MẦM MỐNG ĐẢO CHÁNH
Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòa đã thu nhập được tin có Đảo Chánh trước khi Lodge đến nhận chức Đại Sứ. Tuy nhiên tin này vẫn vô căn cứ. Và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ hết sức dè dặt.
Cuối tháng 9.1963 lần đầu tiên Đại Sứ Lodge gặp một nhân vật Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa trong buổi lễ tiễn linh cữu 6 Quân Nhân Mỹ tử nạn đầu tiên về cố quốc. Vị Tướng lãnh này đại diện Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến dự lễ. Vị Tướng đó là Trung Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tham Mưu Trưởng Liên Quân kiêm Tư Lệnh Lục Quân.
Trong buổi lễ gặp gỡ giữa ông Lodge và Tướng Trần Văn Đôn hầu như không đạt được kết quả. Đại Sứ Lodge ‘’quá giữ lời’’ với Tướng Trần Văn Đôn Điều đó dễ hiểu vì Tướng Trần Văn Đôn đang là người thân tín của chế độ. Đại Sứ Lodge đã dè dặt theo dõi với vị Tướng quyền Tham Mưu Trưởng này.
Tướng Trần Văn Đôn trình bày với Lodge kế hoạch đảo chánh. Một số lớn Quân Nhân, Sĩ Quan, Tướng lãnh đã hưởng ứng. Mong người Mỹ đứng vai trò hậu thuẫn chính trị hoặc làm trọng tài mà thôi.
Đại Sứ Lodge từ chối với Tướng Trần Văn Đôn về một cuộc đảo chánh có tính cách hạ bệ Tổng Thống Diệm như thế. Vì làm như thế tình hình thêm khẩn trương, khủng hoảng chính trị lớn lao.
Tướng Trần Văn Đôn yêu cầu Đại Sứ Lodge suy nghĩ lại và ông sẽ liên lạc với Tòa Đại Sứ Mỹ. Đại Sứ Lodge nghe Tướng Trần Văn Đôn nói thế thì trả lời: Tôi sẽ phái người đến gặp ông sau.
Sau cuộc chia tay với Tướng Trần Văn Đôn, Đại Sứ Lodge cảm thấy khó khăn hành động lật chế độ Diệm. Tướng Trần Văn Đôn đã làm cho ông Lodge hồ nghi là một cạm bẫy có thể đến với Lodge.
Hôm sau Đại Sứ Lodge đến Bộ Tư Lệnh Quân Sự Hoa Kỳ trên Đường Trần Hưng Đạo để gặp Tướng Paul Harkins.
Đại Sứ Lodge hỏi Tướng Harkins về Tướng Trần Văn Đôn Tướng Harkins không cho Tướng Trần Văn Đôn là người có tài chỉ huy quân sự. Ông ta chỉ có một bộ vó bề ngoài lẫm liệt mà thôi.
Và Tướng Harkins cũng cho Lodge biết hầu hết các Tướng lãnh Việt Nam do người Pháp đào tạo, họ đi lính lâu năm lên đến hàng Tướng chứ không có chiến lược chiến thuật gì cả. Nếu ông Đại Sứ đảo chánh chế độ Diệm chỉ có Tướng Trần Thiện Khiêm làm được. Song trở ngại lớn lao là các Tướng lãnh đều là thân tín của Tổng Thống Diệm. Ngay cả Tướng Trần Thiện Khiêm cũng thế.
Ông Lodge hỏi Harkins liệu Tướng Trần Văn Đôn thực tâm đảo chánh không? Paul Harkins dè dặt trả lời, chắc phải vì ông ta vừa mất Tư Lệnh Quân Đoàn I, chức quyền Tham Mưu Trưởng không cố định nên Trần Văn Đôn đã bất mãn.
Ông Lodge nghe Paul Harkins trình bày như thế thì mở cờ trong lòng. Lodge nói: Ta cần Trần Văn Đôn trong giai đoạn này để lôi cuốn các cấp sĩ quan trẻ tuổi gia nhập đảo chánh.
Từ hôm đó trở về sau, Đại Sứ Lodge cho những viên cấp CIA tiếp xúc với Trần Văn Đôn để thâu thập kế hoạch.
Trong khi đó Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu hầu như không quan tâm đến những cuộc tiếp kiến vô bổ với Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Tư tưởng của hai bên càng ngày càng xa cách rõ ràng. Nhưng Tổng Thống Diệm cố hàn gắn đổ vỡ đó bằng cách mời Đại Sứ Lodge đến dùng cơm thân mật vào những buổi trưa hoặc buổi tối khi hai người đàm đạo quá giờ.
Nhưng trong những bữa ăn đó tẻ nhạt, xã giao và không ai muốn đả động đến tình hình chính trị. Có lẽ giữa hai người không muốn làm bữa ăn mất ngon qua sự chống đối lẫn nhau.
Riêng về Đại Sứ Lodge đến Dinh Gia Long để hiểu thêm thái độ của Tổng Thống Diệm.
Ông Tổng Thống vẫn chủ quan, nắm được Quân Đội và nhân dân. Đại Sứ Mỹ không thể lung lạc ông bằng mọi thủ đoạn được. Ông Lodge cho rằng, thái độ đó sẽ đưa đến sự sụp đổ hoàn toàn mà do ông giữ vai trò thúc đẩy, then chốt ở Sài Gòn.
Chuyên viên đảo chánh Henry Cabot Lodge đã lộ hình mà Tổng Thống Diệm không hay biết. Qua những xã giao Ngoại Giao Đoàn của Lodge, Tổng Thống Diệm ngỡ rằng vị Đại Sứ Hoa Kỳ đã lùi bước trước lập trường của chính quyền đối với Phật Giáo và cương vị của người Mỹ tại Việt Nam.
Chính phủ Hoa Kỳ Kenedy theo phúc trình Lodge không giải tỏa viện trợ đã cắt từ thượng tuần tháng 9.1963 của Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát chiến đấu. Chính phủ Diệm rất nao núng về việc này. Song ông Ngô Đình Nhu kêu gọi Quân Đội, nhân viên chính phủ thực thi kế hoạch tự túc và tổ chức tổ tam tam hầu tiết kiệm ngân quỹ.
Trong thời gian đó, nhiều cấp chỉ huy Quân Đội trên toàn quốc đã báo động với trung ương là chiến trường thiếu đạn dược đánh việt cộng.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã trình bày với Đại Sứ Lodge về sự sống còn của Đông Nam Á nhất là Việt Nam đang bấp bênh nếu chính phủ Hoa Kỳ cắt viện trợ như thế. Hậu quả đó là do chính sách sai lầm của người Mỹ ở Việt Nam.
Ông Lodge với bản báo cáo tin chiến sự trong ngày trên toàn quốc đang cầm trên tay, trình với Tổng Thống Diệm: Thưa Tổng Thống, từ chiến trường và ở hậu phương, toàn dân toàn quân đều xuống tinh thần.
Tôi biết việt cộng đang gia tăng, nguy hiểm cho quốc gia này, song chính phủ của chúng tôi viện trợ để chống cộng, chứ không phải súng đạn đó dùng để đàn áp một tôn giáo.
Tôi thiết tha yêu cầu triệt thoái binh chủng. Lực Lượng Đặc Biệt ra khỏi Thủ Đô Sài Gòn để cho họ có cơ hội đánh cộng sản hơn là đàn áp Phật Giáo.
Tổng Thống Diệm mặt đỏ gay, vẻ tức giận hiện rõ. Tổng Thống Diệm nói: Lực Lượng Đặc Biệt giữ gìn An Ninh Thủ Đô, không đàn áp ai cả. Ông Đại Sứ có thấy Quân Đội đã khám phá một số vũ khí trong hai ngôi chùa lớn ở Sài Gòn trong ngày 31.8.1963 không?
Đại Sứ đáp: Vũ khí tìm ra ở chùa chiền là một ‘’chiến thuật’’ của chính quyền. Điều đó dù thật đi nữa thì với Phong Trào Phật Giáo như vậy, dân chúng vận tự nghĩ, chính quyền vu khống. Chúng tôi mong ước ông bà Ngô Đình Nhu rời khỏi Nam Việt Nam càng chóng càng tốt. Đồng thời Tổng Thống cố gắng giải hòa với Phật Giáo.
Tổng Thống Diệm nói: Những đòi hỏi của ông Đại Sứ cùng chính phủ Mỹ quá đáng. Và rõ ràng đã chi phối vào nội bộ chính phủ của chúng tôi.
Ông Ngô Đình Nhu là em của tôi, không ai có quyền bắt buộc ông ta rời bỏ quê hương này. Người bắt buộc ông Nhu rời Việt Nam là người Mỹ thì đó là một điều quá phi lý. Luôn tiện đây tôi tiết lộ cùng ông Đại Sứ là ông Nhu dự định sẽ rời Sài Gòn trước ngày Quốc Khánh 26.10 sắp tới. Ông Nhu đã chán chính trị lắm rồi. Ông ấy đi, tôi mất một người cộng sự viên đắc lực.
Nhưng dự định đó nay đã tiêu tan theo mây khói. Ông Nhu đã quyết định ở lại vài ông ta mặc cảm người Hoa Kỳ ‘’dám’’ đuổi ông ta trên đất nước này.
Đại Sứ Lodge hết sức ngạc nhiên những tiết lộ của Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge trình bày thêm: Chúng tôi không nghĩ như những lời của Tổng Thống vừa nói, song sự ra đi của ông Nhu cần thiết cho giai đoạn này. Chúng tôi nghĩ rằng Tổng Thống và ông Nhu xét kỹ điều kiện đó.
Tổng Thống Diệm vốn chủ quan với Quân Đội, nhân dân ủng hộ ông nên những lời của Lodge hầu như có tính cách hăm dọa. Thành ra Tổng Thống cương quyết chống ngược lại với chính phủ Hoa Kỳ.
Trong lúc đó ông Ngô Đình Nhu cho Tổng Thống Diệm biết, tiền tồn kho và vũ khí còn lại, chính phủ đứng vững ít nhất là sáu tháng để tìm một viện trợ khác thay thế viện trợ Mỹ.
Đồng thời ông Nhu đang vận động một số mại bản Chợ Lớn cho chính phủ vay một số tiền lớn để trang trải kinh phí trong thời gian khủng hoảng viện trợ.
Kế hoạch của ông Nhu có cẻ mù mờ, không mấy tin tưởng. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm cũng tạm gọi là một sáng kiến đáng thực hiện trong lúc đó.
Sự liên hệ giữa cá nhân ông Lodge và Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng như giữa Tòa Đại Sứ Mỹ và chính quyền Diệm được phân chia hẳn vào đầu thượng tuần tháng 10.1963.
Đại Sứ Lodge mỗi khi rời Dinh Gia Long đều mang theo sự tức tối, hậm hực trong lòng. Nhân viên thân cận Tổng Thống Diệm đã chứng kiến những cảnh ấy từ ngày ông Lodge trở thành vị Đại Sứ chính thức ở Sài Gòn.
Thật sự chính quyền Ngô Đình Diệm đã nao núng lắm rồi. Bên ngoài, Phật Giáo đấu tranh quyết liệt. Bên trong, viện trợ Mỹ gián đoạn. Và chính quyền Diệm đã gặp một vị Đại Sứ Hoa Kỳ có thành kiến với chế độ.
Tổng Thống Diệm đã bày tỏ nỗi khó khăn với ông Ngô Đình Nhu. Lúc bấy giờ tính tình ông Nhu thay đổi đột ngột. Cái trầm tư mặc tưởng của ông Nhu dính liền cuộc đời ông ta. Nhưng với thái độ ông Lodge như thế, nên cái trầm tư mặc tưởng đó trở thành quá khích ngấm ngầm.
Ông Nhu trình bày với Tổng Thống Diệm: Chúng ta phải làm một cái gì cho người Mỹ mất mặt. Người Mỹ mà ông Nhu nói là không ai khác tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge.
Kế hoạch Lodge làm mất uy tín của Lodge là chính quyền đảo chánh.
Một lối đảo chánh ngụy tạo gây thanh thế cho chế độ. Đảo chánh của chính quyền sẽ mang đến nhiều mối lợi: Thanh lọc hàng ngũ Quân Đội, gây tiếng vang quốc tế là chế độ vẫn còn được quân và dân tuyệt đối ủng hộ. Sau cùng là người Mỹ sáng mắt về uy lực của chính phủ Diệm.
Đảo chánh ông Nhu được lập thành 2 giai đoạn: Bravo I và Bravo II. Bravo I do Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát Chiến Đấu cùng một vài đơn vị Bộ Binh tấn công các yếu điểm của chính quyền trong Thủ Đô. Tấn công mãnh liệt vào Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ.
Như vậy là Bravo I được coi là quân chính phủ đảo chánh quân chính. Nếu những phần tử Quân Đội nhất là cấp Tướng lãnh ủng hộ đảo chánh lật đổ chế độ Diệm thì những phần tử đó được coi là phản bội, khi Bravo I thành công.
Nếu các cấp chỉ huy Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ đầu hành nhanh chóng, nghĩa là không chống lại đảo chánh thì cũng bị kết tội phản chế độ.
Bravo II được mô tả về phía đảo chánh không thành công. Quân Đội chống đảo chánh quyết liệt để củng cố chế độ Diệm thì một điều đáng mừng. Và người Mỹ không còn phương tiện nào lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Tóm lại, Bravo I và Bravo II thất bại hay thành công, chế độ Ngô Đình Diệm vẫn thu vào mối lợi trong tay.
Tổng Thống Diệm rất bằng lòng kế hoạch đảo chánh giả của ông Nhu. Song vốn nhân từ, đạo đức, ông Diệm đã tưởng tượng đến cảnh máu đổ. Và ông không quên nhắc nhở ông Nhu điều đó. Nhưng ông Nhu trình bày rằng, chính trị muôn mặt như thế. Hơn nữa, tình trạng trước thái độ của ông Lodge, chúng ta không thể làm điều gì khác được.
Chính vì Bravo I và Bravo II đã đưa đẩy chế độ Diệm sụp đổ và mang theo cái chất cho ông Diệm và ông Nhu. Nói như thế vì bấy giờ tin đồn đảo chánh lan rộng trong Quân Đội, nhân dân như một câu ca dao truyền khẩu.
Nha Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, Nha An Ninh Quân Đội, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và ngay cả Sở Nghiên Cứu Chính Trị đang tung người đi tìm đầu tơ mối chỉ của một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ. Nhưng tuyệt nhiên các cấp thừa hành chỉ nghi tiếng đồn mà không hay biết phe phái nào sẽ đứng dậy đảo chánh.
Trong lúc đó, thật sự một số Tướng lãnh đã hội họp kín, dựa theo Phật Giáo lật đổ chế độ Diệm mà Tổng Thống Diệm và ông Nhu chẳng hề hay biết. Nguyên nhân chỉ vì ông Nhu chủ quan.
Ông ta cho rằng tin đồn đảo chánh là do Bravo I và Bravo II mà ra, chứ không ai dám đi vào vết xe đổ của ngày 11.11.1960 nữa. Ông Nhu suy nghĩ như vậy, vô tình bỏ ngỏ cho các Tướng lãnh âm mưu quyết liệt lật đổ Tổng Thống Diệm.
Ngay cả Bà Nhu sau cuộc giải độc được coi là buổi ra mắt cuối cùng với sinh viên Mỹ vào đầu tháng 10 năm 1963 vẫn chỉ trích chính sách Mỹ tại Nam Việt Nam.
Và khi đảo chánh 1.11.63 bùng nổ, bà Nhu rất mực bình tĩnh vì bà ta nghĩ rằng đó là kế hoạch Bravo I và Bravo II của ông Nhu. Cho nên bà tuyên bố, đảo chánh thì đảo chánh, chế độ Diệm hãy còn tồn tại.
Bravo I và Bravo II là một thủ đoạn chính trị bao quát cả chiến lược lẫn chiến thuật. Cách Mạng 1.11.1963 không sớm nổ súng thì Bravo I và Bravo II được tưởng tượng là một cuộc thanh trừng đổ máu với những bằng chứng hiển nhiên mà một số Tướng lãnh, chánh khách mắc bẫy ông Ngô Đình Nhu.
Riêng về Đại Sứ Lodge sẽ không biết tính toán thế nào với chế độ Diệm. Chắc chắn rằng vị Tân Đại Sứ này cũng bị lừa trong hai chiến dịch Bravo I và Bravo II mà chính quyền tạo thành đảo chánh giả.
Ông Lodge sẽ điên đầu, đành phải lững lờ, mất uy tín với cái đảo chánh mà ông ta đang âm thầm nhúng tay vào với các Tướng lãnh. Đồng thời, ông Nhu, ông Diệm viện cớ ông Lodge đã xúi giục một số sĩ quan cao cấp lật đổ chế độ mà trục xuất ông ta.
Nhưng số trời không chiều lòng ông Ngô Đình Nhu. Mệnh trời không cho ông Nhu hành động với mưu đồ tham vọng làm cho một số sinh linh binh sĩ ngã gục. Ông Nhu đã không thực hiện được Bravo I và Bravo II.
Tất cả đều muộn màng đối với cách mạng 1.11.1963. Đại Sứ Lodge đã tiến trước ông Nhu một bước, một bước chính trị trong tình thế sôi bỏng là ngàn dặm xa thẳm.
Trong thế cuộc bùng nổ cách mạng công lật đổ chế độ Diệm, Đại Sứ Lodge là người then chốt, là bàn tay đang nhấc từng con cờ trên bình diện của một cuộc xóa bỏ dấu vết của chế độ Diệm.
Cho nên sau ngày 1.11.1963, Lodge hiên ngang dạo phố Sài Gòn. Đó cũng là một hình thức ra mắt quần chúng trong một thế đứng được gọi là bình dân, phổ thông của ngài Đại Sứ.
Trước đảo chánh 1.11.1963 ngày gặp gỡ đầu tiên một vài Tướng lãnh Việt Nam, Đại Sứ Lodge không mấy tin tưởng sẽ lật đổ chế độ Diệm nhanh chóng được. Quan niệm của Lodge phải túc số những cấp lãnh đạo then chốt. Đơn phương một Tướng Trần Văn Đôn hoặc Lê Văn Kim không hợp với cá tính của ‘’người đám đông’’ như Đại Sứ Lodge.
Người Mỹ rất thích tập đoàn làm việc. Một cá nhân, một đơn vị không thể thành công ở Hoa Kỳ. Cho nên ở Hoa Kỳ chung quanh một vị Tổng Thống được bao bọc một số lớn phụ trách nhiều lãnh vực. Lắm lúc một vị Tổng Thống tuyên bố, dân chúng cho là dấu kín vấn đề hơn là một Nghị Sĩ Dân Biểu.
Cho nên Đại Sứ Lodge yêu cầu Tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim hợp sức cùng một số lớn Tướng lãnh thì Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mới làm hậu thuẫn. Và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam sẽ yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ công nhận chế độ mới ngay khi đảo chánh thành công.
Tướng Trần Văn Đôn đã tiên liệu điều đó. Tướng Trần Văn Đôn khó hiểu rõ về cá tính những người Mỹ ‘’giàu có’’ và ‘’xấu xí’’ nên ông ta đã đưa cho ông Lodge một danh sách hầu hết các Tướng lãnh tham gia đại cuộc.
Sau đó Đại Sứ Lodge đòi hỏi Tướng Trần Văn Đôn về chiến thuật và chiến lược trong cuộc lật đổ chế độ Diệm. Tướng Trần Văn Đôn trình bày cặn kẽ những nhịp đổ quân binh chủng tiến vào Thủ Đô Sài Gòn bằng ba mũi dùi chính. Từ xa lộ vào. Từ mạn Long An lên. Từ các đường chính ở Tây Ninh xuống. Án ngữ ở Sài Gòn không cần thiết vì Hải Quân đã lo liệu.
Những đơn vị tham gia đều không đeo phù hiệu, kể cả quân xa, thiết vận xa. Ở Thủ Đức và Tổng Tham Mưu đặt một số đại bác 105 ly, súng cối đẻ xả láng với Dinh Gia Long nếu tình hình quân đảo chánh không thanh toán vài mục tiêu yếu điểm của chế độ Diệm, nhất là Thành Cộng Hòa tọa lạc trên Đường Thống Nhất.
Ông Lodge chấp thuận những điều Tướng Trần Văn Đôn đều hữu hiệu. Nhưng ông Lodge vẫn hỏi lại Đại Tướng Paul Harkins lần cuối cùng. Tuy nhiên hầu như Tướng Paul Harkins không có ý kiến và muốn đổ trách nhiệm cho Lodge hành động. Có lẽ Harkins khá thiên về chế độ Diệm mà không tin tưởng các Tướng Tá Việt Nam mà ông quan niệm là những người thừa hưởng huấn luyện của thực dân Pháp để lại.
Đại Tướng Paul Harkins đã làm cho Lodge không mấy bằng lòng về thái độ lừng khừng đó. Cũng từ đấy, Lodge quan niệm Harkins cùng một quan điểm với cựu Đại Sứ Nolting về hành xử trước chế độ Diệm. Nghĩa là Nolting và Harkins ủng hộ sự tồn tại của chế độ Diệm tại Nam Việt Nam.
Sau khi tường tận kế hoạch của Tướng Trần Văn Đôn hành quân vào Thủ Đô Sài Gòn, Đại Sứ Lodge có hỏi về Tướng Trần Thiện Khiêm, Tướng Trần Văn Đôn quả quyết vị Tướng này nhiệt tình tham gia đảo chánh. Nhưng về việc bầu thủ lãnh Quân Đội thì chưa thành hình. Tướng Trần Văn Đôn cho biết sẽ mở một phiên họp bí mật của Tướng lãnh để bầu vị Chủ Tịch. Và đảo chánh sẽ lấy tên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đứng đầu là một vị Tướng lãnh Chủ Tịch.
Hội Đồng này hoàn toàn là Quân Nhân, không cho chính khách tham gia vì kinh nghiệm gãy đổ của ngày 1.11.1960. Nếu có mặt các chính khách dân sự thì vai trò đảo chánh không được giữ bí mật hoàn toàn.
Buổi gặp mặt cuối cùng này để đi vào chi tiết, Đại Sứ Lodge thỏa mãn. Song ông ta đòi hỏi, Hội Đồng Tướng lãnh không được giết một vị Bộ Trưởng nào. Cá nhân Tổng Thống Diệm phải được bảo đảm an toàn rồi đưa ra ngoại quốc.
Đồng thời ông Lodge cho biết là ông lánh mặt các vị Tướng lãnh để khỏi bị Mật Vụ chính phủ theo dõi. Vì Tổng Thống Diệm đã kết tội Lodge nhúng tay vào nội bộ chính phủ Nam Việt Nam, vi phạm thuần túy phạm vi qui ước ngoại giao đoàn quốc tế. Tuy nhiên các nhân viên thừa hành Đại Sứ Lodge được lệnh ông ta liên lạc với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Ông Lodge rất nóng lòng biết được lý lịch tiểu sử của vị Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Nhưng mãi đến thượng tuần tháng 10 năm 1963 vị Chủ Tịch đó chưa được đặt vào ghế ngồi.
Trong lúc đó bên giới Tướng lãnh Việt Nam mỗi ngày mỗi thu hút nhiều sĩ quan tham gia đảo chánh cùng ba nhóm đảo chánh: Trần Văn Đôn, Đỗ Mậu, Trần Kim Tuyến đã kết hợp với nhau rồi.
Song tìm một vị Tướng lãnh cao niên đầy uy tín. Một vài vị trong nhóm Đỗ Mậu đề nghị Tướng Lê Văn Nghiêm, nhưng ông Tướng này từ chối vì lo sợ. Sau đó đề nghị Tướng Trần Thiện Khiêm nhưng ông này cho rằng mình chưa đủ tài sức. Tuy nhiên Trần Thiện Khiêm đoan kết sẽ là rường cột cuộc đảo chánh.
Sau cùng Tướng Trần Văn Đôn tiến cử ông Dương Văn Minh. Các cấp Tướng lãnh đều đồng ý. Lúc đó cuốn lịch trên tường đã điểm thời gian trung tuần tháng 10 năm 1963.
Thật sự, trong bí mật, Tướng Dương Văn Minh không biểu lộ lập trường dứt khoát khi một số Tướng lãnh yêu cầu ông tham gia đảo chánh. Ban đầu ông Dương Văn Minh từ chối. Sự từ chối này đều dễ hiểu vì lúc bấy giờ thanh thế của chế độ Diệm rất mạnh mẽ.
Nhưng về sau nghe Tướng Trần Văn Đôn cho biết là Tòa Đại Sứ Mỹ đã ủng hộ đảo chánh. Họ sẽ làm hậu thuẫn cho các Tướng lãnh. Tướng Dương Văn Minh thấy danh sách rất nhiều Tướng lãnh, sĩ quan cao cấp then chốt của chế độ Diệm tham gia, lại có người Mỹ yểm trợ, nên ông tham gia. Và chính Tướng Trần Thiện Khiêm chấp nhận cho Tướng Dương Văn Minh hưởng ứng và yêu cầu vị Tướng này giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng.
Trung tuần tháng 10 năm 1963, Đại Sứ Henry Cabot Lodge được phúc trình rõ về danh tánh, lý lịch của vị Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Trong bản phúc trình đó được ghi nhận một vài điểm chính cuộc đời binh nghiệp rực rỡ của Tướng Dương Văn Minh.
Vị Tướng này được mô tả là anh hùng Quân Đội trong các Chiến Dịch Rừng Sát, Thoại Ngọc Hầu, Hoàng Diệu, và tảo thanh phiến loạn Ba Cụt vào những năm đầu của thể chế Ngô Đình Diệm nắm giữ ở Nam Việt Nam.
Tướng Dương Văn Minh được coi là vị Tướng cao tuổi nhất là thâm niên quân vụ. Trong bản phúc trình còn nhấn mạnh về thành tích chống Pháp và từng bị Pháp bắt, tra tấn đến thương tích, lập trường chính trị trong bản phúc trình đó không mấy rõ rệt. Song các nhân viên hữu trách Tòa Đại Sứ Mỹ và CIA quả quyết rằng Tướng Dương Văn Minh đi theo chiều hướng thân Mỹ.
Đại Sứ Lodge đọc bản phúc trình ấy nhiều lần và tỏ vẻ lo ngại, một thể chế Quân Nhân lãnh đạo trong giai đoạn giao thời.
Những biến cố đảo chánh xảy ra đầu tiên trong một quốc gia bị kềm kẹp lâu năm thường hay bị xáo trộn liên tiếp. Nguyên nhân chỉ vì cấp lãnh đạo mới không có chính trị, kinh nghiệm. Bằng chứng hiển nhiên là việc hạ bệ Tổng Thống Lý Thừa Vãn ở Đại Hàn Dân Quốc. Phái Quân Nhân ở nước này lên cầm đầu và mở màn cho những khủng hoảng liên tiếp.
Đại Sứ Lodge là chuyên viên đảo chánh, bóp méo thời cuộc của Hoa Kỳ đối với các quốc gia chậm tiến chịu ảnh hưởng lớn lao vào viện trợ Mỹ. Ông Lodge là chuyên viên bí mật họp cùng ông Bunker điều giải khủng hoảng ở Saint Dominique, một quốc gia Châu Mỹ ở La Tinh.
Ông Lodge đã thành công. Vì thế ông được cử đến Việt Nam trong một tình thế nghiêm trọng do nhân dân Phật Giáo khuấy động, đồng thời đối với một chính phủ ‘’cứng đầu’’ Ngô Đình Diệm đang ‘’phủ nhận’’ công lao và tiền bạc của người Mỹ ở xứ này.
Chủ Tịch Hội Đồng Quân Nhân đảo chánh Dương Văn Minh dưới mắt Lodge chưa hẳn đầy đủ của một cấp lãnh đạo, lãnh tụ. Song Lodge phải chấp nhận vì mỗi ngày chính sách chế độ Diệm hầu như tách khỏi đường lối của Hoa Kỳ không những ở Việt Nam và cả Đông Nam Á nữa.
Hoa Kỳ không muốn tình trạng của chế độ Diệm sẽ là bước mở đầu gây ảnh hưởng tai hại cho những quốc gia láng giềng Việt Nam như Lào, Thái Lan đối với nước Mỹ sau này. Hơn nữa đứng sau Tướng Dương Văn Minh là một số Tướng hỗ trợ.
Tuy rằng xác nhận có 2 vị Chỉ Huy Quân Đoàn hưởng ứng, đó là Quân Đoàn I và Quân Đoàn III. Tuy nhiên sự hưởng ứng này còn mù mờ, vì Hội Đồng Tướng lãnh cho Lodge biết là Tướng Đỗ Cao Trí ở Vùng I yêu cầu giữ bí mật đối với các Tướng lãnh Trung Ương là có sự ủng hộ của ông ta. Còn Tư Lệnh Quân Đoàn III kiêm Tổng Trấn Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Tướng Tôn Thất Đính đang ở trong giai đoạn thuyết phục và chắc chắn sẽ thành công. Về Quân Đoàn III và Quân Đoàn IV là những Tướng quá thân với Tổng Thống Diệm, nên khó lòng thuyết phục. Song Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sẽ phong tỏa chặt chẽ, đồng thời bí mật quản thúc các Tướng này để chận nút kéo quân về Thủ Đô.
Đại Sứ Lodge đang đứng trước mọi thứ phức tạp. Phức tạp đó từ giới Quân Nhân đến đảng phái chính trị tại miền Nam. Nhờ ở cá tính người Mỹ tin ở tập đoàn lãnh đạo, nên Lodge cảm thấy một số đông Tướng lãnh Trung Ương đoàn kết lại như thế với sự hỗ tương Phật Giáo thì sẽ thành công.
Lodge nẩy sinh ‘’kế hoạch giai đoạn’’ trong trí. Một kế hoạch dụng nhân và thử thách cho những tên tuổi lãnh tụ khi chế độ Diệm cáo chung. Cho nên Lodge quyết định, hỗ trợ bí mật trong một trang sử mới tại Nam Việt Nam.
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng sau những cuộc họp bầu Chủ Tịch xong xuôi đã báo cho Tòa Đại Sứ Mỹ là ngày X, giờ Y sẽ nổ súng. Ngày và giờ đó định vào 9 giờ sáng ngày 26 tháng 10 năm 1963, tức là ngày Lễ Quốc Khánh. Lúc bấy giờ Tướng Trần Văn Đôn và Đại Tá Đỗ Mậu đã thuyết phục được Tướng Tôn Thất Đính và đặt vị Tướng này điều khiển hành quân chuyển vận trong việc binh sĩ vào Thủ Đô.
Trước ngày và giờ Y, Tướng Tôn Thất Đính yết kiến Tổng Thống Diệm xin đưa thiết vận xa vào Thủ Đô trấn giữ an ninh cho ngày Quốc Khánh vì nghe phong phanh đảo chánh, Tổng Thống Diệm bằng lòng ngay.
Trong lúc đó Đại Tá Đỗ Mậu, quyền Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội cũng báo cáo tình hình chung quanh Thủ Đô yên tĩnh. Việt cộng hầu như ngưng hoạt động.
Bản lượng độ tình hình đó một phần nào nguyên nhân khiến Tổng Thống Diệm bằng lòng cho Tướng Đính đưa một số binh sĩ và xe tăng, thiết giáp xâm nhập Thủ Đô Sài Gòn với lý do chính đáng. Nhưng Tổng Thống Diệm có ngờ đâu đã mắc bẫy các Tướng lãnh âm mưu đảo chánh.
Về phía Phật Giáo, sau ngày Thượng Tọa Trí Quang lánh nạn tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Đại Sứ Lodge cho người liên lạc rất chặt chẽ với tôn giáo này, nhất là vị lãnh sự Hoa Kỳ ở Huế với Chùa Từ Đàm. Người Mỹ chú trọng nổi lửa Phật Giáo ở Huế rất kỹ lưỡng nơi mà trung tâm điểm quần chúng đa số là Phật Giáo đồ và có tinh thần bất khuất lật đổ chế độ Diệm.
Chính phủ Ngô Đình Diệm không nói trắng trợn với Đại Sứ Lodge là người Mỹ đang cổ súy Phật Giáo chống chính phủ, song Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Lodge là Tòa Đại Sứ thờ ơ với chính phủ thì chẳng khác nào ủng hộ Phật Giáo.
Ông Lodge lại trả lời: Chúng tôi không nhúng vào nội bộ chính quyền miền Nam. Chúng tôi cắt viện trợ vì chính quyền coi lời khuyến cáo của Hoa Thịnh Đốn không ra gì cả. Tổng Thống Diệm cho Lodge biết là chính sách Hoa Kỳ đang sai lầm, dân tộc chúng tôi sẽ áp dụng chính sách khắc khổ để bảo vệ quê hương.
Phật Giáo mỗi ngày mỗi làm dữ với những phát động biểu tình, tuyệt thực. Báo chí trong và ngoài nước không được phép vào ra các chùa chiền gặp các vị tu hành. Các Thông Tín Viên Âu Mỹ thuộc vùng Đông Nam Á đổ xô đến Việt Nam đông đảo.
Chính quyền Ngô Đình Diệm cảnh cáo các ký giả ngoại quốc với nhiều lời lẽ hăm dọa trục xuất, nếu họ viết những bài có ý bôi nhọ chính quyền. Chế độ Ngô Đình Diệm nhấn mạnh rằng, đối với kỷ luật Quốc Tế tường thuật trung thực, chính quyền lấy đó làm vinh dự, và nếu ký giả nào mạ lỵ, hỗ trợ Phật Giáo, công kích cá nhân những nhân vật miền Nam thì bị đuổi ra khỏi nước. Chính quyền không muốn tại xứ này xảy ra thêm một trường hợp Francois Sully (I). Ký giả Francois Sully đã bị trục xuất trong giai đoạn Phật Giáo đấu tranh. Chính quyền Diệm gán cho Sully về tội tường thuật không đứng đắn tình hình Việt Nam. Sự thật, Sully bị trục xuất là do Bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Bà Nhu giận và ghét Sully lắm. Bà ta đã yêu cầu ông Nhu và ông Diệm đuổi Sully ra khỏi nước vì cho hắn lưu trú không có lợi khi tình hình Phật Giáo bùng nổ. Francois Sully rời Việt Nam đến Hồng Kông làm Thông Tín Viên Đông Nam Á. Sau cách mạng 1.11.1963 vài tuần, Francois Sully lại được phép nhập nội Việt Nam khi đó chế độ Diệm sụp đổ hoàn toàn.
Đại Sứ Lodge đã trình với Tổng Thống Diệm chính quyền áp dụng những đường lối đàn áp ký giả, Thông Tín Viên của các Hãng Thông Tấn ngoại quốc. Chính quyền Diệm phủ nhận điều đó. Chính Tổng Thống Diệm và ông Nhu bác bỏ lời của Đại Sứ Lodge. Và Tổng Thống Diệm bảo rằng, ký giả ngoại quốc đã có thành kiến hiềm khích anh em, gia đình Tổng Thống và luôn cả chế độ. Chế độ này không cần đến họ trong việc Thông Tin Thông tức nữa. Chính quyền sẽ đạt lời yêu cầu đến ông U Thant mời một phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến Nam Việt Nam điều tra về vụ gọi là đàn áp Phật Giáo.
Đại Sứ Lodge thầm nghĩ rằng chế độ Diệm thật sự đàn áp Phật Giáo nên ông lấy làm bằng lòng mà nói, Tổng Thống và ông Cố Vấn mời Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc đến xứ này là hợp lý, hợp tình. Đại Sứ Lodge nói như vậy vì ông chắc chắn rằng với sự vô tư đối với Quốc Tế, Phái Đoàn điều tra chắc chắn sẽ kết tội chế độ Diệm kỳ thị tôn giáo.
Tuy thế, việc làm riêng tư của người Mỹ vẫn diễn tiến đều đặn trong việc xóa tan chế độ Ngô Đình Diệm.
Chính phủ Kennedy đã quyết như vậy thì Lodge phải thực thi cấp tốc.
Đảng Dân Chủ ở Mỹ cầm quyền đã làm mất lợi cho chính quyền Diệm ở Nam Việt Nam. Tổng Thống Kennedy với đa số ghế Đảng Dân Chủ ở Lưỡng Viện Quốc Hội đã thúc đẩy Hoa Kỳ thay đổi một chính sách hầu Nam Việt Nam có một bộ mặt mới. Bộ mặt mới hẳn nhiên theo quan niệm của Hoa Kỳ là không làm chấn động dư luận thế giới về Nam Việt Nam đang đàn áp Phật Giáo.
Người Mỹ đã như thế, Đại Sứ Trần Văn Chương là vị Đại Sứ lâu năm ở Hoa Kỳ và lại có tình thông gia với gia đình Tổng Thống Diệm đột ngột từ chức. Ngay trên đất Mỹ, ông Trần Văn Chương tỏ rõ thái độ chống chế độ Diệm làm cho chánh phủ và nhân dân Hoa Kỳ cảm thấy rằng không còn tiếc nuối duy trì chế độ Diệm tại Nam Việt Nam.
Trong lúc đó, sự nhờ cậy của chế độ Diệm qua trung gian với Đức Hồng Y Spellman thuyết phục vị Tổng Thống Công Giáo Kennedy.
Song Đức Hồng Y Spellman đã thất bại vì chính quyền Kennedy cho rằng quần chúng Việt Nam không còn tin tưởng ở chế độ cũ mèm Ngô Đình Diệm nữa. Tổng Thống Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo làm cho tình hình Việt Nam bệ rạc và tình trạng này còn kéo dài, chẳng mấy chốc việt cộng thắng thế mà uy tín Hoa Kỳ sẽ mất tan trong thế giới tự do.
Đại Sứ Lodge đầu dây mối nhợ qua những bản phúc trình được coi là chính xác từ Việt Nam gửi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là những thúc giục cấp bách kết thúc chế độ Diệm.
Cố nhiên với một chuyên viên đảo chánh lỗi lạc, một chính khách uy tín đang lên, Tổng Thống Kennedy đồng ý và ra lệnh cho Lodge tranh thủ thời gian thanh toán chế độ Diệm ngay tức thời.
Trong một phiên họp khoáng đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, những quốc gia sùng đạo Phật đã yêu cầu ghi vào nghị trình vấn đề chính phủ Diệm kỳ thị tôn giáo ở Nam Việt Nam. Rất nhiều các đại diện quan sát viên ở Hội Đồng này cho rằng Hoa Kỳ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về vấn đề đó tại Việt Nam. Người Mỹ vốn qui tắc, qui luật, họ không muốn ở diễn đàn quốc tế này là nơi các đại diện mọi quốc gia nhắm mũi dùi vào chính sách Hoa Kỳ.
Và nếu bị tấn công thì Hoa Kỳ mất uy tín, các nước cộng sản sẽ thừa cơ hội tố khổ trên diễn đàn mạnh mẽ đối với chính phủ non ngày non tháng Kennedy.
Nhiều dồn dập chất đống cho chính quyền Đảng Dân Chủ kennedy trong những tháng đầu cướp được quyền Tổng Thống mà Đảng Cộng Hòa đã giữ trong nhiều năm qua.
Cho nên Lodge được cử làm Đại Sứ tại Sài Gòn để giải quyết trọn vẹn vấn đề. Vấn đề này không ngoài lật đổ chế độ Diệm đã đứng vững trong 9 năm tại Nam Việt Nam.
Sứ mạng của Lodge không dễ dàng như quan niệm của tư bản Hoa Kỳ đối với các quốc gia chậm tiến vì ngài Đại Sứ đã gặp một vị Tổng Thống ương ngạnh Ngô Đình Diệm mà bên trong ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu làm linh hồn cho chế độ Sài Gòn.
Đại Sứ Lodge là một người Mỹ lãnh sứ mạng chinh phục chứ không phải bị khuất phục. Với một quốc gia lãnh đạo thế giới tự do như nước Mỹ thì ngài Đại Sứ Lodge luôn luôn có thái độ ‘’người khổng lồ’’.
Lodge đến Sài Gòn gặp phải một vị Tổng Thống đã coi ‘’người khổng lồ’’ đó là hình nộm. Ngài Đại Sứ, công dân áo gấm dưới thời Nguyễn Khánh đã tự ái nổi dậy. Thành kiến với một quốc gia chậm tiến chịu áp lực viện trợ Mỹ là tay sai làm cho người Đại Sứ đụng trở lực lớn.
Dị đồng cá tính giữa Âu-Á, sự mặc cảm bị đè nén, Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã có thái độ gây hấn với Lodge. Gây hấn bất đồng ý kiến với Lodge tức là chống đối chính phủ Hoa Kỳ, phụ lòng công của tiền bạc của người Mỹ viện trợ cho chế độ Ngô Đình Diệm.
Người Hoa Kỳ quá thực tế, máy móc nên đã ví các quốc gia đồng minh như một cái máy nổ. Người Mỹ chỉ cần vặn nút là chuyển động theo ý muốn. Tổng Thống Diệm không muốn lệ thuộc trong guồng máy đó.
Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn không tin tưởng đường lối hành động của chế độ đối với Phật Giáo thì Tổng Thống Diệm không thể để mất uy tín riêng biệt cho người Hoa Kỳ thao túng ở xứ này.
Đại Sứ Lodge là một chuyên viên ngoại giao kiên nhẫn. Ông vẫn đợi chờ từ hạ tuần tháng 8 đến trung tuần tháng 10.1963. Tổng Thống Diệm thay đổi thái độ mà người Hoa Kỳ cho rằng hợp với một quốc gia phần đông là Phật Tử.
Trung tuần tháng 10.1963 Đại Sứ Lodge hoàn toàn thất vọng với Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge có cảm tưởng Tổng Thống Diệm quá thủ cựu độc tài, không chịu uyển chuyển theo tình thế chính trị xoay chiều toàn cõi Nam Việt Nam.
Đại Sứ Lodge kiên nhẫn như thế vì ngài Đại Sứ là một tín đồ Đạo Zen. Người ta đồn đãi triết lý Đạo Zen ăn sâu vào tâm tính ông Lodge. Trong cuốn L’Ambassadeur của Văn Sĩ Moris West người Úc Đại Lợi mô tả Lodge đã từng tới tham thiền với một Nhà Hiền Triết Zen ở miền Bắc Đông Kinh. Điều này đúng chăng?
Nếu Lodge quả thật là một người tham Thiền Đạo Zen thì rất đúng hẳn tâm tính trầm lặng của ông ta. Có thể ảnh hưởng Zen nên Lodge đến Việt Nam mà không lật đổ chế độ Diệm ngay mà ông phải tìm một chân lý sự thật. Và ông đang tìm cách dung hòa với cá tính Á Đông ảnh hưởng Khổng Mạnh chấp chứa ở con người Tổng Thống Diệm. Nhưng Lodge khá nhầm lẫn.
Tư tưởng của Tổng Thống Diệm là xuất cứ trên hoạn lộ rồi mới hưởng nhàn ở nơi yên tĩnh. Còn vốn của Zen đã tìm nơi vắng vẻ, thiên nặng về trầm tư mặc tưởng đào luyện tâm tình. Cho nên hai con đường Lodge và Diệm chia thành lối. Thêm vào đó quan niệm Đông và Tây không bao giờ gặp nhau.
Cho nên Lodge đã chờ đợi. Chờ đợi trong chủ quan của một người Mỹ ngoại giao thông thạo nếp sống thấm nhuần tư tướng Á Đông.
Nhưng cái thông thạo của Lodge là lý thuyết qua một thứ triết học của Nhật Bản.
Đó là đi tìm chân lý Zen. Vì vậy Lodge hoàn toàn lệch lạc về tính Tổng Thống Diệm. Ngài Đại Sứ đã mơ tưởng đến một cuộc đàm trà về triết lý Đạo Zen trước một ảnh hướng nặng nề Khổng Mạnh trong bối cảnh sửa soạn đảo chánh của Lodge. Tổng Thống Diệm đặt Lodge vào con đường cùng. Con đường cùng đó, Lodge đứng trước trở ngại dồn ép. Ngay sau buổi lễ trình Ủy Nhiệm Thư, Lodge đã thấy như thế.
Tổng Thống Diệm không mấy ưa thích khi ngài Đại Sứ trình bày cuộc nổi dậy của Phật Giáo đồ. Tổng Thống nói với Lodge rằng, chắc rằng tôi hiểu thấu triệt Phật Giáo hơn ngài Đại Sứ, ngài cứ yên tâm cho chính phủ làm việc.
Cố nhiên Lodge không bằng lòng. Lodge là người nghiên cứu Đạo Zen. Đạo Zen là một phần nào nằm trong triết lý Đạo Phật. Lodge say mê Zen. Tin tưởng ở Zen là đường thoát thân, đem sự trầm tĩnh thuyết phục kẻ đối diện.
Với Tổng Thống Diệm không coi Lodge là một Tô Tần, một tín đồ của Zen. Ngài Đại Sứ đến đây để nuốt chửng chính sách nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm.
Từ những điểm bất đồng tiềm tàng trong tư tưởng đến dáng điệu của một ngài Đại Sứ Mỹ vội vàng đến Sài Gòn và yêu cầu cấp bách trình Ủy Nhiệm Thư. Hành động đó là muốn ăn thua đủ với Tổng Thống Ngô Đình Diệm rồi.
Vô tình Tổng Thống Diệm đưa lên bàn cân giữa ông cựu Đại Sứ Nolting và tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Theo ông Diệm thì Nolting mới xứng đáng một nhà ngoại giao. Một vị Ngoại Giao Đoàn xử sự đúng với câu ở ống thì dài, ở bầu thì tròn. Còn Lodge bước chân đến Sài Gòn với bề ngoài hoàn toàn người Mỹ trầm lặng.
Nhưng Tổng Thống Diệm lượng được cái trầm lặng đó. Cái trầm lặng nguy hiểm nhất của kẻ hành động rồi nói sau. Và người Mỹ trầm lặng chẳng khác gì ‘’người Mỹ xấu xí’’ đang chập chờn trước một thể chế được coi là chà đạp tôn giáo.
Tổng Thống Diệm vốn là người coi mặt bắt hình dung. Nói nôm na là Tổng Thống Diệm chú trọng đến tướng người đối diện. Nên trong cuộc tiếp kiến đầu tiên tại Dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm đã chú ý đến cách ăn nói dáng điệu của Lodge rất kỹ. Khi Lodge ra về Tổng Thống Diệm đã nói với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu rằng, Lodge là hạng người dữ, thủ đoạn vô cùng.
Tổng Thống Diệm thấy dáng đi của Lodge vai và lưng cong, dáng điệu của sư tử vồ mồi. Ông Nhu nghe Tổng Thống Diệm nói vậy thì mỉm cười. Nụ cười gắng gượng, khô khan nếu ai nhìn thấy sẽ cho rằng, đó là cái cười kiêu ngạo, khinh mạn. Nhưng những nhân viên Tổng Thống Phủ nghĩ rằng, ông Nhu cố gắng một nụ cười như thế không phải là dễ dàng trong cuộc đời ông ta. Hơn nữa ông Nhu cười là cho Lodge chứ không phải cười cho Tổng Thống Diệm. Cho nên ở bước đầu cuộc hội kiến ông Nhu đã thấy chế độ chịu ảnh hưởng Hoa Kỳ nhưng lại cách xa ngài Tân Đại Sứ.
Một người Mỹ như Lodge tự hào nhiều phương diện. Một người Mỹ như Lodge sâu sắc ở trong một tập đoàn mà ông ta đã chọn lựa sau khi Nolting rời Việt Nam. Lodge là người Đảng Cộng Hòa lại được Đảng Dân Chủ và Tổng Thống Kennedy cử đến nhậm chức Đại Sứ tại Việt Nam trong một tình hình được coi là nghiêm trọng, khủng hoảng chính trị nội bộ. Như thế Lodge không tự hào cái uy tín của mình sao được.
Vì những tự hào cá nhân, tự hào ngoại giao tột đỉnh, tự hào là chuyên viên hòa giải, ngài Đại Sứ quyết liệt khuyến cáo Tổng Thống Diệm ngay buổi hội kiến đầu tiên.
Một người như Tổng Thống Diệm với sự Cố Vấn của ông em Ngô Đình Nhu đã mất cảm tình với ngài Tân Đại Sứ Mỹ vừa chân ướt chân ráo đến Sài Gòn. Tổng Thống Diệm cho hành động của Lodge quá hấp tấp, chưa thấu triệt vấn đề Phật Giáo. Ngài Đại Sứ chỉ đọc trên giấy tờ, báo chí và nghe vào tai những dư luận khi còn trên lãnh thổ Hoa Kỳ.
Ý nghĩ tiên đoán của Tổng Thống Diệm rất đúng. Trước khi đến Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cung cấp cho Lodge hàng chục xấp tài liệu về Việt Nam, trong đó có ghi rõ không những biến động Phật Giáo mà còn có những cá tính của Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Nhu, các Bộ trưởng, chính khách có máu mặt và các Tướng lãnh Quân Lực Việt Nam.
Tuy nhiên Lodge không mấy chú trọng đến nhân sự chung quanh Tổng Thống Diệm. Lodge quanh quẩn trong hai nhân vật: Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Nhu mà thôi.
Cho nên khi đến Sài Gòn tình hình phức tạp giữa chính quyền và Quân Đội, Đại Sứ Lodge phải nhờ cậy đến Đại Tướng Paul Harkins qua sự tìm hiểu mau chóng về các Tướng lãnh Việt Nam. Khi gặp Tướng Trần Văn Đôn trong thâm tâm Lodge rất bằng lòng cái uy phong bề ngoài của vị Tướng Quyền Tham Mưu Trưởng Liên Quân này. Đó là một điều làm Lodge ngạc nhiên đầu tiên. Lodge ngỡ rằng với vóc dáng người Việt Nam chắc rằng các Tướng lãnh không lấy gì làm lẫm liệt.
Vì thế Lodge mất cảm tình với anh em Tổng Thống Diệm nhưng ông lại có cảm tình với Tướng lãnh và Quân Đội.
Đó là một phần bé nhỏ. Lodge đồng ý làm hậu thuẫn cho các cấp Quân Đội nào vì Phật Giáo đảo chánh chế độ Ngô Đình Diệm.
Tổng Thống Diệm được sự hỗ trợ của Cố Vấn Ngô Đình Nhu hầu như đã bất cần sự có mặt của ông Lodge kể từ ngày ông Đại Sứ Nolting bị triệu hồi, chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam.
Đó là những ngày rắc rối của chế độ Diệm vào trung tuần tháng 7.1963 với Phật Giáo đồ ở Huế rồi lan tràn các Tỉnh miền Trung, Trung Nguyên Trung Phần và cuối cùng ngay tại Thủ Đô Sài Gòn.
Trong khi đó chính quyền mới Kennedy không muốn kéo dài chiến tranh ở Việt Nam nữa. Tổng Thống Kennedy trong thời kỳ vận động tranh cử đã hứa với quần chúng Mỹ sẽ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam nếu ông được dồn phiếu để đắc cử.
Đồng thời Tổng Thống Kennedy muốn thắng lợi tại Việt Nam để đền bù mối thất bại trong cuộc đổ bộ Cuba đã làm uy tín Đảng Dân Chủ xuống thấp và làm các Thượng Nghị Sĩ chỉ trích quyết liệt tại diễn đàn Thượng Viện.
Tổng Thống Kennedy vốn tin tưởng lực lượng quân sự Mỹ, nên CIA đã huấn luyện một số biệt kích của những người Cuba lưu vong đang sống ở Florida để cướp chính quyền cộng sản. Fidel Castro, nhưng thất bại làm cho trùm CIA Dulles từ chức.
Đối với Việt Nam, Tổng Thống Kennedy yêu cầu Tổng Thống Diệm cho Quân Lực Mỹ đến Việt Nam thanh toán việt cộng vì giới Cố Vấn Mỹ tại Sài Gòn không còn thích hợp chế độ chiến tranh đang mỗi ngày mỗi cao.
Tổng Thống Diệm đã từ chối. Tổng Thống Kennedy đã không muốn một quốc gia chịu viện trợ lớn lao lại phản đối chính sách quân sự của Mỹ về chiến tranh.
Nên Lodge đến Sài Gòn đã một công hai việc. Hỗ trợ Phật Giáo và mở chương trình quân Mỹ đến Việt Nam.
Nội bộ nước Mỹ ảnh hưởng phần lớn cho chế độ Ngô Đình Diệm, nhất là khi đảng Cộng Hòa với anh hùng nước Mỹ Tổng Thống Eisenhower hết nhiệm kỳ để lại con ‘’gà nòi’’ Nixon tranh ghế Tổng Thống với Kennedy. Ông Nixon thất bại.
Đảng Dân Chủ lên cầm quyền, có thể nói rằng đã xa lạ đầu tiên với chế độ Ngô Đình Diệm trong suốt 9 năm. Lúc đó người ta đã đặt câu hỏi Tổng Thống Kennedy có còn ủng hộ Tổng Thống Diệm như Tổng Thống Eisenhower không?
Những thay đổi lớn lao ở Hoa Kỳ như thế, song ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu vấn an Tổng Thống Diệm không nên quan tâm đến tình hình nội bộ nước Mỹ. Tổng Thống Diệm cho ông Ngô Đình Nhu là đúng. Vì dầu sao Hoa Kỳ phải ủng hộ Tổng Thống, một chế độ được nhân dân ủng hộ triệt để và Dân Chủ hoặc Cộng Hòa ở Mỹ đều là một.
Chủ quan của ông Nhu không phải là vô lý. Ông đã đặt nền tảng nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ Diệm là khí giới sắc bén trước sự thay đổi chính trị ở Hoa Kỳ khi Tổng Thống Kennedy lên nắm quyền ở Tòa Bạch Cung.
Nhân dân hậu thẫn Tổng Thống Diệm thì việc ông Tân Đại Sứ Lodge đến Sài Gòn không nghĩa lý gì cả. Dù ông Lodge dựa vào Phật Giáo đấu tranh để khuyến cáo chính quyền thì ông Nhu, một Cố Vấn chính trị sẽ ra tay.
Thật vậy, ngày ông Lodge đến Sài Gòn, trong đêm đó, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung, Cảnh Sát chiến đấu phong tỏa các chùa chiền, bắt bớ các Sư Sãi vào những nơi giam bí mật ở Tổng Nha Cảnh Sát, Trại Lê Văn Duyệt và ngôi hầm bí mật ở sở thú mà người ta gọi ám số ngôi hầm này là P.42.
Trên toàn cõi Nam Việt Nam đều xảy ra tình trạng này. Ở Huế, một số Sư Sãi, công chức bị giam ở Năm Căn, một ngôi hầm dự trữ đạn dược của Quân Đội Nhật trong Thế Chiến Thứ II.
Ở Sài Gòn sau khi bắt xong các Sư Sãi, Chùa chiền vắng ngắt. Ông Ngô Đình Nhu đã tung một số Nhà Sư vào các Chùa lớn như Xá Lợi ngồi tụng kinh gõ mõ. Những vị Sư này là Mật Vụ trá hình thành kẻ tu hành.
Khi Chùa Xá Lợi được giải tỏa 50% tín đồ, Phật Tử đến cúng bái Đức Thế Tôn đã gặp mấy vị Sư này. Ban đầu người ta ngỡ là những vị tu hành này ở các Tỉnh đưa về Thủ Đô để thay thế vào những Thượng Tọa, Đại Đức đã bị chính quyền bắt giữ. Nhưng các Phật Tử thấy các Sư Sãi này không thuộc kinh kệ. Tay chân các vị Sư này lại thô kệch. Lễ vật cúng mới dâng Đức Phật hồi sáng, đến chiều đã thấy các Sư Sãi ăn hết. Các Phật Tử bắt đầu nghi ngờ. Và cũng từ đó tiếng đồn ở Chùa Xá Lợi đều là sư giả của Mật Vụ trá hình.
Khi phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc đến Sài Gòn, một vị Thượng Tọa Miến Điện đã không quan tâm các vụ đàn áp. Vị Thượng Tọa này khi tháp tùng phái đoàn đến Chùa Xá Lợi, ông chỉ hỏi các vị Sư Chùa này về Đạo pháp kinh kệ.
Cố nhiên các vị Sư Sãi giả này không biết gì cả.
Vị Thượng Tọa này còn ‘’khám’’ lòng bàn tay một ông Sư Chùa Xá Lợi. Khi thấy bàn tay vị Sư này đầy những mụn chai, vị Thượng Tọa Miến Điện biết ngay vị Sư này là người hành nghề nặng nhọc tay chân chứ không phải tu hành.
Đại Sứ Lodge do cơ quan CIA cung cấp đã biết trước một số Mật Vụ của ông Ngô Đình Nhu trá hình thành các vị Sư ở các ngôi chùa lớn trong Thủ Đô Sài Gòn trước khi Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc đến Việt Nam, cho nên Lodge gài bẫy cho chế độ Diệm càng sa lầy bằng cách để tự do phái đoàn điều tra được thăm viếng nhiều Chùa chiền và những nơi giam giữ các vị Thượng Tọa, Đại Đức. Ban đầu Tổng Thống Diệm chấp nhận hoàn toàn do sự điều tra trung thực của Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc vì Tổng Thống Diệm tin tưởng rằng chế độ không hề dị biệt tôn giáo.
Trong khi đó ông Ngô Đình Nhu hợp tay cùng Mật Vụ, vạch sẵn chương trình lôi kéo phái đoàn điều tra một cách rất khoa học theo đường lối của ông ta.
Trước khi Phái Đoàn đến Tổng Nha Cảnh Sát, Trại Lê Văn Duyệt, An Dưỡng Địa, Mật Vụ quét dọn sạch sẽ, yêu cầu các Sư Sãi mặc áo quần tươm tất. Trong ngày đó những phương tiện vật chất như ăn uống đều đầy đủ mong mua chuộc lòng Sư Sãi và lừa gạt được phái đoàn điều tra. Mật Vụ còn tổ chức chỉ định những câu hỏi phái đoàn điều đề ra.
Về phía Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc được chế độ o bế đến mức tối đa. Mật Vụ của ông Nhu bao trùm cả nhà hàng Majestic, nơi Phái Đoàn điều tra lưu ngụ.
Tổng Thống Diệm tiếp đãi Phái Đoàn rất nồng hậu mà nhân viên Phủ Tổng Thống cảm thấy rằng trong 9 năm qua chưa có một đoàn ngoại quốc nào được trọng đãi như thế. Dưới mắt các quan sát viên trong nước và quốc tế thời bấy giờ có cảm tưởng Phái Đoàn Điều Tra đã làm việc cho có lệ mà thôi.
Tuy nhiên ông Ngô Đình Nhu vẫn cho Mật Vụ canh chừng đường đi nước bước của các Thượng Tọa Miến Điện và Tích Lan. Mật Vụ còn mua chuộc Phái Đoàn bằng cách dâng hiến một số gái đẹp cho các nhân viên điều tra trong những đêm thâu canh vắng.
Theo một cựu nhân viên Mật Vụ thì đây là một cái bẫy gài Phái Đoàn điều tra vào thế bí, nếu Phái Đoàn này phúc trình bản điều tra không theo chiều hướng của chế độ.
Mật Vụ đã chụp hình quay phim các cuộc trăng gió của từng cá nhân trong Phái Đoàn Điều Tra Liên Hiệp Quốc. Một số ảnh được phóng lớn cỡ Carte Postale về hình vị điều tra Tích Lan và Miến Điện đang dở trò dâm đãng, hết sức tồi tệ. Số hình này được gửi về Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống, Tổng Nha Cảnh Sát, Trung Ương Tình Báo và Nha An Ninh Quân Đội.
Cuộc ăn chơi của Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc tại Sài Gòn đã lọt vào tay mật vụ với bằng chứng cụ thể, không chối cãi mà phái đoàn không hề hay biết.
Khí giới ấy Mật Vụ của chế độ định tung ra cho phái đoàn khi sửa soạn rời Việt Nam, kết thúc cuộc điều tra trước khi tường trình ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Thant.
Những Nhà Sư giả đội lốt tu hành bị khám phá dễ dàng. Lúc đầu khách thập phương đến cúng bái ở Chùa Xá Lợi không tin tưởng điều này là sự thật.
Mãi đến khi một Nhà Sư bị dân chúng vây đánh ở gần Chùa Xá Lợi thì công chuyện mới đổ bể. Mật vụ của ông Ngô Đình Nhu liền bí mật gọi các tên đội lốt Sư trở về các Nhiệm Sở. Tuy nhiên lúc bấy giờ CIA đã hợp lực với Quân Đội quyết định lật đổ Diệm nên tiếng đồn các Sư giả ở các Chùa vẫn vọng vào quần chúng. Vì thế một số lớn Chùa chiền trong Thủ Đô chẳng có khách thập phương đến cúng dường Tam Bảo.
Phái Đoàn Điều Tra Liên Hiệp Quốc vẫn tiếp tục điều tra với những cuộc thăm viếng. Nhưng phái đoàn này trông vẻ ăn chơi, nhàn tản cho đến ngày đảo chánh bất thần bùng nổ. Phái Đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc chứng kiến cuộc đảo chánh và vụ điều tra coi như hủy bỏ.
Về sau này bản phúc trình của Phái Đoàn này lên Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc về vụ đàn áp Phật Giáo rất đơn sơ. Và xác nhận ở Việt Nam dưới thời Tổng Thống Diệm có dị đồng tôn giao.
Tuy nhiên, bản phúc trình đó không được thế giới chú ý. Có lẽ vì chế độ Ngô Đình Diệm đã cáo chung thì bản điều tra ấy không còn giá trị tồn tại nữa.