Phần Thứ Hai - ĐẠI HẠN
Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt tháng ba sang tháng tư, không một giọt mưa.
Cây cối xơ xác như sau một trận giông tố. Chỉ trừ một vài thứ cây chịu khô, chịu nắng như cây si, cây đa, cây tre là giữ được màu xanh tươi.
Bao nhiêu ruộng đồng cao đều nẻ toác. Những cây lúa cằn cỗi đâm tua tủa lên trời những lá cứng, vàng úa, ngọn cháy xém.
Không còn kiếm đâu ra nước mà tát.
Các ao chuôm cạn khô để phơi đáy bùn phần nhiều phủ cỏ và những cây cúc dại, hoa vàng chóe.
Chỉ mười hôm không mưa nữa là đi đời cả một cánh đồng hàng nghìn mẫu.
Nếu được cái lạch con ăn thông với cái đầm ở đồng cửa (ruộng triều) thì cũng chưa đến nỗi hoàn toàn thất vọng. Khốn nỗi các cụ không dám cho đào, sợ đứt long mạch, động đến làng, đến mồ mả nhà các cụ.
Ngày năm ngoái, hôm làng họp về việc cấp điền, ông Rao bàn đến vấn đề đào ngòi xây cống liên tiếp đồng nọ sang đồng kia để phòng đại hạn đã bị các cụ nhiếc móc thậm tệ. Các cụ cho ông là một người thiển cận, chỉ biết việc sờ sờ trước mắt, không nhìn xa đến tương lai, đến dòng dõi con cháu. Rồi các cụ kết luận:
- Thầy không am hiểu lý số có khác. Người ta không sợ nguy khi nào người ta không biết cái nguy. Thầy vào hạng người ấy đấy, thầy giáo ạ. Chúng tôi nói thầy đừng giận.
Một ông có tính hay cà khịa, xoay lại kiểu, ngồi chống nạnh, ngửng mặt lên sàn giải võ, nói:
- A sà, cánh Tây học họ biết cái quái gì mà bàn. Họ học Tây chỉ biết bắt chước Tây, đào ngòi đào giếng, bạ đâu đào đấy. Có biết đâu rằng: Tây người ta sang bên mình, người ta cần gì đến long mạch. Động là động nhà mình chứ động gì đến nhà người ta.
Nói rồi ông vuốt râu, vảnh tai đợi câu trả lời của ông Rao. Ông Rao chỉ cười mát, đứng dậy chào các cụ xin cáo. Ông vừa bước chân xuống thềm đã nghe mấy cụ bảo nhau:
- Anh chàng nghe chừng đuối lý.
Từ đấy, những khi việc làng, không thấy ông Rao ra nữa.
Lúc này, nếu ông trở lại bàn đến việc trước, các cụ cũng chẳng nghe nào. Các cụ sẽ cho đại hạn là việc nhất thời. Còn long mạch một khi đã dứt, thì ôi thôi! Khác nào người đã chết, không sao sống lại được nữa.
Xã Chính có hai sào trong đồng cao cũng đến mất gió theo với số phận cánh ruộng khác thôi.
Bác có năm sào và hai mẫu ruộng thuê ở đồng cửa đang ngoắc ngoải tuy chưa đến nỗi tuyệt vọng. Được thế cũng là nhờ cái đầm ăn thông với sông Hóa bởi cái cống gạch xây ngầm qua đê. Nhưng nước dầm đã gần cạn, chi còn độ một thước ta nữa là đến đáy, mà cửa sông thì không thể mở ra cho nước sông Hóa chảy vào được vì dạo này sông ấy có nước mặn.
Vì thế họ quý nước như quý vàng, ngày đêm lo lắng về nước, có khi tranh giành cãi cọ về nước.
Không mấy sáng là không có người đứng bờ ruộng nguyền rủa, chửi bới những quân khốn nạn đêm đã chọc bờ tháo trộm nước sang ruộng mình. Rồi sau những chuyện xích mích nẩy ra những cuộc xô xát bằng tay chân. Có khi các cụ phải họp việc làng để phân xử cho khỏi phiền đến quan nha.
Sớm, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng nhan nhản những người tát nước.
Tuy cái nguy đã đến chân mà họ vẫn vui vẻ, vừa làm việc, vừa chơi đùa hát hỏng. Họ thản nhiên như đàn nhặng buổi tinh sương bay bổng tít tận trời xanh để đợi vào bụng nhạn.
Không bao giờ vợ chồng xã Chính vất vả bằng dạo này.
Lờ mờ sáng, vừng đông chưa rạng, một vài ngôi sao còn lấp lánh, hai bác đã phải dậy, ăn quàng qué một nắm cơm với muối cho đỡ đói, rồi chồng vác cuốc đi trước để khơi nong*, vì nước mỗi ngày một cạn, vợ xách gầu theo sau. Hai người yên lặng cùng rảo bước. Đến đầm đã thấy một vài bọn ở đấy rồi. Tiếng gầu vục xuống nong, tiếng nước đổ ỳ õm.
Nong: vũng nước ngoài ruộng.
Xã Chính xuống đầm xẻ rãnh cho nước chảy vào nong. Vợ ngồi thừ nhìn những cây lúa cằn cỗi, lẩm bẩm nói một mình: “Ngữ này vị tất đã được bông mà gặt… Khốn nạn rồi lấy thóc đâu mà nộp người ta… lại còn sáu phương…” Bác thở dài, bác lo.
Chồng khơi xong, chống cuốc bước lên bờ:
- Kìa bu nó buộc dây vào gầu, còn ngồi thừ ra đấy à?
- “Ờ nhỉ”. Vợ buộc xong, hai tay chống gối đứng dậy một cách nặng nề, nhảy sang bờ rãnh bên kia rồi ném cuộn dây thừng cho chồng. Mỗi người, mỗi tay cầm một bên dây, bắt đầu tát…
Vừng đông đỏ ối. Bầu trời xanh biếc, không một vẩn mây, báo trước một ngày nắng gay gắt.
Xã Chính ngửng lên, thở dài, bằng giọng chán nản:
- Cơ trời thế này thì còn nắng to. Ít nước đầm sao cho đủ cả một cánh đồng mông mênh bát ngát như thế kia? Đến nguy mất, bu nó ạ.
Thấy chồng lo lắng, buồn rầu, vợ thương hại, tìm lời an ủi:
- Thầy nó chẳng việc gì mà lo. Rồi các cụ đảo võ* đảo viếc chứ… Như năm nào, thầy nó còn nhớ không, trời cũng nắng mãi. Thế mà sau khi đảo võ, ông ấy giáng ngay cho một trận, lúa đương xấu bông bỗng tốt sổng ngay lên.
Đảo võ (đảo vũ): cầu mưa; cúng bái cầu trời mưa.
- Ừ, cũng còn mong thế. Nhưng biết bao giờ các cụ mới nghĩ tới cho.
- Ấy còn đợi tỉnh sức về đã chứ. Năm nào đảo võ chả vậy.
Cái rãnh bị bùn lắng xuống gần lấp hết. Nước chảy vào chậm quá. Hai vợ chồng lại nghỉ tát. Chồng vác cuốc xuống khơi lại. Nước gặp lũng ùa vào. Vợ được nghỉ ngơi nên tát đã thấy nhanh nhẹn hơn trước.
Xã Chính nối lại câu chuyện đảo võ:
- Sao lại cứ phải đợi tỉnh sức, bu nó nhỉ?
- Tôi thấy cụ Cán bảo: còn phải đợi chiếu chỉ vua ra, chả biết có phải không?
Xã Chính vừa tát vừa ngẫm nghĩ. Bỗng, bác làm như vừa mới phát minh được một ý kiến gì hay lắm:
- Mà mình ạ, không khéo rồi lụt cũng nên.
Vợ phì cười:
- Thầy nó rõ lẩn thẩn. Người ta mong mưa chả được mình lại sợ lụt.
- Ấy thế mà không biết chừng. Mười ba con rồng nó phun cho một chập thì có ngày tháo ra không kịp.
Vợ cho là chồng nói bông, chỉ cười mà không trả lời, có biết đâu lúc này chồng đương nghĩ đến mười ba con rồng của cụ cán Bích.
Vợ chợt nhìn xuống cái gầu tuột cạp, vội kêu:
- Chết chửa! Mải nói chuyện, cạp gầu tuột gần hết mà không biết. Chậm tí nữa thì đi đời… Mình có mang lạt đi không đấy?
- Có.
Chồng kéo gầu lên rồi lấy một vài sợi trong bó lạt gài sau lưng ra buộc. Vợ đứng nhìn sang bờ bên kia thấy họ tát luôn tay, quay lại phàn nàn với chồng.
- Nhà mình cũng “sắng” lấy chiếc gầu nữa. Chứ quanh đi quẩn lại mỗi một chiếc thì chỉ những chữa hết ngày.
- Chỉ tại nhà mình không nghĩ tới. Năm sáu xu một chiếc chứ có nhiều nhặn gì.
Lần này, hai vợ chồng yên lặng, cắm đầu cắm cổ tát, sợ vừa làm vừa chuyện, công việc chậm trễ. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Mặc, cứ tát, tát cho đến khi không thể tát được nữa mới chịu nghỉ. Thế mà từ sáng đến trưa, nước vẫn chưa bén gốc lúa. Thì ra đất ruộng khát nước đã lâu lắm, nay càng uống khỏe.
Ngót tháng nay, không ngày nào Mít được rảnh. Sáng sớm tinh sương sau khi bố mẹ ra đồng, nó đã phải gánh đôi nồi “chân” ra giếng chùa gánh nước.
Lâu nay không mưa, các ao chuôm gần cạn sạch và nổi váng như nước xáo bò hay đỏ ửng như riêu cua không sao dùng được nữa, tuy phần nhiều người trong làng có tính rất dễ, ăn uống bẩn đã quen. May còn cái giếng chùa có nước mạch để cho cả thôn dùng. Vì thế nên bất cứ lúc nào trên bờ giếng cũng đông những người đến gánh nước. Họ tranh nhau, cãi nhau ầm ỹ như ở các máy nước trong thành thị.
Mít không lấy sự vất vả, nặng nhọc làm khổ. Trái lại, Mít sung sướng được gặp Tửu luôn. Mỗi lần đặt đòn gánh lên vai, nét mặt Mít tươi tỉnh như người sắp đi xem hội và mỗi khi đến gần giếng, tâm hồn Mít hồi hộp.
Mít nghĩ sẵn những câu tình tứ và kín đáo để thổ lộ tình yêu ra lời nói và nhất là để Tửu hồi hộp, sung sướng như mình. Đến khi gặp nhau, anh chị chỉ mỉm cười hay nói những câu bâng quơ. Ấy là từ ngày cùng đi xem hội, xem chèo, anh chị đã bớt bẽn lẽn nhiều lắm.
Nhưng sáng nào cũng gặp nhau ở bờ giếng, dần dần Mít và Tửu thành bạo dạn, cười nói tự nhiên.
Sáng nay người đến gánh nước đông quá, hai người cũng không muốn chen chúc bèn rủ nhau ra ngồi chơi trên bãi cỏ. Mải vui câu chuyện, anh chị quên cả gánh nước, đến lúc trông ra thì họ đã về cả rồi.
Mít nói như tự trách mình:
- Chết chửa, thế này thì cả ngày được mấy gánh!
Tửu nét mặt hớn hở, nói bằng một giọng thân mật:
- Được, mình để anh gánh đền.
Từ ngày yêu nhau đến giờ, Tửu mới dám mạnh bạo dùng tiếng mình. Tuy vậy mà tiếng mình của Tửu vẫn có vẻ rụt rè ngượng nghịu.
Còn Mít đã lâu vẫn muốn dùng những lời âu yếm, nay được Tửu gợi ra trước, Mít rất cảm động. Đôi gò má Mít hây hây đỏ. Mít trả lời bằng một giọng cũng thân mật như để thưởng lại người yêu:
- Em đâu dám lấy đền của anh.
Thế là từ đấy, hai anh chị đã tiến lên được một bước trong đường tình. Tiếng mình, tiếng em đã thấy dùng luôn trong câu chuyện. Nhờ có hai tiếng thiêng liêng ấy mà sự thân mật của hai người mỗi ngày một thêm rõ rệt. Những ý tưởng, những tính tình từ trong đáy tim đã thấy hiện ra lời nói.
Lúc này, nếu Cúc có đấy, tất Cúc phải thốt ra một câu nghe mà thương hại: “Chỉ chị Mít là sướng thôi”.
Phải, chỉ có Mít là sướng thôi. Vì Mít đã được thỏa lòng ước nguyện. Không như Cúc, từ cái đêm đi xem chèo về, cái đêm mà Cúc thấy Chắt thờ ơ tình yêu.
Tuy Cúc vẫn giữ được tính nhí nhảnh, nghịch ngợm mọi ngày, nhưng nụ cười, khóe mắt như nhuộm vẻ sầu muộn.
Thấy bố mẹ làm lụng vất vả suốt ngày, Mít thương hại. Chiều đi bán hàng về, ăn cơm uống nước xong, Mít rủ Chốc đi tát nước, Chốc cầm cuốc đi trước, Mít xách gầu theo sau.
Chốc mới mười một tuổi đầu mà trông người đã rắn rỏi, cứng cáp như một anh canh điền bé nhỏ. Độ bốn, năm tuổi nữa, nó có thể giúp bố làm công việc đồng áng. Hiện giờ, nó còn mải chơi, nhưng cần ra nó giã gạo, xay lúa, gồng gánh được rồi.
Hôm nay Mít rủ nó ưng ngay. Không phải vì lòng thương bố mẹ, cũng không phải vì lo lắng đến sự túng đói. Nó đã biết nghĩ đâu đến thế. Chỉ vì nó nhởn nhơ, đùa nghịch cả ngày đã chán nên nó muốn tìm trò chơi khác. Việc tát nước cũng là trò chơi của nó.
Vừa ra đến đầm, nó đã lon ton nhảy xuống lấy cuốc xẻ rãnh, gạt bùn sang hai bên rồi ngồi xuống nghịch đắp hai con đê ở hai bên rãnh. Nó thích chí nhìn dòng nước đục ngầu chảy ùa vào nong và ngắt lá vứt vào chỗ xoáy nước để nhìn lá quay tít như chong chóng. Tay chân nó lấm lem lấm lễ.
Mít đứng trên bờ giục mãi, sau phát gắt, dọa về mách bu, nó mới chịu rửa tay lên tát nước với chị.
Nó tát còn vụng về. Thân hình cứng nhẵng hai tay quờ quạng. Thỉnh thoảng nó quên không thả chùng dây miệng gầu, làm cho cái gầu hớt trên mặt nước, tung bổng lên cao. Những giọt nước nặng hột rơi xuống, bắn cả vào mặt mũi, đầu tóc và quần áo hai người. Mít buồn cười quên cả gắt. Mít vừa tát vừa chỉ bảo như người đứng lái: hạ chùng dây miệng xuống tí nữa! Kéo thẳng dây trôn lên!… Nào! Nào! nhấc bỗng tay trôn lên mà đổ!… Ưỡn người ra chứ! Sao lại cứng đờ người ra thế thì tát với tiếc gì. Mỗi lần gầu hớt qua mặt nước. Mít quát lên: “Hừ đã bảo mà! Hạ chùng dây xuống”.
Chốc làm theo lời chị, dần dần tát đã thấy đều tay.
Tửu chợt ở đâu đến:
- Chị em đảm đang nhỉ.
Mít quay lại nhoẻn miệng cười:
- Anh Tửu ạ, thằng Chốc nó không biết tát. Từ chiều đến giờ, quanh quẩn chả được mấy tí nước. Anh trông em bảo mãi mới được thế đấy. Chứ lúc nãy anh nhìn thì không thể nhịn cười được.
Tửu sắn quần lên vừa đi lại gần Mít vừa nói:
- Chốc để anh tát hộ vài thôi nhé?
Chốc tát đã thấy chán. Được Tửu giúp, nó mừng quýnh, bỏ thõng hai tay đứng đợi.
Một luồng gió nồm thổi. Chiếc váy lụa và đôi dải yếm của Mít bay cả về một chiều. Tửu đã đến sau Mít.
Chốc vừa đưa đôi dây gầu cho Tửu, đã nhảy tót qua rãnh chạy một mạch đến cái quán gần đấy. Vì lúc tát, nó đã để ý nhìn bọn trẻ đương chơi khăng. Nó thèm quá, thèm như đứa trẻ thèm quà.
Mít và Tửu tát cùng thạo. Chiếc gàu lên xuống vừa nhanh vừa đều. Nước ở miệng gầu đổ xuống như thác bạc. Nước ruộng sầu lên như bọt rượu bia. Vừa tát vừa nói chuyện, nên câu chuyện của anh chị không có vẻ ngượng nghịu chút nào.
Tửu nói khơi đầu:
- Chiều qua em vào nhà ông xã Bổng làm gì thế?
- Em đòi bà ta tiền vải.
Im một lát, tay vẫn tát đều, Mít nói tiếp:
- Bu em định đòi hết tiền vải chịu để trả chú Sùi. Bu em không dệt nữa vì dạo này kém đói, vải bán chậm lắm, mà không được lãi mấy. Chỉ được hai xu hay già hai xu một tấm. Có khi lỗ cũng phải bán để lấy tiền trả hiệu.
Nong đầy bùn, không đủ nước cho miệng gầu chìm hẳn xuống. Hai người nghỉ tát, Tửu vác cuốc xuống khơi nong, khơi rãnh. Mít đứng trên bờ, hai tay cầm hai dây gầu đưa đi đưa lại cho khỏi trơ trẽn, nói nốt câu chuyện nhà:
- Anh Tửu ạ, bu em xoay ra làm hàng sáo, tuy vất vả khó nhọc nhưng kiếm lời nhiều hơn dệt. Thành ra độ này em lại bận thêm việc nữa.
Tửu, hai bàn tay tì vào đầu cán cuốc, ngửng lên hỏi:
- Việc gì thế, em? Em đã làm bao nhiêu việc rồi, nào gánh nước, đi chợ, làm cơm, giặt giũ, bán hàng. Bây giờ lại thêm việc nữa thì chịu sao nổi.
Tửu vừa nói vừa ngắm thân hình Mít in lên da trời đỏ ối của ban chiều.
- Em bận thêm việc xay lúa, giã gạo, sàng sẩy. Em không làm thì thầy bu em lại phải làm. Mà thầy bu thì đã khó nhọc vất vả suốt ngày rồi.
Tửu đã khơi xong, lấy vạt áo cánh lau mồ hôi trên trán rồi bước lên bờ. Hai người lại bắt đầu tát.
Mít vui miệng nói luôn:
- Em nghĩ mà thương thầy em. Khốn nạn, “ông lão”* chỉ mong ước tậu một con trâu cái mà mãi vẫn chưa tậu được. Anh trông, lúa má thế này thì còn hòng gì năm nay.
Người làng Cầm thường gọi bố mẹ là ông lão, bà lão, mặc dầu bố mẹ còn trẻ.
Mít đứng lấp bóng nên Tửu không nhận thấy vẻ buồn trên nét mặt. Nhưng Tửu cũng đoán được lòng trắc ẩn của Mít. Nó băn khoăn tìm lời an ủi:
- Chẳng năm nay thì năm khác, lo gì. Có tính siêng năng, cần kiệm như ông lão thì anh chắc thế nào cũng tậu được.
- Em cũng mong thế. Nhưng còn nhờ trời, nhờ số phận, mình biết trước sao được.
Tửu nghĩ đến tương lai, nói rõ mộng tưởng của mình cho Mít nghe:
- Em ạ, bao giờ anh ra ở riêng, anh cũng cố dành dụm tậu lấy con trâu cái. Anh không cần tậu ruộng, trừ phi giầu có. Em tính, có ruộng mà như lúc này thì chỉ rước thêm cái khổ, cái lo vào người.
Chiếc gầu lên xuống vẫn đều đặn, nhịp nhàng. Bốn cánh tay mềm dẻo hoạt động như bộ máy, không cần trí phải bận đến.
Tửu mê man trong giấc mộng vàng, nói tiếp luôn bằng một giọng lưu loát. Hình như nó đã nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần trong trí nghĩ nên bây giờ nó không cần phải nghĩ nữa:
- Em ạ, với một con trâu cái, chúng mình không bao giờ sợ đói. (Tửu dùng hai tiếng “chúng mình” cốt để Mít hiểu ngầm có cả Mít vào đấy). Anh với nó có thể kiếm mỗi ngày năm hào. Hôm nào anh mệt chẳng hạn, anh có thể cho thuê nó được ba hào. Mỗi mùa anh có thể kiếm được mươi mười lăm đồng là ít. Không kể những con nghé nó đẻ ra sau này. Rồi thừa vốn anh sẽ mua lợn nái về nuôi. Em không biết chứ nuôi lợn nái phát tài lắm cơ.
Mít lắng tai nghe chuyện mộng của Tửu. Nó sung sướng cười luôn miệng và cặp mắt ướt vì cảm động, đăm đăm nhìn Tửu như muốn bao trùm cả lấy người Tửu.
Mặt trời lặn đã lâu, chỉ còn sót lại ít bụi hồng mà đêm tối sắp sửa đến quét sạch. Cây đa đằng xa in hình đen xẫm lên nền trời đen nhạt. Đôi cò trắng song song bay về tổ, cánh đập trên không khí kêu vun vút. Chuông chùa Bính vang đưa lại để làm tăng thêm sự yên lặng trong khoảng đồng không mông quạnh.
Một cảm giác mãnh liệt tự nhiên bồng bột trong lòng Mít như thầm giục Mít chạy lại ôm lấy Tửu. Mít xấu hổ, tự nghĩ sao mình lại có cái cảm giác lạ lùng ấy, cái cảm giác mà Mít cho là chỉ những đứa đĩ thõa mới có. Mít cuống quít như một kẻ có tội bị bắt quả tang. May mà trời nhá nhem tối, Tửu không nhận rõ.
Muốn đưa ý nghĩ đi đường khác, Mít vội giục:
- Tối rồi, anh ạ, ta về đi thôi.
Ai nấy đã về từ lúc nãy, chỉ còn trơ trọi hai người trong yên lặng chan chứa tình yêu.
Mít hồi hộp quá ríu cả bước, mấy đầu ngón tay bấu mạnh những sợi dây thừng cuộn trong đáy gầu. Tửu nói luôn miệng để cố dẹp yên lửa tình nó chỉ chực bùng cháy trong lòng.
Không thể đừng, Tửu sẽ đặt bàn tay lên vai Mít. Mít rùng mình như gặp lạnh, chân tay bủn rủn, sắp sửa ngã vào người Tửu. Mít sẽ kêu, giọng run run: “Đừng anh… buông ra… anh…”
Tửu để rơi tay xuống. Tửu cũng sợ. Hai người cùng một ý tưởng, cùng nhích xa nhau để khỏi bị dục tình cám dỗ và cùng yên lặng đi.
Đến cổng nhà Mít, Tửu đưa cuốc cho Mít và hẹn chiều mai lại đi tát nước và đêm nào rảnh việc Tửu sẽ lại xay lúa giã gạo hộ Mít.
- Thế thì còn nói gì nữa. Em chỉ muốn có nhiều việc để được anh giúp luôn.
Mít đã thu phục được can đảm nói một cách bạo dạn như người vừa tỉnh cơn mê.
Hai người từ giã nhau, mỗi người mang theo một tương lai rực rỡ, đầy hạnh phúc.
Tửu, tâm hồn phiêu phiêu, cất bỗng giọng hát những câu sở thích của Mít. Mít đứng tựa cổng lắng tai nghe và nhếch một nụ cười khoái lạc.
- Cốc cốc cốc cốc… cốc! Cốc! Cốc.
Chiềng làng thôn…
Một hồi và ba tiếng mõ. Tiếp liền sau, một câu dài dằng dặc rao lên trong một buổi chiều oi ả.
Xã Chính nhắm mắt lại, lắng mãi tai mà chỉ nghe được ba tiếng đầu, còn về sau tiếng rao vừa nhanh vừa đều một giọng khàn khàn khiến bác không sao hiểu được. Bác thu hết tâm trí để cố nghe lại lần nữa. Nhưng tiếng mõ và tiếng rao mỗi lúc một xa. Bác vội gọi Chốc.
- Thằng Chốc nó đi chơi từ trưa đến giờ chẳng thấy mặt nó đâu cả.
- Thầy gọi gì cơ?
Xã Chính chỉ tay ra cổng:
- Con chạy ra hỏi xem mõ rao về việc gì. Mau lên không họ đi xa mất.
- Vâng.
Mít hết sức chạy, hai ống chân đập vào váy kêu phất phất. Những dải yếm bay tỏa ra như đuôi diều. Một tay ôm lấy đỉnh đầu cho khăn khỏi xổ.
Một lát, nó chạy về vừa nói vừa thở:
- Thầy ạ, mõ rao sớm mai họp việc làng để bàn về việc cầu đảo.
- Ừ, có thế chứ!
Bác hớn hở sung sướng như người được bạc. Trước đây chưa đầy mười lăm phút bác còn đương ủ rột. Ngồi trên ngưỡng cửa, hai khuỷu tay chống trên đầu gối và hai bàn tay ôm lấy hai má, bác ngửng nhìn trời, một cách chán nản. Thế mà chỉ một câu nói của Mít đã đổi hẳn tâm hồn bác.
Hôm sau, vừa sáng bảnh mắt, bác đã chỗi dậy rửa mặt, súc miệng, hút một điếu thuốc rồi vội vàng đi, chưa kịp cài cúc áo ngoài.
Ra đến “từ”* vẫn chưa thấy một ai. Cả thằng mõ cũng chưa thấy đến trải chiếu và sắp trầu nước. Bác ngồi chán lại đứng dậy, đi đi lại lại đếm từng cái cột, cái rui cho đỡ sốt ruột. Rồi bác đi chung quanh giải võ, tẩn mẩn ngắm những nét gạch đỏ của những đứa trẻ vẽ nguệch ngoạc trên tường trắng hoặc lẩm nhẩm đánh vần những chữ chúng viết bậy ra đấy. Bác tủm tỉm cười mỗi khi bác đọc những câu ngộ nghĩnh hay tục tằn. Bác làm đã nhiều việc mà ngoảnh ra vẫn chỉ thấy trơ trọi một mình bác với hàng sập gạch bỏ không.
Từ: miếu thờ, nhà thờ.
Sau cùng, bác sốt ruột quá, không chịu nổi phải bò về. Bác ăn lót dạ một lưng bát cơm nguội trộn vừng rang, uống một bát nước chè nóng, ngồi chưa được một chốc đã bồn chồn đứng dậy trở đi. Thế mà bác còn phải đợi hàng giờ mới thấy các cụ lẻ tẻ đến. Việc can hệ đến vận mệnh các cụ mà còn thế, huống chi những việc mà các cụ coi thường như việc đào ngòi, đào giếng chẳng hạn.
Lo về cây lúa gần hết tháng tư rồi mà chưa giỗ vè, các cụ không kịp xơi trầu uống nước, vội bàn ngay việc đảo võ.
Ông hàn Năm, ý chừng sẵn ruộng nhất, giục Lý trưởng đương thứ đưa tờ sức ra cho thư ký đọc.
Anh thư ký, một anh học trò đỗ sơ học yếu lược từ năm kia, cầm tờ sức đọc trơn chu như khi anh đọc bài tập đọc ở trường:
Tuy Viễn ngày… tháng… năm…
Thừa lệnh quan Tổng đốc, quan Huyện Tuy Viễn sức cho kỳ hào xã Cầm Ô biết rằng: vì mấy tháng nay trời làm hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, lúa má cằn cỗi. Vậy sức cho các thân hào, kỳ mục phải kíp họp bốn thôn lại mà rước các thần linh đến đình xã Đoài để chiều ngày 25 hay rạng ngày 26 quan Huyện thân về đứng chủ lễ cầu đảo. Hôm ấy truyền cho các chức dịch phải có mặt cả đấy để hành lễ, nhược bằng không tuân theo sẽ bị khiển trách.
Nay sức.
Thư ký đọc xong, ông cử Hạ nói:
- Việc là việc cần, vậy xin các quan vơn, ông nào về thôn ông ấy để sắp sửa trưa hôm nay rước thánh ra đình Đoài cho sớm sủa.
Một ông có tính cẩn thận ngắt lời:
- Ấy, thưa cụ, còn phải xem ngày, xem giờ tốt xấu thế nào đã chứ!
Ông cán Bích cất tiếng:
- Thưa các cụ, ngày hôm nay rất tốt ạ. Chính là ngày lễ bái và giờ ngọ xuất hành cũng tốt ạ.
Một ông ngồi cạnh nói leo:
- Sao cụ biết?
- Thì ngày nào tôi chả xem lịch. Mà có kiêng có lành, các cụ ạ. Từ khi tôi theo lịch xem ý làm việc gì trôi việc ấy.
Ông Lý Hiểu nói:
- Cụ cán đã xem lịch cẩn thận thì ta cứ thế mà làm. Vậy xin các cụ giải tọa*.
Giải tọa (ít dùng): tương tự “giải tán”.
Thế là nhờ cây lúa thúc giục, việc làng đã bàn xong một cách rất nhanh chóng và trôi chảy.
Sáng hôm ấy, thôn nào cũng bận rộn, náo nhiệt như ngày vào đám.
Về phần thôn Tiền, ông Hội lại ra nhận chức đại bái để đi hậu nghinh. Sao mà ông có duyên với chức đại bái thế!
Ngoài bốn vị thần hoàng trong bốn thôn, các cụ còn muốn triệu đức ông chùa Bính.
Theo ý các cụ, đảo võ mà không có đức ông chùa Bính thì kết quả không được mỹ mãn. Vì đức ông ngài khét tiếng cả vùng Đoài.
Các cụ truyền lại rằng: ngày xửa ngày xưa, đức ông ngài dữ lắm. Vô phúc người nào đi qua mà quên không bỏ nón, xuống ngựa hay xuống cáng thì người ấy tất bị ốm thập tử nhất sinh. Nếu không đem trầu cau đến tạ tội, chết oan là thường.
Các cụ sợ di hại đến làng, nhất là sợ cho bọn mục đồng chăn trâu cắt cỏ ở đấy nên đã xoay hướng ngài lại. Từ đấy, đức ông ngài đã bớt dữ, nhưng vẫn còn thiêng lắm. Còn cụ nào to gan đã dám xoay hướng ngài lại thì không thấy các cụ nói.
Vậy việc rước đức ông là một việc tối cần và không phải là một việc dễ. Lỡ ra thì khốn!
Các cụ chọn lọc mãi mới tìm được ông lý Hiểu là người vừa tuổi tác vừa sùng bái. Vâng, sùng bái lắm. Đã lâu, ông không hề đụng đến củ hành, củ tỏi, hay một thức gì mà đứng trước thánh có thể phạm tội được. Không kể bao giờ ông cũng có vài củ gừng hay ít hạt tiêu trong túi áo. Sùng bái như thế mà ông còn ngần ngại, đợi các cụ giục hai, ba phen mới dám nhận lời. Đủ biết đức ông ngài thiêng đến bực nào!
Thoạt ở nhà ra đi, ông đã tâm tâm niệm niệm. Vừa tới cổng chùa, ông đã kính cẩn, sợ hãi như một anh dân ngu đến cửa quan.
Trước khi xin âm dương, ông tế một tuần rượu. Những người giúp việc ông hành lễ đều là những người thanh khiết cả, hai ba hôm chưa hề đụng đến miếng thịt cầy.
Cứ nhìn dáng điệu ông lom khom, đi đứng khép nép trong lúc tế, đức ông ngài cũng phải rủ lòng thương rồi. Tế xong, ông cúi rạp, hai tay giơ ra cầm lấy cái đĩa dựng hai đồng trinh Khải Định dể trên nhang án. Ông quì và kính cẩn nâng cái đĩa lên ngang trán rồi ông lẩm nhẩm khấn một thôi dài. Đoạn, ông hạ thấp đĩa xuống trước ngực, cầm hai đồng trinh, gieo.
Mấy cụ đứng hai bên, vươn mãi cổ ra nhìn, rồi cụ nọ thì thầm vào tai cụ kia:
- Sấp hai, ngài bất ưng.
Không đầy năm phút, tin dữ đã lan khắp sân chùa.
Xã Chính tay cầm trống khẩu áp vào ngực thở dài (xã Chính được giữ chức đánh trống khẩu đi lùi sát trước kiệu).
Ông Hiểu đặt đĩa lên nhang án, sụp lễ bốn lễ, rồi cũng một cử chỉ như trước, ông lại khấn, lại gieo. Các cụ lại vươn mãi cổ ra nhìn và thì thầm:
- Ngửa bạch, ngài cười.
Tin truyền đi. Ngoài sân nhao nhao lên:
- Ngửa bạch, ngài cười.
Một anh xã nói với những người đi rước:
- Cứ xin mãi, ngài thương hại rồi thế nào cũng ưng.
Anh ta nói không khôi hài giễu cợt chút nào. Thật thế, vì anh ta nói bằng một giọng kính cẩn lắm và trông dáng điệu anh ta cũng đủ biết.
Được cái ông Hiểu cũng chịu khó lễ… chịu khó khấn. Bốn, năm bận, hết ngửa bạch lại sấp hai, sau cùng sấp một. Ngài ưng.
“Sấp một, ngài ưng!” Tiếng hò reo khắp sân như tiếng ca khải hoàn của một đội quân đi chinh phục về.
Xã Chính mừng, nhảy cẫng một cái như thằng rồ. Gặp ai, bác cũng nhắc lại: “Sấp một! Ngài ưng!” Tuy họ biết chẳng kém gì bác.
Được lệnh các cụ, bác giơ trống ra trước mặt đánh ba hồi chín tiếng. Tức thì, cờ quạt, tàn lọng giải ra đỏ rực cả lối đi từ cổng chùa đến tận đường cái. Ông Hiểu vẫn mũ áo chỉnh tề, hai tay kính cẩn nâng hòm sắc của ngài đặt lên kiệu bát cống.
Xã Chính đánh một hồi ba tiếng. Dứt tiếng thứ ba, tám anh ghé vai, nhấc bổng kiệu lên rất đều đặn, ngay ngắn vì các anh khiêng kiệu nhiều lần nên đã thạo lắm. Trống cà rùng, trống cái, trống con, bát âm nổi dịp. Rồi tiếng loa giục, tiếng tù và inh ỏi.
Nhưng kiệu ngài đến cổng liền đứng lại nhất định không chịu nhúc nhích. Ông lý Hiểu tạm lĩnh chức đại bái và các cụ xúm lại khấn khứa mãi, ngài nể lời mới chịu đi cho. Đi được mươi bước, ngài bắt đầu bay, bay mãi. Các cụ sắn tay áo thụng lên tận khuỷu, chạy theo kiệu như đàn vịt, hai dải mũ bay tỏa ra đằng sau như đôi cương ngựa. Xã Chính quên cả đi lùi, chạy bán sống bán chết, đứt cả guốc mà không dám trở lại nhặt.
Ngài bay thẳng vào đình thôn Hạ, đứng lại hồi lâu ở sân đình cho các kỳ hào “văn vũ” đến lễ khấu đầu, rồi ngài lại bay vào đình thôn Thượng, thôn Tiền. Khác các thánh, ngài bay cả vào thôn Trung. Rồi ngài xoay, ngài lùi, ngài phi. Mỗi lần ngài làm dữ quá, các cụ lại phải xúm lại cầu khẩn.
Thương hại cho xã Chính, mồ hôi mồ kê nhễ nhại mà vẫn phải vừa chạy vừa đánh ba tiếng trống một. Bác không hề nghĩ đến cái giá trị to tát nhất trong bọn người đi rước. Bác không quản khó nhọc, tâm niệm, thành kính để ngài chứng quả mà phù hộ cho cả làng.
Theo tôn ti trật tự, đức ông là bực thượng đẳng thần đi đầu tiên. Đi sau cùng là kiệu đức thánh thôn Trung, vì ngài là đức thánh bà, lại mới được phong trung đẳng. Kiệu ngài lúc nào cũng đi bước một. Ngài không bay, không xoay, không lùi, nhưng ai dám bảo ngài không thiêng. Ngài cũng thiêng lắm chứ. Chỉ vì ngài thương hại tám cô chân kiệu của ngài, tám cô gái quê nhu mì, ăn vận lối tân thời: quần trắng áo hồng, khăn vành giây màu lam thẫm. Ngài thương hại cả đến những các cô theo hầu ngài: bốn cô đội hòm khăn chầu áo ngự, hai cô cầm lẵng hoa, một cô đội hòm lồng kính trong đựng những đôi hài xinh xinh thêu chỉ vàng chỉ bạc.
Cả làng náo nức, bỏ cả tát nước để đi xem. Các bà lý, bà khán, các bà vãi, bà đồng đứng hai bên vệ đường chắp tay xuýt xoa khấn vái hoặc theo sau kiệu đức bà tụng niệm nam mô như các đồng trinh bên giáo cầu kinh.
Đám rước đi dài hàng cây số. Đứng xa, trên một nơi cao nhìn xuống, trông như thể một con tràng xà thêu bằng các chỉ sặc sỡ trên nền nhung xanh. Những chiếc lọng nhô lên như hàng nấm. Thỉnh thoảng một tràng pháo nổ ran, làm lấp cả tiếng trống rước. Khói pháo bay tỏa ra như mây mờ.
Chiều hôm ấy, xã Chính đi thơ thẩn ngoài đồng. Bác ngắm hết ruộng mình sang ruộng người, thản nhiên nhìn những cây lúa cằn cỗi, khô khốc như cỏ lau. Bông nào bông ấy gầy nhẳng đâm thẳng lên trời.
Đầm gần cạn sạch, chỉ còn sót lại ít nước chảy ngoằn ngoèo trong lòng đáy. Hai bên bờ lẻ tẻ một vài người. Họ tiếc rẻ còn nước còn tát.
Một người ngồi nấp trong thửa ruộng gần đấy.
- Ai như bác Bửng ấy nhỉ?
- “Phải, tôi đây. Bác đi thăm lúa đấy à?… Hỏng bác ạ, trời cứ thế này thì vị tất mỗi sào đã được tới một thùng thóc.” Xã Bửng vừa đi vừa nói, hai tay buộc lại cạp quần.
- “Có, rồi ông ấy mưa chứ!” Nói rồi, xã Chính hai tay vắt sau lưng, đứng tư lự chăm chú nhìn phương xa, đến nỗi xã Bửng lững thững đi khỏi lúc nào bác cũng không rõ.
Chớp nguồn chốc chốc lại lóe sáng trong những đám mây đen nhợt sau dẫy núi mờ mờ. Bác không biết tên là dẫy núi gì và không bao giờ bác tò mò hỏi biết, vì nó không có liên lạc đến đời bác.
Cảnh tượng ấy không mấy chiều là không bày ra trước mắt, nhưng lần này bác để hết tâm trí vào. Bác tưởng tượng những đám mây kia đùn mãi lên rồi phủ khắp trời. Chớp nguồn sẽ đổi thành những gạch lửa chói lọi và tiếp luôn những tiếng sấm vang làm rung động cả mặt đất. Thế rồi một trận mưa nhân từ sẽ đổ xuống khắp đồng, rồi những bông lúa lép kẹp được no nê, sẽ nở bung ra nặng trĩu những hạt thóc vàng chóe.
Bác lẩm bẩm nói một mình:
- “Đã cầu đảo tất phải mưa”. Và thủng thỉnh bước một về nhà.
Trên cỏ, những con châu chấu thấy động vù bay, đôi càng đập vào cánh lách tách. Bác nghịch lấy bàn chân lia mạnh, hàng đàn châu chấu bay tản ra khắp nơi. Có nhiều con bám cả vào quần áo bác.
- “Giá mấy con gà của mình được những của này thì tha hồ béo.” Nghĩ vậy mà bác vẫn cứ thủng thỉnh đi.
Gần đến cổng thì trời sẩm tối. Tiếng xay lúa ù ù bên tai như tiếng sấm nguồn.
Bác đi thẳng xuống bếp. Vợ ngừng xay, ngửng đầu lên hỏi:
- Mình đã về.
- Ừ, bu nó không đi xem rước à?
- Ai đong thóc, xay lúa, giã gạo cho.
Mít ngồi sàng gạo gần đấy, cười nói:
- Thầy chạy mất cả guốc phỏng?
Xã Chính cười theo:
- Sao mày biết?
- Thì con đứng xem gần ngay đấy. Con thấy thầy chạy toát cả mồ hôi, xổ cả áo, con thương hại quá.
- Láo nào!
Bác gái tủm tỉm cười. Bác giựt mạnh “dằng” cối để cho thóc đổ xuống rồi cắm đầu xay.
Mít định nói nữa, nhưng tiếng xay lúa ù ù át cả mọi thứ tiếng. Thấy mẹ làm việc luôn tay, Mít cũng chăm chú sàng gạo.
Xã Chính đứng một lát, thấy mỏi mệt, bèn đi lên nhà nằm nghỉ… Bác thiu thiu ngủ. Bác mang máng nghe như có tiếng sấm tận đằng xa… Ư, rõ ràng có tiếng sấm. Và chớp sáng thấm qua mi mắt bác. Rồi những hạt mưa nặng rơi trên tầu chuối ở sau nhà đồm độp. Mưa. Mưa to. Mưa rào. Bác cảm thấy luồng gió lạnh lọt qua khe cửa đến bao bọc lấy bác.
Bác ra ngồi ngưỡng cửa nhìn những giọt mưa trắng như bạc, trong như pha lê, dội xuống trước mặt.
- Mưa. Có thế chứ, các ngài thiêng thật!
Cái cống thông ra đường nhỏ quá, không đủ sức cho nước chảy. Cái sân đất tí hon của bác đã tràn ngập lên tận thềm. Bác tiếc không có bể chứa. Lúa má dịp này tha hồ mà thừa thãi. Thật là một trận mưa thừa thãi. Thật là một trận mưa tiền mưa bạc…
… Tiếng gà gáy sáng như tiếng kèn thúc giục bên tai. Bác choàng dậy, nhảy xuống đất ra mở cửa.
Ánh sáng trắng bạc buổi bình minh cùng với tiết trời mát lạnh ùa vào trong buồng tối. Một con chích chòe đứng ưỡn ngực, cong đuôi trên chiếc đấu nóc nhà họ Nguyễn hót một hồi dài. Tiếng hót trầm bổng, véo von như một khúc nhạc trong yên lặng. Đàn sẻ vừa thức giấc; trước khi tản mát đi tìm mồi còn đương ríu rít dưới tầu cau, dưới mái hiên. Cảnh vật đua nhau cùng với một ngày êm đẹp, chỉ một mình bác là tưng hửng.
Mùa gặt vụ chiêm này có một vẻ đặc sắc hơn các vụ khác, đặc sắc về nỗi buồn tẻ.
Người ta không còn thấy đâu những bọn thợ gặt vác đòn càn, vác hái như một toán nhuệ binh đi tiên phong rảo bước đến các quán để đợi người thuê đón. Không còn thấy đâu những gánh lúa nặng trĩu, những bông đập vào nhau rào rào như mưa. Không còn thấy đâu những cô gái quê tươi tắn, nhí nhảnh đi mót lúa hay quang gánh mang cơm nước cho thợ làm. Không còn thấy đâu những tiếng đập lúa trên những cối đá thủng. Không còn thấy đâu những buổi bừa rơm huyên náo trên sân gạch. Ôi! Thời thịnh vượng nay còn đâu!
Trên các đường làng, toàn những người cắp thúng, cầm liềm uể oải ra đồng. Họ có vẻ lo âu, không trò chuyện, không cười đùa vui vẻ. Họ không tiếc công tiếc của để rồi mua lấy một cái kết quả khốn nạn như kia thì bảo họ vui vẻ sao được.
Cánh đồng mới lại càng thê thảm. Những cây lúa gần chết khô giơ những bông khẳng khiu. Hạt lúa thưa thắt không đủ sức nặng để rủ xuống mặt đất. Đứng trên cao nhìn như một bức thảm vàng lâu ngày đã mất tuyết phai màu.
Lác đác chỗ một vài người, chỗ dăm bảy kẻ. Họ yên lặng cầm liềm cắt từng bông hay vài bông một bỏ vào trong thúng đội về.
Thỉnh thoảng một giọng cất bổng lên không trung rồi… im bặt, vì không một người xướng họa.
Họa hoằn mới thấy một bọn thợ gặt. Đó là những chủ điền giàu có thuê họ gặt về lấy rơm rạ làm đồ thổi. Còn những người nghèo, những người bậc trung không lấy tiền đâu mà thuê, họ chỉ cắt độc bông để vò cho dễ. Khi nào rỗi việc họ sẽ cùng con cháu đi cắt rạ về phơi.
Nhà xã Chính cấy ngót ba mẫu mà góp lại không được tới ba mươi phương thóc.
Mọi năm được mùa, một sào xấu nhất còn được mười lăm, đôi mươi phương.
Hai vợ chồng lo lắng phờ cả người.
Vợ đứng nhìn đống thóc tí hon nhớ lại đống thóc tướng cữ tháng mười năm ngoái, thở dài nói:
- Từng này thóc thì sao đủ nộp và trả cái nợ bà Chánh Bá, lại còn những món nợ lặt vặt, lại còn ăn, còn tiêu… Ôi! Chao ôi! Rõ cơ cực! Cái thân này còn vất vưởng cho đến bao giờ mới thoát nợ.
Nói rồi, bác lại thở dài. Cặp mắt đẫm lệ, hai gò má sưng lên vì cố nhịn khóc.
Xã Chính ngồi vắt tréo chân trên ngưỡng cửa nhìn ra sân, nói:
- Bu nó ạ, chẳng việc gì mà lo cho thêm phiền. Bao nhiêu nợ nần cứ trả hết. Rồi sẽ xoay. Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
Vợ quay ra đằng sau sỉ mũi, co một chân lên, hai đầu ngón tay quệt vào gót:
- Khốn nạn, mình bảo xoay thì xoay cách nào bây giờ.
- Khó gì. Tôi với mình đi làm hàng sáo. Sáng đi đong thóc, về đã có tôi xay lúa, mình giã gạo, còn con Mít sàng sẩy! Gặp thời kém đói thì phải thế, chẳng ai cười.
- Vẫn biết thế, nhưng mình bảo đong đâu bây giờ?… Mình không nhớ hôm kia tôi đi khắp làng mà không sao đong được lấy hai thúng thóc đấy nhé. Các nhà giàu họ thấy trời làm mất mùa, thóc cao gạo kém, họ găm, có chịu bán cho đâu.
Xã Chính ngồi yên lặng nghe. Mấy đầu ngón tay gõ dịp trên ngưỡng. Ngay ngõ vào, một rặng cau bác trồng độ tháng giêng héo quắt đi vì nắng quá.
Vợ thở dài nói tiếp:
- Chỉ khổ hạng nghèo đói như mình thôi. Có tiền mà vị tất đã có thóc.
- “Tức nhỉ!” Chồng chau mày, nghiến răng, hai bàn tay nắm chặt như sắp đánh ai, cặp mắt long lên sòng sọc. Nhưng chỉ thoáng như cái chớp, bao nhiêu nghị lực lại tan ra tro tàn. Bác ủ rũ, hai tay buông thõng như những tàu cau của bác.
Vợ đứng suy nghĩ. Không những chẳng tìm ra được kế gì hay mà bác gái còn sực nhớ đến vụ sưu thuế năm nay nữa.
- Chết chửa, thầy nó ạ, lại còn vụ sưu thuế sắp tới. Mình mà không nộp được đủ đồng thì khổ với ông lý, với các ông tộc biểu.
Không để ý đến nét mặt thảm đạm của chồng, vợ tiếp luôn:
- Thầy nó còn nhớ vụ thuế năm ngoái không? Bác Chửng ấy mà, bác ta thiếu có năm hào mà bị tuần đến khiêng cả nồi, niêu, chum, vại ra đường. Gặp lúc bác ta say rượu cà khịa với cả tuần, bị họ lôi ra đình. Vợ bác chạy ngược, chạy xuôi mới vay đủ đem ra nộp các cụ. Bác lại còn phải đèo thêm trầu cau ra xin lỗi, chồng mới được tha về, khỏi bị trói vào cột đình… Mình mà không nộp được đủ rồi cũng đến như bác Chửng.
- Vậy bu nó bảo làm thế nào bây giờ?
Vợ nhìn chồng, thấy hai giọt lệ đọng trên gò má. Bác nhận thấy chồng bác sút đi nhiều: mắt sâu hoắm, má hóp lại, sắc mặt mất cả vẻ hồng hào khi trước. Lòng trắc ẩn bỗng nẩy nở trong tâm hồn bác và đem đến cho bác cái can đảm của một người đàn bà thương chồng. Bác thở mạnh để xua đuổi ý nghĩ hắc ám. Cặp mắt bác sáng lên. Bác tủm tỉm cười, một nụ cười gần như tươi tỉnh:
- Thế mà cũng chẳng lo. Trời có để cho đói đâu… Bây giờ thì cánh mình hãy khất lại bà Chánh cái nợ trước, xin nộp mười hai phương về vụ này thôi. Còn những nợ lặt vặt, người một thùng, kẻ vài đồng thì ta hãy khất lại họ ít bữa nữa. Được cái họ cũng biết mình thực thà, sòng phẳng. Họ tuy khá nhưng cũng có lúc bấn nên biết thương kẻ nghèo. Còn cụ cán Bích với bà cụ cán Bột thì chẳng lo, lúc nào có trả cũng được.
Bác vừa nói vừa âu yếm nhìn chồng… Bác sung sướng thấy chồng bớt lo.
- Ừ, mình nghĩ cũng phải nhưng mà rầy lắm mình ạ. Có cái nghề hàng sáo, thì đã khó khăn như thế đấy. Không lẽ cứ ăn rồi lại ngồi cho qua ngày đoạn tháng.
Vợ cười:
- Thiếu gì nghề chỉ sợ làm không xuể thôi… Mình đan rổ đan rá khéo lắm đấy nhé. Vậy ngoài việc đồng áng, mình hãy kham lấy nghề ấy. Còn tôi chẳng có vốn dệt cho mình thì đi dệt thuê. Cứ tay tôi dệt đều cũng có thể làm được hai tấm một ngày. Năm xu một tấm, mỗi ngày cũng được một hào. Cái Mít thì nó có nhiều việc lắm rồi. Còn thằng Chốc… rồi chúng ta cũng phải tìm việc cho nó không thể để cho nó cứ lêu lổng mãi thế được. Ui chào! Tôi còn một việc này hay lắm, dễ kiếm ăn lắm (chị tủm tỉm cười) để rồi chốc nữa tôi sẽ bàn. Bây giờ thì ta hãy ăn no đã.
Rồi bác quay xuống bếp, gọi:
- Mít a! Con hãy để ấm nước bu đun hộ. Con chạy đi gọi lũ ranh con về ăn cơm đã.
- “Vâng”. Mít đứng dậy lấy vạt áo lau mồ hôi. Mặt nó đỏ ửng như người say nắng. Nó vừa rảo bước vừa gắt thằng Chốc: “Xéo đâu thì cũng phải nhớ đến bữa mà về ăn chứ! Gớm! Mà bu cũng nuông nó lắm cơ. Ai lại bằng ấy tuổi đầu mà chẳng biết gì cả. Con sợ nó lớn lên rồi cũng đến hư thân mất nết như thằng cu Chú con ông cán Thỗn mất thôi.”
Bác gái ngồi đun nước ngửng lên chực nói thì Mít đã ra khỏi cổng. Bác lẩm bẩm một mình:
- Con bé thế mà khá. Lo hết việc này đến việc nọ.
Xã Chính đứng dậy vào phản ngồi hút thuốc. Hút xong, bác cầm xe gõ vào bát điếu, vơ vẩn nhìn đâu đâu.
Một lát, thằng Chốc ở cổng vào. Một tay nó dắt thằng cu Nhớn, một tay xoa đầu phụng phịu nói trong nước mắt: “Tôi coi em chứ tôi có đi chơi đâu mà chị đánh tôi. Ừ ừ, cậy lớn bắt nạt…”
- “À mày còn lẩm bẩm cái gì hở!” Mít ẵm thằng cu Con đi sau, bước rướn lên định cho thằng Chốc mấy cái cộp nữa.
Bác gái vội chạy lại can:
- Thôi đừng đánh nó nữa. Để rồi bu sẽ kiếm việc cho nó làm. Con đi sắp sửa cơm nước kẻo muộn rồi.
Mít đưa thằng cu Con cho mẹ, vào bếp bưng ra sân cái mâm gỗ tróc sơn, trên để trơ trọi một bát vừng rang. Nó lại vào bắc nồi cơm vùi ở trong tro ra. Nó nghiêng đầu phùng má thổi tro bám trên mặt vung rồi hớt ít cơm ở miệng nồi vứt xuống đất cho con chó mực. Đoạn, nó để nồi cơm vào cái rế bưng ra đặt cạnh mâm. Thế là bữa cơm đã soạn xong.
Từ ngày kém đói, bữa cơm thường của nhà xã Chính chỉ có thế. Có hôm lại chỉ trơ trọi một đĩa muối. Hôm nào thêm được đĩa rau luộc, bát nước mắm là bữa cơm đã sang lắm rồi.
Ăn xong, hai vợ chồng ngồi trên thềm xỉa răng uống nước. Mít cắp rổ bát ra ngồi rửa cạnh vại nước. Nó không ra ao làng vì ao độ này cạn sạch.
Chồng nhìn lũ trẻ chạy nghịch chung quanh đống thóc, nhắc lại chuyện làm ăn, hỏi vợ:
- Mình bảo việc gì hay hở mình?
Vợ uống xong, đặt bát nước xuống thềm, nói:
- À, tôi tính đến đằng bà cụ cán Bột nói xin cụ cho nuôi lợn rẽ. Việc này mà xong thì chẳng còn lo gì thiếu phân bón ruộng nữa, mình ạ.
Chồng định nói, nhưng vợ tiếp luôn:
- Mà việc ấy thế nào cũng xong, vì cụ đã hứa cho nuôi hai con từ mấy tháng trước. Có lợn rồi, mình mới tán đến việc đong thóc của cụ để lấy cám nuôi lợn. Muốn cho lợn của cụ chóng lớn chóng béo, tất cụ phải bán thóc cho mình. Vả lại mình đong trả tiền ngay, cụ chả còn sợ mất cả chài lẫn lưới, có phải không mình?
Chồng tươi tỉnh nói nịnh vợ:
- Sao bu nó tính việc giỏi thế. Cứ những tôi thì cũng đến ăn rồi lại ngồi đợi cơ túng đói.
Được chồng khen, vợ hả dạ, nói luôn:
- Việc này mà thành thì cô Mít ta lại thêm được việc đi xin nước gạo nữa. Việc lấy dong ngoài đầm thì giao cho thằng Chốc.
- Ừ, phải đấy, tôi không muốn để thằng Chốc nó lêu lổng. Thằng cu Nhớn đã lớn, coi em được rồi.
Đêm hôm ấy xã Chính ngủ yên. Con trâu cái lại bắt đầu lảng vảng trong trí nghĩ.
Sáng hôm sau, hai bu con Mít dậy sớm. Mít vào buồng bưng thúng gạo ra thềm. Bác gái ngồi xổm, đong bằng đấu gỗ, lưng lom khom, hai đầu gối tỳ xuống đất. Mít ngồi trước mặt, hai tay cầm cái mẹt dựa vào cạp thúng. Mỗi lần mẹt đầy gạo, Mít đổ sang cái thúng để cạnh.
Đong xong, bác gái gõ đấu vào miệng thúng ngồi ngẩn ra tính: “Đồng sáu mà được đi hai mươi mốt đấu… Hãy cứ tính gọn hai mươi đấu cho dễ… Hai mươi đấu đồng sáu thì mười đấu đi… tám hào. Một đấu tám xu. Còn đi một đấu lẻ, hãy trừ đi mỗi đấu một trinh… thế ra đấu lẻ những một hào kia à… Thôi, con cứ bán tám xu một đấu là được rồi, hoặc giả cùng quá bảy xu rưỡi cũng phải bán”.
Mít hoảng hốt:
- Bán thế thì lỗ chết!
Bác gái nhìn thẳng vào mặt Mít, nói ra vẻ thạo lắm.
- Thưa cô, còn mẻ cám cô không tính à. Mẻ cám ấy ít ra cũng được hào rưỡi, hai hào.
Mít vừa cười vừa gật luôn mấy cái:
- Ờ nhỉ, con không nghĩ đến mẻ cám.
- Thôi thế con ra chợ bán cho sớm sủa. Bu cũng đi khất vài món nợ đây.
Nói rồi bác vào trong nhà lấy nón đi ra cổng.
Mít vừa san gạo ra hai thúng, vừa nói:
- Bao giờ cho nhà mình sạch hết nợ?
Mít xuống bếp lấy đôi quang và đòn gánh để dựa vào vách. Nó lồng quang vào thúng dỗ xuống thềm cho gạo thu gọn lại rồi gánh ra chợ.
Bác xã gái đã đi đến nhà bà Chánh Bá. Bác đứng cổng dòm vào thấy thúng mủng bày la liệt ở ngoài sân. Cạnh đống thóc, một cái phương với một cái gạt gác lên thành phương. Sáu, bảy anh nhà quê đứng nài xin, tay chắp ngực hoặc đưa lên gãi tai. Bà Chánh, tay chống cạnh sườn quát tháo. Nét mặt bà hầm hầm, lộ ra vẻ giận dữ. Bác đứng xa chỉ nghe phấp phỏng, câu được câu chăng, còn những câu của bọn kia khẽ quá, bác không nghe rõ: “… Không trả đủ thì rầy với bà… Chuyện! Thế khi được mùa thì ai đến lấy thêm của các người… không được, kệ kệ, mặc kệ các người… Thiếu một lẻ cũng không xong… Mặc! Mặc!” Bà Chánh vừa nói vừa xua tay lia lịa.
Biết là không phải lúc, bác trở gót ra về. Nhân tiện, bác lại nhà ông cán Rật, ông hương Rạng khất các ông ấy đến vụ sau. Qua nhà bà cán Bột bác tạt vào nhắc lại chuyện nuôi lợn rẽ. Bác hớn hở ở nhà bà đi ra. Các việc đều xong xuôi một cách hoàn hảo. Bác không cần xem lịch cũng biết hôm nay tốt ngày.
Về đến nhà đã gần trưa.
Thằng Chốc ngồi coi em ở thềm. Nó lấy đất dẻo nặn những mâm bồng, đèn, nến. Nó bỏ một viên đất vào trong vạt áo cộc nâu, cuộn lại, cầm hai đầu vặn để làm quả dưa đặt lên mâm bồng. Thằng cu Nhớn đang nhổ bọt vào đất để cho dẻo thêm. Hai bàn tay nó lấm lem. Còn thằng cu Con chưa biết chơi đình thì thằng Chốc đã làm cho nó mấy con trâu để nó khỏi phá đám. Mấy con trâu là mấy hòn đất hình củ khoai, chân, đuôi và sừng bằng những que diêm và những mẩu lạt. Chúng nó mải chơi, bu về lúc nào không biết.
- Chị Mít đã bán gạo về chưa, chúng mày?
- Chưa ạ.
Chốc trả lời mẹ rồi ghé vào tai thằng cu Nhớn nói nhỏ: “Giấu đi không có phải đòn bây giờ!” Thực thì nó sợ bị đòn, vì mỗi lần thằng cu Nhớn, cu Con nghịch bẩn, bu nó chỉ nhè nó mà đánh.
- Thầy đâu?
- Thầy sang bên cụ cán ạ.
Bác xã gái vào trong nhà nhìn vơ vẩn.
Một bức tranh cá treo trên vách. Không phải bức tranh Tàu vẽ bằng nét bút ủy mị. Đây là bức tranh của thằng Chốc, bức tranh to bằng bàn tay mua nửa xu ở chợ Cầm dạo tết.
Bác sực nhớ đến quà biếu bà Chánh Bá mà lúc sáng mải đi quên bẵng đi mất. Bác vội cắp cái rổ tất tưởi ra chợ.
Bác lần đến hàng gạo tìm Mít. Mít đương ngồi cầm cái vỉ gấp đôi lại quạt. Đôi má hồng hồng làm cho cặp mắt tươi thêm. Những sợi tóc mai ép xuống, ướt như người vừa mới gội đầu.
Thấy mẹ đến, Mít lộ vẻ sung sướng:
- Bu ạ, chỉ còn độ hai đấu nữa. Con bán tám xu một đấu đấy.
Một người hàng gạo ngồi cạnh đấy nói xen:
- Sao mà gạo cô ấy giã kỹ trắng thế! Vừa được cám, vừa dễ bán… Mình cũng biết vậy, nhưng có một mình sức đâu mà giã mãi được.
Các thứ tiếng ào ào như rừng thông reo trong một ngày lộng gió. Bác xã không nghe rõ và cũng không để ý đến người ngồi cạnh. Bác cúi xuống sát mặt Mít, nói to:
- Con đưa bu dăm hào.
- Để làm gì, hở bu?
- Bu mua con cá biếu bà Chánh.
Mít lấy một chuỗi tiền chinh ở thắt lưng ra đưa cho mẹ. Bác xã đi lại dẫy hàng cá trong quán đá. Hôm nay sẵn cá nên bác mua được giá rẻ. Bác đếm tiền đưa cho nhà hàng rồi bỏ con cá chép vào rổ. Bác vừa đi vừa lẩm bẩm: “Mọi khi con cá này phải năm hào”. Con cá còn tươi nguyên, thỉnh thoảng há sẽ mồm ra hớp không khí.
Bác rảo bước mạnh bạo đến nhà bà Chánh, chắc chắn hôm nay tốt ngày, làm việc gì cũng trôi chảy, nên lòng bác chứa chan hy vọng.
Đến cổng, bác sợ chó, đứng ngấp nghé nhìn vào.
Cái sân gạch rộng phủ đầy thóc vàng chói dưới ánh nắng. Đàn sẻ nhảy nhót thỏa thích, chọn những hạt béo mập mới thèm ăn. Vài con chim bồ câu thong thả bước một. Chúng nó đã no nê, bây giờ đương đi tìm kiếm những hạt sành hạt sỏi.
Bác Xã nhìn cái sân thóc mà thèm: “Nhà mình cứ được nửa sân thóc này thôi cũng đủ thừa thãi cả năm”. Thế mà bác không ghen tị không tủi nhục, không khổ sở đâu. Bác cho mọi việc đều do ở số kiếp. Số kiếp bác nó vất vả thì bác chịu vất vả. Bác cố ăn ở thực thà, một lòng thờ trời, thờ phật, thờ thánh để hòng kiếp sau vậy.
Bác đương nghĩ vơ nghĩ vẩn thì chợt một người đàn bà ăn mặc xuề xòa như bác đi ra sân bừa thóc. Đàn sẻ thấy động, bay vù lên nóc nhà ngói. Mấy con chim bồ câu bạo dạn chỉ bay là là chỗ này sang chỗ khác.
Bác cất tiếng gọi:
- Này thím Kẹo! Thím Kẹo!
Bác không có họ có hàng gì với Kẹo. Bác thấy họ gọi Kẹo bằng thím, thì bác cũng cứ thế mà gọi.
Thím Kẹo quay ra nhìn rồi vừa đi ra cổng vừa nói:
- Bác xã Chính đấy à. Đến có việc gì mà lại đem cả rổ gì nữa thế kia?
Bác cười tủm tỉm:
- Tôi đến tết cụ. Thím coi chó hộ tôi với nhé.
Bác trợn mắt, chúm mồm, nói tiếp:
- Con cá chép còn tươi nguyên, béo lắm! Ngữ này chỉ làm gỏi là tốt nhất.
Thím Kẹo thò ngón tay trỏ vào mang con cá:
- Gỏi với ghém gì. Bà tôi thì lại đến bỏ vào nồi kho ăn làm vài bữa.
Thím Kẹo không có ý gì nói xấu bà Chánh, thím vốn thực thà, trung hậu, ở hầu bà Chánh, đã chín mười năm trời, kham khổ, vất vả thế nào cũng chịu được, chịu một cách nhũn nhặn vui vẻ.
Hai người đi trên thóc, xào xạo như đi trên sỏi vụn. Bốn, năm con chó ở trong bếp chạy ra sủa ran.
Bà Chánh ngồi trên ghế ngựa nghe cậu Thanh đọc nhật trình. Bà góa chồng, được mỗi một mụn con trai nên bà quí lắm, không lúc nào rời con. Cậu đã đỗ sơ học yếu lược mà bà không chịu cho ra tỉnh học sợ mẹ con xa nhau, bà nhớ, bà buồn.
Nghe tiếng chó sủa, bà đứng dậy ra thềm:
- Ứ ừ, mụ xã Chính đấy phỏng? Sao bây giờ mới vác mặt đến hử? Liệu hồn! Không trả đủ thì bà cho người đến có bao nhiêu thóc xúc hết, nghe chưa?
Bác gái đặt rổ cá lên thềm và ngồi xụp xuống:
- Bẩm cụ, nhà cháu có con cá tươi đem đến biếu cụ.
- Tôi chẳng lấy cá. Chị biết điều thì cứ mang thóc đến nộp đủ tôi.
Thanh đương nằm khểnh trên ghế ngựa, ngồi dậy chạy vội ra. Từ ngày bác Chính gái mang đôi chim tây đến biếu cụ, tức là biếu cậu, cậu đem lòng mến bác.
Chưa biết đầu đuôi ra sao, cậu đã khẩn khoản khất hộ bác:
- Thôi mẹ ạ, bác ấy có xin khất, mẹ cũng nên cho bác ấy khất. Nhà ta thiếu gì. Bốn năm cây thóc to tướng ở sau nhà lại đầy một sân thóc kia nhé. Vừa ăn vừa tiêu hàng đời vị tất đã hết bằng ấy thóc.
Giá người khác nói ra câu ấy thì chết với bà Chánh, nhưng cậu Thanh nói thì chẳng việc gì cả. Bà chỉ lườm cậu thôi.
- Nói thế chứ tao thương hại vợ chồng nhà hắn lắm.
Lần này chẳng phải bà nể cậu con trai, cũng chẳng phải bà thương gì vợ chồng nhà hắn. Bà thấy vợ chồng nhà hắn nhu mì, thực thà, hiền lành, nhút nhát và nhất là có ruộng nương hẳn hoi thì bà cho khất, tức cũng như bà cho vay mà không phải bỏ của nhà.
Bà vốn làm giàu về nghề cho vay, cầm cố. Nay được con nợ chắc chắn như thế thì còn đâu bằng nữa!
Bà quay ra nói với bác xã:
- Nói thế chứ ai nỡ làm khổ vợ chồng nhà mụ.
Bác Xã cảm động, nhìn bà Chánh và thấy bà phúc hậu quá. Cặp mắt hiền từ, lúc nào cũng như muốn bao dung. Nhất là cậu Thanh, sao mà cậu đáng yêu thế!
Bà Chánh nhìn xuống rổ cá:
- Hừ! Nhà đã chả có, lại còn bày vẽ biếu với xén.
Bác Xã ngồi, hai bàn tay xoa vào nhau:
- Lạy cụ, con cá còn tươi lắm ạ.
Bà Chánh ngồi xuống ngắm. Con cá hãy còn ngáp. Vây và đuôi nổi những tia hồng.
Bà Chánh lẩm bẩm:
- Ừ, con cá còn tươi thật.
Rồi bà quay ra sân, gọi:
- Thím Kẹo!