← Quay lại trang sách

CỖ MỪNG THÔN

Từ xưa đến giờ, hôm mồng hai tết vẫn là hôm dành riêng cho ông thủ chỉ thôn làm cỗ mừng thôn.

Hôm ấy, ba gian đình, cửa mở rộng.

Ông hội Thanh Cát, được bầu lên làm đại bái. Ông ngồi xếp bằng trên chiếc sập bên đông đình. Tiếp đến các ông chánh phó lý cựu. Các ông cán, ông xã ngồi bên tây đình.

Tuy đã có lệnh mười hai giờ trưa bắt đầu họp, ông đại cũng cho mõ rao khắp các xóm trong thôn để các ông xã không còn trách móc rằng thôn có họp mà mình không biết. Từ ông khán trở lên mới có đương thứ đến mời tận nhà.

Hình như “quan vơn” hàng xã nhưng, họ giữ kẽ không dám hấp tấp đến ngay, sợ các ông bên đông đình cho là háu ăn. Mỗi khi có việc họp để đi đám giỗ hoặc đám mừng, họ hết sức kéo dài thời giờ.

Hôm nay cũng vậy, đã gần một giờ rồi mà xem chừng các ông xã còn lẻ tẻ lắm. Ông đại muốn cho đông đủ để làm tăng giá trị mình. Nhưng trong hàng lý dịch có nhiều ông nóng ruột, hết ngồi xuống lại đứng lên, đi ra đi vào, mắt luôn nhìn ra đường. Nóng ruột nhất có ông lý Cúc. Ông thở dài lẩm bẩm:

- Cánh xã nhưng đến khó chịu! Mõ rao thế mà họ chẳng buồn đến cho. Bằng giờ chưa đến thì thịt thà thiu thối còn gì.

Ông đại bái cự lại:

- Ông ăn nói hay nhỉ. Thế nào cũng còn thể thôn nữa chứ!

Chẳng biết thể thôn ra làm sao? Nhưng ông hay dùng tiếng ấy lắm. Lý Cúc chẳng vừa. Tuy rằng ông đại bái trong thôn, quyền hành to tát chẳng kém gì một ông nguyên soái ở nơi biên thùy mà ông cũng gân cổ cãi lại:

- Xin phép các “quan vơn”, ông đại tôi có nói đến thể thôn. Nhưng thể thôn là chúng tôi chứ còn ai. Không có cánh lý dịch chúng tôi thì lấy đâu làm thể thôn.

Mọi người xúm lại can: “Thôi, cụ cựu, cụ cũng nên nể lời cụ đại chúng ta một tý”. Họ còn muốn nói: “Ông làm thế thì còn có thể thống gì nữa”. Nhưng họ lại sợ cái tính đầu bò đầu bướu của lý Cúc.

Ông đại bái tức quá, nói gắt:

- Ông muốn đi trước thì cứ việc đi, ai ngăn cấm.

Lý Cúc cũng tức, đứng phắt dậy đi thẳng ra sân, không thèm chào ai lấy nửa lời. Ông vừa đi vừa nói một mình: “Chẳng ăn thì đừng. Không có cỗ thì dễ chết cả đấy!”

Giữa đường, ông gặp xã Chính. Bác xã chắp tay vái chào và tươi tỉnh hỏi: “Cụ đi đâu mà vội vàng thế?”

- “Tôi đi đâu mặc bố tôi”. Lý Cúc nói gắt, chân vẫn bước rảo, hai tay thọc trong túi áo.

Rồi ông trịnh trọng, thong thả đặt từng bước một. Đi trước ông, thằng mõ đội cái mâm đồng trên để một buồng cau, một bánh pháo và hai chai rượu “Văn Điển”. Nó không đi chậm quen nên thỉnh thoảng phải dừng lại đợi các cụ.

Chính tuy đã nhiều tuổi nhưng vì vừa mới bầu xã nhưng được hơn một tháng, nên đi sau cùng lẫn với đám xã tý nhau. Bọn này giữ lễ không dám nói to, chỉ thì thầm ghé tai nhau bàn tán.

Đi trên họ là những ông lý, khán non, chuyện trò cười nói đã có vẻ dõng dạc. Họ bàn bạc toàn những chuyện ăn chơi. Một anh nói:

- Canh bạc hôm qua, ông lý Cúc ta thua là vì về sau bạc nhảy. Ai lại đương ngửa tư nó chuyền sang sấp một, đương…

Anh khác ngắt lời:

- Phải đấy, nếu cứ rền như trước thì ông ta còn được. Ông ta phải cái tội hay khát nước, canh nào mà bạc hay chuyền thì có bao nhiêu cũng hết.

Rồi họ kể đến các canh bạc ở tổng nọ, ở làng kia…

Đi trên nữa là bọn lý chánh cựu, các ông hương, ông khán già có con ra làm việc đã mãn khóa. Đi liền sau ông đại là những ông lý chánh cựu hoặc đã vào lão rồi, hoặc đã trình hạng, hoặc vào bậc dòng dõi hào dịch như lý Cúc chẳng hạn.

Những câu chuyện của bọn này có phần quan hệ, trịnh trọng hơn. Họ tiếc thời xưa, phàn nàn buổi dở dang này. Họ nói: thời họ còn làm việc, làng có nhiều mỹ tục. Thí dụ như đời bố mà không bầu xã, bầu nhiêu thì con dẫu có thiên ức vạn tải cũng chẳng cất đầu lên được. “Thời nay thì, úi chao! Động có của là lý nọ khán kia rối xòe, chẳng cần đếm xỉa đến dòng dõi ông cha. Con thằng bạch đinh mà có tiền, cũng có thể nhảy lên làm ông lý. Như - đến đây các cụ hạ giọng, nói rất khẽ - lão cán Cẩn với con hắn. Rồi chẳng khỏi đến cháu đến chắt nhà hắn. Thế mà khi xưa ông cha chẳng bầu bán gì cả, suốt đời chỉ đi gồng, đi gánh, chẳng hơn gì thằng mõ!”.

Thực ra thì các cụ ghen tị mà nói thế thôi, chứ thời này cũng không khác thời xưa mấy. Cán Cẩn và con hắn ngóc đầu lên được cũng vì các cụ, vì các cụ muốn có tiền bỏ túi lại muốn có cỗ, có phần. Vả lại tuy hắn, con hắn có ngôi thứ hẳn hoi, các cụ vẫn rẻ rúng, vẫn xúm nhau lại mà bắt nạt.

Những câu chuyện đương nồng nàn từ trên chí dưới bỗng im bặt và mặt ông nào ông nấy bỗng hiện vẻ nghiêm trang và bước đi của ông đại bỗng trở lại chậm chạp, trịnh trọng, dõng dạc như lúc mới ở đình bước ra. Vì các ông trong thể thôn đã tới cổng nhà ông Thủ chỉ*, vì ở đấy có ông lý Vũ, anh họ ông Thủ chỉ, đứng đón tiếp - Năm nay cũng như mọi năm, ông Thủ chỉ bận việc quan vắng, nên ông anh họ ra thay mặt.

Thủ chỉ: tức tiên chỉ, người đứng đầu ngôi thứ trong làng.

Ông lý Vũ chắp tay cúi đầu vái lia lịa như chầy máy. Ông đại sẽ gật đầu nhưng mắt vẫn nhìn thẳng. Mọi ngày ông thường đánh tổ tôm với ông lý, thường vay giật nhau từng đồng, thường chè chén, nói chuyện gàn bát sách với nhau. Nhưng, hôm nay ông là ông đại bái, là người đứng đầu hàng thôn, cho nên vì thể thôn ông phải như thế.

Trong khoảnh khắc, cái nhà thờ năm gian hai chái đã chật ních những người.

Thằng mõ đặt mâm lễ trên nhang án rồi cúi đầu lui ra. Ông đại vào lễ trước. Ông lễ rất thong thả. Một anh đương thứ cầm bánh pháo ra sân đốt. Tiếng pháo nổ ran, khói pháo xanh nhợt bay tỏa ra như sương mù. Mấy anh xã tí nhau đứng ngoài sân, lộ vẻ sung sướng. Giá ở nhà thì các anh đã chạy ra tìm những chiếc pháo ngòi sót lại bỏ túi thỉnh thoảng đốt chơi.

Rồi theo thứ tự trên dưới, hai ông một vào lễ, tuy chiếc chiếu hoa trải trước bàn thờ có thể chứa đủ bốn ông. Cứ thế mãi, hết hai ông này ra đến hai ông khác vào…, thời giờ xem chừng đã thấy kéo dài.

Một ông bên trên nóng ruột nói: “Xin phép quan đại để hàng xã nhưng vào “lỡi”* bốn một cho… tiện”. Ông định nói cho chóng theo như ý nghĩ thầm của ông, nhưng đến cuối câu, ông tìm ngay ra được chữ tiện để khỏi bại lộ chân tướng.

“Lỡi”: lễ

Ông đại hiểu ý và cũng muốn vậy nên thuận ngay.

Hàng xã nhưng được thể chen nhau mà vào lễ hàng bốn, hàng năm, có khi hàng sáu. Các quan viên lúc này dễ tính không bắt bẻ. Ông đại quay lại bàn thờ để khỏi chướng mắt và nhất là để khỏi phạm đến thể thôn.

Ông lý Vũ từ nãy vẫn khúm núm đứng đáp lễ bên nhang án; ông chạy ra, một tay vịn vào chiếc ghế bành mây, một tay gãi tai, nói: “Xin rước cụ đại an tọa”. Ông đại xua tay, đáp: “Không dám, chỗ này là chỗ cụ tiên chỉ. Người đi vắng cũng như người có nhà. Thế nào chúng tôi cũng còn phải trọng thể thôn chứ!”

Ông đi lại ngồi xếp bằng trên chiếc sập bên đông, kê tận trong cùng. Rồi một tay xòe ra, ông mời ba ông cao nhất ngồi với ông và, tay vẫn xòe đưa ra dẫy sập kê liền đấy, ông mời các ông khác. Sau cùng, ông rướn cổ nhìn sang bên kia nói to, giọng đàn anh: “Các quan vơn* kỳ hào đã ngồi đâu vào đấy rồi, bây giờ thì các ông các xã chia nhau mà ngồi cho có trật tự, nghe chưa?”

“Quan vơn”: Quan viên, người có chút địa vị trong làng, được miễn phu phen tạp dịch; phân biệt với bạch đinh (dân đen).

Bốn, năm tiếng dạ ran, rồi lộn xộn, ông nọ đùn ông kia ngồi trên, ông kia đùn ông nọ ngồi trên, dằng dai một hồi lâu. Xã Chính biết phận, ngồi hàng dưới cùng với lũ xã tí nhau. Mấy ông bên trên thấy thế thương hại đến kéo lên ngồi với hàng xã lớn tuổi. Xã Chính sợ mất “thể thôn”, từ chối. Mãi sau ông đại cho phép mới dám nhích lên mâm trên. Bác cẩn thận thế cũng phải, nếu không chốc nữa rượu vào lời ra, các ông “hoạnh” thì biết đường nào mà nói.

Bên đông, bên tây đã ngồi đâu vào đấy rồi, ấm chén sắp sửa bưng ra để các ông làm một tiệc nước thì ông đại bỗng đứng dậy. Mọi người đứng dậy theo ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu.

Ông đại nói: “Chết chửa! Tôi quên bẵng đi mất. Anh em chúng mình chưa chào cụ cố”. Rồi ông gọi: “Ông lý cựu đâu? Ông đưa quan vơn hàng thôn lên chào cố đã”.

Bên kia, hàng cán, xã nhao nhao, hỗn độn như đám bạc bị bắt.

Ông lý Vũ chạy ra đứng trước mặt ông đại gãi tai nói:

- Thưa cụ đại và các cụ, cụ cố chúng tôi mệt, nằm dưới nhà. Cụ cố chúng tôi xin có lời cảm ơn các cụ và xin các cụ miễn cho.

Ông đại xua tay, lắc đầu:

- Chúng tôi thế này cũng là không phải lắm. Vậy ông cứ để chúng tôi xuống chào và mừng tuổi cố.

Ông lý van lơn:

- Xin các cụ miễn cho. Cụ cố chúng tôi mệt không ra tiếp các cụ được.

Ông đại bẻ lại:

- Ông chớ nói thế. Chúng tôi đâu dám để cố ra tiếp. Chúng tôi chỉ xin xuống chào và chúc mừng cố.

Vừa nói, ông vừa đi xuống nhà. Các ông trong “thể thôn” theo sau. Ông lý Vũ chạy vội xuống bẩm trước. Cụ cố đương nằm nghỉ trong màn vừa thở dài, tốc chăn ngồi dậy thì ông đại đã đứng cửa nói vào:

- Lạy cố ạ, quan vơn thôn có lời chào cố và chúc cố bách niên trường thọ.

- Không dám ạ. Cụ chực thò đầu bước xuống thì ông đại đã nhanh mồm, nói:

- Cố mệt, xin cố cứ nằm nghỉ.

- Phải, tôi trong mình cũng không được khỏe. Vậy xin các ông tha lỗi cho nhé.

- Không dám ạ. Rồi ông đại quay ra nói với hàng thôn:

- Bây giờ xin các quan vơn lại lên nhà và xin ông nào ông ấy cứ ngồi yên chỗ cũ cho có trật tự.

Một vài ông khó chịu thì thầm với nhau: “Ông đại ta đến nhiễu sự”. Một vài ông khác khen to tiếng để ông đại nghe thấy: “Ông đại người cẩn thận chu đáo thật”.

Lần này, các ông nhớ chỗ, ngồi đâu vào đấy ngay. Ông đại rung đùi đắc chí, nói tự phụ: “Các cụ xem tôi mà không nhớ ra thì còn gì là thể thôn!”

Chỗ này trả lời, chỗ kia trả lời, ồn ào như buổi phiên chợ.

Người nhà ông thủ chỉ sợ ôi cơm, ôi thịt, bảo bỏ tiệc nước mà bưng ngay cỗ lên. Một người đi từng mâm bắt đầu từ mâm ông đại, cầm chai rượu mở nút và rót các chén.

Ông lý Vũ cùng mấy ông trong họ lần lượt đến bên từng mâm, nhắc đi nhắc lại câu: “Gọi là có chén rượu nhạt, xin mời các cụ chiếu cố”.

Các cụ nhắm nháp khề khà. Cỗ bưng lên từ lúc hai giờ, mãi đến năm giờ mới ăn uống xong.

Ông đại và hàng thôn xuống cáo từ cụ cố. Một tràng pháo của ông thủ chỉ đốt tiễn.

Ông đại lại trịnh trọng bước một đi đầu. Ông lý Vũ lại ra đứng cạnh cổng vái lia vái lịa như chày máy.

Ra đến đường, hàng thôn giải tán. Người nào về nhà người ấy. Ông đại đã làm đầy đủ chức vụ.

Bây giờ ông cứ việc lu bù cho đến mồng mười tháng hai là ngày đông đám.

Xã Chính vốn thích rượu mà không dám uống nhiều, sợ say nói nhảm, sẽ bị quan vơn bắt lỗi, có khi bị truất ngôi trừ ngoại cũng chưa biết chừng. Nghĩ làm cái thân anh xã cũng rầy thật!

Hàng thôn giải tán rồi, bác cắm đầu cắm cổ đi rẽ về phía khu trong. Bác còn phải đến lễ mươi mười lăm nhà nữa. May mà sáng sớm ngày ra, bác đã lễ được vài chục nhà rồi.

Không có thì làm sao cho kịp với cái thời giờ ít ỏi? Không được đủ thì thật là hối hận trong cả một năm.