Chương 13 U-boat này là thời khắc của chúng ta
Từ năm 1991, Chatterton và Kohler vẫn luôn tin vào lịch sử. Mọi sách, mọi chuyên gia, mọi tài liệu đều chung quan điểm rằng U-869 đã đắm ở Gibraltar. Nhưng hai năm rưỡi sau, liên lạc điện đài bắt chặn giữa U-869 và bộ tư lệnh U-boat đã chứng tỏ rằng U-boat ở New Jersey chính là U-869. Các thợ lặn đã sục sạo tủ hồ sơ của họ để lấy tên đoàn thủy thủ của U-869 − một trong số cả tá danh sách mà Chatterton đã chép lại từ Kho lưu trữ U-boat ở Đức. Vốn hiểu quân hàm và cấp bậc viết tắt của quân đội Đức, Kohler gọi cho Chatterton và đọc anh nghe thông tin cơ bản.
“Danh sách gồm 56 thủy thủ,” Kohler nói. “Chỉ huy trưởng là một tay tên là Neuerburg. Hắn sinh năm 1917, tức là hắn… bao nhiêu nhỉ… 27 tuổi à? Chỉ huy phó là… xem nào… Brandt, Siegfried Brandt. Trời đất, cậu ta mới 22. Horenburg bạn của chúng ta đây, Funkmeister, 25. Có bốn Willi trên tàu và ba Wilhelm. Này, lại còn có cả một Richard nữa. Và một Johann. Giống Richie và John.”
“Họ tầm tuổi bao nhiêu?” Chatterton hỏi. Kohler làm vài phép tính toán.
“Có 24 người dưới 20,” anh nói. “Trẻ nhất là Otto Brizius. Khi U-869 khởi hành đi tuần, cậu ấy mới 17.”
“Chúng ta đã bơi qua những người này và đụng vào xương của họ đến ba mùa mà không hề biết họ là ai” Chatterton nói. “Giờ thì chúng ta đã biết tên họ.”
Tin về các liên lạc điện đài bắt chặn nhanh chóng lan truyền trong cộng đồng U-boat. Với nhiều chuyên gia, bí ẩn U-boat ở New Jersey giờ đã được giải đáp: ban đầu được cử tới New York, con tàu đã không nhận được lệnh đổi tuyến sang Gibraltar và tiếp tục chạy tới New Jersey rồi đắm ở đó.
Chatterton và Kohler cũng cho rằng bí ẩn đã được giải đáp, nhưng họ chưa sẵn sàng đóng lại trang viết về U-869. Con tàu vẫn chưa cho bằng chứng khẳng định chắc chắn danh tính nó. Những kẻ hoài nghi khó chịu nhất vẫn có thể lý luận rằng U-Gì thực ra là U-857, như các thợ lặn từng giả định trước đó. U-857 quả là đã mất tích ở khu bờ đông Hoa Kỳ và vẫn chưa được tìm thấy. Họ có thể lý luận rằng con dao của Horenburg thực chất đã bị ăn cắp hoặc đặt nhầm chỗ và bằng cách nào đó đã xuất hiện trên U-857 khi con tàu neo gần U-869 ở Na Uy trước chuyến tuần. Tuy kịch bản này khó có thể xảy ra, nó cho Chatterton và Kohler thấy một hiện thực phiền toái: Chừng nào chưa tìm được từ con tàu những thứ chẳng hạn như một cái nhãn đề U-869 hoặc bảng nhà sản xuất khắc số hiệu vỏ tàu, không ai có thể khẳng định như đinh đóng cột rằng nó là U-869.
Chatterton và Kohler đi đến một quyết định: họ sẽ quay trở lại xác tàu.
Các bạn lặn của họ rùng mình với ý tưởng ấy. Ba người đã bỏ mạng trên U-boat. Một số người khác cũng suýt chịu chung số phận. Họ đã thăm dò mọi khu vực có thể thâm nhập được.
“Các anh biết nó là U-869,” bạn lặn phản đối. “Chẳng ai phản đối cả. Các anh đã viết lại lịch sử, sao phải liều mạng thêm nữa?”
Chatterton và Kohler có chung một lời đáp: chúng tôi cần tìm ra cho chính mình.
Với Chatterton, việc bây giờ rời bỏ U-Gì chẳng khác gì rời bỏ bản thân mình. Nhiều năm qua, anh đã sống và lặn theo một bộ nguyên tắc nhất quán, một niềm tin rằng cần cù, nhẫn nại, chu toàn, chuẩn bị kỹ lưỡng, sáng tạo và tầm nhìn là cốt cách của một thợ lặn và của một người đàn ông. Anh đã áp dụng nguyên tắc sống của mình vào môn lặn và trở thành một trong những thợ lặn tàu đắm cừ khôi nhất thế giới. Anh đã áp dụng tinh thần lặn vào cuộc sống hằng ngày và sống một cuộc đời chính trực và mãn nguyện. Anh không thể bỏ chiếc U-boat khi chỉ còn một ly là có thể chắc chắn.
Với Kohler, U-Gì từ một kho hiện vật đã trở thành một bổn phận đạo đức. Trong các thợ lặn duy có anh là cảm thấy mình có nghĩa vụ phải trả lại tên cho các thủy thủ đã ngã xuống và đem lại sự thanh thản cho gia đình họ. Cũng như Chatterton, anh giờ tin chắc U-Gì chính là U-869. Nhưng anh không thể tuyên bố với gia đình của Neuerburg, của Brandt và của Horenburg là anh “tương đối chắc” rằng con em họ đã hy sinh ở New Jersey, rằng U-869 “có lẽ” đã đắm ngoài khơi Hoa Kỳ thay vì châu Phi. Anh cũng khoanh lịch ngày lặn U-Gì vào mùa hè. Anh không thể để những dấu chấm hỏi lơ lửng trên các thủy thủ ấy, cũng như khi chạy thuyền cùng cha thuở bé anh đã không thể chấp nhận việc các thi thể bị bỏ lại dưới nước. Anh sẽ tìm một cái nhãn hoặc một bằng chứng không thể tranh cãi khác. Anh sẽ giúp người chết được an nghỉ và làm yên lòng gia quyến bằng tin tức của con em mình.
Còn có một động cơ khác thúc đẩy Kohler và Chatterton quay về U-Gì và về điểm này họ hoàn toàn đồng ý với nhau. Họ đang viết nên lịch sử và họ muốn viết một cách đúng đắn. Rất nhiều lần trong quá trình nghiên cứu, họ đã hết sức bất ngờ khi nhận ra các nhà sử học, sách vở và chuyên gia mắc sai lầm. U-Gì là cơ hội cho họ đặt dấu ấn cá nhân lên lịch sử. Họ sẽ làm được điều đó một cách hoàn hảo nhất.
Khi mùa xuân báo hiệu sự bắt đầu mùa lặn năm 1994, Chatterton quyết tâm tạo đột phá ở U-Gì. Mùa lặn vừa rồi là mùa năng suất chưa từng thấy, đem lại rất nhiều hiện vật thượng hạng và để các tay lặn thâm nhập vào những nơi chưa từng được khám phá. Nhưng nó cũng khiến Chatterton mất phương hướng. Tất cả các khoang trên tàu có thể tiếp cận đều đã được thăm dò đi thăm dò lại. Mọi ý tưởng để tìm nhãn hay các dấu hiệu định danh khác đều đã được thử nghiệm. Anh vẽ sơ đồ kế hoạch trên khăn giấy quán cà phê và phát hiện nó chẳng khác gì những gì anh đã thảo năm 1991. Anh quyết tâm tiếp tục tìm ra trật tự trong mớ rác hỗn độn, nhưng anh không thể hình dung trong con tàu còn lại nơi nào để áp dụng kỹ năng này. Tháng tư, vốn là một tháng tràn đầy hy vọng và lạc quan với Chatterton, dần trở nên ảm đạm khi anh không thể lập ra phương án mới. Chatterton sẽ nằm ngửa, nhìn chằm chằm lên trần nhà và tự hỏi tại sao kỹ nghệ của anh – kỹ nghệ nhìn xác tàu theo những cách mà người khác không tài nào hiểu – lại vô hiệu đúng lúc anh cần nó nhất.
Đó cũng là khoảng thời gian mà Kohler dường như là món quà của Chúa. Chatterton sẽ nghe tiếng chuông điện thoại reo, tiếng báo có fax hay thấy xe tải của hãng Fox Glass đậu ở lối vào gara và Kohler sẽ xuất hiện: thúc ép, khích bác, động viên, nài nỉ, vừa nhướn mày vừa đáp bằng giọng Brooklyn nặng hơn thường lệ pha ý khinh bạc khi nghe Chatterton than thở.
“Nghe này John,” Kohler sẽ nói. “Tôi không có ý bất lịch sự hay gì, nhưng tôi phải hỏi: Anh bị hâm à? Chuyện gì xảy ra với anh vậy? Không gì ngăn cấm chúng ta cả! Chúng ta là chúng ta cơ mà! Tôi sẽ đi U-boat hôm nay. Bây giờ là tháng tư. Ngoài kia lạnh bốn độ nhưng tôi cứ đi. Rồi tôi sẽ lôi anh xuống đó và chúng ta sẽ lên kế hoạch khi còn đang bám vào dây neo nếu buộc phải thế. Ai đó sắp lấy được một cái nhãn từ xác tàu. Anh muốn ngồi đây khóc lóc trong khi quân của Bielenda làm việc ấy? Anh muốn thấy nhãn định danh dính vào chân nhái của một gã tay mơ và rồi gã nhận vinh quang sao? Chúng ta sẽ làm được. Chúng ta cơ mà.”
“Cảm ơn Richie,” Chatterton nói. “Anh đúng là điều tôi cần bây giờ.” Sau đó, Chatterton sẽ lấy giấy bút và vẽ ra một kế hoạch mới.
Khi nước Đại Tây Dương ấm dần lên, nỗi nhớ gia đình của Kohler càng thêm day dứt. Anh trước đây chưa hiểu hết niềm hạnh phúc làm cha và tầm quan trọng của vai trò ấy đối với cách anh nhìn nhận bản thân. Trong nhiều năm qua, anh coi mình là thợ lặn. Giờ đây, khi các con anh bắt đầu làm quen với cuộc sống mới và đón chào những con người quen mới vào căn nhà mới của chúng, Kohler nhận ra anh trước hết và trên hết là một người cha. “Mình không thể sống xa con” anh nhủ thầm. “Mình yêu con hơn yêu lặn. Mình yêu con hơn bất kỳ thứ gì trên đời. Mình sẽ làm mọi cách để đưa con về.”
Kohler bắt đầu nghĩ đến chuyện không tưởng. Anh gọi cho Chatterton. Họ gặp nhau ở tiệm Scotty’s. Kohler đăm chiêu nhìn ly martini và kể với Chatterton rằng hễ muốn hòa giải với Felicia thì anh sẽ phải bỏ lặn. Chatterton trừng mắt.
“Tối hậu thư là vô nghĩa” Chatterton nói. “Hôn nhân không hòa thuận khi một người nói “Anh và em sẽ hạnh phúc bên nhau chừng nào anh làm theo lời em.” Cô ấy muốn anh bỏ lặn sao? Chỉ thế thôi cũng chứng tỏ Felicia không hiểu bản chất của anh. Lặn là tâm hồn anh. Làm sao anh có thể “đồng ý” từ bỏ tâm hồn mình được?”
“Vì gia đình” Kohler nói. “Nếu tôi phải bỏ lặn để cứu lấy gia đình thì tôi sẽ làm.”
“Hay thật đấy Richie” Chatterton nói, mặt anh đỏ lên. “Anh sắp sửa tìm được mảnh ghép cuối cùng cho câu đố U-boat, thế mà anh muốn bỏ cuộc.”
“Nếu tôi bỏ lặn, tôi biết anh cũng sẽ bị ảnh hưởng.”
“Quên tôi đi!” Chatterton gắt lên. “Bản chất của anh là thợ lặn.”
Cả hai im lặng cả phút đồng hồ.
“Đây là một con đường dài, John ạ” Kohler cuối cùng cũng lên tiếng. “Tôi yêu các con. Chúng đang học cách sống mà không có tôi. Tôi sẽ phải nghĩ thấu đáo chuyện này.”
Chatterton bắt đầu ít liên lạc với Kohler hơn. Những giây phút đầy hoài nghi khi Chatterton bí nước với U-boat, những giây phút mà Kohler luôn hiện ra và truyền lửa cho anh, giờ đây chỉ đầy yên lặng. Trong văn phòng một tối hè muộn, Kohler ngồi tại bàn và lôi ra một khẩu súng lục chín li đã nạp đạn. Anh là một thợ lặn, đó là con người anh. Anh cần con và gia đình. Anh là một người cha, đó cũng là con người anh. Anh để ngón tay lên cò và đưa súng lại gần. Ngàn vạn hình ảnh vụt qua óc anh như một cuộn phim bị tung ra khỏi máy chiếu. Anh nên bắn vào thái dương hay vào họng? Anh là một thợ lặn, đó là con người anh. Có đau không? Một người đàn ông cần có gia đình của mình. Trẻ con phải biết cha chúng. Anh nâng khẩu súng lên. Anh nhìn ảnh các con ở góc bàn. Nếu anh tự vẫn, con anh sẽ lớn lên với hình ảnh của anh qua lời kể của Felicia – một góc nhìn phiến diện. Chúng sẽ không bao giờ thực sự hiểu cha mình và cái đầu máu me be bét của anh sẽ chỉ là bằng chứng mà chị chắc chắn sẽ kể cho các con, rằng cha chúng là một kẻ thất bại đã bỏ rơi gia đình. Anh nhìn sâu hơn vào tấm ảnh. Mình muốn ngửi mùi thơm trên tóc con gái. Mình muốn dạy con trai đi xe cào cào. Mình nhớ các con. Anh cất khẩu súng vào ngăn kéo.
Không lâu sau, Kohler gọi Felicia. Anh nói với chị rằng anh muốn đoàn tụ với gia đình. Chị cho anh hai tối hậu thư. Một, anh sẽ phải cùng chị đi nghe tư vấn hôn nhân. Hai, anh sẽ phải bỏ lặn.
Anh báo tin với Chatterton tối đó ở tiệm Scotty’s. Kohler chưa khi nào thấy bạn mình tỏ ra phẫn nộ như thế.
“Tôi đồng ý rồi, John” Kohler nói. “Tôi điên đến mức nếu cô ấy bắt tôi sơn mông màu hồng và đi giật lùi thì tôi cũng sẽ làm. Tôi nhớ gia đình mình.”
“Anh bỏ lặn?”
“ Tôi bỏ lặn.”
“Đây không phải anh, Richie. Anh đang mắc một lỗi lầm vô cùng tệ hại.”
Kohler nhìn ly martini. Chatterton đã trở thành một trong những người bạn thân thiết nhất của anh. Nhưng tối ấy anh nghĩ “John không phải là người hòa nhã nhất trong những chuyện kiểu này.”
Một tháng sau, gia đình Kohler hòa giải và thuê một ngôi nhà ở ngoại ô Middletown, bang New Jersey. Ở văn phòng, đối diện chiếc bàn anh đã từng ngồi và nghĩ chuyện tự kết liễu, anh gói ghém các tư liệu về U-boat: kết quả nghiên cứu, ảnh, tài liệu, giả thuyết, hiện vật, thư từ, bản dịch và cất vào một tủ hồ sơ rồi khóa lại. Anh không gọi Chatterton để kể về việc này. Ngày hôm ấy, Kohler bắt đầu cuộc sống mới của một cựu thợ lặn.
Chuyến lặn U-Gì đầu tiên của Chatterton vào năm 1994 được xếp vào cuối tuần đầu tiên của tháng bảy. Nhiều tháng qua, anh vật lộn với một câu hỏi duy nhất: mình sẽ đi đâu tiếp trên tàu? Hôm trước chuyến lặn, anh vẫn không có câu trả lời. Con tàu đã bị lục soát đến từng phân, trừ những nơi không thể thâm nhập. Một số tay lặn và người quan sát bắt đầu xì xào rằng sẽ không ai lấy được bằng chứng định danh từ xác tàu. Những người khác thì lại quả quyết một tay mơ nào đó sẽ gặp may và lôi ra một cái nhãn mắc vào mặt nạ. Những lời ấy làm Chatterton muốn phát điên, nhưng anh không thể phản bác một cách thuyết phục. Anh ép mình phải sáng tạo hơn. Không có gì xảy ra. Anh bắt mình viết ra một danh sách các ý tưởng. Danh sách nào cũng y hệt các mùa trước. Khi bạn bè thấy sắc mặt căng thẳng của anh và hỏi han, anh chỉ đáp: “Tôi không phải là chính mình. Tôi cạn ý tưởng rồi.”
Chuyến đi tháng bảy tới U-Gì diễn ra đúng như Chatterton dự tính. Anh vỡ nước mà không có kế hoạch. Anh bơi trong xác tàu mà không có ưu tiên. Anh tìm biển nhà sản xuất ở chỗ kính tiềm vọng, như anh đã làm ba năm trước. Trên thuyền, anh chờ nghe Kohler khích bác, chờ nghe Kohler gọi anh là một tên thỏ đế theo đúng cách anh cần, nhưng Kohler đang ở cách đó cả trăm kilômét cùng gia đình và một cái tủ hồ sơ bị khóa. Con thuyền hôm ấy thật im ắng. Anh nói với Yurga: “Không có kế hoạch thì tôi chỉ đang phí thời gian.”
Như thể để trả đũa U-Gì, Chatterton dồn tâm huyết săn tìm những xác tàu khác. Chỉ trong tháng bảy năm 1994, anh đã khám phá và định danh tàu dầu Norness − con tàu đầu tiên bị U-boat đánh đắm ngoài khơi tây Đại Tây Dương trong Thế Chiến II và phát hiện ra Sebastian − một tàu chở khách thời Thế Chiến I bị đắm do bão và hỏa hoạn cách Andrea Doria 14 km về phía đông.
Trong khi Chatterton có những phát hiện mang tính lịch sử ấy thì Kohler sống cuộc đời trên cạn tỉnh lẻ. Anh quyết hàn gắn gia đình để không bao giờ phải đối mặt với cảnh mất con lần nữa. Anh rón rén xung quanh Felicia, cố nặn ra vẻ hào hứng với những lần cả nhà cùng đi chợ, cố không bật ra câu “Thật là vớ vẩn” trong những buổi tư vấn hôn nhân. Anh mua xe đạp đôi. Anh vận hết các cơ mặt chưa từng biết tới để mỉm cười khi Felicia đề xuất đi nghỉ ở Disney World. Đôi khi anh lỡ lời. Một chủ nhật đẹp trời, khi đang đẩy xe em bé, anh có thể buột miệng: “Anh cá là biển hôm nay sẽ trong như pha lê cho mấy tên ấy.”
“Em không muốn nghe chuyện đó!” Felicia sẽ nói. Chị dừng lại và lườm anh. “Anh lại mơ tưởng chuyện lặn? Anh không muốn ở đây với cả nhà à?”
“Tất nhiên là anh muốn rồi, em yêu” Kohler đáp. Rồi anh sẽ đi tiếp và nhủ thầm câu thần chú. “Mình rất bực bội, nhưng phải vì con. Phải vì con. Mình yêu gia đình. Phải vì con…”
Thoạt đầu, Chatterton thường xuyên gọi tới.
“Richie này, tôi sắp đi U-boat. Anh đi không?”
“ Không, tôi không dám hứa” Kohler sẽ nói.
“Không dám hứa nghĩa là sao? Richie, thế này không bình thường. Anh không thể sống như vậy.”
Ruột gan của Kohler như bị xé nát. Nhưng anh chỉ nói: “Tôi rất tiếc, John ạ.” Khi nghe chuyện chuyến đi U-boat của Chatterton liên tục bị thời tiết làm trì hoãn, anh áy náy vì đã cảm thấy nhẹ nhõm.
Kohler củng cố quyết tâm không lặn. Anh vẫn xoay sở xoa dịu những đam mê khác. Anh tiếp tục sưu tầm các catalô từ câu lạc bộ sách quân sự, mua tất cả các cuốn có dính dáng đến U-boat, úp tay vào ống nghe để lén lút nói chuyện với những người bán sách biết khẩu vị của anh. Anh mua một video game U-boat có tặng kèm bản đồ tọa độ hải quân Đức treo tường, rồi so nó với bản đồ anh tự vẽ từ các nghiên cứu ở Washington. Một trong những giây phút phấn khích nhất của anh năm 1994 là khi phát hiện hai bản đồ đó gần như ăn khớp.
Kohler nghĩ mùa thu tới sẽ làm dịu đi nỗi khao khát của anh. Nhưng anh lại nghĩ ngợi về các thủy thủ U-Gì. Nhiều năm qua, anh đã cố tưởng tượng nỗi khiếp sợ của họ trong những khoảnh khắc cuối cùng: cú nổ, những thân thể cháy xém văng ra, đại dương ào vào. Giờ, khi đã biết tên họ, anh bắt đầu hình dung cuộc đời của họ. Anh tưởng tượng về nước Đức như cha anh từng làm khi nghe các cậu chuyện của ông Segal − một miền đất không phải của những người lính diễu binh mà của gia đình và người yêu, của quê nhà, các món đặc sản và những trù tính tương lai. Anh đọc danh sách thủy thủ và băn khoăn ai trong số những người này thích điện ảnh, còn ai thích âm nhạc, liệu họ có hâm mộ một câu lạc bộ bóng đá địa phương, liệu có ai đã viết tên người yêu lên cửa ống phóng lôi. Anh có thể tưởng tượng cuộc đời họ đến tận giờ phút cuối: một hộp đào ngâm thưởng cho nhà vô địch cờ đam trên tàu, anh nuôi làm cháy xúc xích, lính thông tin bật máy quay đĩa.
Khi mùa đông phủ lên New Jersey, những ý nghĩ ấy trở thành bổn phận đối với Kohler. Hơn lúc nào hết anh tin mình nợ họ, rằng họ không thể nằm trong một phần mộ vô danh, số phận họ không được gia quyến biết tới. Và Kohler cũng nhận ra rằng anh có lẽ là người duy nhất trên thế giới quan tâm đến việc định danh họ. Nhưng anh không thể hành động vì bị ràng buộc bởi trách nhiệm gia đình. Anh thấy lạ lùng làm sao khi bổn phận với gia đình anh là điều ngăn cản anh trả lại công bằng cho gia đình các thủy thủ. Kohler nhìn tuyết rơi ngoài ngôi nhà mình thuê. Những năm trước, tuyết rơi có nghĩa là chỉ vài tháng nữa Kohler sẽ được quay lại với đại dương. Năm nay, anh chưa khi nào cảm thấy xa rời bản thân mình đến thế và tuyết dường như cứ rơi mãi không ngưng.
Đầu năm 1995, Chatterton và Kohler hẹn nhau ăn tối, lần này ở một tiệm pizza, không phải tiệm Scotty’s. Những năm trước, khi họ còn là chính mình, bữa tối của họ kéo dài hàng giờ. Tối nay, nó kéo dài chỉ một lát.
“Năm nay anh cũng không lặn hả?” Chatterton hỏi.
“Phải” Kohler đáp. “Tôi đâm lao thì phải theo lao. Felicia đang khiến tôi phát điên, nhưng tôi phải theo đến cùng vì bọn trẻ.”
“À ha.”
“Có đột phá đóng mác Chatterton nào trên U-Gì không?”
“Đó là tất cả những gì tôi nghĩ tới. Tôi chẳng có ý tưởng gì. Tôi mù tịt.”
“Thế còn những người khác? Định hướng họ ra sao?”
“ Richie này, chẳng ai muốn tới đó nữa.”
Ở nhà, Kohler bấu víu vào cuộc hôn nhân đang thoi thóp. Anh đã tham gia tư vấn hôn nhân, thuê một căn nhà, cất đồ nghề lặn trong tủ khóa. Nhưng những cuộc cãi vã chỉ càng gay gắt hơn. Đầu mùa xuân 1995, anh viết cho Felicia một bức thư 12 trang, tháo nhẫn cưới, nhét quần áo đồ dùng vào một tá túi nylon và dọn đến ở nhờ nhà một người bạn ở Levittown (bang Pennsylvania). Những khoản chi để hàn gắn gia đình khiến anh gần như phá sản.
Trong vài tháng tiếp theo, Kohler trông con vào cuối tuần, gắng sức vừa đủ để cạo râu và gượng dậy khỏi sàn nhà để con trai năm tuổi và con gái hai tuổi vẫn tin rằng cha chúng đang sống ổn. Chuyện đó kéo dài vài tháng. Tháng bảy năm 1995, Kohler giành được quyền nuôi con. Anh vô cùng vui sướng. Anh gọi cho môi giới bất động sản và hỏi mua một căn nhà ở quận có trường học tốt nhất trong bán kính 40 km quanh tiệm của anh ở Trenton (bang New Jersey). Hai tuần sau, anh và các con dọn đến một căn nhà phố ở Yardley (bang Pennsylvania). Anh thuê một người giúp việc, nhập học cho con, vét tiền trang trí phòng lũ trẻ và đề ra nội quy gia đình.
Ở bên kia New Jersey, thời tiết xấu khiến Chatterton chỉ có một chuyến lặn duy nhất tới U-Gì. Cũng như năm 1994, anh lặn xuống con tàu mà không lên sẵn kế hoạch rồi trở lên thuyền trắng tay. Bế tắc với U-boat, anh dành hết óc sáng tạo vào cuộc truy tìm đã khởi động từ năm trước, khám phá những xác tàu lịch sử tưởng như không thể tìm ra.
Anh bắt đầu công việc với SS Carolina − một tàu khách bị hỏa lực U-boat đánh đắm trong Thế Chiến I. Đối với các thợ lặn thám hiểm bờ đông, không có chiến lợi phẩm nào danh giá hơn Carolina − một con tàu tuyệt đẹp mà từ đó 197 hành khách và 117 thành viên đoàn thủy thủ đã nhận lệnh sơ tán bằng xuồng cứu hộ cách bờ 90 km trước khi U-151 đánh chìm tàu. Mười ba người chết đuối khi xuồng cứu hộ của họ bị lật đêm đó. Các thợ lặn đã tìm Carolina nhiều thập kỷ qua nhưng chỉ công cốc, đây vẫn là tàu khách duy nhất chưa được tìm thấy ở vùng biển New York-New Jersey. Suốt mùa nghỉ, Chatterton dịch và nghiên cứu các ghi chép tiếng Đức, phỏng vấn một chuyên gia lưu trữ của xưởng tàu, nghiền ngẫm nhật ký thuyền trưởng, dò xét biểu các đồ thời tiết 77 năm trước. Sau đó, anh tổng hợp kết quả nghiên cứu và xây dựng một giả thuyết. Anh tin rằng chiếc Carolina nằm ở khu vực không thợ lặn nào ngờ tới.
Trong chuyến đi đầu tiên tới điểm ấy, Chatterton tìm thấy một xác tàu. Anh cạo hải quỳ khỏi boong đuôi, nơi có tên con tàu căn cứ vào nghiên cứu của anh. Dần hiện ra là những chữ cái bằng đồng: C-A- R-O-L-I-N-A. Trong chỉ một ngày, anh đã phát hiện và định danh SS Carolina − niềm mơ ước hàng chục năm qua của các thợ lặn thám hiểm khu vực đông bắc.
Vài tuần sau, Chatterton tới một xác tàu mà vài người nghi rằng là tàu chở hàng Texel, cũng bị U-boat đánh đắm trong Thế Chiến I.
Chatterton lên phương án sau khi nghiên cứu ảnh và sơ đồ boong của Texel: anh sẽ tìm ở khu vực mũi tàu các điểm quy chiếu như cửa sổ thân tàu mà anh biết sẽ nằm gần tên con tàu. Thợ lặn huyền thoại Gary Gentile khẳng định với anh rằng mũi tàu đã quá hư hại, không còn đọc nổi tên. Chatterton vẫn đi. Anh tìm thấy các chữ cái bằng đồng, ghép lại thành “Texel”. Trong vòng một năm, Chatterton đã phát hiện và/ hoặc định danh bốn xác tàu lịch sử. Một số người bắt đầu gọi anh là thợ lặn tàu đắm vĩ đại nhất thế giới. Anh càng chìm sâu vào tuyệt vọng.
Chatterton tăng gấp đôi nỗ lực để giải mã U-Gì. Đầu anh trống không. Ý tưởng tràn qua đầu anh cho các dự án khác − tổ hợp của trí tưởng tượng, tầm nhìn và lòng kiên nhẫn hứa hẹn mang lại bất kỳ khám phá nào anh muốn, trừ U-Gì. Ở các hội thảo mà anh được mời thuyết trình chuyện lặn xuống Lusitania hay Carolina hay những thành tựu khác gần đây, người ta kiểu gì cũng hỏi về U-boat − chủ đề khiến Chatterton đau lòng đến nỗi anh dừng tham dự những sự kiện như thế.
Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Chatterton nghe tiếng tích tắc của đồng hồ. Năm nay anh 43 tuổi, đã là một tiền bối trong môn thể thao mài mòn những người bằng nửa tuổi anh. Cánh thợ lặn không còn muốn khám phá U-Gì. Nếu Chatterton bị oằn hay gãy xương vì tai nạn ô tô, hoặc bị ung thư, có lẽ con tàu sẽ không bao giờ được định danh. Và những kẻ không chuyên, lười biếng sẽ nhảy vào bảo nó là U-869. “Chúng tôi gần như chắc chắn về việc đó” họ sẽ tuyên bố. Những lời đó là ác mộng đối với một nghệ sĩ.
Nhưng Chatterton không biết phải làm gì tiếp theo. Hằng đêm anh nằm thao thức, nói với trần nhà và trời đất rằng anh sẽ làm bất kỳ điều gì để lấy được chứng cứ từ con tàu, rằng anh sẽ giúp bất kỳ ai có sáng kiến, rằng anh sẽ chia sẻ kiến thức, rằng anh sẽ liều sinh mạng bên trong U-boat đó chỉ cần vẽ ra được một kế hoạch. Bạn bè, như Yurga, nói: “Anh phải cho phép mình thư giãn đi. Anh đã có nhiều thành tựu trong năm vừa rồi hơn phần lớn thợ lặn đạt được cả cuộc đời.”
Trong những giây phút đen tối nhất, Chatterton có thoáng nghĩ chuyện bỏ cuộc. Anh tưởng tượng ra cuộc sống mà anh có thể chạy đi mua pizza hoặc lái xe vài vòng mà không thấy phòng điều khiển vỡ nát của U-boat trước mắt, cuộc sống mà anh không phải băn khoăn liệu mình có là người mình muốn trở thành không. Chatterton thoáng cảm thấy viễn cảnh ấy thật hấp dẫn, nhưng nó luôn kết thúc khi anh nghĩ “Khi mọi thứ dễ dàng thì người ta sẽ không hiểu chính mình. Chính hành động của con người ở thời khắc chật vật nhất mới cho anh ta thấy mình là ai. Một số người không bao giờ có được thời khắc ấy. U-Gì là thời khắc của mình. Hành động của mình lúc này cho thấy mình là ai.” Khi nghĩ như vậy, Chatterton sẽ tỉnh dậy khỏi giấc mơ bỏ cuộc, ngồi vào bàn làm việc, trước con dao của Horenburg và bắt đầu thảo ra những nơi anh sẽ thăm dò tiếp theo trên U-Gì.
Kohler giờ đã ly thân với Felicia. Anh bắt đầu nhận các lời mời lặn. Người đầu tiên chính là Chatterton. Kohler nói với anh như nói với tất cả những người bạn khác năm đó: “Tôi không lặn được. Tôi không có khả năng thể chất cũng như tinh thần. Đầu óc tôi không tập trung vào nó được. Tôi sẽ chết.”
Khi mùa lặn năm 1995 dần kết thúc, Kohler tiếp tục là một người cha và một doanh nhân toàn thời gian. Anh ngủ không đều, có khi nửa đêm phải chạy đi xử lý các vấn đề kinh doanh khẩn cấp rồi về nướng bánh cho các con ăn sáng. Các con anh ổn định với nhịp sống mới.
Tháng chín năm 1995, Kohler tới Hudson City Savings Bank để làm kính. Ở đó, anh gặp một phụ nữ tóc vàng mắt xanh 30 tuổi rất xinh đẹp. Cô than phiền về một cái cửa. Khi Kohler suy luận được rằng một phần vấn đề với cái cửa đến từ việc cô thường xuyên đá cửa bằng giày cao gót, anh liền có cảm tình với cô. Người phụ nữ đó, tên là Valentina Marks, có chút tức tối với vẻ cười nhạo của Kohler. Anh càng thích cô hơn. Anh mời cô ăn tối. Cuộc hẹn diễn ra tốt đẹp. Anh mời cô ăn tối lần nữa. Họ trở thành một cặp.
Kohler kể với cô về U-Gì. Cô nghe say mê và đề nghị anh kể thêm, đặc biệt là về những thuyền viên tử nạn. Tina có gốc Đức. Năm nào cô cũng đi Đức dự Oktoberfest với cha mình. Ngay cả trước khi Kohler thừa nhận, cô đã biết anh cảm thấy mình nợ những thủy thủ ấy.
Ở nhà Tina, ở công viên hay trên điện thoại, cô sẽ nằm ngửa, nhắm mắt lại và hỏi Kohler chi tiết về những thứ khiến anh cảm động trong cuộc sống. Cô gọi việc này là “tô điểm”. Thường thì Kohler sẽ phác họa một chuyến đi tới U-Gì, từ thời điểm Seeker rời khỏi cầu tàu tới cảm giác trượt xuống theo dây neo tới những khi anh di chuyển đầy kính cẩn giữa những thi thể. Kohler kể chuyện tìm thấy một hộp sọ và đặt nó vào chỗ để người thủy thủ đã khuất có thể nhìn thấy các đồng đội của mình và Marks hiểu tại sao anh làm thế. Cô tô điểm cho anh phong cảnh nước Đức, dãy Rừng Đen và lâu đài Neuschwanstein, về lòng yêu mến với di sản Đức và gia đình của mình. Họ cùng xem Das Boot và suốt cả bộ phim, cô cứ nhào người về phía trước. Anh kể với cô về niềm đam mê lặn của mình. Cô nói quan điểm của cô là ai cũng cần không gian riêng. Nhiều tháng trôi qua, Kohler bắt đầu tô điểm viễn cảnh về tương lai chung của hai người.
Cuối năm 1995, Kohler nhận một cuộc gọi y hệt như của chính anh hai năm trước. Người gọi là Chatterton: cuộc hôn nhân của anh đang trục trặc. Họ hẹn nhau ở tiệm Scotty’s. Hoàn cảnh của Chatterton khác với của Kohler. Tuy anh và Kathy đang cãi vã, không ai gợi ý anh bỏ lặn. Hai người đơn giản là dần xa nhau. Mỗi người đều có đam mê riêng: với Chatterton là lặn, với Kathy là bắn súng và mỗi người càng ngày càng đắm chìm vào đam mê của mình. Cuộc hôn nhân của họ sau nhiều năm đã biến thành một sự nương tựa vào nhau. Anh hiểu dòng nước và cuộc hôn nhân đang trôi dần xa anh.
“Có lẽ điều tệ nhất…” anh nói với Kohler, “là chiếc U-boat vẫn treo lơ lửng trên đầu tôi. Nó ám ảnh tôi dù đi làm hay ở nhà. Tôi đã lùi một bước để nhìn lại bản thân và tôi không giống trước nữa. Không thân thiện, không vui vẻ như trước.”
“John à, anh có quá nhiều lý do để vui” Kohler nói. “Anh vừa có một năm huy hoàng nhất trong lịch sử nghề lặn. Trong hai mùa hè anh đã chinh phục cả thế giới. Trong hai mùa hè anh đã khám phá ra cả một vũ trụ tàu đắm trong khi những thằng như Bielenda loay hoay trong vô vọng. Cớ gì anh lại không vui lúc này?”
“Chiếc U-boat là việc khác” Chatterton nói. “Chiếc U-boat là thời khắc của chúng ta.”
Hai người im lặng mấy phút. Cuối cùng Chatterton lên tiếng. “Anh sẽ trở lại chứ Richie?” Anh hỏi.
“Tôi không biết nữa” Kohler nói. “Đã quá lâu rồi.”
Cả mùa đông 1995-1996, Kohler nghĩ về tương lai với Tina. Cuộc sống của anh đã ổn định. Các con anh đang hạnh phúc và công việc kinh doanh đang tấn tới. Có những ngày anh còn không dám nghĩ đến việc sẽ lặn trở lại. Rồi mùa xuân bắt đầu thổi hơi ấm vào bầu không khí và Marks nói rằng nếu một người phải quay lưng lại với đam mê của mình thì đáng tiếc biết bao. Kohler mở chỗ cất đồ ở tiệm của anh. Anh cầm bộ đồ lặn khô lên. Màu đỏ đặc trưng khiến các thợ lặn nhận ra anh từ bên kia bãi đỗ xe của Horrible Inn vẫn sáng rực như cái ngày anh và Chatterton lần đầu lặn cùng nhau xuống U-Gì. Anh bước tới điện thoại và quay số. Chatterton nghe máy.
“John, Richie đây” anh nói. “Tôi đã trở lại.”
Họ gặp nhau ở tiệm Scotty’s. Chatterton chưa từng thấy Kohler đầy sức sống như thế.
“Anh đã làm được đủ thứ trong hai năm rồi” Kohler nói. “Còn tôi thì chẳng làm được cái khỉ gì. Nhưng tôi có một lợi thế lớn so với anh, John ạ. Tôi trở lại để phục thù. Tôi ấp ủ cái điên đã hai năm rồi. Anh hết ý tưởng? Anh không biết đi đâu tiếp? Tôi bảo anh này: chúng ta sẽ không dừng lại chừng nào chưa xử lý xong chuyện này. Bằng chứng ở trên tàu, sâu trong tim tôi biết như vậy.”
Kohler thò tay vào cặp và lôi ra tập hồ sơ U-Gì đã lâu không đụng đến. Hai thợ lặn bắt đầu lên kế hoạch. Họ đưa ra một phương án chân phương và táo bạo: Họ quyết tìm cách vào khoang động cơ điện − nơi duy nhất trên U-Gì chưa được thăm dò. Khoang đó và một phần của khoang động cơ diezen kế bên bị chắn bởi một buồng thoát hiểm bằng thép, là kết cấu dạng ống thẳng đứng để thủy thủ sơ tán khỏi một con tàu đang đắm. Các năm qua, họ cho rằng khối thép này không thể di dời được và khoang động cơ điện chẳng có gì ngoài máy móc. Giờ họ thề sẽ di dời khối thép bằng mọi giá. Và không thể chỉ giả định rằng khoang động cơ điện không có hiện vật định danh. Họ sẽ xông vào đó và tự kiểm chứng. Hai người dùng xong bữa và bắt tay. Hai năm qua, mỗi người đều cảm thấy không được là chính mình. Giờ đây, khi đã đoàn tụ, với phác thảo đầu tiên của kế hoạch ghi trên một chiếc khăn giấy, họ đã trở về đúng nơi họ cần.
Tổng quan kế hoạch như sau: Chatterton và Kohler sẽ gắn một pa-lăng xích nặng ba tấn vào buồng thoát hiểm đang chắn phần gần đuôi tàu của khoang động cơ diezen. Pa-lăng xích này là một cần trục dùng bánh cóc hạng nặng, đủ sức kéo một chiếc ô tô rơi xuống hào lên. Dân lặn hầu như không bao giờ tìm đến giải pháp này, ngay cả trong vùng nước nông, vì quá nhiều nguy hiểm. Buồng thoát hiểm có thể đổ xuống người thợ lặn, đè nát hoặc ghim cứng họ. Buồng có thể bị vỡ và bắn các mảnh thép ra mọi hướng. Các thợ lặn có thể kiệt sức vì các thao tác cần thiết để gắn xích và di dời buồng. Mặt sàn thủng lỗ chỗ mà các thợ lặn sẽ neo người vào có thể bị sụp. Chính chiếc U-boat có thể sụp đổ khi buồng đã được tháo ra. Buồng có thể rơi xuống chặn đường thoát của họ. Chatterton và Kohler thảo luận các khả năng này. Họ cho rằng chúng có thể xảy ra và vẫn quyết định theo đuổi kế hoạch.
Chatterton mượn một pa-lăng xích từ cơ sở lặn thương mại anh đang làm việc. Họ đặt một số chuyến lặn, tuy nhiên thời tiết xấu liên tục buộc họ phải ở trên bờ. Mùa lặn năm 1996 trôi qua. Nếu muốn thực hiện kế hoạch táo bạo này, họ sẽ phải chờ đến năm 1997.
Mùa đông trôi qua thật chậm chạp. Ham muốn lặn mà Kohler đã kìm nén hai năm qua giờ bùng cháy trong cuộc sống hằng ngày, nhưng anh không làm được gì khác trừ việc chờ cho thời tiết ấm áp trở lại. Hôn nhân của Chatterton tiếp tục đóng băng. Vợ anh đã nhận một công việc mới và thời gian bên nhau của hai người càng ít hơn. Họ đến gặp chuyên gia tư vấn. Không có tác dụng. Tháng năm năm 1997, khi mùa lặn mới bắt đầu, họ thuê luật sư ly hôn tuy vẫn thống nhất rằng sẽ sống với nhau đến mùa thu, khi các hoạt động hè của từng người đã vãn.
Sự cáo chung của cuộc hôn nhân khiến Chatterton đau đớn. Một ngày mùa xuân, anh gọi cho Kohler: “Tôi cần gặp anh ngay.” Kohler rời công ty và gặp bạn mình ở khu bảo tồn Watchung. Họ tản bộ qua thác nước và rừng cây. Chatterton muốn biết cách Kohler chống chịu nỗi đau của mình, cách anh có thể đi làm hằng ngày khi gia đình đang tan vỡ. Anh hỏi cặn kẽ về nỗi đau. Kohler chủ yếu lắng nghe. Anh nói với Chatterton rằng anh tin thời gian chữa lành gần như tất cả, nhưng không nói gì thêm. Anh biết Chatterton cần tâm sự và cần được ở bên một người yêu quý, quan tâm đến anh và Kohler chính là người đó.
Khi các thuyền trưởng thuyền lặn New Jersey bắt đầu mở cửa cho mùa lặn 1997, Chatterton và Kohler nghiên cứu một trong các sách do Henry Keatts viết về lặn thám hiểm. Trong một chương, họ thấy ảnh một số nhãn đã được lấy lên từ U-853 − một U-boat thời Thế Chiến II cùng kiểu với U-Gì − ở gần đảo Block (bang Rhode Island). Phần lớn các nhãn chỉ mang thông tin chung chung và không có thông tin nào đáng chú ý. Nhưng một chiếc khiến các thợ lặn kinh ngạc: Nó đề U-853. Chatterton và Kohler đã lấy được hàng chục nhãn của U-Gì. Không có chiếc nào được đề thông tin định danh như thế.
Kohler lao tới điện thoại và gọi Keatts, vốn là người quen của nhóm thợ lặn.
“Hank này, trong sách của anh có ảnh về một đống nhãn của U-853. Chúng được lấy từ đâu trên con tàu?”
“Tôi không rõ” Keatts nói.
“Chúng hiện ở đâu? Ai đang giữ chiếc đề U-853”?
“Tôi nghĩ Billy Palmer đã lấy nó.”
“Cảm ơn anh rất nhiều” Kohler nói.
Billy Palmer là một thuyền trưởng ngũ tuần với lối sống phóng khoáng, thích nhai xì gà. điều hành một thuyền lặn nhỏ là Thunderfish gần đảo Block. Anh cũng là một thợ lặn cừ khôi. Chatterton và Kohler thường gặp anh ở show của hội Boston Sea Rover và họ có một số bạn chung. Kohler tìm số điện thoại nhà riêng ở Connecticut của Palmer và quay số.
“Anh vẫn giữ mấy cái nhãn từ U-853 chứ?”
“ Tôi còn hàng xô nhãn” Palmer nói.
“Xô?”
“ Phải, xô.”
“Anh có nhớ đã lấy cái nhãn đề U-853 ở đâu không?”
“ Lâu quá rồi, Richie. Tôi chỉ nhớ láng máng.”
Kohler đề nghị cho anh và Chatterton tới thăm. Palmer nói anh rất sẵn lòng đón tiếp.
Ngày hôm sau, hai người gõ cửa nhà Palmer. Anh mở cửa, trên cổ đeo một huân chương Chữ thập tự sắt thứ thiệt − một trong những hiện vật anh tìm thấy ở U-853. Chatterton và Kohler liếc nhau như muốn nói “Tay này có ý nghiêm túc với cái huân chương đó không vậy?” nhưng không bình luận gì. Palmer dẫn họ thăm ngôi nhà hầu như chất kín hiện vật của anh. Các thợ lặn đang nóng lòng được nhìn những chiếc nhãn mà Palmer thì cứ thong dong. Cuối cùng, anh đưa họ xuống hầm. Ở đó, trong bộ đồng phục thủy thủ Đức, có cả mũ và áo choàng, đứng cạnh một bánh lái, là một ma-nơ-canh nữ mà Palmer gọi là “Eva”. Palmer phát bia.
“Các anh quan tâm đến mấy cái nhãn à?” Palmer hỏi.
“Phải, rất quan tâm” Chatterton đáp.
Palmer nhấc nắp kính của một hộp trưng bày. Bên trong có ít nhất năm chục cái nhãn nhựa. Một trong số đó dập chữ U-853. Các thợ lặn ngồi sững sờ.
“Anh có thể cho biết anh lấy chiếc nhãn này ở đâu trên xác tàu không?” Kohler hỏi.
Palmer quay khỏi phía hai người và hướng về cô ma-nơ-canh. “Eva” anh điềm đạm nói, “chuyển hướng zero-hai-zero.”
Các thợ lặn nhìn mặt Palmer. Họ không biết anh đang nghiêm túc nói chuyện với Eva hay chỉ đùa. Palmer cười thân mật, huân chương Chữ thập tự sắt lủng lẳng trên áo và quay loại cuộc trò chuyện.
“Nó nằm trong một hộp gỗ đựng phụ tùng thay thế, to hơn hộp giày một chút” Palmer nói.
“Trong khoang nào?” Chatterton hỏi. “Khoang động cơ điện.”
Các thợ lặn suýt bật dậy khỏi ghế.
“Các hộp đựng phụ tùng thay thế phải được gắn số hiệu U-boat” Palmer giải thích. “Như thế, nếu có phụ tùng được sử dụng khi làm nhiệm vụ, họ có thể gửi hộp về kho để tái cấp và người ta biết phải trả hộp về U-boat nào.”
Chatterton và Kohler ngồi bất động. Trong tất cả mọi chỗ trên U-Gì, khoang động cơ điện là nơi duy nhất chưa thâm nhập được, cũng là nơi duy nhất họ không nghĩ là có nhãn định danh. Giờ đây, hơn khi nào hết, họ buộc phải di dời buồng thoát hiểm thép đồ sộ chắn phần còn lại của khoang động cơ diezen và khoang động cơ điện kế cận. Họ đứng dậy và cảm ơn Palmer.
“Các anh chỉ cần thế thôi à?” Anh hỏi.
Họ cảm ơn Palmer vì đã giúp rất nhiều. Họ liếc về Eva. Họ nói đây thật là một trải nghiệm thú vị và chào tạm biệt Palmer.
Các thợ lặn đặt chuyến tiếp theo tới U-Gì vào mùng 1 tháng sáu năm 1997. Chatterton mang theo cái pa-lăng ba tấn và một rầm đỡ bằng nhôm. Lần đầu tiên trong vòng bốn năm họ tới U-Gì với kế hoạch rõ ràng. Khi Seeker tới gần khu vực lặn, Chatterton và Kohler đi đi lại lại trên boong sau của thuyền.
“Tôi rất sẵn sàng rồi” Chatterton nói.
“Chúng ta đã trở lại” Kohler đáp.
Kế hoạch sẽ được thực hiện theo hai giai đoạn. Ở lần lặn đầu, Kohler sẽ đo đạc chính xác kích thước của buồng thoát hiểm. Anh và Chatterton sẽ nghiên cứu các con số này giữa hai lần lặn, sau đó gài pa- lăng vào đường ống và kéo nó ra ở lần sau. Nếu tất cả đều diễn ra tốt đẹp, họ sẽ có thể thoải mái thâm nhập vào cả hai khoang động cơ và hy vọng tới được hộp phụ tùng thay thế có gắn nhãn định danh.
Trời và biển dịu nhẹ đón chào các thợ lặn. Chatterton trượt xuống theo dây neo và buộc neo vào xác tàu. Kohler theo sau, bơi qua lỗ hổng ở phòng điều khiển và đi về phía đuôi tàu. Trong chỗ để động cơ diezen, anh mặt đối mặt với buồng thoát hiểm đồ sộ bằng thép, nằm nghiêng 30 độ giữa hai động cơ diezen khổng lồ nằm hai bên khoang. Dây nhợ tủa ra như cái đầu bù xù của Einstein từ mọi nơi trên buồng, có những đoạn dây đủ dài để thắt cổ chết thợ lặn nào tiến đến quá gần. Kohler di chuyển chậm rãi. Tuy có nhiệm vụ đo đạc chướng ngại vật, anh lại lấy ra một cái xà beng vốn buộc vào bình khí. Khi Kohler còn nhỏ, cha anh đã dạy rằng “Cho tôi một đòn bẩy đủ dài và tôi sẽ dịch chuyển cả thế giới” − một ký ức đột nhiên hiện lên trong đầu Kohler. Kohler nhét xà beng vào giữa buồng thoát hiểm và động cơ, biết đâu cái ống thép khổng lồ này chịu xê dịch một chút. Anh nhìn xung quanh, phỏng đoán mình sẽ lao ra thoát thân như thế nào nếu cái buồng bắt đầu sụp xuống. Anh nhấn xà beng. Buồng thoát hiểm rung chuyển và kêu cọt kẹt, nhả những đám mây bùn vào khoang và khiến các đoạn dây rung lên đầy đe dọa về phía Kohler. Kohler bất động, dằn nhịp thở xuống. Đáng lẽ anh phải đo đạc chướng ngại vật, nhưng giờ anh có vô số ý tưởng mới. Anh có thể dùng sức lôi đường ống ra. Làm thế có thể giết chết anh, phải, có không dưới chục cách cho anh chết khi làm thế. Nhưng anh đã không được là chính mình quá lâu rồi. Anh nợ những thủy thủ đã hy sinh một nghĩa vụ. Anh nợ chính bản thân mình một lần cố gắng.
Anh di chuyển xà beng lần nữa. Buồng thoát hiểm rung lên đáp trả. Tầm nhìn chỉ còn chưa đầy một phần ba mét. Anh có thể nâng nó lên. Kohler nhìn ra sau để tìm đường thoát hiểm, nhưng điều đó không có nhiều ý nghĩa. Nếu buồng đổ lên người anh, nó sẽ ghim anh hoặc bóp nghẹt anh hoặc đè bẹp anh qua mặt sàn mục ruỗng và Chatterton − người đang ở gần mũi tàu để nhường chỗ cho Kohler − sẽ không bao giờ nghe được tiếng hét của anh.
Kohler đặt một tay dưới vành buồng thoát hiểm, tay kia lên khối động cơ để lấy điểm tựa. Anh dạng chân đứng tấn kiểu sumo trên các xà thép đỡ động cơ, cầu mong mình sẽ không trượt chân và rơi qua mặt sàn mục nát. Sau đó anh vận dụng mọi cơ bắp mình có: cơ tay, cơ bụng, cơ cổ anh từng triệu tập năm tám tuổi để kéo lên những con cá vược sọc nặng gần 20 cân trên thuyền lặn của cha mình. Anh nâng buồng thoát hiểm lên cách sàn 15 phân. Mặt kim loại cà vào khối động cơ thép mà nó đã tựa vào nửa thế kỷ qua.
“Đừng rơi xuống” Kohler bảo cái buồng. “Đừng chôn sống tao ở đây.”
Anh vận sức hơn nữa. Buồng thoát hiểm được nâng lên cao hơn và trong một khoảnh khắc Kohler giữ nó lơ lửng như một tiều phu của biển sâu cố cân trên vai một khúc cây tùng. Mặt sàn kêu cọt kẹt. Tay anh mỏi nhừ. Anh bước lùi lại. Giờ khi đã thấy mình ra xa hẳn mặt trước của các khối động cơ, anh thả cái buồng ra, để nó rơi xuống. Lúc nó rơi, Kohler đẩy nó ra xa khỏi mình. Nó va vào mặt sàn ở bên trái, khuấy lên một cơn lốc bùn nâu xỉn, nhờn mỡ và phát ra một tiếng rầm vang vọng trên những vách sắt của U-boat. Kohler nín thở nhìn xuống dưới. Anh không mắc kẹt. Anh không chết. Anh không nhìn thấy gì nhưng biết mình vừa có một hành động trọng đại nhất trong sự nghiệp lặn của mình. Anh đã di chuyển một thứ tưởng như không thể di chuyển được. Chướng ngại vào khoang động cơ điện đã được dọn sạch.
Kohler rất muốn bơi luôn qua hai động cơ diezen vào khoang động cơ điện. Nhưng anh đã mệt và tầm nhìn đã giảm xuống 0. Anh và Chatterton sẽ phải chờ đến lần lặn thứ hai trong ngày để vào đó. Kohler nhích ra khỏi con tàu. Khi nổi lên theo dây neo, anh nghĩ “Ngày ấy đã đến.”
Trên thuyền, Kohler kể lại cho Chatterton. Chatterton nheo mắt và nghiêng đầu.
“Anh làm gì cơ?”
“Tôi vần nó ra. Nó đổi chỗ rồi. Chúng ta đã có đường vào.”
“ Chúng ta khuân theo một cái pa-lăng ba tấn để làm việc đó. Và anh tự vần nó?”
“Tôi cảm thấy mình có thể làm được. Tôi phải hành động.” Chatterton lắc đầu.
“Anh có gan lắm, Richie” Chatterton nói. “Trời ạ, nguy hiểm quá. Trời ạ, thật táo gan.”
“Có lẽ chúng ta không nên phân tích quá tỉ mỉ về độ nguy hiểm của chuyện này” Kohler vừa nói vừa đi theo Chatterton vào cabin chính. “Quan trọng là: ba giờ nữa là chúng ta sẽ vào khoang động cơ điện.”
Tầm trưa, Chatterton và Kohler quay xuống nước, mang theo túi nổi và túi đồ, hy vọng tìm được hộp phụ tùng thay thế. Một phút sau họ đã ở bên trong U-Gì. Bùn đã lắng xuống ở khoang động cơ diezen, tầm nhìn về phía đuôi tàu khá rõ. Hai thợ lặn gần như không tin vào mắt mình: Chỉ cách buồng thoát hiểm mà Kohler vừa di dời vài mét là một chướng ngại vật khác, lần này là một két nhiên liệu thép hình lưỡi liềm đồ sộ trước đây được đóng vào vỏ áp suất bên trên. Chatterton và Kohler nhìn chiếc két rõ ràng đã rơi xuống khi U-boat đắm. Họ bơi vào gần và kiểm tra. Két có vẻ dài ba mét sáu và rất nặng. Nó nằm chéo giữa hai động cơ diezen, chỉ có một kẽ hở nhỏ giữa đỉnh của nó và trần khoang, là chướng ngại vật còn khó nhằn hơn cả buồng thoát hiểm mà Kohler đã dịch chuyển. Các thợ lặn lập tức biết ngay cả pa-lăng ba tấn cũng không thể dời khối thép này. Họ nhìn nhau nhưng không còn sức để lắc đầu. Lợi nhuận ròng từ thắng lợi của Kohler là họ có thể vào sâu thêm 1,2 mét trong khoang động cơ diezen. Khoang động cơ điện, nơi họ cần vào, vẫn như cách xa vạn dặm.
Các thợ lặn quay lưng và bơi về dây neo. Đầu họ cúi gằm trong quá trình nổi giảm áp. Trên thuyền, họ tháo đồ trong im lặng. Thi thoảng, một trong hai người lại văng tục.
Trong một tiếng đồng hồ chạy thuyền về Brielle, không ai nói câu nào. Họ chỉ ngồi trên một thùng mát lớn và nhìn khu vực xác tàu khuất dần. Khi Mặt trời chìm xuống đường chân trời, Chatterton quay ra Kohler.
“Tôi có một kế hoạch” anh nói.
“Tôi nghe đây” Kohler đáp.
Năm phút tiếp theo, Chatterton mô tả một kế hoạch, một bức tranh ba chiều về cách anh sẽ bơi qua két nhiên liệu vào trong khoang động cơ điện. Khi anh nói xong, Kohler nhìn thẳng vào mắt anh.
“Anh sẽ chết” Kohler nói
“Tôi sẽ làm” Chatterton nói.
“Anh chắc chắn sẽ chết.”
“Tôi sẽ làm. Nhưng tôi không thể làm nếu thiếu anh.”
“Tôi không tham gia đâu. Tôi không muốn nhìn anh chết.”
“Tôi sẽ làm” Chatterton nói. “Đây là cơ hội cuối cùng của chúng ta, Richie ạ. Rõ ràng hơn hết thảy thì tôi biết tôi sẽ làm điều đó. Và tôi cần anh ở bên.”