← Quay lại trang sách

Chương 4

Hắn cảm thấy cô đơn không tài nào tả xiết. Không có cô ấy, thế giới trống rỗng và lạnh lẽo, thứ giá lạnh hắn không có cách nào làm tan chảy. Nỗi đau cũng dễ dàng vượt qua hơn khi có cô ấy cùng chia sẻ. Sau khi cô ấy biến mất, hắn dường như phải gánh chịu thêm cả phần đau khổ của cô ấy và nó trở nên khủng khiếp quá mức chịu đựng. Hắn sống vật vã từng ngày, từng giờ, từng giây. Thế giới bên ngoài không tồn tại, trong đầu hắn chỉ có một ý nghĩ duy nhất rằng cô ấy đã vĩnh viễn ra đi.

Gánh nặng tội lỗi có thể phân thành những mảnh nhỏ và chia cho những kẻ cùng phạm tội. Hắn không muốn một mình gánh chịu tất cả. Hắn chưa bao giờ có ý định đó.

Hắn nhìn xuống hai bàn tay mình. Hắn ghét chúng. Chúng mang tới cái đẹp và cái chết, một bộ đôi hoàn toàn không tương thích mà hắn phải học cách sống chung. Chỉ khi vuốt ve cô ấy, đôi bàn tay hắn mới hoàn toàn tốt đẹp. Khi da hắn chạm vào da cô ấy, trong chốc lát mọi thứ xấu xa trên đời đều được gột đi. Đồng thời nuôi dưỡng những ước mơ thầm kín của đối phương. Tình yêu và cái chết, cuộc đời và thù hận. Sự đối lập đã biến họ thành những cánh bướm bay vòng vòng quanh ngọn lửa, ngày càng gần hơn. Cô ấy là người bị thiêu cháy trước.

Hắn cũng bắt đầu cảm thấy sức nóng của ngọn lửa phía sau gáy. Giờ nó cũng đã tới gần hắn rồi.

—★—

Bà cảm thấy mệt mỏi. Mệt mỏi vì phải dọn sạch những thứ ô uế của người khác. Mệt mỏi vì sự tồn tại không niềm vui của mình. Ngày lại ngày không hề khác biệt. Mệt mỏi vì từng ngày từng giờ, gánh nặng tội lỗi cứ nặng trĩu hai vai. Mệt mỏi vì mỗi sáng thức dậy và mỗi đêm trước khi đi ngủ đều băn khoăn lo lắng không biết Anders có khỏe không.

Vera cho cà phê lên bếp đun. Tiếng đồng hồ tíc tắc là âm thanh duy nhất vang lên trong bếp. Bà ngồi xuống cạnh chiếc bàn bếp và chờ cà phê sôi.

Cả ngày hôm nay bà làm công việc dọn dẹp cho gia đình Lorentz. Ngôi nhà quá rộng nên phải mất nguyên một ngày mới dọn hết. Đôi khi bà lại nhớ những ngày xưa cũ. Nhớ cảm giác an toàn vì chỗ làm ổn định, vị thế xã hội được đảm bảo khi làm quản gia cho gia đình giàu có nhất miền Bắc Bohuslän. Nhưng không phải lúc nào bà cũng nghĩ thế. Phần lớn bà thấy hài lòng vì không phải tới đó mỗi ngày. Không cần phải cúi đầu chào và khúm núm với Nelly Lorentz. Sự căm ghét của bà đối với người phụ nữ này vượt qua mọi giới hạn. Thế nhưng Vera vẫn phải tiếp tục làm việc cho bà ta từ năm này sang năm khác cho tới khi thời gian thay đổi mọi thứ. Việc nuôi người giúp việc trong nhà đã trở thành lỗi thời. Hơn ba mươi năm, bà luôn phải cúi đầu và lẩm nhẩm “xin cảm ơn bà Lorentz, dĩ nhiên là được thưa bà Lorentz, có ngay đây thưa bà Lorentz” đồng thời phải cố đè nén mong muốn túm lấy cái cổ mỏng manh của Nelly rồi vặn cho tới khi bà ta tắc thở. Đôi khi khát khao ấy trở nên mãnh liệt tới mức bà phải giấu hai tay sau lớp tạp dề để Nelly không phát hiện ra chúng đang run lên bần bật.

Ấm cà phê bắt đầu reo. Vera cố sức đứng thẳng người dậy, lấy ra một chiếc tách cũ, sứt sẹo rồi rót cà phê vào đó. Chiếc tách này là vật duy nhất còn sót lại từ bộ tách đám cưới mà bố mẹ Arvid trao lại cho họ ngày hai người thành hôn. Đó là một bộ đồ sứ Đan Mạch rất đẹp. Nền trắng với những bông hoa màu xanh đã dần phai sắc sau nhiều năm sử dụng. Bây giờ chỉ còn sót lại mỗi chiếc tách này. Khi Arvid còn sống họ chỉ dùng bộ tách này trong những dịp đặc biệt nhưng sau khi ông mất thì đối với bà ngày lễ hay ngày thường cũng chẳng có gì khác biệt. Qua nhiều năm sử dụng, bộ tách không vỡ thì cũng bị Anders đập nát hết trong một cơn say điên loạn hơn mười năm trước. Chiếc tách cuối cùng này chính là thứ tài sản đang giá nhất của bà.

Bà nhấp một ngụm cà phê với vẻ hưởng thụ. Khi chỉ còn sót lại vài giọt, bà đổ chúng ra chiếc đĩa để dưới tách rồi uống với một viên đường ngậm giữa hai hàm răng cho cà phê thấm qua. Hai chân bà đau nhức, rã rời sau một ngày dọn dẹp. Bà gác chân lên chiếc ghế đằng trước, hy vọng sẽ bớt nhức mỏi hơi một chút.

Căn nhà nhỏ và giản dị. Bà đã sống ở đây gần bốn mươi năm và sẽ tiếp tục cho tới khi chết. Mặc dù không được tiện lợi cho lắm. Ngôi nhà nằm trên đồi dốc đứng, bà phải dừng lại lấy hơi nhiều lần mỗi khi đi bộ về nhà. Tường nhà đã bong tróc, ngôi nhà trông nhếch nhác, xập xệ, xuống cấp một cách thảm hạn từ trong ra ngoài. Nhưng vị trí của ngôi nhà khá đẹp và nếu bà chịu bán nó đi rồi chuyển tới một căn hộ thì có thể dư ra một chút tiền, nhưng bà chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó. Nhà có sập bà cũng không chuyển. Dù sao đây cũng là nơi bà đã trải qua với Arvid những năm hạnh phúc ngắn ngủi sau đám cưới. Đêm đầu tiên bà ngủ bên ngoài nhà bố mẹ chính là trên chiếc giường trong phòng ngủ ngôi nhà này. Vào đêm tân hôn. Cũng trên chiếc giường đó, bà đã thụ thai Anders. Thời kỳ mang thai, bà chỉ có thể nằm nghiêng và Arvid nằm sát ngay bên cạnh, ôm lấy bà từ phía sau lưng, vuốt ve cái bụng bầu. Bên tai bà, ông thì thầm những lời về cuộc sống tương lai của họ. Về tất cả những đứa trẻ sẽ lớn lên trong ngôi nhà của họ. Về những tiếng cười ngập tràn hạnh phúc sẽ lấp đầy ngôi nhà trong những năm tháng sắp tới. Và khi họ già đi, lũ trẻ đã chuyển ra ngoài thì họ sẽ ngồi trên những chiếc ghế bập bênh trước lò sưởi trò chuyện về cuộc đời viên mãn mà họ đã cùng nhau trải qua. Hồi đó, hai bọn họ mới ngoài đôi mươi, chưa thể hình dung ra những gì đang chờ đón ở phía trước.

Cũng tại chiếc bàn bếp này bà đã nhận được cái tin ấy. Cảnh sát Pohl gõ cửa, chiếc mũ ngả trên tay và ngay khi nhìn thấy ông ta bà đã hiểu chuyện gì sẽ đến. Bà đã phải chặn tay lên môi để ngăn những lời ông ta định nói và ra hiệu cho ông ta đi vào bếp. Bà lạch bạch đi theo ông ta với cái bụng bầu chín tháng rồi chậm chạp pha một ấm cà phê theo đúng trình tự. Trong lúc chờ cà phê sôi, bà ngồi đó nhìn chằm chằm vào người đàn ông phía bên kia bàn. Nhưng ông ta thì không dám nhìn bà. Mắt ông ta đảo quanh các bức tường, tay không ngừng sửa lại cổ áo. Cho tới khi mỗi người có một ly cà phê bốc khói trước mắt thì bà mới ra hiệu cho ông ta nói tiếp. Bản thân bà không thốt ra một tiếng nào. Bà nghe thấy trong đầu mình vang lên những tiếng vo ve, ngày càng ồn ào. Bà nhìn thấy miệng viên cảnh sát chuyển động nhưng không từ ngữ nào có thể lọt vào mảng âm thanh hỗn loạn trong đầu. Bà chẳng cần nghe cũng biết giờ đây Arvid đã nằm sâu dưới đáy đại dương, dập dềnh cùng với đám rong biến. Chẳng từ ngữ nào có thể thay đổi được điều đó. Chẳng từ ngữ nào có thể xua đi những đám mây đang vần vũ trên bầu trời cho tới khi tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là một màu xám âm u.

Lúc này đây, nhiều năm sau đó, trên chiếc bàn này, Vera lại thở dài. Những người khác khi mất đi người thân yêu của mình đều nói rằng hình bóng của họ sẽ phai nhạt với thời gian. Nhưng với bà thì ngược lại. Hình bóng Arvid ngày càng trở nên đậm nét hơn, đôi khi bà nhìn thấy ông ở trước mắt, rõ ràng tới mức đau đớn giống như một chiếc vòng sắt thết chặt lấy trái tim. Việc Anders giống Arvid như đúc vừa là một lời chúc phúc, vừa là một sự nguyền rủa. Bà biết rằng nếu Arvid còn sống thì chuyện xấu xa đó sẽ không bao giờ xảy ra. Ông chính là sức mạnh của bà, có ông ở bên cạnh, bà sẽ trở nên mạnh mẽ như mong muốn.

Vera giật mình khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Bà đang ngập chìm trong ký ức và không muốn bị tiếng chuông điện thoại chói tai quấy rầy. Bà hạ hai chân đã nghỉ ngơi được một lúc từ trên ghế xuống rồi ra ngoài sảnh nhấc điện thoại.

“Mẹ, là con.”

Anders lắp bắp trong điện thoại và với kinh nghiệm nhiều năm của mình bà biết chính xác thằng bé đang say xỉn mức độ nào. Đã sắp bất tỉnh đến nơi. Bà không khỏi thở dài.

“Anders này, con sao rồi?”

Nhưng thằng bé chẳng thèm trả lời. Cuộc đối thoại giữa hai bọn họ vẫn luôn như thế.

Vera có thể nhìn thấy mình trong tấm gương ở hành lang với ống nghe bên tai. Chiếc gương cũ kỹ với những chấm đen trên mặt kính, bà chợt nghĩ, bản thân mình cũng giống như một chiếc gương rạn. Mái tóc màu xám, nhếch nhác, lác đác vài cụm màu sẫm nguyên thủy. Bà vẫn luôn chải tóc ngược về phía sau rồi cắt bằng kéo bấm móng tay trước mặt gương trong phòng tắm. Không việc gì phải tốn tiền đi cắt tóc. Gương mặt bà đầy những rãnh xẻ và nếp nhăn vì lo nghĩ. Trang phục của bà cũng giống như vẻ ngoài; gần như không có màu gì khác ngoài xám và xanh lá cây sẫm, nhưng tiện dụng. Nhiều năm làm việc nặng và ăn uống không thấy ngon khiến bà không phát tướng như những phụ nữ khác. Trông bà mạnh mẽ và cứng cáp. Giống như một con ngựa kéo.

Đột nhiên bà nhận ra Anders đang nói gì đó ở đầu dây và giật mình rời mắt khỏi chiếc gương.

“Mẹ, ở bên ngoài có rất nhiều xe cảnh sát. Một đoàn hộ tống rất kinh. Họ hẳn là tới bắt con. Chắc là thế. Con phải làm cái quái gì bây giờ?”

Vera nghe thấy giọng thằng bé càng lúc càng dồn dập, vẻ hoảng hốt mỗi lúc một tăng. Một cơn rét lạnh xuyên suốt cơ thể bà. Trong gương, những khớp ngón tay giữ điện thoại của bà trở nên trắng bệch.

“Đừng làm gì cả, Anders. Cứ đợi ở đó, mẹ sẽ tới ngay.”

“Được rồi, nhưng vì Chúa, mẹ hãy nhanh lên. Bình thường cảnh sát không đông như thế này, Mẹ, thông thường chỉ có một xe cảnh sát mà thôi. Giờ có những ba xe đỗ bên ngoài, đèn xanh nhấp nháy, còi hụ liên tục. Mẹ nó…”

“Anders, nghe mẹ nói này. Hãy hít một hơi thật sâu rồi bình tĩnh lại. Mẹ sẽ gác máy và tới ngay lập tức.”

Bà có thể nghe thấy mình đã thành công trong việc làm cho thằng bé tĩnh tâm lại một chút. Bà gác máy rồi mặc vội áo khoác và chạy ra ngoài, chẳng thèm khóa cửa lại.

Bà chạy ngang qua bãi đỗ xe phía trước chỗ đậu dành cho xe taxi rồi đi tắt phía sau khu dỡ hàng của siêu thị Eva’s Food. Sau đó bà phải đi chậm lại và mất gần mười phút mới tới được khu căn hộ của Anders.

Bà đến đúng lúc nhìn thấy hai viên cảnh sát lực lưỡng còng tay dẫn thắng bé đi. Bà những muốn thét lên nhưng rồi lại nín nhịn khi nhìn thấy tất cả hàng xóm láng giềng châu đầu ra ngoài cửa sổ như những con chim ác rình mồi. Bà không đời nào để họ có thêm kịch xem ngoài những gì vừa chứng kiến. Niềm kiêu hãnh là thứ duy nhất bà còn sót lại. Vera rất ghét những lời bàn tán bám lấy bà và Anders như kẹo. Vẫn luôn có rất nhiều lời đồn đại xung quanh họ và giờ đây chúng sẽ tha hồ tác oai tác quái. Bà biết họ sẽ nói: “Vera tội nghiệp, đầu tiên là chồng bị chết đuối, giờ đến lượt con trai chết chìm trong rượu. Bà ấy thật không đáng bị như thế.” Đúng vậy, bà biết tỏng họ sẽ nói gì. Nhưng bà cũng biết rằng mình sẽ làm mọi cách để giảm thiểu tác hại. Bà không thể gục ngã vào lúc này. Nếu không mọi thứ sẽ lần lượt sụp đổ như một ngôi nhà xếp bằng các lá bài. Vera quay sang nhân viên công vụ đứng gần đấy nhất, một phụ nữ nhỏ bé, tóc vàng trông không hợp lắm với trang phục cảnh sát hà khắc. Bà vẫn chưa quen với sự sắp xếp mới của xã hội, rằng phụ nữ có thể làm bất cứ nghề gì mà họ muốn.

“Tôi là mẹ của Anders Nilsson. Đã xảy ra chuyện gì? Các người mang nó đi đâu?”

“Thật không may là tôi không thể cung cấp cho bà bất cứ thông tin gì. Bà phải liên lạc với đồn cảnh sát Tanumshede. Họ có lệnh bắt giữ đối tượng.”

Mỗi một câu lại làm tim bà như chùng xuống. Bà hiểu rằng việc bắt bớ lần này không phải là do nhậu nhẹt ẩu đả mà ra. Những chiếc xe cảnh sát bắt đầu nối nhau rời đi. Bà nhìn thấy Anders ngồi giữa hai viên cảnh sát trong chiếc xe cuối cùng. Thằng bé quay lại khi xe lăn bánh và nhìn bà cho tới khi mất bóng.

—★—

Patrik nhìn chiếc xe chở Anders Nilsson lái về hướng Tanumshede.

Anh cho rằng sự hiện diện đông đảo của lực lượng cảnh sát có phần quá phô trương. Nhưng vì Mellberg muốn náo nhiệt nên đã có náo nhiệt. Lực lượng bổ sung từ Uddevalla đã được điều động tới để hỗ trợ vụ bắt người. Kết quả là đã lãng phí thời gian của ít nhất bốn trong số sáu nhân viên công vụ có mặt tại hiện trường.

Một phụ nữ vẫn đứng trong bãi đỗ, nhìn theo những chiếc xe cảnh sát.

“Mẹ của thủ phạm,” cảnh sát viên cao cấp Lena Waltin của sở cảnh sát Uddevalla, người giúp Patrik tìm ra căn hộ của Anders Nilsson, nói.

“Lena, cô cũng biết anh ta không phải là thủ phạm chừng nào chưa được chứng minh là có tội và bị kết án. Cho tới lúc đó, anh ta vẫn là một người vô tội như tất cả chúng ta.”

“Tôi dám chắc là anh ta. Tồi đánh cược một năm tiền lương là anh ta có tội.”

“Nếu cô chắc chắn như thế thì nên đánh cược cao hơn số tiền còm đó chứ. ”

“Ha ha, rất hài hước. Đem tiền lương ra đùa với cảnh sát chẳng khác nào ngáng chân một anh què, thề có Chúa.”

Patrik không thể không đồng ý.

“Ở đây chắc chẳng còn việc gì nữa. Chúng ta lên trên nhà chứ?”

Anh thấy mẹ Anders vẫn đứng đó nhìn theo những chiếc xe cảnh sát, dù chúng đã mất hút từ lâu. Anh thật lòng cảm thấy áy náy và toan tới nói mấy lời an ủi. Nhưng Lena đã kéo tay áo anh lôi về phía cổng vào tòa nhà. Anh thở dài, nhún vai rồi đi theo cô vào bên trong thực hiện lệnh khám xét.

Họ thử mở cửa căn hộ của Anders Nilsson. Cửa không khóa nên họ có thể đi thẳng vào trong. Patrik nhìn xung quanh và lại thở dài. Căn hộ ở trong tình trạng vô cùng tồi tệ và anh tự hỏi không hiểu có thể tìm ra bằng chứng có ích nào trong đám hỗn độn này. Họ bước qua đống vỏ chai ngoài hành lang rồi quan sát phòng khách và bếp.

“Mẹ kiếp!” Lena lắc đầu vẻ kinh tởm.

Họ lấy găng tay cao su ra khỏi túi rồi đeo vào. Họ âm thầm nhất trí để Patrik bắt đầu khám xét phòng khách còn Lena thì kiểm tra bếp.

Phòng khách nhà Anders Nilsson mang lại cảm giác gì đó hơi biến thái. Bẩn thỉu, ngồn ngộn rác, gần như không có bất kỳ đồ đạc và vật dụng cá nhân nào, giống như một chỗ ngủ qua đêm ở trung tâm xã hội dành cho người say rượu. Nhưng anh chưa bao giờ ở trong một căn hộ của người nghiện với những bức tường phủ kín tranh. Tranh treo san sát gần như phủ kín bốn bức tường từ sàn tới trần nhà. Sự bùng nổ nhức nhối của màu sắc như chọc vào mắt khiến anh phải kiềm chế lắm mới không giơ hai tay lên che chúng lại. Đó là những bức tranh theo trường phái ấn tượng, chỉ dùng những gam màu nóng và tác động của chúng đối với anh mạnh tới mức anh có cảm giác như đang bị thụi nhiều cú vào bụng. Xúc cảm chân thật đến độ anh khó khăn lắm mới có thể đứng vững. Anh đành phải ép mình rời mắt khỏi những bức tranh giống như đang chực nhảy xổ vào mình.

Anh bắt đầu thận trọng xem xét các đồ vật của Anders. Mà cũng chẳng có gì nhiều để xem. Trong giây lát anh thấy vô cùng cảm kích trước cuộc sống xem ra đầy ưu đãi của mình khi so sánh với chủ nhân nơi này. Những khó khăn trong cuộc sống của anh đột nhiên trở nên vô cùng nhỏ bé. Anh vẫn luôn kinh ngạc trước ý chí sống sót của con người, mạnh mẽ tới mức cho dù phải sống một cuộc đời không ra gì, thiếu thốn mọi thứ thì người ta vẫn chọn sống tiếp từ ngày này qua năm khác. Một cuộc đời như Anders Nilsson thì liệu còn có nguồn vui nào sót lại? Anh ta có bao giờ trải qua những cảm giác làm cho cuộc sống trở nên đáng sống như niềm vui, sự mong đợi, hạnh phúc hay niềm phấn khởi? Hay mọi thứ chỉ là một điểm tạm dừng trước cơn say kế tiếp?

Patrik xem xét qua tất cả mọi thứ trong phòng khách. Anh sờ lên tấm đệm xem có gì giấu ở bên trong, mở ngăn kéo chiếc tủ duy nhất trong phòng và kiểm tra phía dưới. Anh cũng cẩn thận gỡ các bức tranh xuống, từng bức một, để xem xét phía đằng sau. Nhưng chẳng có gì. Hoàn toàn chẳng có bất cứ thứ gì khiến anh phải chú ý. Anh liền đi vào bếp xem Lena có may mắn hơn không.

“Đúng là một cái chuồng heo. Thế quái nào mà người ta có thể sống được ở một nơi như thế này chứ?”

Với vẻ ghê tởm, cô lần lượt xem xét những thứ trong cái sọt rác đã bị cô đổ ra một tờ báo.

“Cô có tìm thấy chứ gì hay ho không?”

“Có và không. Tôi tìm thấy vài hóa đơn trong thùng rác. Danh sách các cuộc gọi trên hóa đơn điện thoại đáng để nghiên cứu thêm. Ngoài ra những thứ còn lại chỉ toàn là rác rưởi.” Cô cởi xoẹt găng tay ra rồi hỏi anh: “Anh thấy sao? Đã kết thúc được chưa?”

Patrik nhìn đồng hồ. Họ ở đây đã được hai tiếng, bên ngoài trời đã tối.

“Ừ, xem ra hôm nay chỉ có thể dừng ở đây thôi. Cô về nhà bằng cách nào? Cần quá giang không?”

“Tôi tự lái xe tới nên không sao. Dù sao cũng cảm ơn anh.”

Họ rời khỏi căn hộ mà giống như trút được một gánh nặng và không quên khóa cửa cẩn thận.

Đèn đường đã sáng lúc họ ra tới bãi đỗ xe. Tuyết bắt đầu rơi lất phất từ khi họ còn ở trong căn hộ của Anders nên cả hai được tha hồ dọn tuyết trước kính chắn gió. Khi Patrik lái xe về phía cây xăng OK Q8 trong đầu anh dâng lên một ý nghĩ, cái ý nghĩ không ngừng giày vò anh suốt cả ngày hôm nay. Ngồi im lặng trong xe, một mình đối diện với những suy nghĩ trong đầu, anh phải thừa nhận rằng có gì đó không đúng trong việc bắt giữ Anders Nilsson. Anh không chắc Mellberg đã hỏi những câu hỏi chuẩn xác trong lúc thẩm vấn nhân chứng, khiến Anders bị giải tới đồn. Có lẽ anh cần phải xem xét kỹ hơn chuyện này. Tới giữa bùng binh của trạm xăng thì Patrik đã quyết chí. Anh quay đấu xe về hướng trung tâm Fjällbacka thay vì rẽ về đồn. Anh hy vọng bà Dagmar Petrén đang ở nhà.

—★—

Erica đang nghĩ tới đôi bàn tay của Patrik. Cô thường chú ý trước hết tới bàn tay và cổ tay của đàn ông. Cô nghĩ rằng hai bàn tay cũng rất gợi tình. Không nên quá nhỏ, cũng không cần quá lớn như nắp bồn cầu. Vừa đủ lớn với những đường gân nổi lên, không có lông, vừa mạnh mẽ vừa dẻo dai. Bàn tay Patrik rất vừa phải.

Cô cố đẩy những cơn mơ mộng viển vông ra khỏi đầu. Chẳng có tác dụng gì khi ngồi suy nghĩ chuyện tình cảm sâu xa lúc mới chỉ có vài xao động trong lòng. Mà cô thậm chí cũng chẳng biết mình sẽ ở lại đây được bao lâu. Nhà bị bán rồi thì chẳng còn gì giữ chân cô nữa và cô sẽ trở lại căn hộ ở Stockholm với cuộc sống trước kia, cùng bạn bè và những người quen cũ. Những tuần lễ ở Fjällbacka, rất có thể chỉ là một đoạn chuyển tiếp ngắn ngủi trong cuộc đời. Với tất cả những vấn đề đó thì việc tính toán xây dựng một lâu đài tình ái với một người bạn thuở thiếu thời xem ra không được khôn ngoan cho lắm.

Erica nhìn ánh hoàng hôn bắt đầu xuất hiện nơi chân trời dù lúc này mới chỉ hơn ba giờ chiều và thở dài ngao ngán. Cô đang co ro trong chiếc áo len ngoại cỡ, rộng thùng thình mà cha cô vẫn thường mặc đi biển vào những ngày giá lạnh. Cô cố ủ ấm đôi bàn tay buốt giá của mình bằng cách giấu chúng trong tay áo rồi buộc hai đầu lại với nhau. Giây phút này, cô cảm thấy mình có chút đáng thương. Cuộc đời chẳng có mấy niềm vui. Cái chết của Alex, vụ tranh chấp nhà cửa, tên Lucas khốn kiếp, quyển sách viết dở chật vật, hết thảy đều đè nặng trên vai. Trong khi cô vẫn còn quá nhiều việc cần giải quyết liên quan tới hậu sự của bố mẹ mình, cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Những ngày này, cô vẫn chưa lấy được can đảm để tiếp tục việc thu dọn đồ đạc cũ của bố mẹ, khắp nhà ngổn ngang thùng các tông và những túi rác mới đựng non nửa. Còn trong lòng cô thì đầy những khoảng chơi vơi, mất phương hướng và những đoạn tình cảm mờ mịt.

Cả buổi chiều cô nghĩ tới nghĩ lui cảnh tượng cô vừa chứng kiến giữa Dan và Pernilla mà không tài nào cắt nghĩa nổi. Lâu lắm rồi cô và Pernilla không hề có xích mích gì, mọi chuyện đã được làm rõ từ nhiều năm nay. Ít nhất là cô vẫn luôn nghĩ thế. Vậy tại sao Pernilla lại có phản ứng như thế? Erica tính gọi điện cho Dan nhưng lại ngại gặp phải Pernilla bên kia đầu dây. Vào lúc này cô thực sự không có khả năng đối phó thêm một cuộc khủng hoảng nào nữa nên quyết định gác nó sang một bên. Cô cứ để chuyện đó nguội đi, hy vọng rằng chỉ là do đêm trước Pernilla không ngủ ngon và mọi chuyện sẽ tan biến vào lần gặp mặt tới. Thế nhưng cái cảnh tượng đó vẫn không ngừng cắn rứt cô. Thái độ của Pernilla không thể nào là cảm hứng bất chợt mà hẳn phải có cội nguồn sâu xa. Nhưng cô chịu không tài nào đoán nổi đó là gì.

Việc cuốn sách bị sa lầy khiến Erica căng thẳng nên cô quyết định xoa dịu lương tâm bằng cách dành chút thời gian cho việc viết lách. Cô ngồi xuống trước máy tính trong phòng làm việc và nhận ra rằng để đánh máy thì phải thò tay ra khỏi áo ấm. Ban đầu, mọi thứ nhúc nhích một cách chậm chạp nhưng sau đó thì cơ thể ấm áp dần lên và sức sáng tạo bắt đầu lan tỏa. Cô vẫn luôn ghen tị với những nhà văn có thể giữ kỷ luật nghiêm ngặt trong việc viết lách. Còn cô lần nào cũng phải ép mình ngồi xuống và viết. Không phải vì lười biếng mà là vì một nỗi sợ hãi thâm căn cố đế rằng cô có thể mất đi khả năng của mình, rằng bản thảo lần trước sẽ là bản thảo cuối cùng. Rằng cô sẽ ngồi đó, những ngón tay đặt trên bàn phím, mắt nhìn chằm chằm vào màn hình nhưng chẳng có gì xảy ra. Sẽ chỉ có sự trống rỗng, những ngôn từ thui chột và cô nhận ra rằng mình sẽ chẳng bao giờ còn có thể viết ra được một câu hoàn chỉnh. Mỗi khi hiểm họa đó không xảy ra, cô lại thở phào nhẹ nhõm. Giờ đây những ngón tay của cô đang lướt nhanh trên bàn phím và chỉ trong một giờ cô đã viết được hơn hai trang. Viết thêm được ba trang nữa thì cô bắt đầu có cảm giác thành tựu và cho phép bản thân dành chút thời gian cho cuốn sách về Alex.

—★—

Phòng giam vốn là một nơi quen thuộc. Đây không phải là lần đầu tiên hắn vào khám, những đêm say xỉn nôn mửa trong trại giam vốn là chuyện thường nhật trong thời kỳ đen tối. Nhưng lần này thì khác. Việc bị bắt giam lần này rất nghiêm trọng.

Hắn nằm nghiêng một bên trên chiếc giường cứng, cuộn tròn người lại như tư thế của một bào thai, hai tay ôm lấy đầu để tránh cảm giác tiếp xúc trực tiếp với lớp nhựa dính. Những cơn rùng mình ớn lạnh chạy khắp người do khí lạnh trong nhà giam và hơi rượu bốc ra từ cơ thể hắn.

Điều duy nhất người ta nói với hắn là hắn bị tình nghi sát hại Alex. Rồi họ tống hắn vào trong phòng giam và bảo hắn chờ ở đó. Họ cho rằng hắn còn có thể làm gì ở nơi lạnh lẽo này chứ? Mở lớp dạy vẽ chăng? Anders khẽ cười thầm.

Những ý nghĩ rong ruổi vô định trong đầu khi mắt hắn không tìm thấy điểm dừng. Lớp sơn màu xanh lá cây nhàn nhạt bên ngoài bức tường bê tông cũ đã bong tróc thành những đốm màu xám. Hắn tưởng tượng ra việc sơn lại những bức tường kia bằng những gam màu nóng. Chỗ này một vệt đỏ, nơi kia một vệt vàng. Những nét sổ mạnh mẽ sẽ nhanh chóng xóa sạch cái màu xanh nhếch nhác đó. Với con mắt tưởng tượng của hắn, căn phòng nhanh chóng trở thành một bảng màu rực cháy, và chỉ khi đó hắn mới cố thể tập trung suy nghĩ.

Alex đã chết. Đây là một sự thật hiển nhiên, không phải là một ý nghĩ mà hắn có thế trốn chạy khi không muốn đối mặt. Alex đã chết và tương lai của hắn cũng đã chết cùng với cô ấy.

Rất nhanh thôi họ sẽ tới tìm hắn. Lôi hắn đi. Thô bạo đẩy hắn, giày vò hắn, giằng xé hắn cho tới khi tìm ra sự thật run rẩy và trần trụi. Hắn không thể ngăn cản họ. Mà hắn thậm chí cũng chẳng biết liệu hắn có thực sự muốn ngăn cản họ hay không nữa. Có quá nhiều thứ hắn không còn khả năng nhận thức. Trước đây cũng vậy. Vì trên đời này, rất ít thứ có đủ năng lực cứu chuộc hắn khỏi men rượu. Ngoại trừ Alex. Hay việc biết được rằng ở đâu đó, cô ấy đang hít thở cùng một bầu không khí, có cùng một suy nghĩ, và chịu cùng một nỗi đau với hắn. Đó chính là thứ duy nhất có năng lực len lỏi thẩm thấu qua đám sương mù bất lương luôn tìm cách chôn vùi những ký ức của hắn trong bóng tối từ bi.

Hai chân hắn bắt đầu mất cảm giác do nằm quá lâu trên giường cứng nhưng hắn phớt lờ các dấu hiệu cơ thể gửi tới, ngoan cố không dịch chuyển lấy một li. Nếu cử động, hắn có thể sẽ làm mất bảng màu tưởng tượng mà hắn vừa dựng lên trên các bước đường, trở về với thứ xấu xí lúc trước.

Trong những giây phút tỉnh táo hơn, hắn lại thấy hài hước, hay ít nhất cũng là cảm giác mỉa mai đối với tất cả những chuyện này. Việc hắn sinh ra với một nhu cầu không bao giờ thỏa mãn đối với cái đẹp nhưng lại bị kết án chung thân trong một cuộc đời bẩn thỉu và nhầy nhụa. Có thể số phận của hắn đã được viết trên những vì sao vào cái ngày hắn sinh ra, nhưng đã bị cải biên vào cái ngày đáng nguyền rủa đó.

Giá như. Không biết bao nhiêu lẩn suy nghĩ của hắn quanh quẩn bên cái chữ “giá như”, rằng cuộc đời hắn sẽ như thế nào nếu chữ giá như ấy xảy ta. Có lẽ là một cuộc đời tốt đẹp và đáng trân trọng với một gia đình, một mái ấm và nghệ thuật giống như một nguồn vui chứ không phải là nỗi tuyệt vọng. Trẻ con sẽ chơi đùa trong khu vườn bên ngoài xưởng vẽ giữa mùi bánh nướng tỏa ra thơm lừng từ căn bếp. Một hình mẫu kiểu Carl Larsson* với những vầng hào quang màu hồng của ảo tưởng. Và Alex luôn xuất hiện trong những bức tranh đó. Luôn ở tâm điểm, còn hắn giống như một hành tinh quay xung quanh cô.

Những ảo tưởng đó luôn khiến lòng hắn ấm áp nhưng sự ấm áp đó sẽ đột ngột bị thay thế bằng một hình ảnh lạnh lẽo với một tông màu nhợt nhạt và một thứ không gian tê tái. Hắn biết rất rõ hình ảnh đó. Hắn đã nghiên cứu nó không biết bao đêm trong sự im lặng và tĩnh mịch để có thể nắm rõ từng tiểu tiết. Thứ hắn sợ nhất chính là máu. Màu đỏ, đối lập hoàn toàn với màu xanh. Thần Chết, như thường lệ, cũng luôn có mặt ở đó. Ẩn nấp trên các đường viền, xoa tay khoái trá. Chờ hắn cử động hay làm bất kỳ cử chỉ nào. Điều duy nhất hắn có thể làm được là giả vờ như không nhìn thấy Thần Chết. Phớt lờ y cho tới khi y biến mất. Và hình ảnh kia có thể sẽ lấy lại được thứ ánh sáng màu hồng của nó. Alex có thể sẽ lại mỉm cười với hắn, nụ cười làm trái tim hắn rung động. Nhưng Thần Chết là một kẻ đồng hành quen thuộc khó có thể làm ngơ. Hai người bọn họ đã biết nhau từ nhiều năm nay nhưng thời gian cũng không giúp cho mối quan hệ này trở nên dễ chịu hơn. Ngay trong những giây phút tươi sáng nhất cùng chia sẻ với Alex, Thần Chết cũng xen vào giữa hai người bọn họ, giày vò, quấy rối.

Sự im lặng trong buồng giam thật dễ chịu. Hắn có thể nghe thấy tiếng người chuyển động từ xa, nhưng có vẻ xa tới mức giống như thuộc về một thế giới khác. Cho tới khi hắn nghe thấy tiếng bước chân tiến lại gần thì mới giật mình tỉnh mộng. Tiếng bước chân dừng lại ngoài hành lang, vững vàng tiến tới trước cửa buồng giam của hắn. Có tiếng khóa lách cách và rồi cánh cửa mở ra, viên cảnh sát trưởng thấp béo xuất hiện trên ngưỡng cửa. Bơ phờ, Anders cho hai chân xuống đất. Đã tới giờ thẩm vấn. Hãy cố kết thúc việc này cho sớm.

—★—

Những vết bầm tím trên mặt đã bắt đầu nhạt dẩn để có thể dùng phấn che lại Anna nhìn khuôn mặt mình ở trong gương. Trông khắc khổ và tàn tạ. Không trang điểm là thấy rất rõ các đường gân màu xanh. Một mắt vẫn còn đỏ vằn lên. Mái tóc vàng đã trở nên xỉn màu và xơ xác, cần được cắt tỉa tử tế. Cô vẫn chưa xếp được hẹn với thợ cắt tóc chỉ bởi vì không còn hơi sức đâu mà quan tâm tới chuyện đó. Mọi sức lực của cô đều dồn vào việc chăm sóc sinh hoạt hằng ngày của hai đứa trẻ và đó là điều duy nhất khiến cô có thể ngẩng cao đầu. Vì sao mọi sự lại thành ra nông nỗi này cơ chứ?

Cô buộc chặt tóc theo kiểu đuôi ngựa và chật vật mặc quần áo để tránh khỏi đụng tới bên sườn bị đau. Trước đây anh ta còn cẩn thận chỉ đánh vào những nơi có thể dùng quần áo che giấu nhưng từ sáu tháng nay anh ta bắt đầu mặc kệ và liên tục đánh vào mặt cô.

Nhưng bị đánh đập không phải là việc tồi tệ nhất. Mà là sống trong nơm nớp lo sợ, chờ đợi lần bị đánh đập tiếp theo. Tàn bạo nhất là anh ta hoàn toàn nhận thức được điều đó và thích thú đùa giỡn với nỗi sợ hãi của cô. Anh ta sẽ giơ tay lên để đánh cô rồi lại chuyển thành một cái vuốt ve và nụ cười cợt nhả. Đôi khi anh ta đánh cô mà chẳng có lý do rõ ràng. Một cách bất thình lình. Không phải vì anh ta cần đến lý do mà là ngay trong lúc hai người bọn họ đang bàn bữa tối ăn gì, xem chương trình ti vi nào, anh ta cũng có thể bất ngờ vung nắm đấm, thụi vào bụng, vào mặt, vào lưng cô, vào bất cứ nơi nào mà anh ta muốn. Rồi anh ta lại tiếp tục cuộc thảo luận như chưa hề dừng lại, như chưa hề có chuyện gì xảy ra trong khi cô nằm vật trên sàn, thở gấp. Đó là thứ cảm giác quyền lực mà anh ta ưa thích.

Quần áo của Lucas nằm rải rác khắp buồng tắm, cô tỉ mẩn nhặt từng cái treo vào mắc hoặc bỏ vào chậu giặt. Khi buồng tắm một lần nữa trở lại trật tự hoàn hảo, cô liền tới kiểm tra các con. Adrian vẫn đang nằm ngửa, ngủ yên bình với núm vú giả ngậm ở miệng. Emma lặng lẽ ngồi trên trong giường của mình và Anna đứng trên ngưỡng cửa ngắm con bé một lúc. Con bé mới giống Lucas làm sao. Cùng một gương mặt góc cạnh đầy vẻ quyết đoán và đôi mắt màu xanh nhạt. Cùng một tính cách bất kham.

Emma là một trong những lý do khiến cô không thể ngừng yêu Lucas. Ngừng yêu anh ta giống như chối bỏ một phần của Emma. Anh ta luôn là một phần của con gái họ, và cũng là một phần của cô. Anh ta luôn là một người cha tốt đối với bọn trẻ. Adrian vẫn còn quá nhỏ để hiểu biết nhưng Emma luôn tôn sùng Lucas và Anna không muốn tước đoạt con bé khỏi cha của nó. Làm sao cô có thể lấy đi của chúng sự an toàn, tước bỏ mọi thứ vốn quen thuộc và quan trọng trong cuộc đời chúng? Thay vào đó cô cố gắng mạnh mẽ hơn cả phần của chúng để bọn họ có thể vượt qua thời kỳ này. Lúc đầu, mọi chuyện đâu có diễn ra như vậy. Nên họ hẳn có thể trở về như lúc ban đầu. Nếu cô đủ mạnh mẽ. Dù sao thì anh ta vẫn nói với cô rằng anh ta thực sự không muốn đánh cô, đánh cô cũng chỉ vì muốn tốt cho cô, vì cô đã không làm những điều cần làm. Rằng giá mà cô có thể nỗ lực một chút trong việc trở thành một người vợ tốt hơn. Rằng cô không hiểu anh ta. Giá như cô có thể tìm ra cách làm anh ta vui vẻ, giá như cô có thể làm mọi thứ đúng đắn để anh ta không phải lúc nào cũng thất vọng vì cô.

Erica không hiểu gì cả. Erica với tính cách độc lập vả thói quen đơn độc của chị ấy. Lòng can đảm cũng như sự lo âu lúc nào cũng thái quá của chị ấy. Anna có thể nghe thấy vẻ khinh thường trong giọng nói của Erica và điều đó khiến cô muốn nổi điên. Chị ấy thì biết gì về trách nhiệm gìn giữ một cuộc hôn nhân và một gia đình? Về việc vác trên vai một gánh nặng đồ sộ tới mức khó có thể đứng vững. Thứ duy nhất Erica phải bận tâm chính là bản thân. Chị ấy vẫn luôn là người ta đây cái gì cũng biết. Sự quan tâm thái quá như tình mẫu tử của Erica đôi khi khiến cô ngạt thở. Dường như đôi mắt dò xét của Erica theo cô khắp mọi nơi trong khi cô chỉ muốn được yên thân. Nếu mẹ không bao giờ quan tâm tới chị em họ thì có làm sao? Không phải họ còn có bố đấy thôi. Có được một trọng hai phụ mẫu là tốt lắm rồi. Sự khác biệt giữa cô và Erica là cô thì chấp nhận thực tế trong khi chị cô luôn đi tìm câu trả lời cho nguyên nhân của sự mọi sự việc. Sau đó Erica thường xuyên hướng câu hỏi đó luôn gắng sức, nỗ lực quá mức trong cuộc sống. Còn Anna, trái lại thấy chẳng việc gì phải nỗ lực. Chẳng phải sẽ dễ hơn nếu không lo lắng gì, để mọi chuyện diễn ra theo tự nhiên, và sống vì ngày hôm nay? Vì thế cô luôn có chút hằn học với Erica. Chị ấy lúc nào cũng lo lắng, băn khoăn, cưng nựng em gái mình khiến cho Anna gần như không va chạm với cuộc sống và những người xung quanh. Việc rời nhà bố mẹ ra ngoài sống giống như được giải phóng. Khi gặp được Lucas không lâu sau đó cô đã từng nghĩ, rốt cuộc cô đã tìm được người duy nhất yêu mình vì con người thật của mình và hơn hết, khao khát tự do của mình.

Cô mỉm cười cay đắng trong khi lau dọn chiếc bàn mà Lucas vừa dùng bữa sáng. Tự do? Giờ thì ngay cả đánh vần từ đó như thế nào cô cũng không còn nhớ nữa. Cuộc sống của cô chỉ là không gian chật hẹp bên trong căn hộ này. Chỉ nhờ lũ trẻ mà cô mói có thể tiếp tục hít thở, lũ trẻ và hy vọng một ngày nào đó cô sẽ tìm thấy một công thức phù hợp hay một đáp án chính xác giúp cho mọi thứ lại trở về như trước đây.

Chậm chạp, cô đậy lại nắp hộp bơ, cất pho mát vào túi ni lông, cho bát đĩa bẩn vào máy rồi lau bàn. Khi mọi thứ đã sạch sẽ và sáng sủa, Anna ngồi xuống một chiếc ghế trong bếp rồi quan sát xung quanh. Tiếng Emma bi bô trong phòng là âm thanh duy nhất cô nghe thấy và Anna tự cho phép mình tận hưởng khoảnh khắc yên bình và tĩnh lặng ngắn ngủi ấy. Căn bếp rất thoáng và sáng sủa, nội thất lịch lãm với sự kết hợp giữa gỗ và inox. Họ đã không tiếc tiền đầu tư vào các thiết bị, hầu hết đều là các nhãn hiệu nổi tiếng như Philip Starck và Poggenpohl. Bản thân Anna vốn thích có một căn bếp ấm cúng hơn nhưng khi họ chuyển vào căn hộ năm phòng ở Östermalm này thì cô biết là nên ngậm miệng lại.

Cô thậm chí không thể cân nhắc việc Erica thực sự lưu luyến ngôi nhà ở Fjällbacka. Cô không thể để tình cảm chi phối và số tiền thu được sau khi bán nhà rất có thể sẽ đem lại cho cô và Lucas một khởi đầu mới. Cô biết là anh ta không hài lòng với công việc hiện giờ ở Thụy Điển và muốn quay trở lại London nơi có nhiều cơ hội thăng tiến và năng động hơn. Mặc dù lương hiện giờ của anh ta rất cao nhưng với nguồn thu từ ngôi nhà ở Fjällbacka cộng với số tiền để dành họ hẳn sẽ mua được một ngôi nhà ở London phù hợp với địa vị xã hội của mình. Điều đó vô cùng quan trọng đối với Lucas, nên cũng vô cùng quan trọng đối với cô. Erica cũng sẽ ổn thôi. Chị ấy chỉ phải lo cho mỗi bản thân mình, lại đã có một công việc và một căn hộ ở Stockholm. Ngôi nhà ở Fjällbacka chỉ dùng làm nơi nghỉ hè. Số tiền bán nhà cũng sẽ đỡ cho chị ấy không ít, viết văn thì làm gì có tiền và Erica đôi khi cũng có những giai đoạn vô cùng khó khăn. Chị ấy sẽ sớm nhận ra bán nhà là giải pháp tốt nhất. Cho cả hai người bọn họ. Tiếng thét của Adrian vang lên chấm dứt thời khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi của cô. Ngồi đây chăm chút vết thương cũng chẳng ích gì. Những vết bầm rồi sẽ biến mất như thường lệ và ngày mai lại là một ngày khác.

—★—

Patrik cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng phơi phới không có nguyên do, anh nhảy hai bước một trên cầu thang khi tìm tới nhà bà Dagmar Petrén. Nhưng lúc lên được tới nơi, anh không khỏi phải dừng lại lấy hơi, hai tay chống lên đầu gối thở hổn hển. Rõ ràng anh không còn ở tuổi hai mươi nữa. Người phụ nữ ra mở cửa cũng vậy. Anh chưa từng thấy thứ gì nhỏ bé và nhăn nheo như thế kể từ khi mở túi mận khô lần trước. Lưng còng, người cúi lom khom, bà đứng còn chưa tới thắt lưng anh và Patrik e là ngay cả cơn gió nhẹ nhất cũng có thể khiến bà gãy làm đôi. Nhưng đôi mắt ngước nhìn anh lại mang vẻ trong trẻo và đầy cảnh giác của một cô gái trẻ.

“Đừng có đứng đó mà thở hổng hộc, con trai. Vào đây dùng một ly cà phê nào!”

Giọng nói của bà lạ thay cũng rất mạnh mẽ khiến Patrik đột nhiên có cảm giác của một cậu trò nhỏ, ngoan ngoãn đi theo bà vào bên trong. Anh cố lắm mới không cúi gập đầu xuống chào bà một cách kính cẩn và cố gắng nhích từng bước như ốc sên vì sợ sẽ giẫm lên nữ chủ nhân lúc nào không biết. Quang cảnh phía bên trong khiến anh giật mình đứng im tại chỗ. Chưa bao giờ anh nhìn chấy nhiều ông già Noel như thế. Mọi nơi, mọi chỗ. Lớn hay nhỏ, già hay trẻ, tinh nghịch hay cáu kỉnh đủ cả. Anh có cảm giác như đầu óc mình sắp trở nên bấn loạn vì khối lượng tín hiệu cảm giác đầu vào đang ập đến.

“Cậu thấy sao? Rất tuyệt vời đúng không?”

Patrik thật không biết phải nói gì, phải mất một lúc mới lúng búng trả lời.

“Vâng ạ, phải nói là vô cùng tuyệt vời!”

Anh lo lắng nhìn bà Petrén, không biết bà có nhận ra sự bất đồng giữa lời lẽ và giọng nói của mình. Không ngờ bà lại nở một nụ cười tinh quái, hai mắt hấp háy.

“Đừng lo, chàng trai. Ta biết thừa rằng chúng không hợp gu của cậu, nhưng khi già đi, người ta sẽ phải thực hiện một số nghĩa vụ, cậu biết đấy.”

“Nghĩa vụ ạ?”

“Hoặc giả vẻ điên khùng một chút cho thú vị. Hoặc chỉ đơn giản làm một bà già sầu não mà chẳng ai muốn.”

“Vâng, nhưng tại sao lại chọn các ông già Noel?”

Patrik vẫn không tài nào hiểu được. Bà Petrén lại giải thích cho anh cứ như với một đứa trẻ con.

“Thứ nhất là ta chỉ phải bày chúng ra một lần trong năm. Thời gian còn lại có thể giữ ngôi nhà gọn gàng, sạch đẹp. Ưu điểm thứ hai là chúng sẽ thu hút rất nhiều trẻ con tới đây vào dịp Giáng sinh. Với một bà già không có mấy khách khứa như ta, thật là một niềm hoan hỉ khi lũ nhóc xuất hiện và nhấn chuông để được vào xem ông già Noel.”

“Nhưng bà thường trưng chúng trong bao lâu? Giờ đã là giữa tháng Hai rồi.”

“Ta thường bắt đầu bày chúng vào tháng Mười và tháng Tư thì dọn đi. Mà cậu cũng biết, để bày ra và cất đi cũng phải mất từ một tới hai tuần.”

Patrik có thể dễ dàng hình dung ra việc dọn dẹp chúng sẽ mất bao nhiêu thời gian. Anh định làm một phép tính nhẩm trong đầu nhưng hình như não bộ anh vẫn còn chưa phục hồi sau cú sốc ban đầu. Thay vào đó, anh quay sang hỏi thẳng bà Petrén.

“Ở đây, bà có hết thảy bao nhiêu bức tượng?”

Câu trả lời đến ngay lập tức. “Một nghìn bốn trăm bốn mươi ba, à không, xin lỗi, một nghìn bốn trăm bốn mươi hai, vì hôm qua tôi vừa làm vỡ một bức. Mà lại còn là một trong những bức tượng đẹp nhất nữa chứ,” bà Petrén buồn rầu nói.

Nhưng rồi bà ngay lập tức trấn tĩnh lại, hai mắt hấp háy.

Với một sức mạnh khó tin, bà kéo tay áo Patrik và gần như lôi anh vào trong bếp nơi không có lấy một bức tượng ông già Noel nào. Patrik kín đáo vuốt phẳng lại tay áo và có cảm giác rằng nếu bà ấy cao hơn, thì hẳn đã túm tai anh lôi đi.

“Chúng ta sẽ ngồi ở đây. Suốt ngày bị các ông già vây quanh cũng hơi phiền thế nên các ông ấy bị cấm cửa trong bếp.”

Anh ngồi xuống chiếc ghế băng cứng ở trong bếp sau khi mọi lời đề nghị giúp đỡ đều bị từ chối một cách thẳng thừng. Đang nghĩ tới ly cà phê nhạt nhẽo, khó uống, đun bằng ấm kiểu cũ, anh lại lần nữa há hốc miệng ngạc nhiên khi nhìn thấy trên kệ bếp một chiếc máy cà phê đồ sộ, cực kỳ hiện đại bằng inox.

“Cậu muốn uống gì? Cappuccino? Cà phê sữa? Hay espresso ly đúp, có vẻ thứ đó sẽ phù hợp với cậu hơn.”

Patrik lúng túng gật đầu. Bà Petrén rõ ràng vô cùng thích thú trước vẻ mặt vẫn còn ngỡ ngàng của anh.

“Cậu mong đợi gi chứ? Một cái bình lọc cà phê cổ lỗ sĩ từ những năm 1943 với cà phê tự xay ư? Không, không, không phải vì tôi là một bà già lọm khọm nên tôi không thể tận hưởng những thứ tốt đẹp trên đời. Đây là một món quà Giáng sinh của cơn trai tôi cách đây vài năm và nó vẫn luôn chạy tốt. Đôi khi các bà già hàng xóm phải xếp hàng để sang uống cà phê ở nhà tôi đấy.

Bà âu yếm vỗ nhẹ lên chiếc máy cà phê đang rục rịch kêu xì xì khi đánh sữa thành bọt mịn.

Trong lúc cà phê được pha, các loại bánh ngọt tuyệt hảo lần lượt xuất hiện trên bàn trước mặt Patrik. Không phải là một chiếc bánh cuộn hay bánh quy bơ thông thường mà là những chiếc bánh quế tròn, to, bánh nướng xốp nhân nho, bánh bích quy sô cô la ướt và bánh trứng xốp lần lượt hiện ra trước đôi mắt càng lúc càng thêm sững sờ của Patrik. Miệng Patrik bắt đầu chảy nước miếng, chỉ chực trào ra. Bà Petrén cười khúc khích khi nhìn thấy vẻ mặt của anh. Bà ngồi xuống một chiếc ghế Windsor ở phía đối diện và rót cho mỗi người một ly cà phê nóng hổi, thơm ngào ngạt.

“Ta biết là cậu muốn hỏi ta về cô gái ở nhà bên. Ta đã nói chuyện với viên cảnh sát trưởng chỗ cậu và kể hết cho ông ta về những điều ít ỏi mà ta biết được.”

Cố gắng lắm Patrik mới rời sự chú ý khỏi chiếc bánh quế rắc đường mà anh vừa cắn ngập miệng. Anh phải kín đáo dùng lưỡi liếm sạch đường dính trên răng trước khi mở miệng trả lời.

“Vâng, bà Petrén, bà có thể làm ơn nhắc lại những gì đã nói trước đây không ạ? Bà không ngại nếu như tôi bật máy ghi âm chứ?”

Anh ấn nút màu đỏ trên chiếc máy ghi âm và cố nhai nốt chỗ bánh trong miệng trong lúc chờ đợi câu trả lời.

“Dĩ nhiên là được Đó là vào ngày thứ Sáu, 22 tháng Một, vào lúc sáu rưỡi tối. Mà cậu cứ thoải mái, không cần trịnh trọng quá, làm thế khiến tôi cảm thấy già đi.”

“Làm sao bà có thể nhớ rõ thời gian và ngày tháng như thế? Chuyện đã xảy ra từ mấy tuần rồi. ”

Patrik lại tranh thủ cắn thêm một miếng bánh nữa.

“Cậu biết đấy, hôm đó là sinh nhật tôi nên con trai tôi và cà nhà nó đều ở đây. Chúng tôi cùng ăn bánh ngọt và mở quà. Mọi người rời đi ngay trước bản tin sáu giò rưỡi trên kênh 4 và đó chính là lúc tôi nghe thấy những tràng cãi vã khủng khiếp kia. Tồi liền tới bên ô cửa sổ hướng ra phố và ngôi nhà của cô gái kia rồi nhìn thấy cậu ta.”

“Anders?”

“Anders, họa sĩ, đúng thế. Say xỉn không biết trời đất là gì, đứng đó la hét như một thằng điên và nện thình thịch lên cửa. Cuối cùng thì cô ấy cũng để cậu ta vào, và rồi mọi thứ trở nên yên ắng. Mà cũng có thể cậu ta vẫn tiếp tục la hét, nhưng chuyện này thì tôi không biết. Những gì xảy ra bên trong ngôi nhà thì tôi chịu không tài nào đoán được.”

Bà Petrén, thấy chiếc đĩa của Patrik đã hết sạch, liền đẩy khay bánh quế tới trước mặt anh vẻ dụ dỗ. Nhưng thật ra chẳng cần phải mời mọc gì nhiều, Patrik lập tức nhón lấy một chiếc.

“Và bà chắc chắn rằng đó là Anders Nilsson? Không thể nhầm lẫn?”

“Ồ không, tôi nhận ra tên vô lại đó ở bất kỳ đâu. Cậu ta thường tới đây vào bất cứ lúc nào, và nếu không đến đây thì sẽ tụ tập với lũ say trên quảng trường. Tôi thật không hiểu nổi cậu ta có gì liên quan tới Alexandra Wijkner. Cô gái đó phải nói là rất được. Vừa xinh đẹp vừa có giáo dục. Hồi nhỏ cô ấy vẫn thường sang đây ăn bánh và uống nước trái cây. Cô ấy thường ngồi đó, ngay trên chiếc ghế cậu đang ngồi, thường là với một cô bạn gái, con nhà Tore, tên là gì ấy nhỉ…?”

“Erica,” Patrik nhồm nhoàm cái miệng đầy bánh nói và cảm thấy trong lòng khẽ xao động chỉ vì nhắc tới tên cô.

“Erica, đúng vậy. Cũng là một cô bé ngoan, nhưng Alexandra lại có gì đó vô cùng đặc biệt. Cô ấy như có một vầng hào quang tỏa ra xung quanh. Thế rồi không biết có chuyện gì xảy ra… cô ấy không tới nữa và có gặp cũng chẳng thèm chào hỏi. Vài tháng sau thì cả gia đình họ chuyển tới Göteborg và rồi tôi không gặp cô ấy nữa cho tới vài năm gần đây, khi cô ấy bắt đầu quay trở lại đây vào mỗi dịp cuối tuần.”

“Trước đó gia đình Carlgren có từng quay trở lại?”

“Không, không hề. Nhưng họ vẫn giữ gìn ngôi nhà rất tốt. Thợ quét vôi và thợ mộc vẫn thường tới kiểm tra và một tháng hai lần, Vera Nilsson cũng thường xuyên tới dọn dẹp.”

“Và bà thật không biết chuyện gì xảy ra trước khi gia đình Carlgren chuyển tới Göteborg khiến Alex thay đổi? Không xảy ra bất hòa xung đột gì trong gia đình sao?

“Tất nhiên là có rất nhiều lời đồn đại, xưa nay vẫn thế, nhưng tôi không thấy có gì đáng tin cậy. Mặc dù có rất nhiều người ở Fjällbacka này cho rằng họ biết rõ hơn ai hết về những chuyện đã xảy ra với người khác thì cậu cũng nên nhớ rằng không ai có thể biết được những chuyện xảy ra trong bốn bức tường nhà người khác. Đó là lý do tại sao tôi sẽ không đoán mò chuyện thiên hạ. Chẳng để làm gì. Này, hãy ăn một miếng bánh nữa đi, cậu vẫn chưa thử bánh xốp trứng trong mơ của tôi mà.”

Patrik dưa tay vỗ bụng và nhận ra rằng vẫn còn một chỗ cho chiếc bánh xốp trứng trong mơ.

“Sau đó bà có nhìn thấy gì nữa không? Chẳng hạn như bà có biết khi nào thì Anders Nilsson rời đi chẳng hạn?”

“Không, tối đó tôi không còn nhìn thấy cậu ta lần nào nữa. Nhưng tôi thấy cậu ta đi ra đi vào ngôi nhà đó nhiều lần trong tuần lễ tiếp theo. Phải nói là rất lạ. Vì nghe nói lúc đó cô ấy dã chết rồi. Vậy cậu ta có thể làm cái quái gì ở đó chứ?”

Đây cũng chính là điều khiến Patrik băn khoăn. Bà Petrén nhìn anh vẻ dò xét. “Thế nào, cậu thích bánh này không?”

“Có lẽ là những chiếc bánh ngọt ngon nhất tôi từng được nếm. Làm sao mà bà có thể làm xong một khay bánh ngọt như thế trong nháy mắt? Ý tôi là tôi chỉ gọi điện tới trước mười lăm phút. Bà đúng là siêu nhân khi có thể nướng xong những chiếc bánh ngon mà lại thần tốc như thế.”

Bà Petrén tỏ ra hài lòng với những lời khen ngợi, không khỏi ngẩng cao đầu vẻ tự hào.

“Ta và ông nhà đã mở một tiệm bánh ngọt trong suốt ba mươi năm ở Fjällbacka này, thế nên cùng với thời gian cũng học hỏi được một ít. Những thói quen cũ rất khó thay đổi nên ta vẫn thức dậy vào lúc năm giờ sáng và nướng bánh hằng ngày. Nếu không để phục vụ lũ trẻ và những bà bạn tới chơi thì lại cho chim ăn. Việc thử những công thức mới luôn đem lại niềm vui. Ngày nay có nhiều loại bánh ngọt mới ngon hơn nhiều so với thứ bánh cuộn khô khốc mà ngày xưa chúng ta từng xuất lò tới hàng tấn. Ta tìm thấy công thức trong các tạp chí ẩm thực rồi cải biến chúng phù hợp với sở thích của mình.”

Bà chỉ những chồng tạp chí ẩm thực chất đống trên sàn nhà, cạnh ghế, từ Amelia Mat cho tới Allt om mat, ấn bản nhiều năm khác nhau. Nhìn giá bìa tạp chí, Patrik cho rằng bà Petrén hẳn kiếm được khá nhiều tiền trong những năm mở tiệm bánh. Anh liền nảy ra một ý tưởng.

“Bà có biết mối liên hệ nào khác giữa nhà Carlgren và gia đình Lorentz ngoài việc Karl-Erik từng làm việc cho họ không? Tỉ như họ giao thiệp xã hội?”

“Lạy Chúa lòng lành, nhà Lorentz giao lưu với nhà Carlgren ư? Không đời nào, chàng trai ạ, chuyện đó chỉ có thể xảy ra khi có hai ngày thứ Năm trong một tuần. Họ không thuộc cùng một tầng lớp. Việc Nelly Lorentz xuất hiện tại tiệc sau đám tang ở nhà Carlgren, theo như những gì tôi nghe được, chỉ là một sự gây chú ý mà thôi, không hơn không kém.”

“Thế còn câu chuyện về cậu con trai của họ thì sao? Cậu con trai bị mất tích ấy. Bà có biết anh ta liên quan gì tới nhà Carlgren không?”

“Không, mà cũng hy vọng là không. Một thằng bé hư hỏng. Luôn tìm cách ăn trộm bánh sau lưng người khác. Nhưng chồng tôi đã dạy cho nó một bài học khi bắt quả tang tại chỗ. Lần ấy nó dã bị mắng một trận nên thân. Và rồi, dĩ nhiên Nelly chạy tới bắt chúng tôi dừng lại. Bà ta dọa gọi cảnh sát tới bắt chồng tôi. Nhưng ông ấy khiến bà ta phải ngậm miệng khi nói có nhân chứng rành rành chứng kiến thằng bé ăn cắp nên bà ấy cứ việc đi mà gọi công tố tới phân xử.”

“Vậy là theo như bà biết thì nhà Lorentz không có mối liên hệ nào với nhà Carlgren?”

Bà Petrén lắc đầu.

“Không sao, đó chỉ là suy nghĩ của riêng tôi,” Patrik nói. “Bên cạnh vụ sát hại Alex thì việc Nils mất tích có lẽ là sự kiện gây chấn động nhất từng xảy ra ở thị trấn này và ai mà biết được, đôi khi vẫn xảy ra những sự trùng hợp thú vị. Thế nên, tôi nghĩ rằng hỏi thế là đủ rồi, tôi chỉ muốn cảm ơn vì cà phê và những chiếc bánh ngọt tuyệt vời. Phải nói thêm rằng trong vài ngày tới, tôi sẽ chi được ăn xa lát mà thôi.” Anh vừa nói vừa vỗ bụng.

Anh cố liếc nhìn lại một lần lúc đi qua phòng khách và có cảm giác như một nghìn bốn trăm bốn mươi hai ông già Noel đang nháy mắt cười với anh.

Đi ra khỏi nhà cũng lâu như lúc đi vào. Anh phải cố lắm để khỏi giẫm phải bà Petrén trong lúc đi theo bà ra tới cửa. Đúng là một bà già đầy cá tính. Nhưng cũng là một nhân chứng đáng tin cậy và với lời khai của bà thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ có thể tìm thấy thêm một số bằng chứng khác nữa là có đủ thành tố kết tội Anders Nilsson. Cho tới thời điểm này, đây là bằng chứng có giá trị nhất, xem như vụ sát hại Alexandra Wijkner có vẻ như đã được giải quyết. Thế nhưng trong lòng anh, ngoài sự tồn tại của các loại bánh ngọt, vẫn còn một cảm giác không yên. Rằng những giải pháp đơn giản nhất không phải lúc nào cũng đúng.

Thật là khoan khoái khi có thể hít thở không khí trong lành bên ngoài, khiến cơn buồn nôn vì ăn quá nhiều giảm đi một chút. Anh cảm ơn bà Petrén một lần nữa, định quay đi thì lại bị bà dúi một gói gì đó vào tay trước khi kịp đẩy cửa. Thì ra là một chiếc túi đựng đầy bánh ngọt và một ông già Noel nhỏ. Anh không khỏi ôm lấy bụng rên rỉ.

—★—

“Nghe này Anders, mọi chuyện đều có vẻ không tốt cho cậu.”

“Vậy sao?”.

“Vậy sao? Đó là tất cả những gì cậu muốn nói ư? Cứt ngập tới đầu rồi mà vẫn chưa nhận ra à? Cậu có nhận ra mức độ nghiêm trọng của sự việc không đấy?”

“Tôi chẳng làm gì cả.”

“Nói láo! Đừng có ngồi đó mà nói nhăng cuội trước mặt tôi. Tôi biết là cậu đã sát hại cô ấy, thế nên tốt nhất là cậu hãy nhận tội tránh rắc rối cho cả hai bên. Nếu cậu không gây rắc rối cho tôi thì tôi cũng không gây rắc rối cho cậu. Cậu có hiểu tôi đang nói gì không?”

Mellberg và Anders đang ngồi trong căn phòng thẩm vấn duy nhất ở đồn cảnh sát Tanumshede và không giống như trong phim truyền hình Mỹ, ở đây chẳng có cái gọi là gương hai chiều để các đồng nghiệp khác có thể theo dõi quá trình phỏng vấn từ phòng bên cạnh. Điều đó càng hợp với Mellberg. Vì một mình thẩm vấn đối tượng là hoàn toàn đi ngược lại nguyên tắc nhưng mẹ kiếp, nếu như hắn ta có tội thì ai thèm quan tâm tới mấy cái quy tắc ngu xuẩn ấy làm gì. Mà Anders lại không yêu cầu luật sư hay bất cứ nhân chứng nào nên việc gì ông ta phải kiên trì?

Căn phòng khá nhỏ, chẳng có gì ngoài bốn bức tường trống trơn và một ít đồ đạc sơ sài. Vật dụng duy nhất là một chiếc bàn và hai chiếc ghế giờ đang được Anders Nilsson và Bertil Mellberg chiếm dụng. Anders thờ ơ dựa vào lưng ghế, tay đặt trên đùi, chân duỗi ra dưới gầm bàn. Mellberg đứng dậy, tì nửa người qua bàn tới gần sát mặt Anders, trong giới hạn có thể chịu đựng được hơi thở rõ ràng không phải mùi bạc hà dịu mát thoang thoảng ph