← Quay lại trang sách

SANG CÁT

Không ngại rét, từ mờ mờ sáng, Mít đã tung chiếu đứng dậy.

Khác hẳn mọi sáng, nó lấy lược thưa, gỡ tóc và chải đi chải lại cho mượt. Rồi vào buồng lấy khăn “sa tanh” ra vấn trong tối. Nó nắn đi nắn lại vành khăn cho tròn trĩnh và thắt dây lưng thiên lý ra ngoài hai vạt áo nâu non buộc lỏng. Nó kéo cạp váy xanh xuống cho phẳng phiu. Đoạn nó đến đầu giường mẹ lấy miếng trầu ăn cho ấm và đỏ môi. Vì hôm nay có thằng Tửu, thằng Chắt và cái Cúc đến làm giúp.

Nghĩ đến Cúc, nó tủm tỉm cười, nhủ thầm: “Chắc cu cậu biết tỏng thế nào cũng có thằng Chắt, chứ tử tế gì đấy.” Nó hối hận ngay, tự trách mình sao lại có tâm địa ấy làm mất cả lòng tốt của bạn. Để sửa lỗi mình, nó nói ra tiếng: “Mình thì sao? Cúc tử tế lắm đấy chứ.”

Nó mặc chiếc áo bông cộc ra ngoài cho đỡ rét rồi đi mở cửa.

Tiếng kẹt cánh cửa làm mẹ nó thức giấc:

- Mít đã dậy đấy, con?

- Vâng, rét lắm bu ạ. Bu cứ ngủ đi, chốc nữa hãy dậy, các việc để con làm cả cho.

- Ừ, thế thì con làm hộ bu nhé. Có ba rá gạo bu để ở mặt chum, cạnh đôi bồ của con ấy.

Và bác nghĩ thầm: “Con bé chịu khó quá. Có nó, mình nhẹ đi bao nhiêu công việc.”

- Được, con biết rồi. Bu cứ nằm nghỉ, để mặc con. Vừa nói nó vừa đi vào trong buồng, tay phải cắp hai rá gạo chồng lên nhau, tay trái cắp một rá nữa, đi mạnh bạo ra sân.

Trời còn mờ tối. Làn sương dầy bao phủ cảnh vật. Và rét quá. Mỗi cơn gió thổi hắt vào mặt làm nó khó thở. Nó cố giữ mà hai hàm răng vẫn đập vào nhau côm cốp. Nó đặt một rá gạo lên miệng vại và hai rá xuống đất rồi đứng rụt rè nhìn chum nước, hai tay buông thõng, mấy ngón tay co quắp.

“Ái chà! Trời này đã rét gì mà rét!” rồi mạnh bạo nó cầm lấy cán gáo thục xuống nước. Mấy tiếng ục ục ở lòng chum âm lên. Mít cúi xuống, một tay xoa mơn mơn trên mớ gạo, một tay từ từ đổ nước. Nó rùng mình, kêu run se sẽ: “Chà buốt!”

Nhưng từ gáo thứ hai trở đi, nó không coi mùi mằn gì nữa. Nó đã quen với nước rồi, cứ xoa, cứ sát tràn.

Trong yên lặng, tiếng vo gạo xoàn xoạt, tiếng nước rỏ xuống vại tong tong, tiếng hai bàn tay đập vào rá đôm đốp, làm cho mấy con chó bên hàng xóm sủa ran.

Mít tủm tỉm cười, nói tự phụ:

- Chúng mày lại ngồi xó bếp sủa ra chứ rét này đố dám…!

Vo xong, Mít đặt ba rá gạo chồng lên miệng vại. Nhân tiện, nó múc nước rửa mặt rồi vừa vẩy tay vừa lật đật vào trong nhà lấy mấy chiếc nồi ra sân rửa.

Dẫu rét đến đâu, Mít cũng không bao giờ chịu làm cẩu thả. Nó lấy nắm rơm dấp nước cọ kỹ khắp trong nồi, trướt lại một lượt rồi mới đổ nước đem vào đặt lên bếp. Nó cầm nắm rạ đặt vào chỗ rấm trấu, ghé mồm thổi một lúc, khói đặc bốc lên cay cả mắt. Một khoảng tròn bằng đồng bạc hồng lên, đỏ rực… Ngọn lửa xuất hiện, bén vào rạ, bùng lên, cháy ngùn ngụt. Mít lấy những nắm rạ khác tiếp lửa để chuyền sang hai bếp bên cạnh.

Mít sung sướng nói lẩm bẩm:

- Ấm quá! Hoài của, thầy bu với hai thằng cu không dậy mà sưởi.

Bu nó cũng vừa dậy, đi rảo xuống bếp, hai tay thọc vào nách, lưng khom khom:

- Con đã vo gạo rồi à? Rét quá, mày nhỉ!

- Tại bu mới dậy đấy. Không rét lắm đâu, bu ạ. Bu vào đây mà sưởi. Ấm quá! Con vừa tiếc không có ai.

Bác gái chạy lại ngồi bên Mít, xòe hai bàn tay ra hơ trên lửa:

- Ừ, ấm nhỉ!

Bỗng có người gọi ngoài cổng, Mít đứng dậy và thốt ra tiếng:

- Tửu!

Bác gái tủm tỉm cười nói ghẹo:

- Sao mà thính tai thế? Lúc nào cô cũng nghĩ đến chồng cô có khác.

- Bu cứ nói!

Cánh cổng vừa mở, Mít đã thấy hai người, Tửu và Chắt đội chiếc thuyền thúng đi vào. Tửu đi trước, Chắt đi sau, chiếc thuyền đặt úp xuống như mai con rùa khổng lồ.

Trông thấy Mít, Tửu sung sướng tủm tỉm cười. Mít cũng sung sướng, nói đùa:

- Chào hai anh xã non.

Chắt đi theo sau nói leo:

- Không dám, chào chị xã Tửu.

Tửu và Mít đỏ mặt. Mít mắng yêu Chắt:

- Anh Chắt liệu hồn! Tôi không đùa đâu.

Chắt cười to, đầu lắc lư:

- Ai đùa với chị mà bảo đùa. Anh ấy vừa được lên chức xã nhưng, thì chị không là chị xã thì là…

Tửu ngắt lời:

- Này ông tướng, ông câm cái mồm lại, không thì tôi tát cho ông mấy cái bây giờ.

Chắt thách:

- Đố đấy! Hai tay vác thuyền còn tay nào nữa mà tát?

Cả ba cùng cười.

Mít đi trước, nét mặt tươi tỉnh. Nó đoán thế nào Tửu cũng ngắm nghía sau lưng nó, nên bước chân nó đi không được tự nhiên.

Bác gái ngồi trong bếp nhìn ra, khen:

- Ô, hai anh đảm đang nhỉ. Không quên cơ à?

- Thưa bác, Chắt nói, có mỗi một việc mà còn quên thì ai cho ăn cỗ!

Mít quay lại thấy Tửu nhìn chòng chọc vào mình, đỏ mặt, nói để đỡ thẹn:

- Còn khối việc! Hiện giờ các anh để lợn cho ai làm?

- À, cái đó thì cố nhiên là việc của chúng tôi.

Nói đoạn, Chắt quay vào bếp hỏi:

- Bác ơi, con bò này bác bảo chúng tôi để đâu đây?

Bác gái ở trong bếp nói ra:

- Để ở sau nhà, cạnh gốc ổi ấy. Ừ, giá được con bò bằng ngần ấy thì cỗ bàn hẳn tươm lắm nhỉ! Rồi mỗi anh hộ bác vài gánh nước đổ vào đây nhé! Mau lên rồi còn làm lợn.

- Vâng… vâng! Chắt kéo dài giọng như một thằng hề trong rạp chèo.

Mít trở vào bếp đun giúp mẹ, trong lòng rạo rực, chỉ muốn luẩn quẩn chỗ Tửu và Chắt.

Một lát sau, Cúc đến. Cũng như Mít, Cúc ăn mặc khác hẳn mọi ngày: chiếc yếm trắng nõn căng ra trên bộ ngực nở nang, chiếc váy lụa thâm mềm mỏng bay về phía sau, lằn rõ cặp đùi mập mạp, chiếc khăn vuông chít mỏ quạ che khuất nửa trán làm cho khuôn mặt bớt dài và nổi hẳn nước da trắng sẵn của Cúc, chiếc áo cộc bông, lần ngoài bằng “sa tanh”, không cài khuy, để lộ những nút buộc của mấy chiếc dây lưng lụa màu.

Cúc làm đỏm như thế cũng chả vì Chắt. Nó nghĩ bụng: chẳng quyến rũ được bằng lời ăn tiếng nói, bằng cặp mắt đưa tình, bằng dáng điệu lẳng lơ thì nó quyến rũ Chắt bằng cách đỏm dáng vậy.

Cúc đi thẳng vào trong bếp.

- Kìa chị Cúc! Chắt với Tửu cũng vừa đến. Mít định tâm nói để thử xem Cúc có cảm động không. Nó sung sướng thấy Cúc hớn hở như người vừa nhận được tin mừng.

Cúc chạy lại ngồi len vào giữa. Nó vẫn không chừa được tính nhí nhảnh và nghịch ngợm, luồn tay lạnh vào gáy Mít làm Mít kêu rống lên. Bác gái giật mình, hỏi: “Cái gì thế?”

Thấy hai cô đùa nhau cười khúc khích, bác lẩm bẩm:

- Ranh mãnh! Của quái!

Cúc giơ tay lên hơ trên lửa và hỏi:

- Công việc của cháu đâu, bác?

Mít không để mẹ trả lời, vội nói:

- Công việc của chị đã xếp đặt cả rồi. Chị cứ việc theo tôi. Nói rồi Mít đứng dậy.

- Hượm! Cho đằng này sưởi tí đã, làm gì mà vội thế?

- Việc của chị cần kíp lắm, không vội không được. Thôi, chốc nữa sưởi chán. Mít vừa nói vừa cầm tay Cúc kéo dậy.

Hai chị em cùng đi lên nhà trên. Cúc lẩm bẩm:

- Xem việc gì mà cần kíp thế nào?

Bác trai đã dậy, đội khăn mặc áo, sắp sang mời ông cán Bích và nhờ ông cái ao để mổ lợn. Thấy Cúc vào, bác tươi cười nói:

- Rét thế này mà chị Cúc cũng chịu khó đến làm giúp bà con. Quý hóa quá!

Thằng cu Nhớn, thằng cu Con vẫn còn ôm lấy nhau ngủ tít.

Cúc theo Mít vào buồng. Một lát, hai chị em khiêng ra sau nhà cái nồi ba mươi của ông cán cho mượn hôm qua, và đặt lên ba chồng gạch.

Mít vừa thở vừa nói:

- Việc của chị đấy. Chị bằng lòng chứ? Nói xong, Mít nhìn Cúc tủm tỉm cười.

- Chả bằng lòng mà được! Cúc đáp.

Cố nhiên Cúc bằng lòng. Vì nồi nước làm lợn bao giờ cũng kê liền với chỗ giết lợn. Cúc tha hồ mà trò chuyện, cợt nhả với Chắt. Mít cũng biết vậy. Nhưng nó muốn nhường Cúc để đền lại cái ý nghĩ không tốt của nó ban sớm. Chính nó cũng tiếc không được giữ cái công việc đáng yêu ấy.

Cúc chống hai tay vào cạnh sườn, nhìn Mít hỏi:

- Thế nào? Làm gì bây giờ hay cứ đứng thưỡn ra thế này mà nhìn ông ba mươi?

Mít cười:

- Có chứ. Bây giờ cánh mình hãy đi rút rạ để sẵn kia, đợi tí nữa họ gánh nước về đổ vào nồi, rồi mời chị cứ việc ngồi và… Họ đã về kia!

Hai chị em cùng nhìn ra.

Chắt gánh đôi nồi “chân” đi trước. Người nó vạm vỡ, tầm thước, tay chân nổi lằn những bắp thịt. Thật là một kiểu mẫu hoàn toàn về phái khỏe.

Tửu đi sau. So với Chắt, người nó bé hẳn đi tuy nó hơn Chắt hai tuổi.

Thấy Cúc đứng ngây như mất hồn. Mít nói đùa:

- Kìa, đứng thưỡn ra đấy à? Rút rạ đi chứ!

Cúc chữa thẹn, nói chống chế:

- Có lúc làm, cũng có lúc nghỉ. Làm luôn tay, ai sức đâu!

Chắt và Tửu sắp đổ nước vào thuyền*. Mít vội cản lại:

Ở làng Cầm người ta thường dùng thuyền thúng đựng nước mổ lợn.

- Ấy chết! Đừng. Các anh hãy đổ vào nồi ba mươi kia để chị Cúc đun, nếu không chốc nữa lấy nước đâu mà làm lông, mà luộc lợn.

Tửu vừa đổ nước vào nồi vừa nói:

- Chị Cúc hôm nay đẹp quá, Chắt ạ.

Nó muốn Chắt để ý đến Cúc vì nó biết Cúc say mê Chắt đã lâu.

Chắt ngửng lên nhìn Cúc, nói ghẹo:

- Chị ấy ăn mặc chững nhỉ! Cho tôi mượn cái dây lưng lụa hoa hiên kia để đi ăn cỗ nhé?

Cúc không hài lòng. Nó muốn Chắt khen nó đẹp, nó tươi, nó có duyên hay một ý gì thuộc về sắc đẹp của nó. Song nó cũng nhoẻn miệng cười và trả lời bằng một giọng thiết tha, tình tứ để quyến rũ Chắt:

- Anh Chắt ạ, chỉ sợ anh không dám mượn thôi. Chứ em còn muốn cho anh mượn cả áo ngoài lẫn áo trong của em nữa.

Câu nói ấy có thể gợi lòng thèm muốn của bao kẻ khác. Nhưng đối với Chắt thì đó chỉ là lời nói cợt thông thường. Vì thế, nó không mảy may cảm động và chỉ trả lời một câu không đâu: “Áo chị tôi mặc thế nào được!” làm cho Cúc buồn tủi, rơm rớm nước mắt.

Tuy vậy, Cúc vẫn không tuyệt vọng. Nó vừa rút rạ, vừa nghĩ thầm: “Người chứ có phải sắt đá đâu! Rồi cũng có ngày…” Nhưng nó tưởng ngay đến cái Mậm, con bé nhà bà cán Thỗn, tuy không đẹp bằng nó, nhưng cũng không đến nỗi xấu. Nó nghe mong manh thấy họ nói bố mẹ thằng Chắt sắp hỏi Mậm cho con. Cúc không chắc có thật, nhưng sự ngờ vực ấy cũng đủ làm cho nó nao nao trong lòng.

Tửu và Chắt lại trở ra ao làng gánh nước. Hai chị em yên lặng làm việc và cùng nghĩ đến người yêu. Bỗng Mít hỏi Cúc:

- Chị Cúc ơi, sao độ này chị hay buồn thế?

Cúc cười đau đớn:

- Độ này trong người em nó làm sao ấy, chị ạ, lúc vui, lúc buồn, thất thường không khéo rồi em đến điên mất.

Rồi giọng càng đau đớn thêm:

- Ối chao! Cứ điên như con gái bà cả ở xóm trong lại hóa hay.

Mít nhìn Cúc thương hại:

- Chị chớ nên nói gở. Cái tuổi chúng mình nó thế đấy, chị ạ. Tôi cũng vậy, lúc vui, lúc buồn một ngày không biết bao nhiêu lần. Mà tôi hỏi các chị khác đều thế cả.

Cúc biết rằng Mít nói không thật và những lời ấy chỉ là lời an ủi. Nhưng vì lòng tự ái, nó không muốn cho bạn biết nó đã yêu Chắt và không được Chắt yêu lại.

Giọng thản nhiên, nó nhắc lại ý tưởng của Mít:

- Nếu vậy thì có lẽ tại tuổi chúng mình thật.

Rồi không ai nói với ai một lời, hai chị em lại yên lặng làm việc.

Chắt và Tửu gánh nước về, bông đùa luôn miệng. Hai chị em trở lại vui vẻ. Mít cố nhiên là thật lòng. Còn Cúc trông có dáng vui gượng, từ khóe mắt, miệng cười cho chí lời ăn tiếng nói.

Chiếc thuyền thúng đã gần đầy. Chắt và Tửu đi đến chuồng bắt lợn. Chúng nó thạo chẳng kém gì những người lái. Trong phút chốc con lợn đã bị cái thòng lọng mắc vào chân, ngã lăn ra. Những tiếng kêu hét từng hồi làm chói tai.

Hai thằng bé chỗi dậy, chạy mải ra sau nhà.

Chúng mừng quá, quên cả rét. Chưa chi hai đứa đã tranh nhau bong bóng.

Con lợn đã bị trói bốn vó, nằm thở hì hịch trên tấm cánh cửa. Sát cạnh nó, một cái xanh đồng với một con dao nhọn để gác lên miệng xanh trông ghê gớm như một thanh mã tấu. Đôi mắt dại nghếch của nó không lộ chút sợ hãi, trái hẳn với mắt con chó, con bò hay con trâu nằm đợi chết. Nên trông không thương hại lắm.

Hai đứa trẻ sán lăn vào, bíu lấy áo thằng Tửu nằng nặc xin bong bóng. Chúng lải nhải làm thằng Chắt phát cáu dọa sẽ vứt xuống ao. Thằng Tửu thấy hai đứa sắp khóc, thương hại nói ngọt:

- Được, cứ đi chơi, chốc nữa anh lấy phần cho.

Hai đứa mừng, vỗ tay reo rồi chạy vào bếp sưởi bên cạnh mẹ.

Mít đã ra sân úp từng chồng bát đĩa trên nong, phơi cho ráo để lát nữa dọn cỗ. Nó chạy đi chạy lại, làm hết việc này việc khác, rõ ra một con bé đảm đang và lanh lẹn.

Cúc ngồi bệt trên rạ đun nước, hai chân duỗi nửa, tay cầm que rẽ. Nó thừ ra, đăm đăm nhìn ngọn lửa, nghĩ ngợi. Nó mải nghĩ, lắm lúc rạ cháy bén ra ngoài mà vẫn không biết.

Tửu và Chắc đứng bên cạnh con lợn. Đứa nọ đùn đứa kia chọc tiết. Con vật vẫn thản nhiên nằm thở hì hịch.

Tửu nói khích:

- Đã gọi là ông tướng đánh đông dẹp bắc mà có con lợn không giết nổi, thì chả hóa ra hèn lắm, chị Cúc nhỉ?

Tửu tốt bụng. Bao giờ trước mặt hai người nó cũng nhắc đến Cúc, kéo Cúc vào câu chuyện, ý muốn cho hai bên thân nhau rồi lấy nhau như nó với Mít.

Cúc quay ra nhìn Chắt, nói:

- Anh Chắt tôi không dám chọc tiết con lợn kia thì chỉ đáng ông tướng phường chèo.

Tửu thích chí cười, nói kháy thêm:

- Phải đấy, chị Cúc ạ. Nếu Chắt chịu “thua” thì từ nay chúng mình cứ gọi hắn là ông tướng phường chèo. Kìa, ông tướng nghĩ sao?

Chắt vốn là đứa nghịch ngợm, thích đánh nhau, nhưng chưa bao giờ dám giết một con vật nhỏ. Thường nó vẩn bị mẹ mắng luôn vì tội không dám giết gà.

Bị khích thích dữ quá, Chắt sắp sửa liều, đâm cho con lợn một nhát rồi muốn ra sao thì ra. May có thằng Quán, mõ làng, ớ đâu chạy đến: “Các bác để tôi hộ.” Nó cầm lấy con dao nhọn ở trong tay thằng Chắt, kề mũi dao vào cổ con lợn, day đi day lại mấy cái. Con vật đã bị buộc mõm kêu hí hí trong cuống họng, bốn chân cố giẫy giụa trong nút lạt.

Mũi dao đi qua lần da mỏng rồi cắm ngập đến nửa lưỡi. Máu đỏ tươi ộc ộc chảy xuống cái xanh đồng như tháo cống.

Thằng Quán vốn là tay đồ tể, hằng ngày giết lợn bán chợ đã quen, nên công việc nó làm trông dễ dàng lắm. Mỗi khi máu chảy chậm nó thọc mũi dao vào sâu thêm, ấn lưỡi về một bên cho rộng vết thương. Máu lại chảy đều.

Lúc này, nếu phải con chó, con trâu, hay con bò, nó sẽ đưa đẩy đôi mắt chậm chạp nhìn những người chung quanh như từ biệt một lần cuối cùng trước khi tắt thở. Nhưng con lợn thì không. Mắt nó đờ dần rồi nhắm chặt.

Thằng Quán vừa làm việc vừa sai bảo. Nó quên bẵng rằng nó chỉ là thằng mõ: Rõ thực giang sơn nào anh hùng ấy! Nó ngẩng lên bảo Tửu:

- Bác Tửu, bác vào trong bếp cầm bát muối và bát nước lã ra đây. Mau! Không tiết đông lại mất.

Rồi quay sang phía Chắt và Cúc:

- Nước sôi chưa, cô Cúc?… Vâng, thế bác Chắt, bác cầm gáo dội lên con lợn hộ tý. Mau mau không muộn lắm rồi. Các cụ truyền đúng ngọ phải xong cỗ.

Công việc của Chắt dễ dàng và nhàn nhã quá. Nó chỉ việc đứng dội nước sôi lên mình con lợn.

Thằng Quán đứng dạng hai chân, cúi xuống cầm ngang dao cạo sồn sột, cạo đến đâu, trắng đến đấy.

Cúc ngồi thờ thẫn nghĩ đến Mậm. Muốn khỏi băn khoăn về nỗi ngờ vực, nó ngửng nhìn Chắt hỏi:

- Này anh Chắt, có phải anh sắp lấy con Mậm không?

Giọng nó run run vì sợ.

Chắt, tay vẫn múc nước trong nồi, nhìn xuống hỏi lại:

- Ai bảo chị rằng tôi sắp lấy Mậm?

Tửu đã đem muối và nước lã đổ vào xanh. Nó nhúng tay xuống tiết canh quấy mạnh cho tiết nổi ngầu bọt. Chợt nghe thấy tên Mậm, nó lắng tai, để ý, muốn biết câu chuyện của hai người đi tới đâu.

Cúc, trong lòng phấp phỏng, mong rằng lời đồn ấy chỉ là lời đồn hão. Nó ngập ngừng đáp lại câu hỏi của Chắt:

- Tôi thấy họ đồn rằng thầy bu anh sắp hỏi cái Mậm cho anh, có thực hay là họ bịa phải không, anh?

Nói rồi, Cúc đắm đuối nhìn Chắt như van lơn.

Chắt không nghĩ ngợi, nói ngay:

- Thế thì có lẽ thật đấy.

Cúc hỏi dồn:

- Thế anh bằng lòng lấy Mậm à? Anh yêu nó à?

Chắt vẫn thản nhiên vừa cầm gáo dội trên mình lợn, vừa đáp:

- Chẳng yêu cũng chẳng ghét. Còn việc dựng vợ gả chồng bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy.

Cúc chán nản, ngồi đờ người ra. Ánh lửa chiếu vào đôi mắt ướt lệ.

Tửu nhìn Cúc thương hại, nghĩ thầm:

“Khốn nạn! Con bé yêu ai chẳng yêu lại yêu ngay phải ông tướng!”

Chắt không đế ý đến nỗi đau khổ của Cúc, nó thản nhiên nói tiếp, cho như một câu nói đùa:

- Bao giờ tôi cưới vợ, mời chị đến làm giúp nhé? Thế nào cũng có con lợn to béo gấp mấy con lợn này.

Nói đoạn nó nhìn con lợn cười xòa.

Cúc không trả lời. Hai giọt nước mắt chảy xuống đọng trên gò má. Thấy Tửu nhìn mình ra vẻ ái ngại, Cúc vội lấy dải yếm lau nhanh và nhếch mép cười nói chữa:

- Khói quá, anh Tửu ạ, khói chảy cả nước mắt, nước mũi.

Thằng Quán, vừa cạo lông xong, đứng dậy. Chắt và Tửu, mỗi đứa cầm hai chân con lợn trắng nõn, khiêng sang bờ ao ông cán Bích. Còn thằng Quán, một tay cắp tấm cánh cửa, một tay cầm dao đi theo sau.

Tửu vừa đi vừa trách Chắt:

- Mày ác lắm, Chắt ạ.

Chắt không hiểu, hỏi lại:

- Tao làm sao mà mày bảo tao ác?

- Mày làm cho con Cúc nó khổ sở chứ sao! Nó khóc đấy, mày có biết không?

Chắt càng không hiểu, ngạc nhiên hỏi:

- Nó khóc?… Tao làm gì nó mà nó khóc? Mày chỉ khéo bịa.

Tửu thấy Chắt vô tình quá. Nó phát ghét và càng thương hại Cúc.

- Tao như con Cúc thì tao chả phải vạ mà yêu mày, yêu cái thằng trơ như khúc gỗ.

Chắt không tức, nói:

- Nó chẳng yêu thì nó cứ việc ghét, ai bắt nó… Nhưng mà tao làm gì mà nó khóc mới được chứ?

Tửu không ngờ Chắt lại vô tình đến thế. Nó thở dài nói:

- Mày nói mày yêu con Mậm ngay trước mặt nó, rồi mày lại mời nó đến làm giúp. Như thế thì mày bảo nó không khóc sao được?

- Tao yêu gì con Mậm. Tao chẳng yêu mà cũng chẳng ghét đứa nào, kể cả con Hĩm xấu như quỷ mà lại hay làm bộ, trông thấy ai thì giơ mãi cái mặt lưỡi cầy lên.

Nói rồi, Chắt bắt chước con Hĩm, vênh mặt.

Tửu không để ý đến dáng điệu của Chắt. Yên lặng một lát, nó ngửng lên nhìn thẳng vào mặt Chắt, hỏi:

- Thế mày có yêu Cúc không? Tao tưởng con bé đáng cho mày yêu thì phải.

Chắt ngẫm nghĩ rồi nói:

- Giá nó bớt nhí nhảnh, nói vừa chứ… như con Mít của mày ấy - nó nhìn Tửu, cười - thì tao cũng có thể yêu được.

Hai đứa đã đi tới bờ ao, đặt con lợn trên tấm cánh cửa rồi đứng nhìn thằng Quán mổ lợn.

Tửu yên lặng nghĩ đến tính nết và dáng diệu của Mít, còn Chắt tò mò nhìn những cỗ lòng bùng nhùng và những cơ thể trong con lợn.

Ông lý Khóa ngồi lau đi lau lại cái địa bàn, vừa lau vừa ngâm những câu thơ cổ. Thỉnh thoảng ông lại nhìn ra sân xem đã có ai đến mời chưa…

Đợi mãi sốt ruột, ông gọi con cháu ở dưới bếp lên coi nhà, rồi gói kỹ địa bàn vào trong cái khăn vải tây đỏ ông cắp nách ra di, mồm lẩm bẩm:

- Có lẽ nhà hắn bận việc, mình nên dễ dãi một tý, thiệt gì.

Ông là một thầy địa lý. Tên tục ông là Biểu, ông lý Biểu. Ông vốn nhà nho, đỗ khóa sinh và đã bốn khóa đi thi trường Nam đều trượt ngay từ kỳ đệ nhất.

Ông còn trượt mãi, nếu ông còn chịu khó vác lều chiếu từ biệt mẹ đĩ để đi thi. Ông làm gì có gan ấy, nên đã nhờ mẹ đĩ bỏ tiền ra mua cho cái lý thôn, tức cũng như lý trưởng, chỉ khác không có dính dáng gì đến quan, đến nhà nước cả, tuy rằng sau khi mua xong chức ấy, ông cũng có biện quan vài cân chè lá bằng tiền.

Nay ông đã già nua tuổi tác. Người ta trọng vọng ông không dám đem tên tục ông ra gọi, bèn lấy chức tước gọi thay. Vì thế nên ông mới thành ra ông lý Khóa.

Không biết ông lý Khóa học địa lý từ năm nào. Có lẽ từ cái năm ông vĩnh biệt lều chiếu…

Người ta bảo ông thông thái lắm, kinh sử thuộc lầu lầu. Cái đó đã hẳn, không thì sao lại học được môn địa lý. Tất có ông bẻ lại: “Thế ông cán Bích thì sao. Ông ta chả vẫn thường khoe với bà con rằng tự nhiên ông ta biết, chẳng cần phải học”. Cái đó lại là việc khác, hoặc giả trời cho ông làm thầy địa lý, như lời ông thường nói chăng!

Cứ tin ở lời ông lý Khóa thì ông ngao du sơn thủy đã nhiều nơi. Và nơi nào đặt chân tới, ông cũng đã làm được vài ngôi mộ kết phát, tiếng tăm lừng lẫy. Lừng lẫy nơi ấy thôi, chứ nơi nhà là nơi quê cha đất tổ thì chưa thấy lừng lẫy gì cả. Có lẽ trời chưa giáng phúc cho nhân vật xã Cầm, phúc chủ, lộc thầy, câu phương ngôn đúng lắm vậy.

Kể thì cũng không lấy gì làm đúng lắm. Vì lộc, thầy vẫn xơi, mỗi khi thầy làm xong một ngôi đất. Còn phúc chủ? Hãy đợi đấy! Chả đời này thì đời khác, không đi đâu mà vội.

Một lần, cách đây không lâu, ông khoe với ông lý Cúc rằng năm Mão ông vào Thanh Hóa thăm người bà con. Nhân lúc nhàn rỗi, ông một mình đi vào cái vùng gì gì mà ông quên mất tên.

Cái vùng ấy đẹp quá, ông ngắm mãi không chán. Địa thế gồm thành một nàng tiên, một nàng tiên khỏa thân.

Sao lại một nàng tiên mà không một người đàn bà tầm thường? Cái đó xuất ở con mắt ông và ở trí tưởng tượng của ông, không hề gì. Còn khỏa thân thì không ai cãi vào đâu được nếu họ đã nghe ông tả cảnh rành mạch: Xa xa một quả núi con tức là cái đầu. Hai bên, hai cái đồi tròn trĩnh, mũm mĩm cỏ phủ mượt như nhung nếu không phải mỹ nhũ, nói nôm na là hai cái vú, thì quyết không thể là cái gì khác được. Rồi, gần lại một mô đất nhô lên, tức là cái rốn. Hai “vú” rồi phải đến “rốn”, thằng bé con cũng biết, ông bảo thế. Thế rồi đến chỗ trũng, hơi trũng thôi. Tả đến đấy, ông tủm tỉm cười.

Thấy lạ mắt, ông rảo bước đi ngược lên. Đến cái rốn, ông dừng bước. Một ngôi mộ của ai để ở đấy đã lâu vì cỏ mọc dầy.

Lúc trở về, giữa đường mỏi chân, ông tạt vào hàng nước nghỉ ngơi. Ngẫu nhiên ông buột miệng phàn nàn cho thầy địa lý nào đã tìm được đến đấy mà lại còn để sai, làm cho cái nhà có ngôi mộ ấy sút dần và hiếm con.

Người hàng nước mà ông còn nhớ, là một mụ đàn bà độ ngoài ba mươi tuổi, người khô như hạc, đứng ngay dậy van lạy ông và nói với ông một cách chí thiết.

Theo lời mụ thì trước kia mụ giầu có. Rồi không hiểu sao cứ mỗi năm một sút dần. Và hiếm quá. Vợ chồng lấy nhau sáu, bảy năm trời mà chỉ được vài mụn con gái. Cầu tự hết đền này phủ nọ cũng không sao nẩy được một mống con trai.

Ông thương tình, làm lại cho hai vợ chồng nhà mụ ngôi đất ấy. Thấm thoát có ba năm trời mà mụ ta đẻ luôn ba thằng con trai đều thông minh tuấn tú. Chắc thế nào sau chúng nó cũng làm nên. Hiện giờ nhà mụ đã trở nên giàu có như xưa. Mỗi lần ông đến vùng ấy, họ đón tiếp ông hậu hĩ quá. Và lúc trở về, thế nào ông cũng được họ tặng vài ba chục bạc ăn đường.

Lý Cúc, vốn là tay bông phèng và hỗn xược, nói nhả:

- Ý chừng cụ để dịch xuống, vào giữa chỗ “bí hiểm” chứ gì?

Ông lý Khóa đắc chí cười ha hả và trả lời một cách thực thà:

- Sao ông biết? Giỏi thực đấy nhỉ! Ông này giá học địa lý thì cũng có thể thành danh sư được.

Lý Cúc nửa thật nửa bỡn:

- Cháu cũng đoán già thôi đấy, cụ ạ. “Rốn” mà hỏng thì tất thị phải đến chỗ “bí hiểm” chứ còn chệch đi đâu. Vả lại chỗ ấy là chỗ sinh con đẻ cái. Giá phỏng cháu đến vùng ấy, cháu cũng để chỗ ấy.

- Phải lắm, nhưng ông có biết tại sao để ở rốn mà nhà nó lại sa sút đến thế không?

Lý Cúc cười ranh mãnh:

- Cái đó thì nhà cháu chịu, phải để cụ địa lý ngài chỉ giáo.

Ông lý Khóa tự đắc, vuốt mấy sợi râu mép và mấy sợi râu cằm:

- Thế thì được lắm, lão giảng cho… Ông lý ạ, ai chả biết cái rốn là đầu khúc ruột, tiền của ở đấy mà ra chứ còn ở đâu. Nhưng mà cũng tùy cái rốn. Có cái lồi, có cái…

Lý Cúc chợt hiểu vội ngắt lời:

- Thưa cụ, nhà cháu biết rồi. Lồi rốn tốn cơm. Thế mà cái rốn ấy lồi, có phải không cụ?

- Ý thế, ông này tinh quái thật!

Ông lý Khóa chỉ dám tả những địa thế ở đâu đâu. Còn ở ngay đất nhà thì cạy mồm ông cũng không chịu nói. Ai dại gì mà nói, nói để các người biết tỏng rồi cứ việc tìm đến đấy mà để ấy à. Cũng như các ông lang, ai dại gì mà kê đơn thuốc cho bệnh nhân.

Nhưng đến lúc say túy lúy thì, trái lại, bạ ai ông cũng vớ, bất cứ đàn ông, đàn bà. Ông chỉ trỏ huyên thuyên, chỗ này con long, chỗ kia con hổ, chỗ này nậm rượu, chỗ kia túi thơ. Rồi cái bút, cái nghiên, lại có cả khay đèn, cái cuốc, cái nơm, con voi, con ngựa, con tôm, con cá, đủ các hình.

Ông vừa đi vừa nghĩ đến ông cán Bích và ông lý Cúc, hai người bạn chí thiết của ông, chí thiết chỉ vì họ sẵn lòng khen ngợi mỗi khi ông đem tài năng, công đức ra khoe.

Song chợt nghĩ đến xã Ân, ông chau mày nguyền rủa thầm. Xã Ân, một người đồng nghiệp, một người khả ố, đáng ghét hơn cả trong những người ông ghét.

Kể lão ta cũng đáng ghét thật. Chữ nghĩa không đầy một dúm, lão đã dám có gan xưng là thầy địa lý. Ông lẩm bẩm: địa lý địa liền gì hắn. Thế mà hắn vẫn đắt khách hơn ông, tuy sức học chẳng ra gì. Đắt khách chỉ vì hắn dễ dãi, dễ dãi quá. Bất cứ giá nào, từ một đồng trở xuống dăm ba hào, thậm chí chẳng xu nào cũng được, miễn là làm xong ngôi đất người ta thết một bữa chén.

Để như vậy thì để làm gì cho thêm nhục?

Ông mải nghĩ, đến cổng nhà xã Chính lúc nào không biết. Thằng Chốc vội chạy vào báo. Xã Chính tất tả ra đón: “Lạy cụ ạ, cụ tha lỗi, cháu không dám đến mời cụ sớm quá, sợ cụ rét.” Bác vừa nói vừa gãi tai đi theo sau.

Ông lý Khóa đĩnh đạc và trịnh trọng như một ông tiên chỉ đến chủ tọa việc làng. Ông đi thẳng vào trong nhà, không thèm để ý đến hai nong thịt bày ở cửa bếp và bọn người quây quần chung quanh băm thái. Những người ngồi ở dẫy phản hai bên rạp đứng dậy chào. Ông chỉ khẽ gật và nhếch mép cười như thầm bảo họ rằng nhờ có ông, họ mới được hân hạnh đến chén ngày hôm nay.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, ông đổi nét mặt, lộ hẳn vẻ sung sướng:

- Ái chà! Tĩnh tiếc nữa kia? Khéo biết tính lão đấy. Nhưng mà lão không biết tiêm đâu. Giá có ông lý Cúc ở đây thì hay nhỉ!

Xã Chính vội chạy lên:

- Bẩm cụ cựu cháu cũng sắp đến. Cháu đã cho người đi mời rồi. Cụ trông bộ khay đèn có được không ạ? Cháu thân hành đến tận nhà ông lý Khoa mượn đấy.

- “Tươm lắm rồi!” Ông vắt tay ra sau lưng, đứng ngắm bộ khay đèn đặt ngay giữa sập trải chiếc chiếu cạp điều mượn bên ông cán Bích. Ngọn đèn dầu lạc thẳng tắp, hình thon như búp ngọc lan chiếu qua chiếc chụp pha lê trong vắt.

Chung quanh đèn, trên chiếc khay gụ bóng lộn, bày ngổn ngang những tiêm, móc, nạo gác trên lưng con sấu bằng sứ, đôi voi phục bằng đá trắng chầu nhau, chiếc ống nhổ sứ trong đựng cái kéo và con dao díp. Rồi lọ đựng rượu, hộp đựng sái, chén đánh sái cáu đen những thuốc phiện. Tất cả những thứ ấy đều nhỏ xíu như những đồ chơi của trẻ con.

Ông lý Khóa nhắc chiếc dọc tẩu đặt bên cạnh khay đèn, ngắm nghía.

- Chưa có thuốc à, bác xã?

- Dạ, bẩm thuốc đây. Cháu không dám bày ra vội, sợ kẻ ra người vào.

Bác vừa nói vừa móc trong túi ra đặt lên khay một hộp mười và một chiếc cóng sừng.

Mặt ông lý Khóa sáng lên, mồm ông lẩm bẩm:

- Hậu nhỉ!

Bác xã Chính được khách khen, tủm tỉm cười, dạ một tiếng khoan khoái.

Chợt tiếng ông cán Bích ở thềm, ông lý Khóa quay ra, niềm nở:

- Ấy kìa cụ cán! Tôi đương mong cụ. Tôi tưởng cụ đến muộn mà lại hóa ra đến sớm nhất. Ông không để ý đến những người ngoài rạp, ông cho họ là những người thừa.

- Thưa cụ, tôi sang đây từ sớm, chưa thấy cụ đến, tôi lại về mở lịch ra xem giờ.

Ông lý Khóa vỗ vào ngực ra vẻ tự đắc:

- Xin cụ cứ hỏi cái lịch này, vừa chóng lại vừa chắc chắn.

- Bẩm, thế có phải giờ thìn và giờ mùi tốt không ạ?

- Vâng, vâng. Giờ thìn tốt lắm. Giờ mùi cũng tốt. Nhưng việc bốc mộ thì giờ thìn tốt hơn, - ông giơ tay ra phía sập - rước cụ, ta vừa nằm cạnh khay đèn vừa trò chuyện cho vui. Cụ biết tiêm đấy chứ?

- Thưa cụ mấy năm về trước thì cũng gọi là tiềm tiệm…

- Tiềm tiệm cũng được, đợi ông lý Cúc…

- Là nói mấy năm về trước, chứ bây giờ mắt kém cỏi, nhà cháu tiêm thế nào được.

Ông lý Khóa thất vọng, thở dài.

Xã Chính băn khoăn, chạy ra chạy vào tìm người tiêm.

Một lát, có tiếng thét bô bô ở ngoài cổng. Bác xã mừng quýnh quay vào chỗ hai ông khách nói như reo:

- Bẩm, bẩm… cụ cựu cháu đã đến. Rồi bác tất tả chạy ra cổng đón.

Lý Cúc kéo lê đôi giầy rách mép và khoác chiếc “ba-đờ-xuy” khố tải. Hình như suốt mùa rét, ông không phút nào chịu rời nó. Cả những lúc nằm tiêm thuốc, ông cũng kéo nó xuống đắp chân. Và lúc say, ông kéo nó lên trùm kín đầu, nằm thiêm thiếp ngủ.

Ông đi đến rạp, mọi người đứng dậy chào.

Ông không chào lại, nhe răng cười, bình phẩm một câu cộc lốc:

- Đông nhỉ!

Ông rảo bước lên thềm, đứng ngoài ngưỡng cửa nói vào, giọng giễu cợt:

- Ha ha! Anh hùng tương ngộ, hai cụ địa gặp nhau.

Ông lý Khóa hớn hở mừng như người được của. Ông ngồi nhổm dậy, cười nói:

- Phải, tương ngộ ở chỗ hai người cùng biết hút mà cùng không biết tiêm, nên nằm khoèo đợi ông đấy.

Lý Cúc vừa đi vào vừa nói tự phụ:

- Việc gì chứ việc tiêm thì cả thiên hạ không ai địch nổi tôi.

Ông cán Bích ngồi nhích ra mép sập để nhường chỗ cho ông lý Cúc.

- Ấy, rước cụ cứ nằm. Tôi tiêm đứng, tiêm ngồi được cả.

- Vẫn biết thế. Nhưng nằm tiêm thì vẫn hơn.

- Vậy xin lỗi hai cụ.

Ông bước lên sập, mở chụp đèn lấy kéo sửa lại ngọn bấc:

- Khay đèn này của ông lý Khoa đây mà. Cái diện tẩu của ông ta kêu và tốt sái lắm, hai cụ ạ. Mà sao ông ta chịu cho mượn? Ông ta vốn khó tính, giữ khay đèn như giữ sơn kia mà.

Ông cầm hộp thuốc gõ lên mặt khay mấy cái, nói: “Không cẩn thận thế này, có khi thuốc vọt ra hết”. Rồi lấy mũi dao, chọc một lỗ ở mép hộp để bóp từng giọt một vào chiếc cóng sừng: “Thuốc này đặc, tốt đây. Không như hộp thuốc ở đằng anh hương mới hôm qua, vừa vơi vừa lỏng”. Ông nằm gối lên cái tráp sơn then và đắp chiếc “ba-đờ-suy” lên chân. Đoạn ông bắt đầu tiêm.

Hai ông lão thi nhau nịnh ông lý:

- Cụ cán trông, kém gì Triệu Tử múa sang.

- Thôi, ông cựu tiêm thì còn phải kể.

- Ông cựu hút thuốc mà da thịt vẫn hồng hào, ra đường không ai bảo là người nghiện.

Lý Cúc được các cụ phỉnh, phổng mũi, khịt luôn mấy cái:

- Vâng có thế, cháu đi thiên hạ không ai bảo là cháu nghiện, cũng vì cháu không bao giờ hút đến sái ba, sái tư như họ.

Ông nói mà tay ông không lúc nào ngừng.

Ông tiêm khéo thực. Hãy nhìn những ngón tay ông cầm tiêm lăn điếu thuốc lên mặt tẩu, mềm như bún, dẻo như kẹo. Có lúc ông phiết thuốc nhem nhuốc trên mặt tẩu. Người không biết, tưởng ông làm hỏng điếu thuốc. Nhưng chỉ một vài nhát tiêm, ông lấy nó ra như bỡn. Mặt tẩu nhẵn bóng như lau một lượt dầu. Ông tra điếu thuốc vào nhĩ một cách cũng đặc biệt. Ông kéo nó dài như kẹo mạch nha, ông xoắn nó lại như trôn ốc. Ông vừa làm vừa giảng nghĩa: ”Có thế điếu thuốc mới chín đều, mới chặt, hút mới kêu… Hai cụ trông, rõ ràng trôn quít.”

Ông đưa dọc tẩu vào giữa hai ông, mời:

- Rước hai cụ, cụ lý… cụ cán.

Ông cán giơ tay sẽ ẩy chiếc dọc tẩu sang phía ông lý Khóa:

- Xin rước cụ cứ xơi trước. Cụ còn phải ra đồng. Trời rét này, phải hút để lấy sức.

- Vâng, thế xin phép cụ… ông lý.

Ông đặt cặp môi mỏng quẹt vào đầu xe, kéo một hơi dài. Trước khi thở ra, ông với lấy ấm tích tu một ngụm nước chè nóng:

- Phì!… Ngậy hơn lạc rang.

Ông cán ngồi ngoài, bình phẩm thêm:

- Chạy quá. Thật là réo rắt, không vấp chỗ nào. Năm nay hẳn cụ phát tài.

- Cái đó là nhờ ở tài khéo léo của ông cựu.

- Dạ, không dám, cụ dạy quá. Cháu tiêm khéo đến đâu mà người làm ăn xúi quẩy hút cũng có thể giắt.

Ông lý Khóa kéo bốn điếu liền. Nhường hai ông kia, mỗi ông một điếu. Rồi đến lượt sái nhất bao, ông lại kéo luôn sáu điếu nữa.

Ông say tơ mơ. Da thịt ông như rời khỏi mặt chiếu, người ông nhẹ hẳn đi như lơ lửng trên không. Tâm hồn ông khoan khoái, trí tuệ ông sáng suốt như pha lê. Trí nhớ ông dồi dào như lúc ông còn trẻ. Ông thì thầm ngâm những bài phú, bài thơ cổ.

Yên lặng. Khói thuốc đặc bay là là, thơm phức cả ba gian. Tiếng sè sè, tiếng thuốc nướng trên miệng chụp càng làm tăng thêm vẻ yên lặng bình tĩnh. Mọi người đều im thin thít như sợ tiếng động làm tan sức mạnh của nha phiến trong các huyết mạch.

Ngoài rạp người ta vẫn bàn bạc, cãi nhau về địa lý, về mồ mả. Những mẩu chuyện lọt vào trong nhà nhắc nhỏm ông lý Khóa đến công việc của ông. Ông bỏ dở bài phú ông đương ngâm, ngửa mặt trông xà nhà và nói bằng một giọng khinh miệt:

- Họ thì biết cóc gì mà cũng bàn với bạc! Những cánh ấy nói chuyện với lão xã Ân thì vừa hợp… Cá mè một lứa.

Ông lý Cúc chợt nhớ tới câu chuyện bông đùa của ông với ông cán Bích. Ông ngừng tiêm chống khuỷu tay xuống chiếu, ngửng đầu nhìn ông cán, nói nửa thật nửa cợt:

- Này cụ cán, cụ đã tìm cho tôi được ngôi nào chưa, cụ?

- Thấy ông không nhắc đến nữa, tưởng rằng ông nói chơi. Còn cái cổ ngựa với cái vó trước thì họ để cả mất rồi.

- Vó sau hay là móng ngựa vậy.

- Để chỗ ấy thì rồi cơ vận nhà ông thụt lùi.

Ông lý Cúc cười, nói sang chuyện khác:

- Tôi thấy người ta đồn ông thần “Nhất đạc” nhập vào cụ, phải không?

- Họ chỉ nói bậy. Ông thần nào nhập vào tôi! Nhưng mà có một đêm, tôi nằm ngủ thấy ông thần “Nhất đạc” hiện lên, báo mộng cho tôi biết rằng tôi có đại phúc, được ông truyền cho các phép về môn địa lý.

Ông quay sang ông lý Khóa nói tiếp:

- Mà lạ quá cụ ạ, từ hôm ấy trở đi, tôi tự nhiên nhìn con long ra con long, con phụng ra con phụng, hình nào rõ rệt hình ấy, không hề nhầm lẫn.

Ông lý Khóa không trả lời, nằm yên một lúc rồi, giọng khàn khàn nhuộm vẻ mỉa mai, ông nói như người diễn thuyết cho công chúng:

- Đời nay nhiều người biết được dúm chữ quèn đã vội vác địa bàn đi làm đất làm cát rối xòe. Họ không chịu hiểu rằng nghề địa lý cũng khó và nguy hiểm như nghề làm thuốc, có phần còn khó và nguy hơn nhiều nữa. Một thầy lang băm chỉ có thể làm chết được những bệnh nhân mà tính mệnh đã sa vào tay họ. Nhưng thầy địa gà mờ có thể làm hại được cả nhà, cả họ người ta. Rồi… Rồi tôi kể cho các ông nghe câu chuyện mới xảy ra trong khoảng vài ba năm nay để chứng thực cho lời nói của tôi.

Ông lý Cúc đương sốt ruột vì ông lý Khóa hút đã nhiều. Tay ông tiêm đã thấy chán, mà ông thì chưa hút được mấy điếu. Ông làm ra mặt niềm nở và nói bằng một giọng chí thiết:

- Vâng, vâng, thế thì còn nói gì nữa. Cụ cứ kể cho chúng tôi nghe… cụ kể đi.

- Hượm! Hãy cho lão vài điếu nhấp giọng đã.

Lý Cúc vâng một tiếng bất đắc dĩ và nghĩ thầm: “Hút lấy chết hay sao mà cố hút mãi?” Liếc nhìn thấy ông cán Bích cũng có vẻ khó chịu, ông tủm tỉm cười.

Ông lý Khóa làm luôn ba điếu nữa rồi nằm ngửa, một tay vắt lên trán, ông bắt đầu kể:

- Cụ án Nguyễn, người làng Vĩnh Long, - ông xoay lại, nằm nghiêng về phía bàn đèn, - chắc ông cựu cũng biết.

Lý Cúc chẳng biết gì, nhưng trả lời phứa:

- Có, tôi có biết… biết tiếng thôi.

- Cụ ấy về hưu đã bảy tám năm nay. Giàu sang, danh giá, thì tôi mới thấy là một. Nhà cửa rung rinh, cái nọ liên tiếp cái kia như động, chẳng kém gì nhà cụ quận - tuy ông chưa hề bước tới nhà cụ quận - ông cả làm quan, ông hai buôn bán sầm uất, ông ba ở nhà hầu hạ cụ ông cụ bà và một mình trông nom hàng trăm mẫu ruộng. Những ruộng ấy còn đắt gấp rưỡi ruộng làng Cầm ta này. Sáu, bảy trăm một mẫu.

Lý Cúc nói chêm một câu bình phẩm để tỏ ra người ham nghe chuyện:

- Sáu, bảy trăm một mẫu! Vậy trăm mẫu không biết đến bao nhiêu của. Giàu thật! Rồi ông thản nhiên hút.

- Vâng. Sáu bảy trăm một mẫu. Giá cánh mình được ngần ấy ruộng thì vừa ăn, vừa tiêu, vừa hút mấy đời cũng chẳng chuyển.

Ông lý Khóa ngồi dậy hút thuốc lào. Đoạn ông lại nằm xuống kể tiếp:

- Rồi năm kia, trong khoảng tháng ba, cụ Án bỗng tự nhiên đau mắt, mỗi ngày một nặng. Rồi ông cả, ông hai, ông ba, cả nhà cùng đau mắt. Nếu cùng ở một nhà thì còn có thể bảo rằng lây. Đằng này, mỗi ông một nơi xa nhau hàng dặm. Xem bói, thì ông thầy bảo động mộ tam đại… Làng cụ, độ ấy có ông thầy Tàu mới ở Tàu sang, không biết tiếng Annam. Đi đâu cũng kèm theo một người Tàu nữa làm thông ngôn…

Ông cán Bích ý chừng thấy ông lý Cúc quên hẳn mình, sốt ruột nói:

- Ông lý để lão điếu ấy nhé!

- Vâng, cháu cũng định mời cụ xơi.

Ông lý Khóa ngừng kể, đăm đăm nhìn ngọn đèn.

Lý Cúc vội giục:

- Thế rồi ra sao, cụ? Ông thầy Tàu ấy hẳn là một danh sư, phải không cụ?

Ông nói trái hẳn ý ông dự đoán, cốt để khơi chuyện thêm.

Ông lý Khóa kể tiếp:

- Cứ theo tiếng đồn thì hắn ta là danh sư. Vì thế cụ Án mới cho đi mời về nhà, thết đãi cơm rượu, thuốc phiện. Cụ hết sức chiều chuộng. Thầy muốn gì cũng được… Trong ngót tháng trời, chiều nào thầy cũng cùng người thông ngôn đi lang thang trên các động làng. Lúc trở về, cụ Án hỏi, thầy sì sồ mấy tiếng để người thông ngôn dịch lại rằng chưa tìm thấy chỗ nào đích đáng.

Ông còn muốn kéo dài câu chuyện, song thấy lý Cúc và ông cán Bích chuyền tay nhau hút, ông vội tóm tắt, cốt cho chóng xong:

- Thế rồi lão thầy Tàu cho bốc mộ tam đại nhà cụ Án đi nơi khác. Chưa đầy một năm, cụ Án thụ bệnh, quy tiên. Vài tháng sau cụ bà nối gót cụ ông lên chầu trời. Năm sau lại đến lượt ông cả. Ông hai tự nhiên bỏ hiệu đi đâu mất. Còn ông ba đâm ra chơi bời. Bao nhiêu ruộng nương bán sạch. Đến nay túng quá đến nỗi ông phải nậy cả gạch sân đem đi bán.

Rồi sợ lý Cúc bắt bẻ lôi thôi, ông kết luận luôn:

- Xem thế đủ biết một thầy địa lý gà mờ có thể gây nên tai vạ to tát đến thế đấy.

Nhưng dẫu sao cũng muộn quá rồi. Lý Cúc đã hút hết lượt sái nhì. Ông tháo tẩu, lấy móc nạo kèn kẹt. Thôi, kéo lại lượt sái ba này vậy.

Xã Chính sửa soạn đã xong, đợi lâu, nóng ruột, đi lại nhắc khéo:

- Thưa cụ, cất mộ vào giờ nào, cháu quên mất.

Ông cán Bích nhanh nhảu, đỡ lời:

- Giờ Thìn.

- Bẩm, giờ Thìn là mấy giờ ạ?

- Vào khoảng từ tám giờ đến mười giờ.

- Bẩm, vậy thì từ sáng đến giờ có lẽ muộn lắm rồi.

Lý Cúc gặp được dịp tốt, bèn ra vẻ sốt sắng giục ông lý Khóa:

- Chết chửa! Mải nghe chuyện cụ, quên lú đi mất. Thế nhờ cụ đi ngay cho vợ chồng nhà hắn, sớm sủa còn hơn muộn, cụ ạ. Nhỡ quá giờ thì rầy rà lắm đấy.

Ông quay ra nói với xã Chính:

- Thế các thức bác đã sắm sửa đủ cả rồi đấy chứ?

Xã Chính tươi tỉnh, gãi tai:

- Bẩm, đủ cả rồi, chỉ còn đợi cụ lý nữa thôi.

Ông lý Khóa bất đắc dĩ phải đứng dậy. Ông với tay về phía lý Cúc.

- Ông cựu cho lão mượn chiếc… đờ suy nhé?

Lý Cúc ngần ngừ. Ông cán Bích nói giúp:

- Phải đấy, ông cựu cho cụ mượn chiếc “đờ suy” kẻo ngoài đồng rét lắm.

Lý Cúc không thể chối từ, khẽ thở dài nói:

- Vâng… nhưng bác xã phải cho tôi mượn chiếc áo bông mới được.

- Bẩm, áo bông nhà cháu “tã” lắm, đem ra sợ không tiện. Nói rồi, bác tủm tỉm cười.

- Tã cũng được. Đắp chân ấy mà! Tôi quen, không đắp chân không chịu được.

Ông lý Khóa vừa đi khỏi, ông cán Bích không đợi mời, nằm ngay vào chỗ ông ta.

Lý Cúc lẩm bẩm:

- Chẳng biết môn địa lý của cụ thế nào, chứ môn hút thì khá lắm.

Ông lý Khóa đi đầu, hai tay thọc trong túi “ba-đờ-suy”. Theo sau, xã Chính cầm bó hương xạ và cắp nách cái địa bàn bọc trong vuông vải tây điều. Thằng Chốc xách ấm nước chè nóng và mấy cái bát sành như khi nó đi đổi đồng*. Thằng cu Lớn cầm điếu cầy với bùi nhùi. Bác xã gái cắp cái rổ đựng trầu cau têm sẵn. Thằng cu Con níu váy mẹ vừa đi, vừa chạy. Sau cùng, thằng Tín đội cái quách sơn đỏ trong đựng chiếc tiểu sành, thằng Mùi vác cuốc, mai, thuổng và một cuộn dây thừng.

Đi đổi đồng: mùa gặt, có nhiều người (thường là trẻ em, bà già) đem nước chè tươi, điếu đóm ra đồng mời những thợ gặt uống nước, hút thuốc, để được họ cho lại lượm lúa; việc đó gọi là đổi đồng.

Cả nhà xã Chính mặc toàn đồ trắng. Tín và Mùi là người trong họ được mỗi đứa một cái khăn trắng dẹp đét độ hai tao. Nếu không thấy có những bộ áo trắng làm biểu hiệu cho việc tang, mặc ra ngoài những bộ áo thâm, áo nâu, thì người ta có thể lầm đó là một bọn thợ.

Lũ trẻ đương nô đùa trong sân đình, tò mò chạy ra xem. Chúng đi nối đuôi một quãng ngắn. Không thấy gì lạ, chúng đâm chán chạy về sân đình nô đùa như trước.

Chốc, chốc lại một vài bà đi chợ về, đứng lánh ra một bên đường, chào hỏi: “Cụ ạ!… Hai bác sang nhà mới cho ông đấy hử? Lát nữa chúng tôi đến làm giúp, nhé?”.

Bác gái nhanh nhảu đáp lại: “Vâng, trưa nay mời các bà đến ăn cỗ mừng nhà mới cho ông tôi”. Bác nói thế là vì bác đã hiểu ngầm nghĩa hai chữ “làm giúp”.

Tới đồng, gió lộng quá, bạt cả hơi. Người nào người nấy mặt tái mét, môi thâm lại. Họ thu hình, chụm vào nhau đi cho đỡ rét. Riêng một mình ông lý Khóa vẫn thản nhiên, bước mạnh bạo. Đó là nhờ sức nóng của chất thuốc phiện chuyền đi khắp mạch máu, khắp thớ thịt.

Xã Chính nói to với vợ, cốt để ông lý nghe rõ: “Bu nó trông, ông lão ngoài bảy mươi tuổi đầu mà còn tráng kiện hơn bọn mình. Quý hóa thật!”

Vợ hiểu ý chồng cũng trả lời to tiếng:

- Cụ nhân từ đi làm phúc cho khắp bàn dân thiên hạ thì trời, phật lại để phúc cho cụ. Rồi chức thủ chỉ lão thế nào mà chả đến tay cụ.

Ông lý Khóa nghe rõ, sung sướng lộ ra nét mặt, tuy ông không quay lại, không trả lời hai bác…

Gần tới mộ, xã Chính rảo bước lên trước dẫn lối… Bác đứng xoay lại, chỉ tay xuống: “Bẩm cụ đây rồi.”

Bấy giờ vào độ gần trưa, mà trông như vừa mới sáng. Vì không có nắng. Khắp trời, một màu trắng lờ như sữa. Đồng lúa xanh non bát ngát, từng chỗ nổi lên những khóm tre dầy và xanh om. Những tha ma cỏ xanh biếc, đủ các hình, chồi ra, hoắm vào như những bán đảo, những mũi bể, những vịnh nhỏ.

Cả bọn đứng lố nhố, xa trông như một đàn cò.

Tín, Mùi và xã Chính hì hục đào. Mùi cỏ thơm, mùi đất ẩm và mùi lúa non, thoang thoảng, nhẹ nhàng mộc mạc.

Bác xã gái ngồi xổm trước rổ trầu cau. Mỗi cơn gió bấc thổi mạnh, bác xo vai, rụt cổ, xuýt xoa: “Re… ét! Ngồi yên một chỗ càng thấy rét khỏe”. Thằng Chốc chạy đi chạy lại đem trầu nước, điếu đóm cho những người làm, để khỏi mất thì giờ, chậm trễ công việc của họ. Ông lý Khóa vẫn hai tay thọc trong túi, đứng tư lự ngắm bốn phương…

Bỗng ông giơ tay vời xã Chính, gọi to: “Này, bác xã! Lại tôi bảo.”

Xã Chính đưa cuốc cho thằng Chốc, chạy vội lại.

Ông lý Khóa vươn tay ra vừa nói vừa chỉ vòng theo con đường đất ngoằn ngoèo: “Bác để ý trông, Văn chỉ thờ đức Khổng ta làm ngay trên đầu rồng, cái ao làng với cái giếng đằng trước Văn chỉ là hai mắt rồng. Chỗ phình ra, ngay chỗ gốc cây đa, là hòn ngọc. Nhờ hòn ngọc ấy mà làng ta lắm khoa bảng, lắm quan to đấy nhé. Bác cứ theo tay tôi chỉ. Mộ cụ Lang Trung xây ngay trên mình con rồng. Cụ tinh thực. Dòng dõi cụ là dòng dõi nhà địa lý có khác”.

Xã Chính không kịp nghĩ trước, cãi lại:

- Thưa cụ, thế sao con cái, cháu chắt cụ Lang chẳng làm nên trò trống gì… chỉ đến lý thôn là hết.

- Cái đó là tại số.

Thấy câu mình trả lời vô lý quá, ông liền chữa lại: “Người ta thường nói: sống nhà, già mồ. Tại con cháu cụ không xoay hướng nhà cứ để xây lưng vào đình thì hèn nào… Bây giờ bác nhìn đến dải đất này ở ngay vào chỗ đuôi con rồng nó quẫy. Bác tính, nó mà đã quẫy thì cái gì gần đấy chả phải đổ nát. Vậy ngôi mộ ông cụ nhà bác để đây không tài nào yên được. Không những thế… bác lại đây…”

Ông cầm tay xã Chính kéo sang phía khác, và nói tiếp: “Bác trông con kim, cạnh chùa Tiên xiên thẳng lại. Bác xem, cái gì cũng là phản cả. Còn nhiều lẽ khác, có nói bác cũng không sao hiểu được vì bác không biết địa lý… Ngôi đất này, chắc do tay xã Ân làm đây chứ gì.”

Bọn Mùi đào đã đến ván. Thằng Mùi quay ra hỏi. Xã Chính chạy lại. Ông lý Khóa truyền: “Cứ mở lên!”

Mùi và Tín, đứa cầm thuổng, đứa cầm mai, bẩy mạnh nắp ván… Một mùi hăng hăng, tanh như mùi bùn xông lên. Thằng Tín sợ, lùi lại vài bước. Thằng Mùi đi bốc mộ thuê đã quen, không rụt rè, sợ hãi, nó cúi xuống mò xương chìm dưới thứ nước xam xám và sền sệt như nước bùn. Xã Chính đốt mươi nén hương xạ, đem ra cắm bên mộ, trước đầu gió, rồi đứng trên bờ mộ đợi.

Thằng Mùi cầm chiếc đầu lâu giơ lên. Xã Chính chìa hai tay đỡ lấy một cách kính cẩn. Thằng Chốc sợ ù té chạy. Xã Chính gắt con: “Đồ bất hiếu, bất mục. Hoa cái ông mày chứ hoa cái ai”. Bác ngồi xuống rửa kỹ càng trong chiếc chậu sành, và trước khi đặt vào trong tiểu, bác rưới ít nước ngũ vị đựng trong chiếc chậu khác. Bác vừa lẩm nhẩm khấn: “Lạy cụ, cụ có khôn thiêng, xin cụ phò hộ cho cả nhà được thịnh vượng, làm ăn được may mắn, buôn bán được nhất bản vạn lợi…” Và bác tưởng như lời bác cầu khẩn đã được ông cụ chứng giám.

Chiếc đầu lâu nhe bộ răng nham nhở đen như cười chế nhạo. Mỗi lần bác rửa một đoạn xương, bác lại khấn như trước.

Ông lý Khóa đứng bên kia hố, hỏi sang:

- Thế nào, có khá không?

- Bẩm, cái xương nào cũng hơi xam xám như màu tro ấy.

- Thế thì xấu lắm nhỉ! Cũng may, chỉ độ một năm nữa thì sẽ mục nát như nước chè loãng.

Thấy xã Chính lộ vẻ buồn, ông thương hại, nói tiếp, vừa để an ủi bác vừa để phô tài năng của mình:

- Không ngại, bác ạ. Rồi được chỗ đất tốt, hài cốt lại màu dần. Mà ngôi mộ tôi sắp để cho ông cụ nhà bác mười phần chắc chắn là tốt cả mười.

Xã Chính hớn hở, trong lòng đầy hy vọng:

- Thôi thì trăm sự nhờ cụ cả. Sau này chúng cháu mở mày mở mặt ra được cũng là nhờ lòng nhân đức của cụ.

- Không dám. Giọng nhún nhường của ông lý không đủ che kín vẻ kiêu ngạo lộ trên nét mặt và trong dáng điệu ông.

Thằng Mùi mò đi mò lại mấy lần khắp lòng ván rồi đứng thẳng người, hai tay rủ xuống. Những ngón tay đen xạm xòe ra và cứng như càng cua.

Xã Chính giục:

- Mò nữa đi chứ!

- Tôi đã mò đi mò lại bốn, năm lần. Thật hết không còn một đốt xương nhỏ.

- Thì mất gì. Chú cứ chịu khó mò kỹ đi, nhỡ còn sót thì khốn.

Thằng Mùi nể lời, cúi xuống mò lại lần nữa: “Hết, thật hết.”

Xã Chính vẫn chưa tin. Bác cầm cán thuổng thúc bật những mảnh ván cho nước ở trong chảy ra, rồi cúi sát xuống, chăm chú nhìn như lúc bác tìm đồng hào hay cái kim rơi.

Thằng Mùi tủm tỉm cười, nói lẩm bẩm:

- Gớm! Ông lão cẩn thận quá. Tôi đã bảo không còn là không còn.

Xã Chính nghe rõ, trả lời lại:

- Cẩn tắc vô ưu, chú ạ. Thế bây giờ chú với chú Tín mang những ván thôi lên bờ rồi lấp hố lại cho tôi.

Bác xã gái nhút nhát từ nãy vẫn ngồi yên một chỗ không dám bén mảng đến. Cũng như bác trai, bác lẩm bẩm khấn luôn miệng.

Gió về trưa đã bớt lộng. Và khí nóng mặt trời ẩn trong mây đã làm ấm áp đôi chút. Phong cảnh đồng áng phơi dưới nắng, thoát hết hơi ẩm, trông như bức tranh sơn đã khô màu.

Ông lý Khóa đứng lâu dồn cẳng nên có vẻ mặt nhăn nhăn. Ông sắp sửa giục thì xã Chính cùng với Tín, Mùi ở dưới ruộng nước đi lên, và lau tay ướt vào vạt áo, nói:

- Thưa cụ, việc chúng cháu xong cả rồi. Bây giờ cụ truyền cho thế nào?

- Xong rồi à? Vậy thì theo lão đây. Lão xin đưa ông cụ đến chỗ đắc địa.

Xã Chính nghe hai tiếng “đắc địa” lấy làm thỏa lòng. Bác vui vẻ đứng cắt việc cho từng người. Thằng Tín từ nãy được nghỉ ngơi thì bây giờ phải cáng đáng việc đội quách.

Tín biết rằng không thể từ chối đành ngồi xuống đội, nét mặt khó đăm đăm. Xã Chính bê quách đặt lên đầu Tín, gượng cười nói: “Nhẹ đấy, không nặng đâu, mình ạ.”

Tín, hai tay đỡ lấy hai đầu quách nặng nề đứng dậy:

- Phải, nhẹ, nhẹ è cổ, sụm cả xương sống.

Bác xã gái đi sau, cự:

- Chớ nói bậy, tội chết. Này! Các cụ thiêng lắm đấy, chẳng bỡn đâu.

- Thì ai dám nói các cụ không thiêng. Nhưng mà nặng thì “vưỡn” nặng.

- Này, càng kêu nặng, người càng làm cho nặng thêm.

Bác quay lại nói với chồng:

- Ngày xưa, thím Em, mình nhỉ, chắc ngày ấy chú Tín chú Mùi còn bé chưa biết. Thím ta đội thúng hài cốt ông cụ nhà thím ta từ làng Vọng Cách về nhà. Thế mà từ đấy về đến làng xa hàng ba bốn thôi đường. Thím ta kể lại rằng thím ta thấy lúc nặng chĩu như thúng đá, lúc nhẹ bỗng như thúng bông. Biết là ông bà ông vải thiêng, thím ta vừa đi vừa khấn: “Con cắn rơm cắn rác con lạy cụ, cụ sống khôn thác thiêng, cụ thương đến nỗi vất vả nặng nhọc của con cháu mà làm nhẹ đi cho con cháu rước cụ về được đến nơi đ?