← Quay lại trang sách

ĐÌNH ĐÁM

Từ hôm ông hội làm xong chức vụ một ông đại bái trong bữa tiệc mừng ở nhà ông tiên chỉ thôn, từ hôm ấy, không ngày nào ông không chè chén, không đêm nào ông không tổ tôm với các cụ cựu.

Hãy nói bảy ông lão sáu mươi trong thôn Tiền của ông thôi. Theo đúng lệ, mỗi ông phải “sắng” một tiệc rượu mời làng, một tiệc rượu mời thôn, một tiệc mời tư văn, một tiệc mời tư vũ, một tiệc mời khu xóm, một tiệc mời họ. Sáu tiệc ấy, chóng ra mỗi ông cũng phải làm trong ba hôm. Và muốn được tươm tất, mỗi ông phải tốn ít ra mười lăm mười sáu con lợn, ngót hai trăm thúng gạo, vừa nếp vừa tẻ, hơn hai trăm chai rượu, một cót chè tươi, hàng mớ cau, hàng thúng trầu không. Ông nào muốn sang lại còn thêm vài chục bao thuốc lá, vài chục gói chè tàu.

Thế mà ông đại nhà tôi thì làng cũng có ông, thôn cũng có ông, tư văn, tư vũ đều có ông, duy chỉ có yến lão* là không, vì ông chưa đến bực lão.

Yến lão: cỗ bàn dành cho bậc lão trong làng.

Đừng tưởng cứ có tiền làm cỗ là có người vác mồm đến chén đâu. Ông nào có tính kiêu căng, ngày thường hay khinh bỉ, bắt nạt đám xã nhưng thì lúc này sẽ biết tay họ. Chả thế mà ông lý Cầu khu trong, giàu có tiếng, muốn làm to mà không sao làm được. Chỉ vì bọn xã nhưng bảo nhau không đến, làm cho hôm đầu cỗ bàn của ông ôi thối.

Tuy vậy, lệ làng rất rộng. Ông nào nghèo túng ra xin làng mời chay, nghĩa là trầu nước suông cũng được. Làng không bắt bẻ. Nhưng ai đã có của hay có thể nhờ anh em, bà con giúp đỡ thì không khi nào họ chịu cái nhục ấy.

Thấm thoát nay đã mồng bốn tháng hai. Ông hội lại ra nhận chức đại bái. Ông lại bắt đầu đo đắn từng bước đi, thận trọng từng lời nói, hống hách, bắt bẻ từng li từng tí để bảo vệ cho thể thôn.

Hôm ấy ông đến “túc trực” ở đình. Trước khi ra đi, ông dặn vợ dặn con trông nom nhà cửa như một người sắp đi xa hàng tháng.

Ông cẩn thận thế cũng phải. Vì một khi tới đình, ông phải luôn ngày đêm ở đấy cho đến ngày mồng mười là ngày đóng đám, rồi lại bận công bận việc tiếp khách tiếp khứa cho đến ngày mười tám là ngày giã đám.

Vừa chân ướt chân ráo, ông đã lo sửa sang chỗ ngồi cho ra phết chỗ ngồi của một ông đại: một chiếc án thư phủ mào quần bằng nỉ đỏ thêu long, ly, quy, phượng kê đằng sau và ngay sát cạnh sập ông ngồi. Giữa án thư, một cái đồng hồ quả lắc, hai bên, một cái độc bình và một cái giá gương. Cạnh ông ngồi, một cái tráp sơn then, mặt tráp khảm cành hồng con bướm, chung quanh thành khảm tứ quý.

Trước mặt ông, một cái điếu ống, xe dài uốn cong và một cái khay khảm trong để bộ đồ trà.

Dòng dã ngót nửa tháng trời, ông không bước chân ra khỏi cửa. Cơm nước đã có người bưng ra, quần áo thay đã có người mang đến. Hầu hạ sai vặt đã có thằng mõ chạy đi chạy lại. Đủ biết làm được đại bái cũng khó lắm thay!

Nhưng ông đại cũng không đến nỗi quạnh hiu lủi thủi một mình một bóng. Ngày đêm đã có các ông cựu đến hầu chuyện, hầu tổ tôm, hầu rượu để mua vui cho ông đại. Song hôm nào cũng hai bữa chén thì ông đại lấy tiền đâu mà thết mãi được.

Ông bèn nghĩ ra một kế: mỗi khi tổ tôm, cứ đến hội cuối cùng, đánh được độ dăm ván, là ông ra lệnh nghỉ để lấy tiền góp còn thừa đưa cho thằng mõ “sắng” đồ nhắm. Như thế vừa tiện cho ông khỏi phải phiền đến người nhà đem cơm vừa tiện cho các ông cựu khỏi mang tiếng đến quấy quả.

Mỗi lần cơm no rượu say, các ông nói chuyện huyên thiên, kể hết chuyện làng đến chuyện thôn, hết chuyện người đến chuyện nhà. Chỉ khổ các bà cựu làm lụng vất vả để lấy tiền cung phụng các ông.

Hôm nào thiếu chân tổ tôm, các ông ngồi rỗi đem giấy bút ra kê những tên làm lễ và ngồi hát. Có nhiều tên các ông không sao viết được, phải viết chệch đi. Thí dụ như tên Mèng, các ông viết ra Mền, tên Bửng các ông viết là Bỉnh rồi nhí nháy hai nét chấm ở bên. Một ông bàn viết những tên ấy ra quốc ngữ cho tiện. Ông đại và mấy ông nữa nhao nhao lên cự: “Không được! Không được! Chữ Nho ra chữ Nho, quốc ngữ ra quốc ngữ, không bát nháo thế được”. Viết xong, các ông đem dán lên tường để công chúng biết.

Thỉnh thoảng lại một anh xã cầm cái đĩa trên để một chẽ cau đè lên lá trầu, gãi tai nói: “Bẩm cụ đại, thầy con chẳng may yếu đau, con là trưởng, phải ở nhà phụng dưỡng. Vậy xin cụ cho phép em con đi thay”.

Hoặc:

- Bẩm cụ đại, bây giờ con mới nhớ ra rằng: con có trở ông cậu. Vậy xin cụ đại cho phép con cáo.

Cho hay không là quyền ở ông đại. Nhưng ông cũng hỏi qua ý kiến các ông cựu, biết trước rằng họ sẽ trả lời: “Cái đó còn tùy lượng quan đại”.

… Rồi đến ngày mồng chín, một ngày tấp nập nhất trong đình thôn Tiền; lúc này ông đại mới thật là ông đại. Ông đi đi lại lại suốt dọc đình, sai bảo, truyền lệnh, thét oang oang: “Đương thứ đâu? các anh bậy thật! Ngày hôm nay là ngày gì, các anh đã biết. Thế mà anh nào anh ấy cứ ỳ thần xác ra thôi… Khán Da! Anh đi mời ông từ đến ngay có việc cần, nghe chưa? Đi chóng vánh lên một tí. Còn anh quản Ất thì đến nhà ông cựu Hạt xin lấy hai cây chuối, cây chuối gì mà có hoa đỏ ở ngọn ấy mà. Anh cứ nói xin cho cụ đại cắm lọ thờ thánh thì dẫu tiếc đến đâu ông ấy cũng phải cho, nghe chưa?

“… Thằng mõ đâu? À, mày đấy à. Mày chạy đến đằng cụ cán Bích, nghe chưa? Mượn cụ cái để treo y môn, nghe chưa? Mày cứ nói mượn cho cụ đại là được rồi, nghe chưa?”

Một ông râu tóc đã hoa râm đeo mục kỉnh trắng, trông đạo mạo như một cụ đồ nho, từ cách vuốt râu cho chí dáng điệu đứng ngắm và nhẩm đọc các câu đối, đại tự. Kể chữ nghĩa, ông cũng chẳng kém gì cụ đồ nho. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ ông không hề dạy trẻ con và ông xuất thân làm lý trưởng, ông bước lên thềm đình vừa vuốt râu vừa hỏi:

- Cụ đại gọi tôi có việc gì đấy?

Ông đại đương đứng ngắm bức cửa võng, quay ra:.

- Ấy kìa, cụ cựu từ, tôi vừa cho khán Da đi mời cụ. Cụ có gặp hắn không? Hay hắn đã đâm xả vào đám xóc đĩa nào rồi.

Ông từ vội trả lời:

- Tôi vừa ra đến quán thì gặp hắn. Tôi có nhờ hắn tí việc. Hắn về đây bây giờ.

Ông đại làm ra vẻ nhọc mệt:

- Cụ tính, suốt từ sáng, không lúc nào rời tay, rời mồm. Độ hai, ba hôm như thế này thì phát ốm… À này cụ, cụ mở rương bảo họ đem cỗ kiệu bát cống ra bày đi thôi. Cụ đem cả cờ quạt, tàn tán, “này khác các cái” để cho họ lồng vào cán đem cắm cả ra sân cho trọng thể. Cả áo nậu áo niếc nữa, cụ ạ. Vì chiều nay còn “nghiềm áo” để mai rước.

Quản Ất vừa trở về, cầm cây chuối đứng sau ông đại đợi lệnh. Ông đại quay lại:

- Sao lại chỉ có một cây thôi, hử?

Quản Ất tay vẫn cầm nhăm nhăm cây chuối:

- Bẩm cụ đại, cụ cựu chỉ còn có mỗi một cây thôi.

- Thế anh có theo ông ấy ra vườn không?

- Bẩm có ạ. Con cũng chỉ thấy có một cây thôi.

Ông đại hai tay vắt ra sau lưng, đăm đăm nhìn cây chuối, thở dài:

- Bực nhỉ, làm thế nào cho cân đối bây giờ… À, hay là anh đẵn cho tôi một cây chuối ngự con và chặt cho tôi lấy một bắp chuối để tôi cắm vào ngọn cho nó cân đối với cây kia.

Ông từ đương soạn cờ quạt, nói chêm vào:

- Thôi cụ ạ, cây có cây không cũng được, can gì phải cắm thêm bắp chuối vào cho nó phiền.

Ông đại không bằng lòng:

- Không được, phải cho cân đối chứ.

Rồi ông nghĩ sang việc khác, gọi xã Chính ở giải võ lên, truyền:

- Anh chọn lấy tám tên cầm bát bửu và năm tên cầm cờ để chốc nữa đi “hậu nghinh” thôn Thượng nghe chưa? Hôm nay thôn ấy rước.

Xã Chính nhanh nhẩu, gãi tai thưa:

- Bẩm cụ đại, con nghe thấy nói thôn Thượng các cụ sợ đường trơn nên chỉ rước từ miếu đến đình thôi.

Ông đại cười nói:

- Anh này sao mà lẩn thẩn thế! Quyền ở thánh chứ quyền đâu ở các ông ấy. Thánh ngài muốn đi đâu, lúc rước mới biết được.

Xã Chính cười một cách ngây ngô:

- À vâng, con lại cứ tưởng muốn rước đi đâu là tùy ở các cụ. Con rõ lẩn thẩn quá.

Ông đại không để ý đến câu trả lời của xã Chính, quay ra nói với ông từ:

- Cụ từ ạ, nghĩ việc thần thánh cũng lạ, như năm ngoái, cụ còn nhớ không? Đức thánh thôn ta ngài vừa ở miếu ra, liền bay thẳng đến thôn Hạ, rồi lại bay thẳng đến thôn Thượng. Thế mà qua thôn Trung, ngài không vào. Thì ra dương làm sao thì âm làm vậy. Đức thánh thôn ta với đức thánh thôn Hạ, thôn Thượng chả là thượng đẳng thần à, nên các ngài mới thân với nhau. Còn đức thánh thôn Trung vốn là đức thánh bà, lại mới được có trung đẳng thần thôi. Thảo nào mà ngài không vào.

Ông từ tủm tỉm cười:

- Đức thánh bà thôn Trung, mỗi khi qua đình ta hay miếu ta, vẫn tạt vào ngồi hàng giờ đấy nhé.

Xã Chính vừa cài cúc áo lương vừa nói:

- Mình có tiền đưa tôi hai đồng.

Vợ sửng sốt:

- Hai đồng để làm gì?

- Ngồi hát.

- Ngồi hát? Mình biết hát hỏng thế nào mà ngồi hát.

Xã Chính phì cười:

- Mình dở lắm. Ngồi hát là ngồi xếp bằng nghe “nhà tơ” hát, rồi vừa nhắm rượu vừa nghe hát.

- Thì mình ngồi hát làm gì. Nhà đã chả có…

- Ai chả biết thế. Nhưng cụ đại bảo thì phải nể. Chán vạn người bị bắt ép, cứ gì mình.

Xã Chính uể oải đi lại phản ngồi rót nước uống. Vợ ngồi ngưỡng cửa quay mặt vào, lặng yên một lúc rồi nói:

- Mình ạ, từ tết đến giờ nhà ta tiêu hết hơn chục bạc rồi đấy!

Đến lượt xã Chính sửng sốt:

- Có làm gì đến ngần ấy!

Vợ đứng phắt dậy:

- Làm gì đến à? Này nhé, ba hôm tết tiêu hết ba đồng này, may quần áo cho mình, cho các con hết bốn đồng là đi bảy đồng này. Lại còn một đồng tết bà Chánh Bá, hai đồng mình đi mừng các cụ lão, thế là một chục rồi nhé. Bây giờ lại hai đồng nữa, chả là hơn một chục rồi ư. Tiêu thế thì còn mong sao không công không nợ… Núi cũng hết nữa là nhà mình.

Nói rồi vợ ngồi xuống phản, thừ mặt, đăm đăm nhìn ra cửa.

Xã Chính không trả lời, kéo điếu, thông, hút. Thấy nét mặt vợ rầu rầu, bác thương hại, an ủi:

- Này bu nó ạ, chẳng việc gì mà lo. Đình đám xong, chúng ta lại hết sức làm lụng. Bu nó dệt vải, cái Mít bán hàng. Còn tôi thì bạ việc gì làm việc ấy, nhất là làm thuê làm mướn, họ cười thì kệ họ cười. À chào! Xã nhép chứ ông lý, ông khán gì mà sợ họ cười… rồi thế nào tôi cũng dành dụm tậu cho được con trâu cái mới nghe. Nhất là nhịn bữa sáng, ăn bữa tối…

Vợ đương ủ rột, bỗng tươi tỉnh hẳn lên:

- Mình nghĩ phải đấy, sợ quái gì họ cười. Khi trước chúng mình vẫn làm thuê làm mướn đấy nhé.

Một hồi trống giục ở ngoài đình. Chồng đứng dậy bảo vợ:

- Thế bây giờ bu nó đưa cho tôi hai đồng. Hết đình đám là chẳng còn phải phí đi đâu đồng nào nữa.

Vợ vừa cởi nút dải yếm lấy tiền, vừa nói:

- Đây tôi mới có đồng rưỡi tiền bán hai tấm vải hôm qua đấy. Còn năm “cái” hào để tôi bảo cái Mít nó cho dựt tạm rồi mai kia tôi trả nó… Mít ơi!

Mít đương đun nước dưới bếp, vội lấy que giẽ dập tắt lửa rồi vừa đi lên vừa thưa:

- Bu gọi gì cơ?

- Con cho thầy con mượn năm hào rồi mai kia bu lấy tiền bán vải bu trả.

- Thầy lấy tiền làm gì cơ, bu?

- Thầy con đóng tiền ngồi hát.

Mít cười:

- Thầy con biết hát gì mà…

Xã Chính thích chí, củng khẽ vào đầu Mít và nói:

- Lại con này nữa. Ngồi hát là ngồi ăn cỗ, nghe “nhà tơ” hát.

Mít giẫy nẩy, nói nũng nịu:

- Hát “nhà tơ” ấy à? Con chả muốn cho thầy con hát “nhà tơ” đâu! Rồi lại mê như ông lý Cúc, ông lý Khoa, có bao nhiêu tiền cũng hết vì chúng nó. Thế thì con chả cho thầy con mượn tiền đâu.

- Láo nào! Tao biết đánh trống ra làm sao mà mày bảo tao mê. Mày tính tiền của đâu mà mê các cô ấy mới được chứ!

Mít bĩu môi.

- Cô… cô lô cô lốc.

Một hồi trống giục nữa, xã Chính sốt ruột cũng giục Mít:

- Con đưa mau cho thầy không có muộn quá, cụ đại người quở.

Mít vừa móc túi vừa quay sang phía mẹ nói:

- Thế mai kia bu lấy tiền vải trả con nhé! Con cứ bu đấy. (Mít tự cười mình). Quanh đi quẩn lại được bao nhiêu lãi rồi cũng đến đưa cả cho bu.

Bác xã gái âu yếm nhìn con:

- Vốn của cô khi cô về nhà chồng đấy. Bu chả tiêu đi đâu.

Mít sung sướng đỏ mặt. Nó sung sướng phần vì câu nói của mẹ, phần vì thấy mẹ tươi tỉnh, khác hẳn mọi ngày.

Xã Chính vội vã ra đình. Mít xuống bếp đun nốt ấm nước. Còn bu Mít thì đi lại khung cửi, khêu cao ngọn bấc rồi ngồi xuống cặm cụi dệt cho đến già nửa đêm mới đi ngủ.

Bắt đầu từ hôm mồng tám tháng giêng, tốt ngày, bác gái đã vùi đầu vào khung cửi. Bác nghỉ lâu chưa quen, nên chóng mỏi, chốc chốc lại phải đặt thoi xuống thở.

Có lần bác quên cả dệt, ngồi thừ ra nghĩ. Ít bữa nay tiêu tốn quá, bác đâm lo cho gia đình bác.

Chết thật! Chồng bác cứ nay chè mai chén, hư thân mất nết đi thì hai bu con bác đủ sức đâu mà nuôi nổi cả nhà. Nhiều khi bác muốn thổ lộ cho chồng hay, nhưng lại sợ vì lời nói của mình mà chồng buồn, chồng khổ.

Mít thường thấy bu nó thơ thẩn, buồn rầu. Nó săn sóc hỏi: “Bu làm sao thế? Có mệt thì nghỉ, bu ạ, tội gì mà làm lụng vất vả quá, sinh ốm người. Mà sao độ này bu cứ hay thở dài luôn thế?”

Mỗi lần Mít hỏi thế thì bu lại trả lời:

- Không, bu có sao đâu. Tính bu vẫn thế, hay thở dài vặt.

Mít không dám hỏi nữa. Nhưng trong lòng băn khoăn. Nó hết sức buôn bán lấy tiền lãi để bu nó vui. Chiều nào, đi hàng về, nó cũng luẩn quẩn bên bu, vồn vã, nhí nhảnh, nói những câu dớ dẩn để bu nó buồn cười mà khuây đi. Những lúc ấy nó quên bẵng thằng Tửu.

Còn thằng Chốc, cũng như thằng cu lớn, cu con, chưa biết gì hết. Cả ngày nó dắt em đi nhởn nhơ ngoài đường đùa nghịch với lũ trẻ hàng xóm, hay chạy đi vồ pháo mỗi khi nghe có tiếng pháo nổ.

Xã Chính đi, một tay luôn luôn nắm chặt lấy hai đồng bạc hào trong túi. Mất thì lấy gì đóng góp? Bác nghĩ đến việc bác làm sau ngày giã đám, nghĩ đến con trâu cái mà bác nhất quyết ăn nhịn để dành tậu cho bằng được.

Gần tới đình, bác gặp hai người ở trong hàng nước chui ra.

- Có phải bác xã Chính đấy không?

Bác đứng dừng lại.

- Ấy kìa! Bác Bửng, bác Bật. Ý chừng hai bác vào làm bát bún riêu hẳn thôi.

- Ừ, chúng tôi vừa làm mỗi người một bát lót dạ. Bác tính mãi khuya mới được ăn cỗ, sức đâu mà chịu nổi, còn bác có làm một bát thì làm. Chúng tôi đợi.

- Tôi vừa mới ăn cơm.

Xã Chính vừa ăn xong thực. Nhưng dẫu chưa cơm, bác cũng chẳng đào đâu ra tiền. Trong túi bác chỉ còn vừa vặn hai đồng đóng góp.

Ba người thủng thỉnh bước một. Xã Bửng trỏ tay vào đình, nói:

- Hai bác trông, đình ta tối đến thắp nến sáng như sao sa, chẳng đình nào đẹp bằng.

Xã Bật nghe lỏm được mấy câu địa lý, nói:

- Hướng đình ta đẹp lắm đấy nhé, mặt đình trông thẳng ra sông Hóa. Khúc sông chỗ ấy lại khuỳnh ra như hình bán nguyệt. Bên hữu một cái bút, bên tả một cái nghiên. Chả trách thôn ta lắm khoa mục, lắm quan to.

Xã Chính cũng nói chêm vào cho có chuyện:

- Tôi thấy họ nói: nhà cụ lang Trung làm trước đình ta cho nên mới xây lưng vào.

Xã Bật:

- Phải đấy, nếu không thì ai cho làm. Tôi cho vì thế mà chắt cụ thành điên. Sao họ dại thế nhỉ. Cứ như tôi thì tôi xoay quách hướng nhà. Làm ngay hướng đông cũng tốt chán.

Xã Chính chưa bao giờ tiêu đến món tiền lớn và trong trí đương nghĩ cách dành dụm, vội cãi:

- Bác Bật nói dễ nhỉ! Tiền đâu mà thuê khiêng được cái nhà to bằng cái đình thế kia ra chỗ khác?

Bác vừa nói vừa quay lại nhìn cái nhà của cụ lang Trung.

Xã Bật cãi lại:

- Tốn thì tốn chứ. Không có thì đi vay đi mượn. Việc là việc đời đời, kiếp kiếp, chứ có phải việc thường đâu.

Câu chuyện đến đây thì vừa tới sân đình. Ba người bước lên thềm. Xã Bửng đứng nấp ngoài cửa nhìn xem sự thể ra sao đã. Đoạn, ba anh bước qua ngưỡng cửa đi vào chắp tay vái chào ông đại.

Ông đại khẽ gật đầu và truyền:

- Các anh sang cả bên tây đình ngồi vào cho thành cỗ. Anh nọ cứ chờ anh kia thì bao giờ cho xong.

Ba anh dạ rồi khúm núm đi qua chỗ thờ phụng sang ngồi với cánh xã nhưng của mình.

Xã Chính ngồi chiếu cuối cùng. Xã Bửng, xã Bật ngồi chiếu thứ ba vì hai anh bầu trước.

Trên chiếu nhất có hai anh oắt con với hai ông già. Vì hai anh bầu xã từ năm lên ba lên bốn.

Ông đại tối hôm nay mặc áo gấm trần, ngồi riêng mình một cỗ. Trước mặt ông, một cái trống chầu, chiếc roi chầu bằng gỗ quít rừng trắng như ngà, đặt nằm ngang trên mặt trống. Chốc chốc ông lại gọi đương thứ đến truyền những việc nhỏ nhặt không đâu, cốt để cho cả đình để ý đến ông và nhớ rằng ông là đại bái.

Kế đến hai ông giám khảo ngồi chiếu nhì. Mỗi ông mặc một cái áo “sa tanh” còn nguyên nếp. Hình như các ông chỉ đem nó ra diện trong mấy ngày tết, mấy ngày đình đám rồi lại gấp cất đi.

Cũng như ông đại, mỗi ông giám khảo có một cái tráp để cạnh cho nổi. Công việc của hai ông là tối đến đi soát các lễ vật, các mâm cỗ xem có thiếu thốn thức gì không.

Ông ngồi về phía ông đại được thêm chức giữ sổ sách biên chép những vàng, hương, nến và tiền của những người trong làng đến cúng. Những người ấy đến ngày “an tạ” đều được phần biếu.

Từ chiếu thứ ba trở xuống ngồi bốn ông một cỗ.

Hai bên, đông và tây đình, họp lại gọi là nội đình. Ngoài ra, còn một dãy sập kê ở bên trái đông đình, dành riêng cho những ông không dự vào việc làm lễ tức là những quan viên ngoại đình. Những ông này có tiểu cớ cũng đi dự được.

Ông đại khuỷu tay phải tỳ trên mặt tráp, ngồi chống nạnh. Chốc chốc lại một ông cựu đến ra mắt ông rồi đi lại ngồi vào chỗ của mình.

Một lúc lâu, ông tổng Cảnh, một quan viên ngoại đình lên tiếng: “Bây giờ xem chừng quan vơn có đông đủ. Vậy xin rước quan đại lên trống để các người ấy lên hát cung phụng thánh”.

Ông nói to, rõ ra giọng kẻ cả.

Phía này: “rước quan đại lên trống”. Chỗ kia: “rước quan đại lên trống”.

Ông đại thích chí, tủm tỉm cười, cầm lấy roi chầu, rồi: “Xin phép các cụ”, ông giơ lên đánh ba tiếng thong thả và tiếp liền hai tiếng mau. Cách vài phút, ông đánh thêm hai tiếng mau hơn hai tiếng trước.

Ba cô đầu, một cô xách túi phách, một anh kép xách đàn ở giải võ đi lên:

- Lạy các quan ạ.

Rồi ngồi cả xuống chiếc chiếu trải trước nhang án. Ba tiếng trống trả lời câu chào. Tiếng đàn, tiếng phách dạo chậm rãi… Ông đại đánh hai tiếng mau để giục. Anh kép gẩy rênh rênh rênh ba tiếng ăn với ba tiếng phách của cô đầu và ba tiếng trống của ông đại.

Một ông ý chừng thạo trống khen.

- Xinh… Xinh…

Ông đại sung sướng, tủm tỉm cười, nói nhũn:

- Chầu tôi sao bằng các cụ được.

Anh kép gẩy xong khổ sòng đàn, cô đầu cất tiếng hát bài thiết nhạc, rồi ngâm vịnh, rồi bắc phản, rồi sau cùng đến mưỡu nói*.

Những điệu thông dụng trong hát ca trù: thiết nhạc (hoặc phét nhạc) là khúc hát đầu tiên, chú trọng giai điệu chưa chú trọng về lời; ngâm vịnh (hay còn gọi là ngâm vọng) là một khúc ca trù cổ, điệu tha thiết, bâng khuâng nhưng khoan thai, gồm 10 câu lục bát; Bắc phản (còn gọi là hát mổ) có 6 câu lục bát, bắt đầu thấp sau lên cao dần; Mưỡu nói: nếu bắt đầu không hát Bắc phản thì hát Mưỡu, còn hát mưỡu để kết thúc bài hát nói; mưỡu cũng làm theo thể lục bát, số câu tùy theo từng thể mưỡu khác nhau.

Ông đại cầm chầu một cách đĩnh đạc, lúc chậm, lúc nhanh, lúc một tiếng, lúc hai tiếng, ba tiếng, có lúc ông gật gù chát hai tiếng liền để thưởng, tưởng chừng như ông thạo lắm. Nhưng để ý nghe mới biết ông đánh liều đánh lĩnh, sai bét, chẳng đúng một khổ nào.

Nghe xong, ông đưa roi chầu và trống cho một ông giám khảo:

- Người đầu này hát kém lắm phách lúc sớm lúc muộn, chả ra làm sao cả.

Ông chê họ hát kém chỉ vì phách họ đánh không đúng với trống của ông. Rồi đến cô đầu khác hát cũng sẽ kém như cô đầu này. Rút cục cô nào cũng kém cả duy có trống của ông là xinh.

Nghỉ một lát chuyện phiếm, ông đại quay sang phía ông tổng, nói:

- Bây giờ xin rước các quan vơn ngoại đình lên trống.

Bên ngoại đình, ông nọ đùn ông kia. Sau cùng ông lý Hạt, một tay sính hát, cầm lấy roi chầu. Trước khi đánh, ông xin phép quan đại, xin phép các cụ đông đình và ngoại đình. Ông không thèm đếm xỉa đến các ông xã bên tây đình.

Ông vừa nện được vài tiếng, tức thì trống bên đông bên tây nổi lên như ếch kêu làm át cả tiếng đàn lẫn tiếng hát.

Ông Hạt thở dài, đưa roi cho ông bên cạnh, lẩm bẩm: “Ông nghe đi. Tôi thì tôi chịu, chẳng biết đằng nào mà đánh”. Và ông nghĩ thầm: Khi nào giã đám, ông sẽ gọi về nhà hát. Ông sẽ mời những ông nào biết trống và thích trống như ông.

Xã Chính từ nãy vẫn ngồi xếp bằng, ngẩn người ra nghe. Bác chẳng hiểu tí gì về hát ả đào. Lúc nào cũng như lúc nào, bác chỉ nghe tiếng đàn tiếng hát đều đều một giọng buồn thiu buồn chảy. Và những tiếng trống chầu, tiếng phách làm chói cả tai. Ngồi lâu, bác đâm ra ngáp và hay hút thuốc vặt. Bác thay đổi kiểu ngồi luôn, sợ tê chân mỏi gối. Trong trí, bác chỉ mong sao cho quan vơn nghỉ hát để chén rồi về cho sớm sủa. Bác càng mong càng thấy thời giờ dài đằng đẵng.

Bác liền nhìn những người ngồi cạnh, thấy họ cũng có vẻ băn khoăn trằn trọc như bác. Bác ghé vào tai họ thì thầm:

- Các bác ngồi có sốt ruột không?

- Có, cũng hơi sốt ruột.

- Thế thì tội gì cánh mình ngồi đây. Ra sân chuyện vãn, đợi bao giờ các cụ nghỉ hát, xoay ra chén, hãy vào.

Mấy anh đương buồn rũ buồn rượi vì mâm cỗ để trước mặt mà không được chén lại bị inh tai nhức óc vì ba cái trống thi nhau kêu, nên nghe xã Chính bàn, liền thuận ngay. Bốn anh đứng dậy, lẻn ra sân.

Vừng trăng bạc chiếu xuống mát lạnh, làm cho các anh khoan khoái nhẹ nhàng như trút được gánh nặng.

Bốn anh ngồi chiếu trên thấy chiếu dưới bỏ không cũng bắt chước lủi dần. Rồi đến những anh chiếu trên nữa. Không bao lâu một dãy sập bên tây đình chỉ còn trơ hàng cỗ với một vài anh thích học trống.

Hôm đầu xã Chính chưa quen còn phải lảng vảng ngoài hiên để dò xem lúc nào các cụ nghỉ. Bác biết tỏng được rằng trước khi chén, một hồi trống tế rung lên, các cô đầu và kép đứng cả dậy, xuống giải võ để chỗ cho ông đại vào lễ tạ. Rồi ông tổng Cảnh nói to như người rúc loa: “Rước quan đại và quan vơn nội ngoại nâng chén”.

Từ hôm thứ hai trở đi, bác ra đình chào quan đại để người biết rằng mình có đấy. Đoạn ngồi một chốc, đợi mọi người để ý cả vào tiếng hát tiếng đàn, bác lẻn về nhà nằm khểnh chuyện gẫu với mẹ đĩ. Bao giờ nghe thấy tiếng trống nổi lên, bác mới trở lại cũng còn vừa chán.

- Chị Mít ơi! Chị Mít! Nghe rõ tiếng Cúc gọi réo ngoài cổng, Mít đứng trong nhà quay ra nói to:

- Ừ! Các chị chịu khó đợi một tí. Tôi đi bây giờ đây!

Mít đã biết trước các chị rủ đi đâu rồi, vì ban chiều chị em hẹn nhau tối nay đi xem chèo ở ngoài xã Đoài với bọn Tửu. Mít và cơm vội vàng rồi buông đũa buông bát chạy xuống bếp uống bát nước chè. Không kịp xỉa răng. Mít cầm đèn hoa kỳ, lẻn vào buồng trang điểm.

Chỉ vài phút sau, Mít đã đến khung cửi, xin phép mẹ:

- Bu cho con đi xem chèo với các chị ấy nhé? Gớm! Chả lúc nào là bu chịu rời cái khung cửi.

Bác xã gái lặng thinh để môi vào lỗ thoi hút lấy đầu sợi chỉ, rồi vừa thong thả đưa thoi và dập mạnh khổ xuống mấy cái liền cho mịn mặt vải, bác vừa nói:

- Không thế thì lấy gì mà ăn, mà tiêu.

Ngoài cổng Cúc, Mậm, Cài thúc giục.

Mít nhắc lại:

- Bu cho con đi xem chèo với các chị ấy nhé.

Bác gái đặt thoi xuống, quay lại nhìn Mít, mỉm cười:

- Sao mà làm đỏm thế? Tối làm đỏm cho ma nó xem à? Chả bù cho tao ngày xưa, bằng tuổi mày mà còn ngồi lê ngồi la, đánh lú, đánh chắt và tắm truồng với chị em.

Mít cười nói:

- Thời xưa khác, thời nay khác, bu ạ.

Cúc lại giục ở ngoài cổng:

- Lâu lắm rồi, có đi không thì chúng tôi đi đây.

Mít nóng ruột sẽ đập bàn chân xuống đất mấy cái như chực chạy:

- Con đi nhé, bu nhé?

- Ừ, đi thì đi. Nhưng về sớm sớm một tí. Tôi không thức mà đợi cô được đâu.

- Vâng.

Rồi Mít chạy vội ra cổng:

- Làm gì mà giục rối lên thế?

Cúc, hai cánh tay quàng lấy vai hai chị đứng cạnh cười, nói:

- Chúng tôi không giục để chị kéo dài mãi à. Bọn họ chắc đợi cánh mình từ lâu rồi.

Trăng rằm đã lên khỏi ngọn tre. Ánh sáng vàng trong, mượt như nhung, bao phủ lấy cảnh vật làm mất các nét thô và tăng vẻ đẹp lên bội phần. Những dãy nhà tranh trông xa, sạch sẽ, mịn màng như trong phim ảnh.

Ra đến đường cái, bốn chị em vui vẻ quàng tay nhau đi hàng chữ nhất.

Mậm, nhìn chị em, ngạc nhiên hỏi:

- Các chị đánh phấn?

Mít cãi:

- Các chị thế nào chứ tôi thì không.

Cúc:

- Tôi cũng vậy. Ai biết đánh phấn đánh sáp ra làm sao. Mà quái! trông chị nào cũng như đánh phấn ấy.

Mít tìm ra được cỗi rễ:

- À thôi, phải rồi, các chị ạ, tại ánh trăng đấy mà.

Mậm xòe bàn tay, sẽ vuốt ngực Mít, vui vẻ nói:

- Này các chị, trông yếm chị Mít mà xem, có phải trắng mịn như xoa một lượt phấn lên không?

Cúc tinh nghịch, sờ lên hai vú Mít, cười nói:

- Đôi vú của chị tôi nở quá.

Mít đập tay Cúc xuống, gắt:

- Ỡm ờ lắm! Đùa gì lại đùa thế, người ta có cười cho không?

Cúc lả lơi:

- Ai cười? Ma nó cười ấy à?

Đường chỗ ấy vắng. Mấy chị em không cần giữ ý tứ, đùa bỡn tự do, nghịch ngợm như trẻ con. Những tiếng cười khúc khích, những tiếng thì thầm trong yên lặng.

Thỉnh thoảng các chị bị Cúc nghịch nhả, quát ầm lên rồi lại cười ngặt nghẹo như điên rồ.

Mậm tính nhút nhát, hay xấu hổ, càng bị Cúc chòng ghẹo luôn.

Bỗng Mít nghĩ đến Tửu, hỏi Cúc:

- Này chị Cúc, bọn họ đợi cánh ta ở đâu nhỉ?

Cúc ghé vào tận mặt Mít, nói chọc:

- Đâu thì chị hỏi làm gì? Anh Tửu hôm nay kêu bận không đi, chị ạ.

- Anh ấy đi hay không thì việc gì đến tôi, rõ khéo cô này.

Tuy nói vậy mà trong lòng Mít phấp phỏng không yên. Vì Mít đi xem chèo, phần chính là cốt gặp Tửu.

Cài ít nói, ít đùa, chỉ tay ra đằng xa:

- Các chị trông, hình như bọn họ đứng đợi cả trước trường học kia kìa.

Mít tìm bóng Tửu, Cúc tìm bóng Chắt, Cài, Mậm chưa có tình với ai, ung dung đi và nghĩ đến tấn chèo sắp được xem.

- Các anh đấy phải không? Cúc gọi.

Có tiếng ở đằng xa trả lời lại:

- Các chị đấy à? Sao mà chậm thế. Đằng này định đợi lúc nữa, không thấy đằng ấy lại là đằng này đi thẳng.

Cúc đoán chắc là tiếng Chắt, gọi to:

- Anh Chắt đấy phải không, tử tế nhỉ?

Hai bên dồn lại rồi nhập bọn cùng đi. Ngôn ngữ và cử chỉ của các chị xem chừng đã thấy khác lúc nãy, kém vẻ sống sượng, nhưng tình tứ, yêu kiều hơn.

Trăng càng lên cao càng sáng trong. Hai bên đường, cánh đồng lúa xanh non bát ngát. Ngọn lúa mềm nhấp nhô như sóng bạc. Xa xa phong cảnh huyền ảo như trong giấc mộng. Mít, đa cảm ngây người ra nhìn, tuy chân vẫn đều bước.

Cúc vỗ mạnh vào vai Mít, nói:

- Nhớ ai mà ngẩn người ra thế?

Mít giật mình nói gắt:

- Gớm! Làm người ta giật bắn người lên.

Chắt trêu ghẹo:

- Anh Tửu thử hỏi chị ấy xem chị ấy nhớ ai thì biết.

Tửu nghiêm nét mặt, thụi mạnh vào lưng Chắt. Chắt ưỡn người ra đằng trước, kêu:

- Ái đau! Đùa gì lại đùa nhả thế!

Bên trai bên gái vừa đi vừa trò chuyện, cợt giễu lẫn nhau thấm thoát đã tới gần làng Đoài. Người đi xem đã thấy lẻ tẻ. Tiếng trống chèo ròn rã. Thỉnh thoảng xen vào vài ba tiếng trống cái cầm chầu. Dần dần rõ cả tiếng hát, tiếng trống cơm, tiếng mõ nhịp.

Chắt, hai tay vỗ bụng, hát nghêu ngao:

- Binh binh bập bình. Trống cơm ai khéo vỗ nên vông. Một đàn con chim nhạn…

Tín ngắt câu, nói chế:

- Tiếng thằng Chắt nó hát như tiếng vịt đực.

- Phải, mày thì hát hay! Có hát cho trâu nghe.

Mùi tẩn mẩn hỏi:

- Sao người ta lại gọi là trống cơm, chúng mày nhỉ?

Chắt giảng nghĩa:

- Mày dốt lắm. Thế mày không nhìn hai viên cơm bằng hai quả táo ở giữa hai mặt trống à?

- Họ dán vào mặt trống để làm gì, hở mày?

- Để nghe nó ra tiếng trống cơm.

Tửu không nhịn được cười, bắt bẻ Chắt:

- Lại mày nữa. Mày nói thế có ma nó hiểu. Người ta bịt cho mất tiếng ngân đi, ông tướng đã nghe ra chưa?

Chắt cãi lại:

- Bớt ngân đi để nghe nó ra tiếng trống cơm.

Người đi xem mỗi lúc một đông. Đến làng Đoài thì đông quá, khó mà chen được. Mấy chị em nắm chặt lấy tay nhau, sợ lạc. Hơi người xông lên ngạt cả mũi. Tiếng ồn ào như phiên chợ. Hàng nước, hàng quà ngổn ngang. Tửu theo hộ vệ chị em. Còn Chắt, Mùi, Tín đi lẫn vào vòng người đứng xem chèo, tìm chỗ.

Một lát, Chắt chạy ra, gọi thét lên:

- Vào cả đây!

Mỗi anh nắm tay một chị, hết sức chen, mặc kệ những tiếng chửi rủa. Cúc chạy lại giơ tay cho Chắt nắm. Tửu không biết vô tình hay hữu ý nắm lấy tay Mít. Mít rung chuyển cả người, tim đập mạnh, mặt nóng bừng. Tửu cũng vậy.

- Đủ cả đấy chứ? (Chắt vừa nói vừa ngửng đầu lên nhìn) Mậm đâu… A kia rồi… Đủ cả rồi.

Trước mặt các chị còn một hàng người nữa đứng án ngữ. Cài lùn rướn mãi cổ lên.

May sao có mấy anh tuần đi dẹp đám đông, cầm roi sẽ đập vào vai họ và thét:

- Ngồi cả xuống để bên ngoài người ta xem với chứ!

Chị em sung sướng, nói to cho mấy anh tuần nghe thấy:

- Cám ơn các bác nhé. Có thế chúng tôi mới xem được.

Mấy anh tuần nhìn chị em, cười tình và thấy chị em để ý, lại càng săn sóc đến chỗ chị em luôn.

Tửu đứng sau Mít. Nhờ dịp đông, nó đứng áp mãi người vào lưng Mít và cảm thấy da thịt mềm của Mít cọ sát vào ngực nó. Hơi nóng trong người Mít truyền sang. Nó hồi hộp.

Lúc ấy vừa gặp vai Thị Mầu, ở trong buồng trò ra. Thị Mầu, đầu chít khăn mỏ quạ, hai thái dương dán hai miếng giấy đen, tròn bằng đồng tiền, đi ưỡn ẹo, mắt lim dim liếc Thị Kính mặc cải sư ông.

Thị Mầu cười cợt, lả lơi, dùng hết lời ngon ngọt, dâm đãng để gợi tình Thị Kính. Nhưng Thị Kính vẫn thản nhiên, ngồi tĩnh tọa.

Tửu say sưa muốn ôm ghì lấy Mít và muốn thổ lộ hết tình yêu nồng nàn mà nó cố nén trong tâm hằng bao lâu nay.

Cúc nhí nhảnh quay lại định hỏi chuyện với Chắt. Nhưng Chắt đã chuồn đâu mất. Cúc bực mình, chẳng để ý gì đến chèo, nhìn khắp chung quanh tìm Chắt. Nó thấy Chắt ngồi chồm chổm cạnh người cầm chầu, nhe răng ra cười và nhìn Cúc như muốn nói:

- Các chị xem tôi có giỏi không?

Cúc nguẩy đi, bĩu môi nhìn ra đằng khác. Chắt vô tình không để ý.

Một lát đã thấy Chắt trong buồng trò thò đầu ra nhăn nhở như thằng hề. Mít nhìn thấy trước đập tay vào Tửu, nói sẽ:

- Anh trông Chắt nó có nghịch không?

Tửu tủm tỉm cười:

- Chả thế ai gọi là ông tướng!

Mậm, Cài tâm trí để cả vào chèo, hỏi Tửu:

- Ông tướng đâu, anh?

Tửu chỉ vào chiếc màn đỏ:

- Kia chứ đâu!

Mậm, Cài che miệng cười rồi lại để tai, để mắt vào Thị Mầu, Thị Kính.

… Bỗng hai bức màn đỏ vén lên. Một pho tượng Phật Bà mặt phấn môi son, trông đẹp lộng lẫy, ngồi xếp bằng trên một chiếc hòm vuông đặt chồng lên hai chiếc khác.

Bao nhiêu mắt đổ dồn cả vào đấy. Những tiếng thì thầm:

- Đẹp nhỉ!

Hàng người bên kia lộn nhộn. Họ chen nhau, xô đẩy nhau để xem cho được đức Phật Bà…

Rắc, một gióng bương gẫy. Rạp xiêu về một bên. Tiếng hò hét, chửi rủa át cả tiếng trống lẫn tiếng hát.

Mít, Cài, Mậm, Cúc sợ, giục bọn trai về. Mấy anh tuần giơ roi đi chung quanh dọa nạt, nhưng muộn quá rồi. Sóng người mỗi lúc một mạnh. Mấy cái liếp che buồng trò đã ọp ẹp, sắp đổ. Thấy nguy đến nơi, ông cầm chầu cắc dồn mấy tiếng. Trống, thanh la im bặt. Một vài anh đóng trò đứng thưỡn ra nhìn. Phật Bà cũng sợ, bước xuống, lẻn vào buồng, biến mất. Thế là tan.

Vòng người đen kịt tỏa ra, khắp nơi như đàn kiến mất mồi. Tiếng mẹ gọi con, con gọi mẹ, tiếng cười, tiếng khóc, tiếng hò reo inh ỏi. Hàng nước hàng quà được mẻ đắt, vì có nhiều người ngồi rốn lại đợi, trong lòng hy vọng còn hát nữa.

Bọn Mít và bọn Tửu đã ra khỏi đám đông, Cài, Mậm ngẩn ngơ tiếc. Cúc, trái lại, vui vẻ được Chắt đi kề bên. Tửu thầm hát những câu đường trường. Mít vừa đi vừa lắng tai nghe…

Qua cây đa chợ Cầm đến ngã ba đường Dừng, Cúc và Chắt ở cùng xóm, đi rẽ sang con đường con.

Trăng đã xế về tây. Sương lạnh xuống nhiều. Cúc đi sát lại và sẽ đập vào vai Chắt, nói:

- Hay đôi ta trở lại xem đi.

Chắt vẩn vơ nhìn ngọn tre tắm trong ánh trăng, lơ đễnh trả lời:

- Đi không có cánh họ buồn chết!

Cúc vẻ mặt rầu rầu, nhìn Chắt:

- Anh không muốn đi với tôi à?

Chắt vẫn dửng dưng, hỏi lại:

- Sao tôi lại không muốn đi với chị?

- Vì tôi rủ anh, anh không đi.

- Tôi đã bảo không có cánh họ cùng đi thì không vui mà lại.

- Cứ phải có họ mới vui được à?

- Chứ không ư! Với lại bây giờ cũng khuya rồi, chắc họ cũng nghỉ không hát nữa đâu.

Hai người yên lặng đi. Cúc hồi hộp. Cặp môi mấp máy, chỉ muốn ngỏ hết tình yêu ra lời nói; Chắt chẳng nghĩ gì cả, vơ vẩn nhìn đâu đâu.

Tới khóm tre đầu xóm, bóng rợp phủ xuống hai người. Cúc ngập ngừng:

- Này, anh Chắt!

- Cái gì?

- Không.

Yên lặng. Văng vẳng đằng xa tiếng chó sủa trăng.

- Anh Chắt…

- Cái gì?

- Chắc Mít yêu Tửu lắm nhỉ?

- Mà Tửu cũng yêu Mít.

Cúc sung sướng tìm được mối:

- Thế còn anh Chắt, anh có yêu ai không?

Cúc âu yếm liếc Chắt. Chắt vẫn nhìn thẳng, trả lời.

- Tôi ấy à… tôi yêu hết thảy mọi người.

Chắt đã đến nhà, đi rẽ vào phía cổng. Cúc gọi với lại:

- Anh Chắt! Anh Chắt! Anh không đưa tôi về ư?

Chắt quay lại hỏi:

- Chị không dám về một mình?

- Không (Cúc nhoẻn miệng cười). Tôi sợ ma lắm.

Chắt trở lại, vừa đi vừa nói:

- Bằng ngần ấy mà còn sợ ma.

Cúc đứng khoanh tay vào ngực, nhìn Chắt chòng chọc và nói hơi có vẻ nũng nịu:

- Người thì không sợ chứ ma thì ai chả sợ… Này anh Chắt ạ…

- Cái gì?

- Sao độ này anh ghét tôi thế?

- Chị này rõ lẩn thẩn. Khi nào tôi lại ghét chị. Tôi không ghét ai cả.

- Thế sao anh cứ… anh cứ… làm sao ấy?

- Làm sao?

Cúc ưỡn ẹo:

- Nào ai biết được!

Hai người lại yên lặng đi. Nhà Cúc đã gần tới. Cúc vờ sợ hãi ôm chầm lấy Chắt. Bộ ngực nở nang của Cúc áp mãi vào người Chắt. Chắt giật mình, hốt hoảng hỏi:

- Cái gì thế?

Cúc buông Chắt ra, thở hổn hển, ngực phập phồng, giọng run run nói:

- Không biết cái gì nó nhùn nhũn như con rắn ấy, anh Chắt ạ.

Chắt thản nhiên:

- Thế thì có lẽ con rắn đấy. Đêm hôm đi phải nên cẩn thận, lỡ dẫm phải hổ mang hay cạp nong thì khốn.

Cúc thở dài bước đi uể oải. Mặt Cúc buồn thiu như thất vọng.

Về đến cổng, Cúc lửa tình bồng bột, đánh liều định nắm chặt lấy tay Chắt, hạ mình xuống, van nài Chắt lấy một chút tình yêu. Nhưng chưa kịp thì Chắt đã vội chào và trở gót đi thẳng.

Cúc đứng dựa lưng vào cánh cổng nhìn Chắt đi mỗi lúc một xa. “Anh Chắt! Anh Chắt!” Cúc đã hết nghị lực, không gọi ra tiếng. Cúc tủi thân tủi phận, nước mắt chạy quanh.

Cúc yêu Chắt. Đã bao lần một mình với Chắt trong quãng vắng, Cúc gợi chuyện tình ra nói, nhưng Chắt vẫn thờ ơ, không một chút cảm động. Cúc nghĩ đến Mít, đến Tửu, đến tình yêu khăng khít của đôi uyên ương: “Chỉ Mít là sung sướng thôi”. Câu nói ở tận đáy tim Cúc thốt ra.