HỘI QUAN LÃO
Mồng sáu tháng giêng, ngày hội “quan lão”, là một ngày vui vẻ, sầm uất, náo nhiệt nhất làng Cầm.
Ngày ấy, văn chỉ* thờ đức Khổng bỗng thành một nơi tụ họp cả bốn thôn: Thượng, Trung, Tiền, Hạ, chỗ hẹn hò của đủ hạng người: già, trẻ, trai, gái, trên từ hàng lý, phó, dưới tới hàng cán, xã cho chí bạch đinh. Trong các ngõ xóm, trên các đường hẻm, đường cái, từng lũ nối đuôi nhau đi cả về một phía như các dòng sông chảy ra biển. Trong văn chỉ, ngoài sân văn chỉ, chung quanh văn chỉ, người đi lại đông như kiến.
Miếu (đền) thờ Khổng Tử ở các làng.
Họ xem gì? Họ chưa thấy gì để xem, ngoài mươi lá cờ xanh đỏ, vàng tím phất phới trên đầu họ.
Nhưng nét mặt người nào cũng lộ vẻ náo nức. Họ náo nức vì quanh năm làm ăn vất vả, họ chỉ chờ mong ngày hội, bất cứ hội gì để giải trí. Nếu chỉ xem có thế thôi rồi về, họ cũng không oán thán.
Không bao giờ Mít sung sướng bằng hôm nay. Mít dậy thực sớm, xuống bếp vội làm vài lưng cơm với mấy con tôm rang mặn, vội đun ấm nước trà tươi để chốc nữa thầy dậy uống, rồi tất tả lên nhà trang điểm. Mít thắng xong bộ cánh, vuốt đi vuốt lại dải lưng thiên lý, ngắm trước ngắm sau chiếc váy lụa mềm, rồi móc ở túi áo cộc trắng lộ trong chiếc áo tứ thân màu nâu non, một cái gương nhỏ. Mít cầm gương lọt trong lòng bàn tay giơ ra soi, cúi đầu xuống, ngửng đầu lên, quay đầu sang bên này, bên kia ngắm từ cái cổ cái tai cho chí các nét tỉ mỉ trên mặt. Mít thấy mình đẹp và khẽ nhếch một nụ cười sung sướng. Rồi Mít tự ngượng, và tự hỏi không biết cái Cúc, cái Khuy, cái Cài, cái Hĩm, chúng nó có làm đỏm, làm dáng như mình không.
Từ thuở bé, Mít vẫn thấy người ta chế giễu người làm đỏm, nên Mít cho cái tính của mình là một tính xấu. Xấu thì xấu, Mít cũng không sao chừa được. Không dám làm đỏm trước mặt mọi người thì Mít làm đỏm ngầm kín vậy, Mít không thể rời được cái gương với cái hộp sáp. Mít khổ sở khi thấy đầu không bóng mượt, vành khăn không tròn trĩnh hay yếm không trắng bong. Dù bố mẹ có mắng vì cái tội làm đỏm, Mít cũng không sao để đầu bù tóc rối, quần áo xuề xòa như mẹ được.
Mấy hôm tết, Mít làm đỏm để thỏa riêng lòng sở thích, vì Mít chỉ luẩn quẩn hết nhà trên đến nhà dưới. Một đôi khi, có sang bên hàng xóm hay đến các nhà trong họ, Mít cũng chỉ để đỏ mặt lên một chút mà nghe những lời khen quá đáng của ông chú bà bác và những lời giễu cợt của mấy người anh em họ.
Hôm nay là một dịp tốt để Mít so sánh sắc đẹp với chị em. Nhất là để gặp Tửu, Tửu mà ít lâu nay Mít không thấy bóng đâu cả, khiến Mít nhớ quá. Có lần Mít đã định đến chơi với Gái để được giáp mặt Tửu, nhưng nửa chừng Mít sinh ngượng rẽ vào xóm Lũy đến chơi nhà chú.
“Chị Mít ơi, chị Mít có nhà không đấy, hay đã lẻn đi trước chị em rồi”, đó là tiếng Cúc cùng đi với Cài, Khuy, Mậm đến rủ Mít.
Mít vội bỏ cái gương vào túi, chạy ra sân đón.
Khuy chế giễu:
- Úi chào làm đỏm nhỉ!
Mít cười nói:
- Các chị thì nữa không.
Mậm cãi:
- Tôi thì có gì đẹp mà chị vơ đũa cả nắm.
Mít cầm lấy bộ xà tích Mậm đeo lủng lẳng bên đùi, và nói:
- Thế thì cái gì ở dây lưng lụa ngà của chị đây?
Mậm khẽ ẩy Mít và cười trừ.
Cài muốn giục đi ngay, nói:
- Thôi thôi, tôi xin các chị đừng chế lẫn nhau. Chị nào cũng làm đỏm cả… tôi cũng vậy.
Nói rồi, Cài khoác vai Mít và Mậm lôi đi.
Thấy chị nào cũng bỏm bẻm miếng trầu, Mít gỡ tay Cài, chạy vào trong nhà, vừa chạy vừa nói:
- Để tôi lấy miếng trầu, không có nhạt mồm lắm.
Mít không nhạt mồm. Mít đoán chắc môi mình không được cắn chỉ vì thiếu miếng trầu. Lúc nãy Mít soi gương, quên không để ý đến cặp môi. Mít lẻn vào buồng mẹ lấy trộm miếng trầu bỏ miệng rồi lấy thêm vài miếng nữa bỏ túi. Các chị kia thừa hiểu, tủm tỉm cười một cách ý nhị.
Gần đến văn chỉ, Mít ngại ngùng nói:
- Đông lắm chúng mình ạ. Vị tất cánh mình đã chen được.
Cúc, giọng quả quyết, cãi lại:
- Trông xa thì thế, chứ cũng không đông lắm như chị tưởng đâu. Rồi chị xem.
Tới gần mới biết lời Cúc là đúng. Người qua lại tuy đông thật, nhưng cũng còn có lối đi, không đến nỗi phải chen vai, thích cánh.
Chị em Mít sợ lạc, dắt nhau đi như rồng rắn, vừa đi vừa cười đùa, nghịch ngợm.
Một bà lão trông thấy, nói nửa cợt nửa trách:
- Các cô đi kén chồng hay sao mà làm đỏm làm dáng thế?
Mít nhanh nhảu đáp lại:
- Vâng, chúng cháu đi kén chồng đây.
Các chị bỡ ngỡ. Một chị hỏi:
- Ta đi đâu bây giờ?
Mít dẫn đầu nói:
- Cứ chỗ nào đông thì vào.
Nhưng mỗi lần qua được một bọn người là một lần chị em thất vọng. Chỗ thì thấy dăm bảy ông kỳ mục ngồi chuyện vãn chung quanh mâm cau, mâm cam, để “mừng quan lão” của con cháu các ông “vào lão” năm nay. Chỗ thì thấy mấy anh đương thứ bày những cỗ mũ lên trên án thư sơn son thiếp vàng kê thành bực. Chỗ thì thấy hai đứa trẻ cãi nhau, đấm đá, vật lộn nhau và một lũ vừa trẻ con vừa người lớn đứng vòng trong vòng ngoài hò reo rầm rĩ.
Mít băn khoăn, vì từ nãy vẫn có ý tìm Tửu mà chẳng thấy đâu.
Bỗng đằng xa có tiếng trống rước, trống cái, trống khẩu. Tù và rúc từng hồi, và thỉnh thoảng một tràng tiếng loa kéo dài giục: “Cờ tiền, trống hậu rải ra cho đều”. Những tiếng ấy làm náo động cả đám đông. Bao nhiêu người chạy ùa ra đường cái, mạnh như thác chảy. Tiếng reo tiếng chửi, tiếng khóc loạn xạ.
Chị em Mít biết lúc này là lúc nguy hiểm, bèn nắm chặt lấy tay nhau, đứng nép vào tường hoa, đợi cho ngớt người mới dám dắt díu nhau đi. Đến nơi các chị đã thấy hai bên vệ đường người đứng chen chúc nhau thành hai dẫy tường dầy. Mít cao nhất bọn, rướn mãi cổ lên nhìn mà cũng chỉ thấy lố nhố những đầu. Mậm hăm hở lấy tay, lấy vai lách mãi… Một người đàn bà quay lại mắng: “Con gái con ghiếc gì mà táo tợn thế, không sợ người ta…” Tiếng loa vang lên làm lấp mất đoạn cuối. Cài nhanh trí, kéo Mậm ra và bảo chị em:
- Chúng mình mau mau đến chực sẵn dưới gốc cây xoan tàu.
- Phải đấy!
Rồi mấy chị không lưỡng lự cùng theo Cài đi. Vì dưới gốc cây ấy, người ta đã xây cạp vòng tròn, cao hơn sân một thước ta. Đứng đấy, các chị có thể nhìn thẳng vào giải võ là chỗ mà năm nào dân làng cũng bày biện để đón tiếp ông thủ chỉ làng. Các chị lại còn nhìn được khắp sân, từ cổng trở vào, tuy hơi xa một chút.
Một lát sau, chị em sung sướng nhìn thấy hiện ra lá cờ đầu bằng vóc đỏ cạp các thứ vóc xanh, vàng, tím và mép viền trắng. Trên nền vóc đỏ thêu bốn chữ kim tuyến: “Lão thần trí sĩ”. Tiếp đến mười lá cờ nỉ của làng hầu hết đã cũ. Trên nền nhiều lá những lỗ gián nhấm lấp lánh như sao, mỗi khi cờ phất phới bay trước gió.
Những người cầm cờ mặc toàn áo nậu đỏ và quấn xà cạp đỏ. Mắt họ nhìn bà con đi xem, lộ vẻ hãnh diện, nhất là anh cầm cờ đầu. Rồi đến bốn anh phường trống cà rùng đứng đôi một đối diện nhau. Chúng đều mặc áo lụa đỏ, thắt lưng lụa xanh ra ngoài. Mỗi anh đeo một cái trống ngay giữa bụng và ưỡn người, khuỳnh tay ra đánh. Tiếp đến tám anh phường bát âm, một anh cầm trống khẩu, tám anh cầm bát bửu, hai anh cầm kiếm. Họ mặc một loạt áo lương đen, thắt lưng điều.
Mít bỗng nóng mặt. Mít vừa nhận thấy Tửu trong bọn cầm bát bửu. Tửu cũng đã trông thấy bọn Mít và đỏ mặt, đăm đăm nhìn về phía gốc cây xoan tủm tỉm cười.
Mấy anh tuần phu mặc áo cộc trắng ngoài thắt dây lưng da, chân quấn xà cạp tím. Mỗi anh cầm cây tay thước sơn then vừa gạt những đám đông vừa hô to cho công chúng biết: “Dãn ra! Dãn ra! Võng cụ lớn đến!” Bao nhiêu mắt đổ dồn vào đấy. Mít quên cả Tửu và chị em, trố mắt nhìn ra phía cổng. Một ông quan, râu bạc phơ, mặc triều phục, đội mũ cánh chuồn, cầm hốt ngà, ngồi xếp bằng tròn trên chiếc võng điều. Hai anh nông phu lực lưỡng mặc áo nậu đỏ đặt trên vai chiếc đòn đầu rồng đuôi tôm sơn son thiếp vàng, giữa cong lên như cánh cung. Hai bên, bốn chiếc lọng xanh chúc đầu vào nhau để che, tuy trời râm mát. Theo sau, mấy ông đội mũ tế, mặc áo thụng xanh có bối tử. Chừng đó đều là những ông cử, ông tú, ông hàn. Kế đến một lũ “tiểu mũ” đội hòm mũ áo và đi đoạn hậu một tràng dài người.
Cờ, lọng cắm ngổn ngang ngoài sân. Còn bát bửu thì cắm vào giá trong văn chỉ.
Ông thủ chỉ, một ông tuần* đã về hưu, ở võng bước xuống đi vào cái sập gạch trải chiếu cạp điều xây giữa giải võ, cao hơn hai sập dài ở hai bên. Những câu “lạy cụ lớn” trong những tiếng ồn ào hò reo của lũ trẻ.
Tuần: tuần phủ, quan chức Nam triều đứng đầu tỉnh nhỏ.
Ông tuần ngồi đĩnh đạc, rõ ra một vị đường quan; các ông cử, tú, hàn ngồi thành hàng dẫy trên cái sập ngoài cũng xây ở gian giữa nhưng thấp hơn. Còn các ông chánh phó hội, các ông chánh phó lý cựu, các ông hương, cán, xã theo thứ tự ngồi ở hai chiếc sập hai bên.
Được dự vào đấy thật là một sự hãnh diện với làng với xóm. Xã Chính và bọn xã tí nhau không được có cái hãnh diện ấy. Bọn kia vì còn ít tuổi quá, còn xã Chính thì vừa mới bầu.
Bọn chị em Mít tuy đứng ra ngoài vòng người, nhưng nhìn vào rõ mồn một.
Mít thì thầm vào tai Cúc:
- Này chị, trông cụ tuần như ông tượng ấy nhỉ.
Cúc cãi lại:
- Không rồi! Như đức ông chứ lị!
Khuy cũng nói chêm vào:
- Ừ ừ, như ông vua.
- Trong rạp chèo.
Nghe rõ tiếng đàn ông nói tiếp, Khuy quay lại, Mít cũng quay lại, rồi lần lượt, Cúc, Cài, Mậm, chị nào chị ấy đỏ mặt đứng im. Vì mấy anh đứng sau là mấy chàng trẻ tuổi, mặt láu lỉnh, hoặc vận Tây, hoặc vận Nam, khăn lượt, áo xa tanh, trông rõ ra những người ở tỉnh về. Không bao lâu các chị đã quên bẵng mấy chàng trẻ tuổi đứng sau để mê mải ngắm nghía cái kiều vàng và mấy bông hoa vàng dát mặt đá lóng lánh như kim cương trên chiếc mũ cánh chuồn, những con rồng, con phượng thêu rực rỡ trên nền xa tanh huyền chiếc áo đại trào.
Bỗng Mậm đỏ bừng mặt, nắm tay Mít kéo đi chỗ khác, các chị kia không hiểu sao cũng bước theo.
Cài bực mình hỏi:
- Các chị hay nhỉ! Chọn được chỗ tốt lại bỏ đi… thế đi đâu bây giờ?
Mậm mặt chưa hết đỏ, nói gắt:
- Khốn nhưng họ nghịch gớm di được! Mít hiểu rồi nhưng còn muốn trêu chơi, vừa cười ranh mãnh vừa hỏi:
- Họ nào?
Mậm:
- Họ ở sau chúng mình chứ họ nào nữa.
Mít vẫn một nụ cười ranh mãnh:
- Nhưng họ nghịch thế nào mới được chứ?
Mậm mặt càng đỏ hơn, nói nũng nịu:
- Lại còn thế nào nữa. Chị Mít rõ khéo ỡm ờ!
- Sao họ nghịch khỉ thế nhỉ?
Mít nhìn lại. Bọn trai cũng đã bỏ chỗ cũ để đi nơi khác. Mít tự nhiên thấy tiêng tiếc. Mít thoáng nhớ nét mặt một chàng trạc tuổi Mít và thấy chàng nhu mì đáng yêu quá. Giá Mít được… Mít cảm thấy địa vị thấp hèn của mình không thể sánh với địa vị cao quý của chàng ta và thở mạnh để xua đuổi cái mơ tưởng vô lý ấy đi. Nhưng nếu Mít biết rằng chàng kia lúc nãy đã tha thiết nhìn Mít trong lúc Mít mải ngắm ông tuần…
Cài tiếc rẻ, kéo chị em trở lại xem. May sao nơi bực gạch chưa bị ai chiếm mất.
Ông tuần đã bỏ mũ, đội thay vào chiếc khăn lượt xếp và cởi áo trào để phô chiếc áo gấm thất thể. Mấy ông bên dưới cũng bỏ mũ mặc thường phục.
“Dãn ra các người. Có các cụ lớn đến!”. Một anh tuần phu vừa thét vừa cầm tay thước giơ lên dọa. Đám người đứng ngáng lối, xô đẩy nhau dãn ra hai bên.
Ba ông, đầu tóc bạc phơ, bệ vệ bước vào. Hai ông đi trước là hai ông huyện, thụng thịnh trong chiếc áo vóc huyền như các cụ đồ nho khi xưa. Ông đi sau tuy đã ngoài bảy mươi mà bước đi vẫn chắc chắn, mạnh mẽ, mực thước như bước đi của nhà binh. Trên bộ ngực nở nang của ông, một dẫy huy chương treo rủ xuống suốt từ bên tả sang bên hữu, cái cuống xanh, cái cuống đỏ, cái cuống vàng, cái cuống tím, đủ mọi sắc. Ba ông tiến lên thềm giải võ, cúi chào ông tuần. Các ông cử, ông tú, ông hàn và các kỳ hào đứng cả dậy chắp tay vái.
Ông tuần bỏ một chân xuống thành sập và giơ tay xòe ra mời. Thấy Vệ úy tướng quân có vẻ ngạo nghễ với bộ ngực đầy những huy chương, ông chỉ lên chiếu trên và nói:
- Ấy kìa, bác Vệ, mời bác ngồi lên đây với tôi.
Các cụ thâm nho vẫn hay có tính nói chọc, nói kháy, mỗi khi các cụ vớ được dịp tốt.
Kể họ, ông Vệ úy còn là anh ông tuần. Vậy ông dùng tiếng bác là phải không ai dám bẻ. Nhưng ông lại cố ý bỏ tiếng “úy”, gọi một tiếng “vệ” cộc lốc để cho nó ra vẻ chú lính tập.
Ông Vệ úy chậm xét, không hiểu là một câu nói mát, chắp tay, đáp lại bằng một giọng kính cẩn:
- Dạ, bẩm cụ lớn, chúng tôi đâu dám thế.
Rồi ông ngồi cùng hàng với hai ông huyện. Các ông cử, tú chịu nhường chỗ, nhưng đều quay ra nói chuyện với nhau và chỉ để ý trả lời những câu của ông tuần với hai ông huyện. Họ vẫn khinh thường “quan vơn lính tập”, dù người lính ấy đã trở nên ông, nên cụ.
Bọn chị em Mít đứng ngắm suông mãi đâm chán, bèn rủ nhau đi nhởn khắp nơi. Thấy chỗ nào đông cũng len vào nhìn một tí rồi lại đi chỗ khác. Chị em đi vơ vẩn, đến chợ lúc nào không biết. Một giọng hát quen làm cho lòng ham mê cờ bạc của Khuy bỗng nổi dậy. Khuy vội kéo chị em lại chỗ có tiếng hát.
Một thằng bài tây, quấn khăn đầu rìu, ngồi xổm, hai đầu gối nhô lên khỏi cằm. Bằng ngón tay trỏ với ngón tay cái, nó cầm hai đầu ba cây bài tam cúc chập lại, một cây đỏ, hai cây đen, ngửa ra cho mọi người xem, rồi vừa hát vừa vất sấp xuống chiếu. Song, nó lấy ngón tay dí vào một quân, mồm liến thoắng: “Nó đây! Nó đây!” Ngồi cạnh, một thằng cò mồi, tay cầm một gang tiền chinh. Nó đánh đâu được đấy.
Khuy ngồi xuống với lũ trẻ xúm xít chung quanh.
Chị em giục Khuy đứng dậy. Nhưng thua mấy ván liền, Khuy đã nóng mặt, Cài phát cáu, nói gắt:
“Đã thế, mặc thây hắn, cánh mình chẳng hoài hơi”. Rồi quàng vai Mít và Cúc rẽ vào quán đá, đi lại chỗ đám đông quây quần ở góc quán bên kia. Mậm cũng bỏ đi nốt để mặc Khuy với quân bịp.
Bác xã Rậu say bí tỉ, ngồi xếp bằng xóc cái. Chiếc khăn lượt quấn cổ, tóc bù lên như người mới ngủ dậy. Mùi người lẫn mùi rượu xông lên nồng nặc. Những tiếng “bán chẵn, bán lẻ”, những tiếng hò reo mỗi khi bát mở, những tiếng cãi cọ om xòm.
Mít nhìn khắp vòng người để tìm Tửu và thấy Tửu đang ngồi kề vai, kề đùi với Chắt và Mùi.
Đứng một lát không thấy ai ngửng đầu lên, Mít gọi: “Anh Chắt! Anh Chắt!”. Mít không dám gọi Tửu, sợ ngượng.
Tửu nghe rõ tiếng Mít nhìn lên. Mít trang điểm đẹp hơn mọi ngày. Tửu ngồi ngây người ra, cặp mắt sáng ngời như muốn thu cả linh hồn Mít vào trong. Rồi đập vào vai Chắt:
- Này Chắt, Mít, Cài, Cúc đứng cả kia.
Chắt ngửng đầu lên, nói: “Các chị đấy à”, rồi lại cúi xuống chăm chú vào bàn xóc đĩa. Mùi đang cay gỡ, chẳng nghe thấy gì cả.
Cúc có tình ý với Chắt và không muốn Chắt ngồi lì mãi đấy, giục:
- Thôi, Chắt ạ, đừng đánh nữa, ra đây chúng tớ hỏi cái này.
Cài, Mậm cũng muốn họp bạn với bọn trai, liền vào hùa với Cúc đi lại lôi kéo Chắt.
Nghe chừng thấy bác xã Rậu gần thua sạch, Chắt không cưỡng, đứng dậy ngay. Tửu ngồi xem, đứng lên theo. Tín ngồi bên kia cũng bỏ đi nốt. Rồi dần dần tản mát để mặc xã Rậu ngồi trơ với lũ trẻ ranh.
Biết bao lần như thế. Động say vào là xã Rậu đi tìm thú xóc đĩa. Và chẳng lần nào là lần bác mang về được một đồng xu nhỏ.
Thế mà bác có sẵn tiền sẵn của gì cho cam. Điền vô nhất thốn*. Một túp lều tranh, một đàn con dại. Vợ làm hàng xáo, cả ngày đầu tắt mặt tối.
Điền vô nhất thốn: đất không một tấc.
Lúc tỉnh, chồng còn đỡ đần, xay lúa, giã gạo. Nhưng đến lúc say thì liệu có cái mâm cái nồi cất đi cho kín. Nếu không, ông chồng sẽ đem đi cầm lấy tiền nướng hết. Cả đến dăm hào, một đồng buộc dải yếm, bác cũng lần cho kỳ được. Không được thì bác đập phá tan hoang.
Một lần, vào dạo gần tết, bác đi kinh lý các ông chú, bà bác được bốn năm đồng và chiếc áo tây dạ tím. Bác định đem tiền về đưa cho vợ làm vốn. Bất đồ về qua tổng Đoài, gặp mấy người quen rủ vào đánh đụng thịt chó. Bác say giở luôn xóc đĩa ra đánh, bị chúng vét sạch. Còn chiếc áo tây, bác giữ dai dẳng được một tháng rồi cũng mất gió.
Bác gái, một hôm, nghĩ xót xa, tủi nhục cho duyên kiếp mình, ngồi khóc hu hu trên ngưỡng cửa.
Một vài bà đi chợ qua, đặt thúng xuống, ngồi cạnh dỗ. Bác gái kể lể. Mấy bà kia lắng tai nghe rồi an ủi: “Thôi bác ạ, chẳng qua cũng là số kiếp mình nó thế”. Bác gái lấy vạt áo lau nước mắt: “Vâng, tôi cũng biết thế, nhưng mà khốn nạn, cái thân tôi cực nhục lắm cơ.” Rồi bác lại y ỷ khóc.
Đã thế, mà bác vẫn thương chồng. Thường lúc thấy chàng ủ rũ lại mua rượu và khoanh giò hay khúc cá về cho chồng nhắm để chồng say rồi chồng làm khổ.
Bọn Mít và bọn Tửu đi đến hàng nước quay mặt vào quán đá.
Cúc, mỗi lần có đông chị em cùng đi với, trở nên quá bạo, vỗ vai Chắt:
- Anh được phỏng?
Chắt ngạc nhiên, hỏi:
- Sao chị biết?
Cúc cười, liếc nhìn Chắt:
- Tôi trông thấy mặt anh hớn hở.
Chắt đắc trí cười:
- Thế thì thánh thật! Nhưng mà được có vài hào thôi.
Mậm hay cả thẹn nhất trong bọn, thấy họ vui đùa lả lơi, cũng đánh bạo:
- Này anh Chắt, anh phải thết bọn chúng tôi trầu nước chứ.
Chắt hăng hái:
- Được! Cô nào muốn ăn bún riêu, anh em chúng tôi cũng thết.
Mít hớn hở:
- Ái chà, hoang nhỉ!
Và nhìn Tửu cười, Tửu sung sướng quá, reo lên:
- Thích nhỉ. Thế thì mời quan vơn hai họ ngồi cả xuống đây.
Chị nọ chen chị kia, cười khúc khích.
Tín thua nên không được vui lắm. Thấy Chắt nhảy múa như đứa trẻ, nó phì cười, quên cả tiếc rồi nói nửa bỡn nửa thật:
- Tao đói lắm mà thua hết cả tiền rồi. Mày có thết tao bún riêu không hay chỉ thết chị em lũ thị mẹt kia thôi?
Chắt không giận ai bao giờ, nói:
- Mày cứ việc chén cho vỡ bố cái bụng ra thì thôi.
Mậm mỗi lúc một dạn dần, bắt bẻ:
- Anh Chắt! Anh Chắt! Bụng nó làm gì có bố.
Chắt cười:
- Thế thì mẹ, vỡ mẹ cái bụng ra.
Mít cười ngặt nghẹo:
- Thưa ông tướng (Chắt vẫn tự xưng là ông tướng mục đồng) nó cũng chẳng có mẹ.
Chắt lại cười:
- Thế thì vỡ bụng ra thôi vậy, các chị bẻ nữa đi.
Mọi người thích chí thi nhau cười.
Bà lão mừng được dịp đắt hàng, cũng cười góp. Bà xưa nay vốn khó tính, trai gái đùa nhau ở hàng bà, thường bị bà cự.
Tửu nhanh nhảu lật ngửa năm, sáu cái bát úp trên mặt chõng:
- Cụ rót đầy cho chúng tôi. Hôm nay nước chè có ngon không, cụ?
- Hôm nay thì tất thị phải ngon rồi.
Bà vừa nói vừa cầm gáo dừa, miệng bịt lỗ cáo nhỏ để cho bã chè khỏi lẫn vào nước. Bà mở nắp gỗ, vục gáo vào chiếc nồi chân để trong cái thúng có rơm ủ, rồi rót ra các bát.
Uống xong, Tín nói trước:
- Thế thì cụ bán cho tôi bát bún riêu. Tiền đã có ông tướng này trả (vừa nói vừa trỏ vào Chắt).
- Tôi một bát với.
- Tôi nữa.
- Tôi nữa.
Tiếng gọi nhao nhao.
Chắt, giọng quả quyết:
- Được, bà cụ cứ múc phứa ra. Của là của trời cả.
Chắt quay ra hỏi tiếp:
- Có phải không chúng mày?
Mít bẻ:
- Anh Chắt! Trước mặt chị em, anh xưng mày tao, bất nhã lắm. Chắt chắp tay vái dài và phép tắc nói:
- Vậy tôi xin các chị và xin chị Mít đừng đỏ mặt mỗi lúc gặp anh Tửu ạ.
Mọi người cùng cười. Mít xấu hổ, nói nũng nịu:
- Rõ khéo nhà anh này, việc gì tôi đỏ mặt.
Tửu tự nhiên cũng đỏ mặt nốt.
Một hồi trống tế trong văn chỉ rung ầm lên. Tửu có dịp nói lảng:
- Sắp tế rồi, các anh ạ.
Mọi người đứng dậy. Chắt móc túi lấy tiền trả:
- Bao nhiêu, bà hàng?
Bà lão nhìn những bát để ngổn ngang, tính:
- Năm bát bún một hào, mười hai bát nước sáu xu, tám miếng trầu… Thôi, lão tính rẻ cho các người là hai hào.
Chắt bỏ hai hào vào đĩa trầu và tươi cười nói:
- Hãy còn được hai hào nữa kia chúng… mình ạ.
Tín cười nói:
- Thế thì để chốc đói lại làm tiệc nữa.
- Mày thì chỉ bàn chuyện ăn là nhậy.
Tín cười:
- Chuyện, dĩ thực vi tiên, bao giờ chả vậy.
Bọn chị em đã đi lên trước, lại chỗ bài tây tìm Khuy. Đến nơi, chị em chẳng thấy quân bài tây và Khuy đâu cả. Tửu và Tín đứng đợi Chắt trả tiền xong, cũng rảo bước để kịp bọn kia.
Xã Chính thức dậy, thấy Mít và mấy đứa trẻ đi xem hội cả rồi. Bác không gắt, cầm điếu sành xuống bếp và lấy cái bát úp trong rổ phơi ngoài sân vào rót nước chè nóng uống. Bác uống luôn ba bát, hút luôn ba điếu thuốc. Bác say lử, ngồi gật gù trước mặt ba ông đầu rau. Một lát đã thấy tỉnh, bác lên dặn vợ coi nhà và mặc áo, cắp ô đi thẳng đến nhà ông Hoạch, người chú họ bác.
Ông Hoạch được lên thủ chỉ lão từ hôm nay. Từ thượng cổ, họ bác mới có ông thủ chỉ lão này là một. Thật là vinh hạnh cho cả họ. Ngoài ra, họ lại còn hai ông vào lão sáu mươi. Hai ông này là chức dịch lại giàu, tất làm to.
Bác vừa đi vừa nghĩ, thấm thoát đã đến nhà ông Hoạch. Bác tưởng bác đến sớm nhất. Thế mà trông vào đã thấy gần chật sân.
Ông Hoạch nghèo, nghèo quá. Cả nhà lẫn đất hợp lại không bằng nửa cái sân gạch nhà giàu.
Nhà trên ba gian bằng tre, lợp cỏ. Gian giữa bị bàn thờ chiếm mất già nửa. Chỉ còn đủ một cái phản con cho ông thủ chỉ lão ngồi. Hai gian cạnh hẹp quá. Mỗi gian chỉ đủ kê ba chiếc phản ghép liền nhau.
Cái sân bằng đất nện, chiều dài độ mười bước và chiều ngang độ ba bước.
Nhà dưới là một túp lều, thấp lè tè, ra vào phải cúi đầu. Một người tầm thước có thể đứng chạm nóc.
Nhà cửa như thế chứa sao đủ cả họ ước tới bảy, tám chục người?
Ấy thế mà tùng tiệm vẫn đủ. Trong nhà hơn ba mươi người ngồi chen chúc nhau. Ngoài sân những hạng thấp hèn như xã Chính và kém xã Chính. Nhà dưới, các bà lý, bà khán ngồi la liệt cả xuống chiếu trải liền trên đất, chỉ để chừa mấy cái đầu rau. Thậm chí cả đến ngoài cổng, ngoài ngõ, ngoài đường cũng là chỗ tụ họp của quan vơn họ.
Ngay góc nhà dưới, một vại nước chè tươi để sẵn. Ai muốn uống, vào mà uống, trừ mấy ông bên trên. Hàng chục cái bát vục xuống. Có người uống còn thừa lại tiếc rẻ đổ vào. Họ cho như thế là thường nên không một ai trách móc.
Trên chiếc phản con, ngay trước bàn, một mình ông Hoạch ngồi bó gối. Ông ngồi thế đã quen từ thuở nhỏ. Người ta có nhắc, ông ngồi xếp bằng được một chốc rồi đâu lại vào đấy. Một vài người biết tướng, bảo vì thế mà suốt đời ông vất vả.
Ông năm nay tám mươi sáu mà vẫn ăn khỏe, uống khỏe, đi khỏe chẳng kém gì hạng lực điền.
Thời ông năm, sáu mươi tuổi thì không nói làm gì. Thời ấy, có lần ông đã đi bộ tới hàng trăm cây số. Nhưng hiện giờ, ba mươi cây, ông chỉ làm hai “thôi”. Mặt ông lúc nào cũng hồng hào, thân thể ông, nếu trần truồng, trông chẳng khác một pho tượng đồng mắt cua. Nhưng về phần thông minh, ông còn kém đứa trẻ lên mười. Ông suốt đời vô tư lự. Và câu chuyện của ông, ngoài việc ăn uống, chẳng có gì khác. Cặp mắt ông tinh tường vì sức khỏe, nhưng ngớ ngẩn, dại nghếch như cặp mắt một anh mọi trên rừng sâu núi thẳm.
Ông ích kỷ một cách rất thực thà. Một hôm, ở nhà ông thủ chỉ lão ra, ông gặp một người trong họ. Người ấy chưa kịp hỏi, ông đã vội nói: “Này bác ạ, ông lão sắp chết đến nơi rồi. Năm nay đánh chết tôi cũng được thủ chỉ lão.” Và mặt ông lộ hẳn vẻ sung sướng, vì cái thủ lợn mừng quan lão, ông nắm chắc trong tay.
Nhưng nếu không may ông kia vẫn sống, ông cũng chẳng buồn, chẳng tức, vì ông không hay nghĩ ngợi, chỉ biết sống được ăn nhiều, uống nhiều, là thích.
Lẽ ra ông được làm thủ chỉ lão trước ông kia mới phải. Ông sinh trước ba tháng, lại vào làng trước một năm. Ông không được, chỉ vì ông nghèo quá, không có tiền bầu xã nhưng.
Hôm việc làng, cữ trong năm, suýt nữa họ truất ông đi để đem ông khác lên. May nhờ có ông lý Cúc giở lý sự ra cãi. Ông cãi rất cứng. Ông đứng dậy nói: “Thưa trên có các quan, các cụ rồi đến các ông tổng lý, chúng tôi xin thưa: chức thủ chỉ làng, thủ chỉ thôn vẫn dành riêng cho những cụ nào cao chức nhất trong làng, trong thôn. Sự ấy đã dĩ nhiên. Còn chức thủ chỉ lão, tôi thiết tưởng là một của quý để tặng cho các cụ nào cao tuổi nhất, mặc dầu cụ ấy không bầu bán gì cả. Người ta thường nói: “Kính lão đắc thọ”. Vậy các quan, các cụ kính lão, tất phải đặt người cao tuổi nhất lên chứ. Vả lại, cứ kể chức mà cho lên trên thì, xin phép các quan, các cụ có lẽ sau này ông sáu mươi sẽ lên thủ chỉ lão. (Chỗ này, ông nói khích ông hàn sắp vào lão sáu mươi). Thưa các quan, các cụ, tôi nói đây không phải vì tôi là người trong họ mà thiên vị. Dẫu sao đi nữa cũng phải có lý mới được.”
Ông diễn thuyết một tràng dài, nói rất to, chẳng kiêng nể ai cả. Chả thế mà bao nhiêu người vẫn cho ông là người ăn nói có gang thép và sợ ông một vành.
Làng, nói mấy cụ trong làng thì phải hơn, nghe chừng đuối lý, ưng thuận, nhưng cũng bắt ông Hoạch bỏ ra sáu đồng bầu trùm.
Ông lý Cúc vừa ngồi xuống đã chực đứng lên cãi nữa. Ông lý Hạt, anh ruột ông, vội nắm áo kéo xuống và đứng lên nói: “Thưa các quan, thưa các cụ đã dạy thế, chúng tôi xin vâng. Nếu ông Hoạch không có tiền bầu, họ chúng tôi sẽ gom góp nhau, mỗi người một ít.”
Lúc trở về, ông lý Cúc hậm hực, trách anh:
- Bác nhu nhược quá, việc gì phải chịu thế. Nếu tự nhiên họ mình đem ông Hoạch ra bầu thì nó đi một lẽ… Thật, không có bác, tôi nhất định không chịu.
Vì ông lý Cúc có công với họ như thế nên xã Chính vừa mới đến đã để ý tìm ông. Xã Chính băn khoăn, nói một mình:
“Bây giờ mà cụ cựu chưa đến, để mặc cụ chỉ lão thì cụ biết xoay sở ra sao? Hỏng bét!”
Một người nghe rõ, hỏi:
- Cụ cựu nào thế hử bác?
- Cụ cựu họ ta, chứ còn cụ cựu nào. Bằng giờ cụ chưa đến, để mặc cụ chỉ lão thì cụ biết xoay sở ra sao? Hỏng bét.
Từ hôm việc làng, bác phục ông lý Cúc lắm, phục quá đến nỗi không bao giờ dám đọc rõ tên ông. Và bác tưởng cứ nói đến cụ cựu thì ai cũng hiểu là ông lý Cúc. Bác có biết đâu rằng trong họ nhà bác có hàng vài chục cụ cựu.
Xem chừng ông chỉ lão cùng một ý nghĩ như bác. Ông tự thủa nhỏ vốn là bạch đinh, bỗng dưng nhảy tót lên địa vị cao quý. Ông lo lắng sợ hãi, không biết thế nào cho phải phép. Ông luôn luôn ra phía cổng ngóng đợi ông lý Cúc, mong ông đến để có chỗ dựa.
Mặt trời lên cao, lý Cúc mới lần đến. Cặp mắt ông đỏ hoe, mặt ông tái nhợt vì luôn bốn, năm đêm thức khuya đánh bạc.
Xã Chính mừng rỡ, chạy ra đón:
- Lạy cụ ạ, cả họ mong cụ đấy.
- Không dám, bác Chính đấy à.
Kể họ, bác Chính vào ngành trên, nhưng kể chức thì bác còn xa lắm mới với tới ông cựu.
Lý Cúc rẽ đám đông, đi thẳng vào chỗ ông Hoạch. Mọi người đứng dậy chào. Ông ngồi xuống cái phản bên cạnh, quay mặt vào ông Hoạch, hỏi:
- Ngoài văn chỉ, đương thứ đã đem cỗ yến của làng vào biếu cụ chưa?
Ông Hoạch ngơ ngác:
- Cỗ yến nào cơ, ông cựu?
Ông lý Cúc ngạc nhiên:
- Ô hay! Thế họ quên à? Quên thế nào được, cỗ đầu tay may xưa của người ta… Chúng nó bậy thật! Hừ! việc này phải hỏi cho ra lẽ…
Mọi người châu vào nói:
- Vâng, phải hỏi cho ra lẽ, không có thì sái cụ đấy ạ.
Ông lý quay ra sân, gọi to:
- Bác Chính đâu? Bác ra gọi mấy anh đương thứ đến đây cho tôi. Bậy thật! Thế thì bậy thật!
Xã Chính được cụ cựu của mình để ý đến dạ một tiếng to, rồi hấp tấp chạy đi gọi.
Một lát, bốn anh đương thứ đến.
Ông lý chống nạnh hỏi:
- Cỗ yến lão của cụ chỉ lão đâu?
Bốn anh cùng gãi tai, nói khẽ:
- Bẩm cụ, chúng con trót quên mất.
Ông lý gắt:
- Quên, việc quan hệ, to tát như thế mà các anh còn quên được thì việc gì các anh mới nhớ? Các anh có biết: các anh đã làm sái cụ chỉ lão của họ chúng tôi không? Việc này thế nào họ chúng tôi cũng phải đem ra làng để các cụ phân xử. Rồi các anh sẽ liệu cho cái ngôi thứ của các anh.
Bốn anh đương thứ tái mặt. Một anh ghé gần nói nhỏ:
- Bẩm cụ tha lỗi cho chúng con, rồi chúng con xin hậu tạ.
Nghe thấy tiếng “hậu tạ”, ông lý bớt hẳn giận nói:
- Lần này tôi tha cho. Lần sau mà còn thế tôi quyết phải trị.
Bốn anh đương thứ cúi rạp xuống chào, rồi lủi thủi đi ra.
Lý Cúc lại quay sang phía ông Hoạch nói chuyện; ông dặn ông Hoạch cặn kẽ:
- Chốc nữa, làng có đến rước, cụ cứ ngồi ung dung, đừng hấp tấp đứng dậy vội, để tôi soát xem có thiếu thức gì không đã. Nếu thiếu mà mình không biết đường bẻ là họ khinh cả họ chúng mình đấy, cụ đừng tưởng.
Một hồi tù và văng vẳng tận đằng xa. Bao nhiêu người yên lặng nghe. Xã Chính cảm động sung sướng như thể làng sắp đến rước mình vậy.
Lý Cúc vội giục:
- Kìa, mũ ni với áo vóc đỏ của họ hàng mừng cụ đâu? Không mặc lúc này thì còn mặc lúc nào. Ngồi xếp bằng lại chứ. Sao cụ cứ ngồi thu hình bó gối thế kia?
Ông Hoạch vừa cảm động vừa sợ hãi vẩn vơ. Tứ chi ông run lẩy bẩy. Cặp mắt lơ láo nhìn hết người này người nọ như muốn cầu cứu.
Lý Cúc thấy thế bật cười, nói:
- Cụ cứ ngồi thản nhiên, chẳng việc gì mà sợ, đã có chúng tôi đi kèm.
Ông Hoạch hết sợ, cười một cách ngây ngô, đần độn.
Một lát, năm lá cờ đi vào. Một cái trông cái hai người khiêng, rồi đến phường bát âm, sau cùng, một cái võng tím không đẹp được bằng cái võng điều đón ông thủ chỉ làng và một chiếc lọng xanh đã cũ. Trước khi ngồi lên võng ông Hoạch đưa mắt nhìn lý Cúc để dò ý.
Võng vừa ra khỏi ngõ đã thấy bao nhiêu người đứng chen chúc hai bên vệ đường để xem. Mọi ngày không ai để ý đến ông, coi ông như một người rất tầm thường trong bọn khố rách. Hôm nay họ nhìn chòng chọc vào ông như nhìn một người lạ ở đâu đến.
Người thì khen:
- Ông có cái tai to và dầy như tai Phật. Chả trách ông sống lâu được đến thế.
Người thì khen:
- Tướng ông là tướng ngũ đoản, chỉ phải cái trán hẹp và cặp môi mỏng quá.
Nhiều ông già thấy ông Hoạch sung sướng mà thèm và thầm ước ao có ngày được hiển vinh như ông.
Mấy anh tuần đi dẹp đường trông không được hống hách như khi rước ông thủ chỉ làng. Đó cũng vì địa vị của hai ông khác nhau.
Đến nhà hội đồng là chỗ các cụ lão tụ họp để tế thiên địa, ông Hoạch bước xuống võng, đi vào. Ông quên cả gậy trúc, một chiếc gậy mà ông lão bảy mươi họ Nguyễn đã khẩn khoản mua lại tới năm đồng. Không phải vì cái gậy ấy đẹp, nhưng chỉ vì nó là cái gậy của ông Hoạch, ông lão tám sáu. Ông cốt mua về để lấy khước, nhưng cả họ nhà ông Hoạch nhất định không cho ông bán.
Ông lý Hạt cầm gậy chạy vội lên:
- Gậy cụ.
Ông Hoạch nhớ lời lý Cúc dặn, chống gậy lom khom cho ra vẻ một ông tiên chỉ lão.
Các ông lão, từ ông tám mươi trở xuống đứng dậy một loạt chào. Ông Hoạch ngồi riêng hẳn ra một cái sập mà năm ngoái năm kia, ông thủ chỉ trước đã từng ngồi.
Ông im lặng nín thin thít, không động đậy như… một ông tiên sư trong lão làng.
Ở văn chỉ, cụ tuần và các cụ cử, tú là chân khoa mục (chỉ có chân khoa mục mới được dự) bắt đầu tế đức Khổng Tử. Hôm nay, các cụ bày ra tế ngoại tán, nghĩa là tế ngoài sân để cho làng nước xem thỏa thích, nhất là được xem cụ tuần mặc đại trào đứng chủ tế dưới bốn chiếc lọng xanh do bốn anh mặc áo nậu đỏ cầm che.
Mỗi khi chước tửu, phường trống nghỉ, phường bát âm nổi lên. Bốn chị ả đào nhà quê ở hai bên giải võ, đi lại múa nhạc sau lưng cụ tuần. Mặt chị nào chị ấy thưỡn ra như cán tàn. Hai cánh tay giơ ra ngang phè, bàn tay xòe đủ năm ngón như tay ếch. Thân cứng đờ xoay đi xoay lại một chỗ như chiếc trục.
Ấy thế mà, thiếu các chị, buổi tế sẽ mất vẻ long trọng. Và phần nhiều người đi xem đều chú mục vào các chị hơn các cụ. Họ nhìn các cụ mãi cũng đâm chán, nếu không có bọn “nhà tơ” đến làm vui mắt họ.
Xong ba tuần rượu, các cụ lễ tạ. Một tràng pháo dài một thước tây treo từ cành xoan tàu rủ xuống nổ ran. Trẻ con xúm xít tranh nhau vồ. Chúng nó xô đẩy nhau để cướp một vài chiếc pháo ngòi về đốt ở đình của chúng. Các cụ có đình của các cụ thì chúng cũng có đình của chúng. Đình của các cụ xây gạch, lợp ngói, có những hàng cột to vừa người ôm. Đình của chúng bằng dăm bảy viên gạch chồng lên nhau. Chúng cũng có tượng, có mâm bồng, bát hương, đồ thất sự, tàn quạt, cờ lọng, đủ cả. Các cụ rước chúng cũng rước. Không có trống, có bát âm, có pháo thì chúng dùng mồm thay vào vậy. Sau này chúng lớn lên sẽ nhường đình cho con để nhập bọn với các cụ.
Tràng pháo nổ vừa dứt tiếng thì nhà hội đồng bên này nổi trống. Các cụ lão tế thiên địa một cách giản dị. Cụ tiên chỉ lễ trước, rồi theo tuổi cao thấp đến lượt các cụ lão khác.
Lễ xong, các cụ lại đến ngồi chỗ cũ. Hàng chục mâm cam, mâm cau bày suốt dọc từ sập cụ tiên chỉ trở xuống, trông như hàng hoa quả bán ở chợ. Những con cháu các ông vào lão năm nay chen nhau ra lễ các cụ để cầu được trường thọ như các cụ.
Chiều, hội tan, các cụ lão bỏ cau, cam vào khăn gói mang về.