boat. Khi còn bé, anh và anh trai Friedhelm đã nói chuyện về tàu ngầm, nhưng cả hai đều chẳng ngưỡng mộ huyền thoại đó. “Muốn làm ngôi sao phải trả giá đắt” hai anh em nhắc nhở nhau. “Lên U-boat thì thành nạn nhân nhanh lắm.”
Và thế là Helmuth trở thành một học viên hải quân, khóa 1936. (Khóa học viên tính theo năm nhập học thay vì năm tốt nghiệp.) Anh đạt điểm cao hầu hết các môn, có năm cao nhất trong môn kỹ thuật máy và tiếng Anh. Anh thành lập một ban nhạc trong khi học; đến khi gần tốt nghiệp, anh đã sáng tác bài hát cho khóa và nhờ đó nhận giải thưởng đặc biệt từ tổng tư lệnh Erich Raeder của hải quân Đức. Sau khi tốt nghiệp, anh bắt đầu huấn luyện làm phi công cho nhánh không lực của hải quân. Đến năm 1940 thì anh đã là sĩ quan thực hiện bay trinh sát biển Bắc gần nước Anh và thậm chí từng đưa chú chó béc-giê yêu dấu của mình lên buồng lái cùng trong một lần làm nhiệm vụ. Trong ba năm sau đó, anh tiếp tục bay, huấn luyện phi công khác và nhận những đánh giá xuất sắc. Nhưng nếu sự nghiệp quân ngũ của Helmuth dường như là lý tưởng theo chuẩn Quốc Xã, tâm hồn và chí hướng của anh lại kể một câu chuyện bí mật khác.
Tuy Helmuth không dám công khai lên tiếng phản đối chế độ Quốc Xã (một sĩ quan có thể nhận án tử vì tội đó), nhưng anh không ngần ngại khi tâm sự với Friedhelm – chàng lính tăng thuộc một sư đoàn thiết giáp của lục quân. Trong những chuyến thăm, anh nói với Friedhelm rằng anh tin Quốc Xã đang làm nước Đức sụp đổ. Friedhelm run người trước câu nói ngang nhiên của anh.
“Chú điên à, sao lại nói lộ liễu như thế?” Anh hỏi Helmuth bất cứ khi nào cuộc đối thoại đi theo hướng đó. “Người ta đang nghe lén khắp mọi nơi! Điều chú đang nói là cực kỳ liều lĩnh!”
Helmuth vẫn nói. Có lần, sau khi trao đổi cùng một sĩ quan Quốc Xã gần Nürnberg, Helmuth nói với Friedhelm rằng đức tin bài Do Thái của gã đó thật “đáng tởm” và “bệnh hoạn”. Friedhelm cầu xin người em trai của mình giữ im lặng.
“Tai vách mạch rừng đấy, Helmuth!” Friedhelm cảnh báo. “Ai cũng nghe cả. Chú làm ơn nói năng cẩn thận đi. Chỉ cần bô bô những quan điểm đó thôi là chú tàn đời.”
Năm 1941, Helmuth cưới Erna Maas – cô con gái 22 tuổi của một chủ xưởng bia. Sáng dạ, xinh đẹp, nhiệt huyết, Erna cũng là người kịch liệt phản đối quân đội. Hai người yêu nhau sâu đậm. Ở nhà, Helmuth sưu tầm các đĩa nhạc jazz Mỹ (một thể loại âm nhạc bị Quốc Xã cấm) và dò đài BBC của kẻ thù để nghe tin tức chiến tranh (cũng là một tội trong thời chiến). Một sáng, khi đang cạo râu trước gương, anh nghe BBC đưa tin Hoa Kỳ đã tham chiến.
“Chúng ta thua rồi” anh nói với Erna.
Anh vẫn tới thăm Friedhelm mỗi khi có dịp. Anh vẫn nói lên quan điểm của mình. “Sau cuộc chiến em sẽ vứt váy đi” anh nói với anh trai, ám chỉ bộ quân phục của mình.
Năm 1943, Neuerburg và những người khác được cho hai lựa chọn: họ có thể ở lại không lực hải quân hoặc gia nhập lực lượng U-boat. Người nào ở lại sẽ tham chiến ngay lập tức, người chuyển sang tàu ngầm sẽ có thời gian huấn luyện một năm hoặc hơn trước khi ra trận. Neuerburg lúc ấy có con trai hai tuổi và con gái một tuổi. Anh chọn U-boat, tuy không hề nuôi ảo tưởng nào về sự an toàn của chúng. Khi báo cho Friedhelm biết quyết định của mình, anh nói anh tin nghĩa vụ trên U-boat là một Himmelfahrtskommando (nhiệm vụ cảm tử) – mệnh lệnh cử lên thiên đàng.
Trong 21 tháng tiếp theo, Neuerburg tham gia huấn luyện cho U-boat. Vào các đợt nghỉ, anh đưa con trai Jürgen hai tuổi đi chơi thuyền và tâng con gái Jutta sơ sinh trong lòng. Ngay trước khi U-869 được biên chế vào lực lượng, anh nói chuyện với Friedhelm. Lần này anh không hề đề cập đến Quốc Xã. Anh chỉ nhìn vào mắt anh trai và nói: “Em sẽ không quay về.”
Đào tạo lý thuyết đã xong, U-boat đã chất đủ quân nhu, đoàn thủy thủ của U-869 rời khỏi Bremen vào cuối tháng một năm 1944 và hướng ra biển Baltic để huấn luyện vài tháng. Từ thời điểm này, không nơi nào là căn cứ cố định; việc huấn luyện sẽ tiến hành trên tàu và tại các điểm dừng ở cảng dọc bờ Baltic.
Lúc này, tin tức về Tháng năm Đen Tối của năm 1943, khi lực lượng Đồng Minh tiêu diệt 44 U-boat, đã lan đến tận đám lính nghĩa vụ. Công nhân bến tàu xì xào chuyện hàng chục U-boat một đi không trở lại. Lời đồn về sự ưu việt của công nghệ phe Đồng Minh đã lan truyền qua các doanh trại hải quân. Tuy ít người nói ra, đoàn thủy thủ của U-869 gần như biết chắc thế cờ đã thay đổi.
Thời gian đầu, việc huấn luyện trên U-869 bao gồm kiểm tra độ ồn dưới nước của tàu, sửa chữa kính tiềm vọng và thực hành với súng phòng không. (Tuy U-869 không được trang bị pháo boong để giao tranh với tàu địch, nó vẫn còn vũ khí phòng không.) Các thủy thủ thực hành “huấn luyện lăn” – thứ nghệ thuật phức tạp cho tàu ngoặt và lặn – đến khi phát ngấy, mà cũng thành thạo đến mức họ tin mình có thể điều khiển chiếc U-boat dài 76 mét qua một con lạch. Vài người nôn mửa liên miên cho đến khi nội tạng của họ thích nghi với cuộc sống dưới nước. Những người khác phát bệnh vì khói và tiếng ồn của động cơ diezen. Những người có kinh nghiệm như Guschewski biết điều tồi tệ nhất vẫn còn đợi họ phía trước.
Thủy thủ dành cả tháng hai để làm quen với công việc và đồng đội. Lính ngư lôi thường sẽ giao du với lính ngư lôi, thợ máy với thợ máy. Trong phòng điện đài, Guschewski và Horenburg hướng dẫn cho hai Oberfunkmaat, hay lính thông tin, một người 18 và người kia 19 tuổi. Tuy vẫn hơi cay chuyện Horenburg xếp trên mình, Guschewski thấy Horenburg là lính thông tin lão luyện và là con người thân thiện. Chẳng mấy chốc cả hai đã phối hợp hết sức nhịp nhàng: một người mã hóa thông điệp của Neuerburg và người còn lại gửi chúng đi. Họ cũng trở thành bạn bè.
Ngoài các nhiệm vụ khác, lính thông tin còn chạy máy quay đĩa và phát nhạc qua hệ thống truyền thanh cho đoàn thủy thủ. Một hôm khi đang ở cảng, Guschewski dò được một đài phát thanh rất tuyệt có nhạc Glenn Miller – kiểu nhạc mà anh biết các thủy thủ sẽ thích. Anh chỉnh tiếng to lên. Có người bắt đầu nhịp chân và búng tay. Rồi đột nhiên một phát thanh viên chen giữa bản nhạc và nói: “Một trong các U-boat của các anh gần đây lên đường tuần tra và hai ngày sau đã mất tích. Chúng tôi đã tìm thấy các mảnh xác người và xác tàu. Trong vài ngày tới chúng tôi sẽ xác định được tên của chỉ huy và đoàn thủy thủ.” Guschewski nhào tới núm vặn đài. Anh biết đây là Radio Calais, trạm phát thanh tuyên truyền của Anh phục vụ chiến tranh tâm lý nhắm vào lính Đức. Đúng lúc Guschewski tắt tiếng phát thanh thì Neuerburg xộc vào phòng điện đài từ khu chỉ huy bên kia hành lang.
“Cậu điên à?” Neuerburg thét. “Cậu đang nghe đài địch! Toàn bộ đoàn thủy thủ đã nghe thấy! Sao cậu có thể làm vậy được?”
“Tôi bắt sóng đài đó vì nhạc rất hay” Guschewski đáp. “Khi tôi nhận ra thì thông điệp đã được phát mất rồi.”
“Để tôi nói cậu hay” Neuerburg hầm hừ. “Đừng bao giờ để chuyện này lặp lại.”
Neuerburg quay lưng đi về khu chỉ huy. Horenburg tới gần Guschewski và xoa vai anh.
“Đừng quá lo chuyện này, Herbert ạ” Horenburg nói. “Radio Calais có thể chuyển tới bất kỳ tần số nào, sao cậu biết được nó đang ở đâu. Họ thậm chí còn phát cả nhạc Đức; họ biết chúng ta thích nhạc như thế nào. Không cần phải nản đâu anh bạn. Chuyện này có thể xảy ra với bất kỳ lính thông tin nào, kể cả một tay cừ như cậu.”
Tuy Neuerburg trong mắt thủy thủ là người nghiêm khắc và thiếu linh động, có vẻ hiếm ai vì vậy mà oán trách anh. Mỗi ngày trên biển Baltic lại khiến thủy thủ hiểu rõ hơn những hiểm nguy họ sẽ phải đối mặt khi giao chiến và khi chuyến tuần của họ càng tới gần, họ càng theo dõi Neuerburg kỹ lưỡng hơn: đoán định hành vi của anh, tìm hiểu về bản năng của anh, tìm dũng khí trong mắt anh – thứ dũng khí có thể che chở gần 60 con người giữa bốn bề bom chống ngầm nổ và máy bay địch tấn công. Ít người có thể phủ nhận rằng chỉ huy của mình là một tấm gương của sự dũng mãnh, mẫu mực và tận tụy – con người đòi hỏi sự ưu tú không chỉ để thủy thủ của anh có thể sống sót, mà còn vì niềm tin rằng đó là cách sống đúng đắn của một người đàn ông.
Trong khi Neuerburg khiến cấp dưới tôn kính, thậm chí có phần e sợ, thì cấp phó của anh – Siegfried Brandt, 21 tuổi – ngày càng nhận được nhiều sự yêu mến. Ở nhiều phương diện, Brandt là hình ảnh đối lập của Neuerburg. Anh có vóc người tầm thước, có lẽ chỉ tầm 1,7 mét, đôi mắt trầm lặng và ấm áp cùng chất giọng điềm đạm có chút dí dỏm. Dường như lúc nào anh cũng như đang cười. Tuy quan hệ thân mật giữa sĩ quan và cấp dưới không được khuyến khích trong văn hóa U-boat, Brandt tỏ ra thoải mái nhất với những người lính nghĩa vụ, cười đùa với họ trong những phiên trực đài chỉ huy, hỏi han về gia đình, người yêu, quê nhà của họ, lắng nghe những nỗi lo sợ mà thông thường họ không được phép thể hiện. Tuy nắm rõ quy chế quân đội, Brandt hiếm khi câu nệ chúng trong thời gian nghỉ mà đề cao những cuộc tâm tình và khuyến khích tình bằng hữu – thứ tình cảm chỉ có được khi lính tin rằng họ có thể thả lỏng trước mặt cấp trên. Một lần, khi Guschewski kể một chuyện cười khá phổ biến về một sĩ quan khoác lác, Brandt cười sặc sụa đến độ Guschewski và những người khác ở đó tưởng anh sắp bất tỉnh. Khi lấy lại được hơi thở, anh nài: “Ôi, làm ơn kể lại đi! Tôi chưa bao giờ được nghe chuyện đó!” Guschewski vừa kể lại vừa nghĩ “Mình sẽ chẳng bao giờ dám kể mấy chuyện kiểu này cho Neuerburg.”
Tuy Brandt hành xử khá thoải mái với toán lính nghĩa vụ, anh lại vô cùng nghiêm túc khi thực hiện nhiệm vụ. Chỉ huy phó có trách nhiệm xếp lịch trực đài chỉ huy, đảm bảo ngư lôi trên tàu luôn lắp kíp nổ sẵn sàng và chỉ đạo tất cả các cuộc đột kích bằng ngư lôi trên mặt nước. Nếu chỉ huy trưởng hy sinh hoặc mất khả năng chiến đấu, chỉ huy phó sẽ nhận trách nhiệm chỉ huy tàu ngầm. Chỉ huy phó giỏi thường thăng tiến thành chỉ huy trưởng của U-boat riêng. Trong nhiệm vụ, Brandt đòi hỏi sự ưu tú bất biến từ chính bản thân mình và lấy đó làm gương để yêu cầu cấp dưới thay vì nói miệng. Có lẽ Neuerburg chính là người trân trọng tài năng và sự tận tụy đó hơn cả. Khi bàn thảo hay trò chuyện, hai người ăn ý như có chung một bộ óc. Nếu Neuerburg có quan ngại về sự thân thiết giữa cấp phó của mình với lính thì anh cũng không thể hiện điều đó trước bất kỳ ai. Vì vậy, sau vài tuần, nhiều thủy thủ đã cảm thấy rất gần gũi với Brandt và cũng nhiều người băn khoăn về cuộc đời người thanh niên 21 tuổi luôn sẵn sàng gánh vác nỗi sợ của bao người khác đó. Không ai có thể hình dung rằng Brandt, với nụ cười thường trực trên môi và luôn sẵn lòng động viên người khác, lại cho rằng mình đang huấn luyện trong một quan tài sắt.
Trước khi gia nhập hải quân, cậu bé Siegfried Brandts đến từ Zinten (Đông Phổ)28* đã nổi danh tại địa phương là một “aufrechter Mensch” tức người chính trực. “Siggi” (cách mọi người gọi cậu) được nuôi dạy thành con chiên Tin Lành ngoan đạo và một quý ông chân chính, anh cả của hai người em trai. Cha mẹ anh cởi mở đón nhận những ý tưởng mới và con người xa lạ. Đức tin tôn giáo sâu sắc của cả gia đình đối lập hoàn toàn với niềm tin của đảng Quốc Xã về Đế Chế Ngàn Năm. Khi gia đình Brandt bước tới nhà thờ, lũ Quốc Xã giễu cợt niềm tin của họ và nhắc nhở ông Otto (cha của Siegfried) rằng vào các ngày chủ nhật Siggi có nghĩa vụ tham dự cuộc họp lãnh đạo trẻ của Đoàn thanh niên Hitler. Ông Otto nói với con: “Con có thể dự họp lãnh đạo trẻ ba lần một tháng, nhưng chủ nhật cuối tháng, con phải đến nhà thờ.” Yêu cầu này khiến các thành viên Quốc Xã địa phương nổi đoá và chúng có thể bắt giam ông Otto vì sự xấc láo ấy nếu ông không có những cống hiến hiển hách (và quá rõ ràng) cho nước Đức trong Thế Chiến I: ông Otto đã mất chân trái khi chiến đấu cho tổ quốc. Ông vẫn còn mang vết thương trên ngực.
Thời trung học, Siggi và hai người bạn thân đã lập một lời thề, việc làm hiếm hoi và thậm chí là mạo hiểm khi quyền lực của Quốc Xã đang mạnh dần. Từ nay, ba người bạn thề, họ sẽ cư xử theo những nguyên tắc Phổ: kỷ luật, trật tự, trung thực, khoan dung, chữ tín và trung thành. Những phẩm chất ấy, chứ không phải bất kỳ hệ tư tưởng nào, sẽ dẫn dắt họ trong phần đời còn lại. Khi ngày tốt nghiệp trung học của Siggi cận kề và nước Đức chuẩn bị gây chiến, bọn Quốc Xã càng trở nên thiếu kiên nhẫn với nhà Brandt. Gia đình họ vẫn tiếp tục đi lễ nhà thờ. Ông Otto khước từ gia nhập đảng chính trị. Và giờ thì mẹ của Siggi – bà Elise – đã cảnh báo các đảng viên Quốc Xã địa phương tránh xa con trai thứ Norbert của bà. Không như Siegfried, Norbert có phần chậm chạp trong việc học hành, có lẽ vì khuyết tật học tập. Đối với Quốc Xã, khuyết tật như vậy trong vốn gen Aryan là không thể chấp nhận được. Chúng bảo bà Elise rằng chúng dự định triệt sản Norbert. Bà đáp gọn lỏn: Xéo! Chúng dọa sẽ đưa bà vào trại tập trung, dù bà là vợ của một anh hùng chiến tranh, dù con trai cả Siggi của bà chuẩn bị xung phong gia nhập hải quân. Bà vẫn kiên quyết. Mối quan hệ giữa lũ Quốc Xã và nhà Brandt ngày càng căng thẳng.
Sau trung học, Siggi xung phong gia nhập hải quân. Năm 1941, anh bắt đầu chương trình huấn luyện sĩ quan hải quân. Trong những chuyến thăm nhà, em út Hans-Georg nghe lỏm Siggi nói đùa về “Adolf ” – những lời mỉa mai về chuyện Hitler là người “vĩ đại nhất” và “biết tuốt” và “hiểu hải quân hơn cả các đô đốc”. Tuy mới 11 tuổi, Hans- Georg cũng hiểu anh của cậu không tin và cũng chẳng ưa gì Hitler.
Có giai đoạn Siggi phục vụ trên một tàu quét thủy lôi. Anh đã hai lần chứng kiến tàu giao tranh, lần thứ hai khiến tàu bị đắm và buộc anh phải bơi vào bờ. Sau đó, khi lãnh đạo hải quân kêu gọi xung phong phục vụ U-boat, chàng thanh niên Brandt giơ tay.
Tháng hai năm 1943, tàu ngầm U-108 của Brandt bị phi cơ và tàu khu trục của Anh lao đến dội bom ở Đại Tây Dương, phía tây Gibraltar. Tháp chỉ huy hư hại nặng nề và tàu không còn khả năng lặn. Chiếc U-boat lê trên mặt nước tới một căn cứ ở Lorient (Pháp) – một mục tiêu ngon ăn cho phi cơ và tàu địch ở khu vực lân cận. Con tàu cập cảng an toàn, nhưng trải nghiệm này in đậm trong tâm trí Brandt. Trong cuộc giao tranh, anh đã cầu xin chỉ huy cho thuyền lặn, nhưng người này lại quyết định chờ đợi. Khi quân địch tiến công, Brandt thấy viên chỉ huy ngắm ảnh con – ví dụ cho thấy một trận chiến trên U-boat có thể làm tê liệt thần kinh cả những sĩ quan ưu tú nhất.
Trong các chuyến về thăm nhà, Brandt và anh bạn Fritz bật nhạc jazz và swing, trò chuyện về sự vô vọng của cuộc chiến. Họ tiếp tục châm biếm Hitler và hồ nghi về phẩm chất lãnh đạo và khả năng ra quyết định của y. Thậm chí, từ khi trở thành sĩ quan, Brandt còn khinh miệt Hitler hơn. Tuy vậy, càng ngày anh càng cam chịu ý nghĩ rằng anh và bao quân nhân khác chỉ là những bánh răng trong một cỗ máy khổng lồ.
Brandt dành phần lớn thời gian còn lại trong năm 1943 để tập huấn với U-boat. Cùng thời gian đó, em trai Norbert của anh – người mà lũ Quốc Xã dọa sẽ triệt sản – nhập ngũ. Đảng viên Quốc Xã ở Zinten tiếp tục quấy rối ông Otto và bà Elise về chuyện họ đi lễ nhà thờ và từ chối gia nhập đảng, bất chấp việc Siggi là sĩ quan U-boat. Lời đe dọa đưa vào trại tập trung lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu nhà Brandt.
Khoảng tháng mười năm 1943, Brandt được cử làm chỉ huy phó của U-869 – một tàu kiểu IX mới toanh đang đóng ở xưởng tàu Deschimag tại Bremen. Anh gặp chỉ huy trưởng, Helmuth Neuerburg và kỹ sư trưởng, một người đàn ông có hơi hướng u sầu tên là Ludwig Keßler. Trong huấn luyện, Brandt hết mực chuyên nghiệp, tận tâm với nhiệm vụ và sẵn sàng chết vì đất nước. Trong những chuyến thăm nhà, anh gọi U-869 là một “Tauchboot Quốc Xã” tức thuyền lặn Quốc Xã. Anh nhấn mạnh từ Quốc Xã với đầy vẻ mỉa mai và khinh miệt. Có lần, cậu bé Hans-Georg 13 tuổi nghe anh mình gọi U-boat là “quan tài sắt”.
Đoàn thủy thủ U-869 tiếp tục huấn luyện đến mùa xuân năm 1944, lo lắng chuẩn bị cho kỳ sát hạch AGRU-Front29* đầu tiên (trong số nhiều kỳ) ở gần bán đảo làng chài Hel của Ba Lan. Trên biển, chỉ huy phó Brandt chịu trách nhiệm một trong ba kíp trực, còn chỉ huy trưởng Neuerburg tham gia bất kỳ kíp trực nào anh muốn. Trong mắt các thủy thủ, hai người có vẻ mạnh mẽ và dày dạn kinh nghiệm, tuy Neuerburg vẫn chật vật để nhét thân hình cao lớn và bờ vai rộng của mình qua lỗ cửa sập nhỏ hẹp dẫn vào phòng điều khiển.
U-869 trải qua năm lần sát hạch AGRU-Front từ cuối tháng ba đến tháng mười. Mỗi lần Neuerburg đều thể hiện xuất sắc, điều khiển tàu và bắn ngư lôi với sự chính xác của một thiện xạ. Khả năng nhắm bắn ngư lôi tốt sẽ củng cố lòng tin của đoàn thủy thủ và khi các thủy thủ của U-869 quan sát Neuerburg hạ các mục tiêu diễn tập, niềm tin của họ vào người chỉ huy của mình trở nên sâu sắc hơn. Trong bài kiểm tra lặn khẩn cấp, đoàn thủy thủ xử lý nhanh và linh hoạt – một thực thể thống nhất với những phản xạ đồng bộ hình thành sau quá trình huấn luyện không ngừng nghỉ và từ sự hiểu biết tỉnh táo về hiểm họa mình sẽ đối mặt. Trong mọi khâu của AGRU-Front, Neuerburg không mảy may tỏ ra sợ hãi hay e dè. Như những chỉ huy U-boat cự phách lừng danh đã trở thành huyền thoại vì vẫn thản nhiên nghiền ngẫm tiểu thuyết ngay cả khi bom chống ngầm nổ xung quanh tàu, Neuerburg giữ điềm tĩnh bất kể tình huống có căng thẳng đến đâu. Các thủy thủ trong đoàn lại càng kính trọng anh.
Tuy ngày càng thành thạo và gắn bó, các thủy thủ của U-869 vẫn giữ tư duy thực tế. Họ biết chỉ vài người trong số họ từng có kinh nghiệm với U-boat. Phần lớn biết hoặc nghi rằng phe Đồng Minh sở hữu những công nghệ chống ngầm mà Kriegsmarine không thể đáp trả. Nếu như năm 1942 Guschewski và đồng đội trên U-602 không thiếu tiếng cười thì trên U-869, anh hiếm khi thấy một khoảnh khắc nhẹ nhõm. Monte Cassino đã thất thủ. Quân Đồng Minh đã đổ bộ vào Normandie. Quê nhà của các thủy thủ đang bị dội bom. Hàng chục U-boat mất tích hoặc bị tiêu diệt trên lãnh hải kẻ thù. Nước Đức, theo nhiều người thấy rõ, đang sụp đổ.
Song không ai dám công khai nói ra nỗi lo sợ của mình. Một người lính dám chỉ trích Hitler hoặc cuộc chiến sẽ bị buộc tội Wehrkraftzersetzung (làm mất tinh thần quân đội) và bị đưa ra tòa án binh. Không ai biết phải tin ai. Guschewski không nhìn thấy các thủy thủ trên U-869 cười đùa với nhau nhưng cũng không thấy họ cãi vã như trên U-602, không thấy những cuộc thi gào thét vì thủy thủ cảm thấy bực bội và tù túng trong tàu. Ảm đạm và lặng lẽ, những thủy thủ trên U-869 chỉ lo làm việc của mình. Buồn thay, như Guschewski thấy, không ai cãi lộn với ai cả.
Đầu hè năm 1944, khi neo ở Gotenhafen30*, Neuerburg tổ chức một cuộc liên hoan trên tàu cho đoàn thủy thủ. Phụ nữ không được mời. Brandt và kỹ sư trưởng Keßler được phái lên bờ. Rượu mạnh, rượu mùi, bia chảy hào phóng trên tàu. Các món ăn hảo hạng được mang ra. Loa tàu phát nhạc thời thượng. Chẳng mấy chốc nhiều thủy thủ đã say mèm. Suốt cuộc vui, Neuerburg chỉ hớp một ngụm rượu. Anh chỉ quan sát cấp dưới, nghiên cứu hành xử của họ, lắng nghe quan điểm của họ. Tuy say, các thủy thủ có vẻ cảm nhận được mục đích của buổi tiệc: Neuerburg đang thử họ, lần dò điểm tới hạn của mỗi người, chờ đợi dấu hiệu bất trung với chỉ huy hoặc, một số người có lẽ nghĩ, với đảng Quốc Xã. Gần phòng điện đài, Guschewski uống chậm rãi và nghĩ “Thật không công bằng. Đây không phải là cách thử người ta.” Không ai trong đoàn thủy thủ thốt ra một từ miệt thị. Không ai thể hiện sự hoài nghi. Khi tiệc tàn, Guschewski nghĩ “Brandt sẽ không thử thách cấp dưới như thế này. Hai người này quả là đối lập.”
Tiệc liên hoan của Neuerburg khiến một số thủy thủ càng nghĩ nhiều về lòng trung thành của anh với đảng Quốc Xã. Tuy sĩ quan quân đội không được phép tham gia đảng phái chính trị, Neuerburg có vẻ hết lòng với nhiệm vụ và chấp hành nghiêm trình tự chính thức đến nỗi nhiều người sẽ không ngạc nhiên nếu hóa ra anh lại ủng hộ Quốc Xã.
Một hôm, khi Neuerburg lên U-869, các thủy thủ chào anh bằng động tác heil của Quốc Xã thay vì kiểu chào thông thường của quân đội. Sau âm mưu ám sát Hitler gần đây, chính phủ đã ra lệnh sĩ quan quân đội phải dùng động tác chào heil. Neuerburg lớn tiếng mắng các thủy thủ, nói với họ rằng anh yêu cầu kiểu chào của quân đội và heil không có chỗ trên tàu của anh. Một số thủy thủ cố giải thích về mệnh lệnh mới. Neuerburg đáp rằng anh không quan tâm. Và động tác heilkhông được sử dụng thêm lần nào trên U-869.
Nếu Neuerburg giờ đã khó đoán thì một sự vụ ở Hel càng làm khiến anh thêm bí ẩn. Khi các thủy thủ chuẩn bị đi ngủ thì Neuerburg tuyên bố họ sẽ cuốc bộ tới một doanh trại đặc biệt đặt trong rừng rậm của bán đảo này. Ở đó, Neuerburg mang ra Stark-Bier – một loại bia mạnh hảo hạng – và đề nghị các thủy thủ xếp ghế thành vòng tròn. Anh ngồi vào giữa, lấy ghi-ta ra và chơi đàn rất hay khiến đoàn thủy thủ sửng sốt. Không ai biết gì về tài âm nhạc của anh. Neuerburg ra hiệu mời các thủy thủ hát cùng anh những bài hát ca ngợi đất nước. Mấy người hát theo và những người khác giả vờ. Không ai nghi ngờ động cơ của anh. Họ thấy rõ từ cách anh hát và từ cách anh không nhìn vào cụ thể một ai khi đang gảy đàn rằng tiếng đàn hát này đến từ trái tim anh. Lúc 11 giờ đêm, Neuerburg và đoàn thủy thủ trở lại doanh trại thường ngày của họ.
Một trong những thủy thủ đã hát cùng Neuerburg đêm đó có lẽ là lính ngư lôi 19 tuổi Franz Nedel. Trong quá trình huấn luyện trên U-869, Nedel trung thành với hai người: một là với Hitler và đảng Quốc Xã, hai là với vợ chưa cưới Gisela Engelmann. Anh đã viết tên cô lên một trong những cửa ống phóng lôi mũi tàu. Cô căm ghét Hitler và lũ Quốc Xã nhiều như Franz yêu dấu của cô ngưỡng mộ họ.
Nedel và Gisela gặp nhau lần đầu năm 1940, khi cô tham dự một chương trình của Đoàn thanh niên Hitler ở một miền quê còn anh đang học việc trong lò mổ. Anh lúc ấy 15 và cô 14 tuổi. Họ phải lòng nhau ngay tức thì. Anh yêu cô ở tư duy độc lập, tư chất mạnh mẽ và tính cách hướng ngoại. Cô yêu anh ở trí tuệ (anh có vẻ thông thái hơn tuổi, một nhà tư tưởng) cũng như lòng trắc ẩn, tiếng cười sang sảng và thậm chí cả cách anh phát âm giọng Thượng Đức31* với chữ r cong đặc trưng của quê nhà gần Stettin32*. Cô mê đắm sự thành thạo của Nedel trong nghề đồ tể; anh giám sát hoạt động giết mổ gia súc với sự tự tin và điềm tĩnh mà cô chưa bao giờ thấy ở những chàng trai tại quê nhà Berlin của mình. Trong một tuần họ đã trở thành một cặp. Anh gọi cô là Gila. Cô gọi anh là Frenza. Họ biết chắc chắn mình sẽ ở với nhau đến đầu bạc răng long.
Hai người dính chặt với nhau. Khi anh chơi accordion ở ban nhạc anh thành lập cùng những người bạn thì cô hát theo và mọi người sẽ xúm lại. Và khi họ chơi bản nhạc ưa thích: một giai điệu Pháp với lời như sau “Về nhà đi, Zurich, về nhà đi/Em mong ngóng anh/Anh là tất cả hạnh phúc của em” cô thật sự tin rằng chỉ có một tình yêu chân chính trong đời một con người và cô đã tìm thấy tình yêu ấy ở Nedel.
Cốt cách hiền lành của Nedel dường như vênh với một trong những niềm đam mê của anh: anh mê U-boat. Anh nói về U-boat liên miên, hứa sẽ gia nhập lực lượng tàu ngầm khi cái ngày anh bắt buộc nhập ngũ đến. Gila xin anh nghĩ lại.
“Đó là những quan tài bơi” cô nói với anh. “Anh lên chiến hạm hay tàu tuần dương ấy. Lên cái gì cũng được ngoại trừ U-boat.”
“Không, Gila ạ” anh luôn đáp. “Anh muốn lên U-boat.”
Gila nói rằng cô hiểu. Thứ khiến cô cảm thấy khó hiểu hơn là tư tưởng chính trị của Nedel. Quốc Xã đã bỏ tù cha anh (một đồ tể) vì có tư tưởng chống Hitler. Nedel không nói nhiều về những cực khổ của cha mình, nhưng mẹ anh kể với Gila rằng chồng bà đã bị giam giữ khá lâu trước khi được thả ra. Nedel yêu cha mình, thế nhưng anh vẫn có cảm tình với Hitler và Đế chế thứ ba.
Cha của Gila cũng bị Quốc Xã bắt giữ. Suốt nhiều tháng, ông đã tiếp tế lương thực và nhu yếu phẩm cho một gia đình Do Thái ẩn náu trong một tầng hầm gần đó. Năm 1942, Gestapo phát hiện ra họ. Chúng treo người chồng ngược lên trần nhà, đổ nước lạnh buốt vào người ông ta và quát: “Ai giúp mày?” Khi không thể chịu đựng thêm nữa, người đàn ông tiết lộ chính cha của Gila đã giúp gia đình ông trú ẩn. Bọn Gestapo dẫn ông tới nhà của Gila, ông chỉ vào cha cô và nói: “Tôi xin lỗi. Tôi không thể chịu đựng hơn được nữa.” Cha Gila bị bắt và đưa đến trại tập trung Dachau và ông vẫn còn ở đó khi Gila và Nedel ngày càng yêu nhau say đắm. Khi Gila hỏi người yêu sao anh có thể đồng tình với Quốc Xã khi chúng đối xử với cha hai người như thế, anh chỉ có thể nói: “Anh rất tiếc chuyện đó đã xảy ra, Gila ạ.”
Song Gila vẫn yêu Nedel sâu sắc. Anh đối xử với cô ân cần và tử tế và vẽ nên một tương lai tươi sáng cho cả hai. Khi Nedel bắt đầu huấn luyện hải quân năm 1943, hai người đính hôn. “Anh sẽ lo mọi thứ cho đôi mình” anh hứa. “Khi chiến tranh kết thúc, chúng mình sẽ có cuộc sống riêng, anh hứa với em.”
Năm đó, khi Nedel được nghỉ phép về thăm nhà, Gila đợi ở cửa nhà anh. Cô thấy ảnh Hitler treo trên trong nhà và nổi nóng: “Trời ơi, sao bác treo ảnh hắn ở đây?”
Trước khi mẹ Nedel kịp phản ứng, Gila tháo ảnh khỏi khung và dùng ngón tay cào thủng mắt Hitler. Sau đó, cô đặt bức ảnh hỏng lên giường chồng chưa cưới.
“Trời ơi, nó mà về nhà nhìn thấy thì làm sao đây?” mẹ Nedel hỏi. “Cháu muốn anh ấy nhìn thấy! Bác cứ để đó!” Gila nói.
Khi Nedel về nhà, anh thấy bức ảnh bị cào xé.
“Sao em dám làm vậy?” Anh gào lên với vợ chưa cưới. “Sao em dám cào mắt Hitler?”
“Hitler là đồ chó chết!” Cô thét.
Họ tranh cãi lớn tiếng hơn. Nedel bảo vệ Hitler và Đế chế. Gila không thể chấp nhận quan điểm ấy. Cuộc tranh cãi kết thúc theo cùng một cách như tất cả các lần khác. Họ vẫn yêu nhau.
Vài ngày sau, sau khi Nedel đã quay lại huấn luyện, Berlin gánh chịu một trận bom dữ dội của Anh. Khi tiếng bom đã dứt, Gila tìm được một tấm ảnh của Hitler và trèo lên một cột đèn đường. Cô treo ảnh lên đỉnh cột, tượng trưng cho việc Hitler từ trên nhìn xuống nước Đức bị tàn phá. Cô bắt đầu nguyền rủa y. Một cảnh sát đến và cảnh báo cô rằng Gestapo đang tới.
“Cứ tiếp tục điên tiết đi Gisela” anh ta nói. “Cô em có 15 phút để chửi rủa. Quá chừng đó là người ta hốt đấy.”
“Đồ chó!” Gila hét. “Các người đã bắt cha tôi, giờ các người muốn hốt cả tôi sao?”
“Mười lăm phút” anh ta nói.
Chưa đầy một năm sau, Nedel lên U-869. Anh nói với Gila rằng anh ngưỡng mộ chỉ huy Neuerburg và tin tưởng giao phó cả tính mạng cho đoàn thủy thủ. “Ở biển, bọn anh không có gì khác ngoài đồng đội” anh nói.
Khóa huấn luyện ở biển Baltic kéo dài vào tận giữa hè. Buổi tối, thủy thủ U-869 được phép rời doanh trại để đi chơi phố. Vào những ngày tươi đẹp quá khứ, thủy thủ U-boat ngoài giờ làm nhiệm vụ gần như là những ngôi sao, là khách quý tại những hộp đêm sôi động nhất, là bạn nhảy mơ ước của những cô gái xinh đẹp nhất. Giờ đây, các thủy thủ của U-869 thấy rất nhiều quán bar và hộp đêm đóng cửa. Mà cũng chẳng mấy người có hứng nhảy nhót. Chỉ có bia là giúp họ quên đi lo âu. Khi các thủy thủ tình cờ thấy một ban nhạc chơi trong một quán cà phê, họ lặng lẽ ngồi và lắng nghe, trên người vẫn vận quân phục.
Mùa hè năm đó, chỉ huy phó Brandt xin nghỉ vài ngày để thăm gia đình ở Zinten. Anh chơi với em trai Hans-Georg 13 tuổi và thưởng thức món gà tây, thịt xông khói cùng trứng mẹ làm. Khi trời đã tối hẳn, anh cùng cha vào phòng làm việc và đóng cửa lại. Hans-Georg rón rén tới cửa phòng và áp tai vào lỗ khóa.
“Con sẽ mang theo một khẩu súng lục khi U-869 đi tuần” Brandt nói với cha. “Con sẽ không đợi đến cuối nếu có chuyện xảy ra.”
Tim Hans-Georg đập thình thịch. Anh cậu có ý gì khi nói sẽ không “đợi đến cuối”? Tôn giáo của họ không cho phép tự vẫn. Nhưng Siggi đã nói anh sẽ không đợi đến cuối. Hans-Georg cố nghe kỹ hơn.
“Con nói với cha thế này” Brandt tiếp tục. “Con tin tưởng hoàn toàn vào mọi người trên tàu. Từ cậu lính nghĩa vụ trẻ tuổi nhất đến chỉ huy trưởng Neuerburg, ai trên U-869 cũng thực sự là đồng chí.”
Cuối kỳ nghỉ, Brandt mặc quân phục và hôn tạm biệt gia đình. Trước khi bước ra khỏi cửa, anh ngồi xuống trước piano, đàn ca khúc yêu thích “La Paloma” – một bài ca ai oán của người thủy thủ với những câu như “Vĩnh biệt, bồ câu của anh.” Mẹ anh cắn môi và bảo anh dừng đàn. Người nhà ôm lấy nhau. Một lúc sau, Brandt biến mất sau những con phố trên đường quay về U-869.
Ít lâu sau, Brandt mời Hans-Georg và mẹ lên tham quan chiếc U-boat hiện đang dừng ở Pillau để huấn luyện. Trên tàu hoả, Hans Georg không kiềm chế được sự phấn khích: chắng mấy chốc cậu sẽ được nhìn tận mắt một tàu U-boat thực sự, sẵn sàng chiến đấu, lại là con tàu mà anh trai cậu đang phục vụ! Ở cảng, Brandt đưa mẹ và em lên một chiếc thuyền nhỏ và chở họ ra cảng sau, nơi cập chiến hạm. Khi con thuyền tới gần, Hans-Georg nhận ra ngay U-869 – một cấu trúc màu xám khổng lồ, thần diệu, đầy những công nghệ chết chóc, mới tinh, kiêu hãnh, vô địch. Những vòng tròn Olympic đứng gác trên tháp chỉ huy để bảo vệ anh trai cậu khỏi mọi hiểm nguy.
Brandt mời Hans-Georg lên U-boat nhưng xin lỗi mẹ: chỉ huy trưởng Neuerburg không cho phép phụ nữ ở trên tàu vì cho rằng sự hiện diện của họ đem lại xui xẻo. Nếu mẹ không ngại chờ, anh sẽ cho Hans-Georg tham quan một vòng. Người mẹ mỉm cười đồng ý. Tim của Hans-Georg rộn lên. “Đây là khoảnh khắc tuyệt vời nhất đời mình” cậu nghĩ thầm. “Không bạn học nào có một người anh như anh mình.”
Hai anh em bước trên cầu tàu gỗ cọt kẹt lên U-boat. Khi tới boong tàu, Hans-Georg nhìn thấy một người đàn ông mặc quần soóc quấn khăn trên cổ đang nằm ngửa người tắm nắng. Người đó thấy anh em nhà Brandt và đứng dậy. Hans-Georg cúi người theo lễ nghi cho thiếu niên thời đó. Người đàn ông vươn tay ra bắt tay Hans-Georg.
“À, Brandt bé!” Anh kêu lên.
“Chỉ huy Neuerburg, đây là em tôi Hans-Georg” Brandt nói. “Nếu được sự cho phép của anh, tôi muốn đưa em ấy đi tham quan tàu.”
“Tất nhiên,” Neuerburg nói. “Rất hân hạnh được đón tiếp cậu.”
Hans-Georg trố mắt nhìn. Cậu vốn luôn biết lính U-boat thật đặc biệt và chỉ huy U-boat là người đặc biệt nhất. Giờ thì cậu đã gặp một chỉ huy cao lớn, điển trai, mạnh mẽ và khi cậu cùng anh bước trên boong, cậu biết hôm nay là một ngày thật tuyệt diệu – ngày mà cậu được thấy một chỉ huy U-boat mặc quần soóc đứng trên tàu.
Hai anh em Brandt leo xuống những nấc thang kim loại mới sơn trơn nhẵn trong tháp chỉ huy. Bên trong, Hans-Georg đứng ngây nhìn rừng công nghệ mọc trên vách và trần tàu. Ai biết được hết chức năng của chừng ấy máy móc cơ chứ nhỉ? Brandt bắt đầu chuyến tham quan. Hans-Georg tự biết không được đụng vào thứ nào. Brandt cho em xem động cơ diezen, động cơ điện, phòng điện đài, ngư lôi. Thứ nào cũng bốc mùi dầu. Brandt chỉ cho em chiếc giường tầng của mình. Cậu bé nhìn về anh trai như muốn hỏi: “Được chứ ạ?” Brandt gật đầu. Hans- Georg loáng cái đã ngồi trên giường của anh mình.
Ở chân tháp chỉ huy, Brandt cho em xem kính tiềm vọng.
“Em có thể nhìn vào kính” anh bảo Hans-Georg.
Brandt bé nắm chặt tay cầm và áp mặt vào ống kính tiềm vọng. Phía trước, cậu nhìn thấy các chiến hạm ở cảng, gần đến nỗi cậu đọc được cả tên chúng. Khi cậu nhìn chằm chằm vào những con tàu đó thì anh cậu chỉ ra chính xác cậu đang nhìn vào cái gì: anh biết tên của mọi chiến hạm trên biển. Tuy chiếc U-boat này chắc chắn sẽ tham chiến, tuy Hans-Georg biết anh mình sẽ sớm lên đường, cậu cảm thấy an toàn khi anh Siggi đứng sau.
“Không ai” cậu nghĩ, “có anh trai như anh mình.”
Ngày 30 tháng tám năm 1944, U-869 cập căn cứ tiểu hạm đội U-boat ở Stettin. Lúc này phần lớn thành phố đã bị bom Đồng Minh tàn phá. Đêm đó, các thủy thủ bị đánh thức trong doanh trại bởi tiếng còi báo động không kích. Một số người chui vào hầm trú ẩn dưới đất. Những người khác, trong đó có Guschewski, vẫn nằm trên giường, cho rằng các máy bay này sẽ bỏ qua Stettin. Nhưng khi Guschewski nghe tiếng pháo phòng không bắn từ tàu Đức, anh biết chỗ này chính là mục tiêu của cuộc tấn công. Anh nhảy khỏi giường và lao xuống hầm. Trên đường đi, anh để ý thấy vài người vẫn ở lại trong doanh trại kế cận. Anh tông cửa.
“Mọi người! Sơ tán ngay!” Anh hét. “Cuộc tấn công này nhằm vào chúng ta.”
Guschewski nghe thấy tiếng bom rơi. Anh chạy vào hầm trú ẩn những cửa đã đóng. Anh dùng hết sức bình sinh đập cửa. Một thủy thủ cùng đoàn mở cửa và Guschewski lao vào trong. Bom nổ. Các thủy thủ chờ bên trong hầm. Khi đã an toàn để ra ngoài, họ nhìn quang cảnh xung quanh. Nơi từng là doanh trại của họ giờ chỉ có những hố bom. Một thủy thủ của U-869 đã tử vong trong cuộc tấn công. Ở dưới một trong những hố bom, Neuerburg và Horenburg đang lần qua những cái xác cháy thành than. Khi họ leo lên khỏi hố, các thủy thủ cúi đầu. Guschewski nhìn chỉ huy và đồng đội của mình. Không ai nói gì, nhưng anh có thể đọc được ý nghĩ của họ. Mỗi người, anh tin, đang nghĩ “Chúng ta đã thua cuộc chiến này rồi. Sao hòa bình vẫn chưa tới?”
Mùa thu tới làm dịu đi cái nắng hè thiêu đốt, khi nhiệt độ bên trong U-boat có thể lên đến 40 ba độ. Chỉ vài tuần nữa là con tàu được giao nhiệm vụ đi tuần. Nhưng vào tháng mười thì một việc không hay xảy ra trên tàu.
Một đêm, khi U-869 neo ở bến và phần lớn thủy thủ đang ngủ trên bờ, ai đó đã ăn trộm một khúc giăm-bông lớn từ một trong vài tảng giăm-bông trữ trên tàu. Khi phát hiện ra vụ trộm, anh nuôi đã báo cho Neuerburg. Neuerburg người triệu tập toàn đoàn. Ăn trộm từ đồng đội mình, tức Kameradendiebstahl, hiếm khi xảy ra trên U-boat và là tội nghiêm trọng trong cộng đồng chung số mệnh này. Neuerburg phẫn nộ.
“Tôi không dám chắc là sẽ không đưa việc này ra tòa án binh đâu” anh quát.
Trong vòng một phút ai cũng im lặng. Sau đó một thợ máy 24 tuổi tên là Fritz Dagg bước lên trước. “Tôi không muốn ai bị buộc tội oan” anh nói. “Chính tôi đã ăn trộm giăm-bông.”
Neuerburg ra hiệu cho Dagg vào khu chỉ huy. Các thủy thủ lo sợ về hình phạt mà Neuerburg chắc chắn sẽ thi hành với Dagg – một người được nhiều thủy thủ quý mến. Mấy phút sau, Dagg đi ra từ khu chỉ huy. Neuerburg đã không trừng phạt anh. Thay vào đó, Neuerburg chỉ lệnh cho các thủy thủ quay về công việc bình thường. Cả tàu thở hắt ra. Guschewski ngưỡng mộ quyết định đó. Anh tin Neuerburg trân trọng việc Dagg đã cảm thấy hối hận vì ăn trộm và anh cũng biết Dagg – một thủy thủ xuất sắc – sẽ không thể thực hiện tốt nhiệm vụ nếu chịu thêm ô nhục. Các thủy thủ đón chào Dagg trở về với họ. Không ai nổi giận với anh. Cuộc chiến ngày càng vô vọng, nhưng ít nhất thì tất cả đều đủ ăn.
Cuối tháng mười, đoàn thủy thủ U-869 biết chuyến tuần đầu tiên của họ sẽ đến trong một hai tuần tới. Brandt xin nghỉ một ngày để về thăm gia đình ở Zinten. Cha anh gọi cả nhà vào phòng khách để cầu nguyện. Siegfried mặc đồng phục sĩ quan; anh còn không mang theo quần áo để thay. Tuyết rơi dày bên ngoài cửa sổ. Otto Brandt cầu cho hòa bình và cho hai con trai Siegfried và Norbert được lành lặn trở về. Ông cầu mong có lại quãng đời dường như đã quá xa xôi, khi gia đình ông có thể ăn uống, ca hát và thức dậy cùng nhau trong an bình.
Brandt quay về U-869. Anh vẫn còn vài ngày phép nữa, nhưng anh chia cho các thủy thủ đã kết hôn để họ có thêm thời gian với gia đình. Trong khi những thủy thủ ấy đang ở bên ngoài, anh ngồi trên chiếc giường tầng tí hon trên tàu và viết thư cho gia đình.
“Con vừa biết hôm qua” Brandt viết trong một bức thư, “là Fritz C. – cậu lính thông tin mà con hay gặp – đã không quay về sau chuyến tuần đầu tiên. Đó là lần đầu cậu ấy được điều ra tiền tuyến. Chỉ mấy tuần trước tụi con còn ngồi ăn với nhau trong tiệm. Đời là vậy đấy: gian khổ và nghiệt ngã.”
Giữa tháng 11, anh gửi hai tấm ảnh nhỏ của mình kèm vài dòng nhắn gửi gia đình “Xin hãy nghĩ đến con”. Một tấm ảnh là anh đang ngủ ngồi trên boong U-869, đầu gối co sát ngực, lưng dựa vào tàu, đầu gục ra trước. Tuy người mẹ đã có nhiều ảnh của Siegfried nhưng đây là tấm duy nhất khiến bà bật khóc. Khi Hans-Georg hỏi nguyên do mẹ khóc, bà trả lời là do cách Siggi ngồi gợi bà nhớ đến một đứa trẻ, một em bé. Tuy rằng Siggi là một chiến binh kiêu hãnh, người mẹ vẫn nhìn thấy hình ảnh cậu bé con mình trong tấm ảnh đó.
Cuối tháng 11, Brandt gửi một bức thư khác cho gia đình. Thư như sau:
Khi cha mẹ đọc thư này thì con đã lên đường… Con rất vui vì đã nghe tin từ Norbert, như thế con cũng yên tâm. Chúc Hans-Georg có một ngày sinh nhật vui vẻ. Con mong sẽ về kịp dự lễ Thêm sức của em. Con cũng chúc cả nhà một Giáng sinh và năm mới vui vẻ, an lành, dồi dào sức khỏe. Giáng sinh là ngày lễ của gia đình, dù lần này con chỉ tham dự trong tâm tưởng. Bằng cách nghĩ về nhau chúng ta vẫn nhớ trước đây thật hạnh phúc biết bao. Xin đừng quên con khi cả nhà chắp tay cầu nguyện và khi chúng ta dìu dắt nhau, chúng ta hãy luôn trông đợi “Wiedersehen33*”.
Trong khi Brandt viết thư và U-869 chuẩn bị cho chuyến tuần đầu tiên, Neuerburg thăm nhà lần cuối. Anh gia nhập lực lượng U-boat để có những cơ hội như thế và từ năm 1943 đã tận dụng chúng tối đa. Về tới nhà, anh luôn thay quân phục thành thường phục để có thể trở lại là “Mensch” – một con người. Thường thì anh sẽ đưa con trai ba tuổi Jürgen đi thuyền buồm, đặt con trai vào trong một phao an toàn phía sau thuyền, cho cậu bé giả vờ là thuyền trưởng. Những lần khác, trong sự kinh hãi của vợ và sự vui thích của con trai, anh để Jürgen vào một xe goòng nhỏ nối vào xe đạp của anh rồi đạp tít mù. Anh thích chụp ảnh Jürgen và con gái một tuổi Jutta và anh còn gửi một trong những tấm ảnh của Jürgen cho một công ty phấn rôm để xét tuyển làm ảnh quảng cáo. Buổi tối, anh và Erna nghe nhạc, trò chuyện và ngày càng yêu nhau sâu đậm. Hai người không được ở bên nhau phần lớn thời gian kể từ khi kết hôn vì hoạt động huấn luyện của anh. Anh không bao giờ nói về chuyện huấn luyện hay nhiệm vụ s