← Quay lại trang sách

ĐẠI SỨ LODGE VÀ CON HỔ GIẤY HOA KỲ

Kể từ ngày thế giới chia ra hai chủ thuyết rõ rệt: Tự do và cộng sản thì Hoa Kỳ bị phe cộng sản liệt vào hạng con hổ giấy Tự Do. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Trung Cộng tranh chấp với Hoa Kỳ ở quốc gia này mãnh liệt. Cả hai bên đều gia tăng quân số, vũ khí, hầu đem đến thắng lợi. Hoa Kỳ đã tung một lực lượng quân sự đáng kể, nhưng Trung Cộng vẫn liệt Hoa Kỳ vào hạng ‘’hổ giấy thế giới tự do’’.

Đại Sứ Lodge đến Sài Gòn với uy lực lớn lao, nhưng dưới mắt ông Ngô Đình Nhu, nhìn Lodge cũng là thứ hổ giấy Hoa Kỳ. Bằng chứng qua lần gặp gỡ Tổng Thống Diệm ngài Tân Đại Sứ Lodge đều thất bại trước những sự phản đối của chính quyền Việt Nam về việc người Mỹ đang nhúng tay vào nội bộ dân bản xứ. Ông Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỹ càng bằng máy thu băng những cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Diệm và ngài Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Ông Nhu tin tưởng chế độ sẽ thắng chuyên viên ngoại giao Lodge một cách hợp lý và hợp tình.

Nhưng ông Nhu chủ quan và nhầm lẫn khá nhiều về con người của Tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge. Đại Sứ Lodge mang vào thân với sự tự tôn của người đi ‘’chinh phục’’. Cho nên khi một vị Tổng Thống địa phương bất đồng ý kiến, coi lời khuyến cáo của Lodge không ra gì thì ngài Đại Sứ không dung tha được.

Lodge sẽ hành động với mọi uy lực trong tay, lật đổ chính quyền ương ngạnh đó bằng được. Chính quyền Ngô Đình Diệm với chính sách được gọi là ‘’xả láng’’ phản bội viện trợ Mỹ thì không còn lý do gì để lãnh đạo một quốc gia chậm tiến đứng trước nanh vuốt cộng sản.

Người Đạo Zen được phong làm con hổ giấy trong tập đoàn lãnh đạo Hoa Kỳ, Đại Sứ Henry Cabot Lodge đã tỏ ra con người phong độ chính trị nhưng không lộ hẳn ở mặt ngoài.

Ông Ngô Đình Nhu đã hời hợt với người Mỹ Lodge thấu triệt Zen mà đi đến chỗ thất bại oan uổng. Và người ta nghĩ rằng Lodge đã làm cho cuộc đời ông Nhu tiêu tan kéo theo Tổng Thống 9 năm Ngô Đình Diệm.

Con hổ giấy Lodge biết cử động trong biến tình Phật Giáo đã làm cho quần chúng, Chính khách Việt Nam không còn khinh khi con cọp giấy Hoa Kỳ nữa.

Năm 1954 ông Diệm, ông Nhu dựa vào thế lực của Hoa Kỳ bao nhiêu thì những năm cuối cùng của chế độ, hầu như muốn tránh khỏi ảnh hưởng Hoa Kỳ. Thái độ này khá kiêu ngạo khi ông Nhu hoàn thành một số Ấp Chiến Lược trên toàn quốc.

Thắng lợi về Ấp Chiến Lược làm cho cộng sản la hoảng và tuyên truyền rằng: Mỹ Diệm tập trung dân chúng trong Ấp Chiến Lược là những trại tù vĩ đại ở Việt Nam. Ông Ngô Đình Nhu am hiểu chiến thuật, chiến lược của cộng sản. Cho nên khi bị phía bên kia chỉ trích chính sách Ấp Chiến Lược, ông Ngô Đình Nhu sung sướng coi đó là thành công to lớn.

Theo kinh nghiệm của những người đã sống và chống đối cộng sản đều hiểu rằng, những gì Nam Việt Nam gây trở lực cho việt cộng thì bị đài phát thanh Hà Nội, đài bí mật Giải Phóng Miền Nam chỉ trích quyết liệt. Ấp Chiến Lược lại còn phá rối hạ tầng cơ sở thôn quê mà việt cộng thường lấy làm căn bản. Nên việt cộng rối rít đả phá Ấp Chiến Lược về kế hoạch lâu dài.

Người Mỹ bên cạnh chính phủ Ngô Đình Diệm như chuyên viên điệp báo Đại Tá Lansdale, phải công nhận ông Ngô Đình Nhu thành công rất lớn trong việc bình đình nông thôn và chế độ đang đứng vững ở hạ tầng cơ sở.

Nhưng ở Hoa Thịnh Đốn, thu thập qua tin các Thông Tín Viên, Thông Tấn Xã, nhất là tuần báo nổi danh News Week lại chỉ trích Ấp Chiến Lược. Những cơ quan này cho rằng ông Nhu rập theo khuôn khổ kế hoạch của Sir Thompson, một chuyên gia du kích người Anh đã thắng lợi ở chiến trướng Mã Lai Á. Hoa Thịnh Đốn không coi Ấp Chiến Lược là sáng kiến của ông Nhu và ngay cả thuyết Nhân Vị, người Mỹ cũng cho là mơ hồ trong Thế Giới Tự Do Tư Bản.

Tân Đại Sứ Lodge là đơn vị đứng trong tập đoàn điều khiển chính sách Mỹ từ Hoa Thịnh Đốn đến, đến để mang theo sự coi thường ông Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu bên cạnh Tổng Thống Diệm.

Cho nên Lodge chỉ gặp ông Nhu một lần cùng bàn bạc, thảo luận giữa ba người, Tổng Thống Diệm, ông Nhu và ngài Đại Sứ. Ông Lodge cho rằng Nhu là một chính trị gia lý tưởng chứ không thực tế trên cõi đời một ngày một biến chuyển muôn mặt này.

Một lần duy nhất đó mà thôi, rồi những cuộc thảo luận kế tiếp Lodge gặp riêng Tổng Thống Diệm. Những lần gặp như thế này, dù ở Tổng Thống Diệm giữ vững lập trường từ việc nổi loạn Phật Giáo đến việc Hoa Thịnh Đốn yêu cầu cho Quân Lực Mỹ đổ bộ lên Nam Việt Nam. Ông Diệm tự chối, viện cớ chính quyền không thể lùi bước có hại cho uy lực như thế được. Thái độ Tổng Thống Diệm như vậy, nghĩa là cứng rắn, đương đầu với ngài Đại Sứ. Song Lodge nhận xét trong những buổi đàm luận, Tổng Thống Diệm trông vẻ cô đơn vì lối lập luận của ông một chiều. Một chiều đó chắc chắn đã sửa soạn trong những ngày hôm trước qua sự bí mật của ông Nhu thúc đẩy Tổng Thống Diệm. Vì vậy lắm lúc Tổng Thống Diệm lúng túng khi ông Lodge hỏi một điểm ngoài cuộc thảo luận. Như thế để chứng tỏ, thiếu ông Nhu bên cạnh, Tổng Thống Diệm đã lộ hẳn sự lạc lỏng.

Đại Sứ Lodge mà ông Nhu quan niệm là con hổ giấy đã đánh đúng vào yếu huyệt của ông Diệm, nên ông Nhu bị gạt ra ngoài vòng những cuộc thảo luận. Một phần nào dữ kiện này, Nhu cay cú với Tân Đại Sứ Lodge.

Vì sự cay cú đó ông Nhu đã mất khôn, đẩy Tổng Thống Diệm vào con đường được gọi là: ‘’chống Mỹ’’. Cho nên cuộc cách mạng 1.11.1963 bùng nổ chẳng có gì lạ đối với các chính trị gia trong và ngoài nước đang theo dõi biến chuyển tình hình lúc bấy giờ.

Ông Nhu thất bại vì không nghĩ đến con hổ giấy Hoa Kỳ Lodge có tư tưởng. Còn phía Trung Cộng gán cho Hoa Kỳ là con hổ giấy là chiến thuật tuyên truyền vững lòng các quốc gia chậm tiến. Hơn nữa, Trung Cộng đứng ngoài vòng ảnh hưởng ngoại giao, kinh tế với Hoa Kỳ nên dễ dàng gán cái xấu cho đối thủ để nâng cao địa vị của mình.

Còn Nam Việt Nam đứng vững hay không đều do người Mỹ. Ông Diệm trở thành Tổng Thống cũng do người Mỹ và bị chết cũng do người Mỹ mà ông Nhu lẫn ông Diệm không lượng được tầm quan trọng đó mà muốn ỡm ờ chống hổ giấy Hoa Kỳ.

Ông Nhu và Tổng Thống Diệm tin tưởng dầu sao đi nữa, người Mỹ (chính phủ Kennedy) cũng phải áp dụng chính sách ủng hộ chính quyền miền Nam như dưới thời Đảng Cộng Hòa Eisenhower. Lập trường của Hoa Kỳ phải tiên quyết như vậy vì chính quyền Diệm đã có thể đứng vững mạnh trong 9 năm qua. Bằng chứng cụ thể thấy rõ thì không vì lý do Phật Giáo gây rối loạn mà người Mỹ lại bạo gan phá bĩnh công lao trong 9 năm giúp đỡ tận tình chế độ vững mạnh tại Sài Gòn.

Về việc Lodge đến Sài Gòn cũng như Hoa Kỳ đột ngột triệu hồi Đại Sứ Nolting, các quan sát viên Nam Việt Nam tiên đoán Hoa Kỳ đang thay đổi thái độ với chính quyền Diệm.

Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu linh hồn của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, không nhận định đó là một mối nguy cơ mà lại nghĩ rằng, Hoa Kỳ đang dằn mặt chính quyền miền Nam phải nhượng bộ những đòi hỏi của người Mỹ.

Trong khi đó dư luận quần chúng nghĩ rằng, Đại Sứ Lodge thay thế Đại Sứ Nolting vì chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp Phật Giáo.

Ông Lodge cho chỉ thị của chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo Tổng Thống Diệm hầu xóa tan khủng hoảng nội bộ nếu ông Diệm, ông Nhu nhận định tình hình đang trên bờ vực thẳm qua nhiều khía cạnh, nhưng thật ra, ngoài cuộc rối loạn Phật Giáo, ngài Đại Sứ Lodge đến Sài Gòn với nhiều mục địch hầu như bắt buộc Tổng Thống cải tổ mở rộng chính phủ với nhiều tầng lớp chính khách đối lập tham dự, đồng thời nên chấp nhận một vài Tướng lãnh tham gia nội các để quân bình thế đứng của chính quyền. Ngoài ra, người Mỹ mong mỏi Tổng Thống Diệm gạt bỏ những phần tử liên hệ đến dòng họ Ngô Đình Diệm ra ngoài chính quyền. Nhất là ông bà Ngô Đình Nhu đang làm mưa làm gió trên chính trường Nam Việt Nam. Cuối cùng, người Mỹ không muốn duy trì các Cố Vấn Quân Sự Hoa Kỳ đã có từ lâu nữa và thay thế vào đó một số Quân Lực rõ rệt. Nói rõ ràng hơn Quân Đội Mỹ sẽ đến Nam Việt Nam chiến đấu hơn là Cố Vấn. Có như vậy mới chấm dứt chiến tranh mau chóng mà không tiêu hao lực lượng.

Như vậy, dựa trên cao trào Phật Giáo đấu tranh, người Mỹ đòi hỏi điều kiện mới với chính quyền Ngô Đình Diệm. Vì vậy, Tân Đại Sứ Lodge thay thế cựu Đại Sứ Nolting không phải đơn phương về vấn đề khủng hoảng Phật Giáo mà thôi như dưới mắt quần chúng Việt Nam sống trong biến động lịch sử 1.11.1963.

Chuyên viên Lodge lãnh sứ mạng nặng nề đến Nam Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ và ngay cả Lodge đặt tin tưởng sẽ thắng lợi hoàn toàn. Cái kiêu ngạo của Hoa Kỳ cũng như cá nhân của ngài Đại Sứ Lodge là thế đấy.

Tự tôn một quốc gia giàu mạnh, nhiều nhân sự lỗi lạc, người Mỹ nhúng tay vào nội bộ các dân tộc đồng minh địa phương. Hành động của Hoa Kỳ nhiều khi cũng đem vào mối lợi như các vụ Indonésia và gần đây là Cambodge.

Nhưng có những vụ thất bại chua cay như Cuba, Cộng Hòa Á Rập (thời Nasser), Kuweit (xứ dầu hỏa Địa Trung Hải) và chính biến 1.11.1963 được coi trong những chính sách sai lầm, thất bại đó.

Tuy nhiên, mỗi lần thất bại như thế, dân chúng, Quốc Hội Hoa Kỳ náo loạn phản đối thì chính phủ lại đổ lỗi cho những hoạt động CIA. Và cái tầm quan trọng của sự thất bại đó lắng xuống để mưu đồ một trận đánh gián điệp mới.

Cho nên Nam Việt Nam trong mùa Hạ 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đang đứng trước nanh vuốt Hoa Kỳ mà ngài Đại Sứ làm tiêu biểu bước chân đến Sài Gòn với không khí nặng nề, im tiếng.

Ngài Đại Sứ Lodge mở đầu những cuộc hội đàm với Tổng Thống Diệm có tính cách nghi lễ của một vị Đại Sứ vừa nhậm chức. Chủ đích Hoa Thịnh Đốn và Lodge đã định sẵn trước khi ông ta đến Sài Gòn.

Kế hoạch của Lodge đối với chế độ Diệm gồm hai giai đoạn: Bắt đầu khuyến cáo, thuyết phục bằng miệng theo lối Tô Tần, nếu thất bại sẽ chuyển qua giai đoạn hai, lật đổ chính quyền Diệm bất cứ bằng giá nào.

Lúc bấy giờ Lodge chú ý đến các chính khách đối lập và những đoàn thể hoạt động bán chính thức lộ mặt chống chính quyền. Đó là các ông Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Tuyên và nhóm trí thức được mệnh danh là Caravella (nhóm này họp mặt ở khách sạn Caravella ra bản tuyên cáo tỏ ý chống chế độ).

Riêng hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Quang Đán được dân chúng ủng hộ triệt để trong vụ bầu cử vào Quốc Hội. Nhưng chế độ Diệm viện cớ vi phạm luật bầu cử nên bị loại.

Vì sự sai lầm của chế độ trong trường hợp này đã vô tình làm nổi tiếng hai vị chính khách này. Mãi đến sau cách mạng 1.11.1963 thành công, dân chúng mới hiểu được tài năng của hai vị này trên chính trường miền Nam.

Ngài Đại Sứ Lodge không thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Chỉ còn một đường đảo chánh. Tuy nhiên thượng tuần tháng 10, Đại Sứ Lodge vẫn còn lừng khừng chưa gọi gì là ra tay hành động.

Nhưng thật sự Đại Sứ Lodge hầu như khuyến khích những cuộc biểu tình của Phật Giáo khắp mọi nơi trên toàn cõi Nam Việt Nam. Những lãnh sự Mỹ ở các Tỉnh, Đại Sứ Lodge triệu hồi về Sài Gòn hội họp thường xuyên.

Đại Sứ Lodge chỉ thị cho những vị này đứng ngoài những cuộc biểu tình đó và không một lời nào xây dựng hoặc chỉ trích các chính quyền địa phương. Hành động này phải được lộ hẳn ra ngoài mặt chi dân chúng thấy rõ.

Ông Lodge có thái độ như vậy không khác gì đốc thúc Phật Giáo làm dữ để ngài Đại Sứ dễ ăn nói với Tổng Thống Diệm đứng trước tình hình rối loạn.

Đại Sứ Lodge trong khoảng thời gian này chưa có ý định vào Quân Đội Việt Nam lật đổ chế độ. Ngài Đại Sứ chủ trương một cuộc cách mạng nhân dân đứng lên đảo chánh mới mạnh mẽ để Tổng Thống Diệm thấy rằng đồng bào đã xa lánh vị Tổng Thống của họ.

Về phía Quân Đội sẽ tiếp ứng vào phút chót khi thấy tình hình chín muồi, Đại Sứ Lodge mong mỏi như vậy vì người Hoa Kỳ dè dặt về một chế độ Quân Nhân thành hình, nếu để các Tướng lãnh khởi xướng cách mạng. Kinh nghiệm này đã xảy ra ở Đại Hàn khi người Mỹ xúi giục Quân Đội nước này hạ bệ chế độ Tổng Thống Lý Thừa Vãn. Tiếp theo đó Đại Hàn khủng hoảng chính trị và những Tướng lãnh tranh quyền nhau.

Tại Việt Nam, người Mỹ Cabot Lodge tránh vết xe sa lầy đó. Song đến tháng 10.1963, Phật Giáo đồ tiếp tục tự thiêu, xuống đường. Phía chính quyền bắt bớ giam cầm. Tình hình náo động vô cùng nhưng chính quyền vẫn thắng thế, dư luận quốc tế lên án chính quyền miền Nam chà đạp tôn giáo nhân quyền. Sự lên án đó kết tội Hoa Kỳ phải gánh lấy hậu quả, trách nhiệm hoàn toàn.

Người Mỹ chuyên viên bóp méo, sửa sai thời cuộc Henry Cabot Lodge gấp rút thanh toán chế độ Diệm vì diễn đàn Liên Hiệp Quốc sắp họp phiên khoáng đại.

Dư luận ngoài hành lang Liên Hiệp Quốc là các quốc gia Phật Giáo sẽ biểu quyết yêu cầu các đại biểu ghi vào chương trình bàn luận về chính quyền miền Nam đàn áp tôn giáo. Cố nhiên khi ghi vào nghị trình phiên họp thì Hoa Kỳ sẽ bị chỉ trích nhiều nhất. Và mất ảnh hưởng với các quốc gia đã có cảm tình với Hoa Kỳ từ trước.

Tình trạng như thế, nên khi những bản phúc trình của CIA ở Sài Gòn đệ trình Đại Sứ Lodge là một số Tướng lãnh Việt Nam đứng lên làm đảo chánh.

Đại Sứ Lodge buông xuôi sự suy tính hầu cướp thời gian cho uy tín ràng buộc của người Mỹ tại Nam Việt Nam.

Đại Sứ Lodge chấp nhận một cuộc đảo chánh do Quân Đội đứng đầu, ngài Đại Sứ vội vàng như vậy vì thấy biến động Phật Giáo đã sâu rộng mà không đi đến đâu.

Nếu cứ dựa vào Phật Giáo qua ngày tháng thì e rằng phong trào này sẽ mỏi mệt và tàn rụi. Nếu biến động tàn rụi, chính quyền Diệm sẽ hống hách và coi thường Đại Sứ Lodge cùng cả người Hoa Kỳ lôi cuốn theo.

Đại Sứ Lodge chứng tỏ cá nhân ông cùng với sự liên đới chánh phủ của ông không phải là thứ hổ giấy trong Thế Giới Tự Do đứng trước tập đoàn cộng sản quốc tế. Dù người ta nghĩ rằng Hoa Kỳ là một con hổ giấy thì con hổ giấy ấy có tầm lực cho người bàng quang chú ý với lòng sợ sệt.

Nhưng trong giai đoạn thời bấy giờ, Đại Sứ Lodge tỏ thái độ đó nhằm vào chính quyền Ngô Đình Diệm và riêng cá nhân ông Nhu nhiều hơn cả. Cho nên cá nhân Lodge tiềm tàng sự ngông nghênh của một vị Đại Sứ vĩ đại đến một quốc gia đang ‘’được ơn’’ viện trợ lớn lao của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ.

Đại Sứ Lodge tự ái chính trị, nhắm mũi dùi vào ông Ngô Đình Nhu mà ngài Đại Sứ cho rằng ông em của Tổng Thống Diệm đang dẫn dắt chế độ đến con đường cùng, gẫy đổ. Sự gãy đổ, nguyên nhân coi thường chính sách khuyến cáo của tập đoàn chính phủ Kennedy, một chính phủ được coi là đối thủ trẻ trung với cộng sản trong lịch sử nước Mỹ.

Trong đó ông Lodge bảo thủ uy tín cá nhân nhiều hơn cả. Lodge đã không tuyên bố một lời nào về sự chống đối địa phương. Tư phong đó là một sự dồn ép tâm lý của một hạng người lão thành về chính trị.

Ông Ngô Đình Nhu bị cúp viện trợ trang trải cho Lực Lượng Đặc Biệt. Lodge cho rằng lực lượng này đối với người Mỹ, là phụng sự riêng tư cho ông Nhu. Quân Đội phục vụ cho một cá nhân, chính phủ Hoa Kỳ không thể chấp nhận được.

Chính phủ Mỹ bỏ qua những ngân sách thâm lủng về Ấp Chiến Lược mà dư luận Hoa Kỳ cho rằng bao nhiêu tiền bạc của chính sách đó, lọt vào túi riêng vợ chồng ông Nhu.

Theo một số người liên quan đến Chính Sách Ấp Chiến Lược cho rằng những lời khuyến cáo của Đại Sứ Lodge rất đúng. Lỗi lầm này không phải ông Nhu, nhưng vì các cấp dưới tham nhũng, nên số tiền xây dựng Ấp Chiến Lược bị mất mát rất lớn.

Dưới mắt người dân hồi bấy giờ đối với Ấp Chiến Lược rất thờ ơ. Trên toàn quốc nhiều nhất là khoảng 10 đến 15 Ấp được coi là hoàn hảo, đúng nghĩa, đúng thực lực. Những ấp kiên cố này phần nhiều nằm ở Vùng Cao Nguyên Trung Phần. Còn số lớn các Ấp khác xây dựng có tính cách tượng trưng.

Từ bên ngoài nhìn vào thấy rất đầy đủ. Nhưng nhìn kỹ mới rõ rằng yếu đuối vô cùng. Những hàng rào tre vót nhọn cắm xuống bùn mỏng manh không thể tưởng tượng được. Có nhiều Ấp sau nửa tháng xây dựng đã thấy hư hỏng.

Những nhân vật hữu trách Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam ông Nhu thường khoe khoang hữu hiệu Chính Sách Ấp Chiến Lược. Ông Nhu hướng dẫn đi xem xét vài ấp tiêu biểu.

Cố nhiên những Ấp này ở cửa Vùng Cao Nguyên, Kiến Hòa, Khu Trù Mật Vị Thanh. Người Mỹ thấy những ấp này đều nghĩ rằng trên toàn quốc đều như vậy cả.

Tuy nhiên Đại Sứ Lodge không quan tâm đến. Lodge lại cho rằng Nhu là con người ‘’lừa đảo’’ người Mỹ. Lodge không thể chấp nhận được.

Vì thế Lodge coi thường Ấp Chiến Lược đến nỗi không cần khuyến cáo tân chế độ sau ngày 1.11.1963 đừng phá đổ chương trình.

Thật ra Ấp Chiến Lược trong kế hoạch rất tốt đẹp và hữu dụng với chiến tranh du kích cộng sản. Nhưng ông Nhu quá thiên nặng về lý thuyết mà bỏ rơi mất thực tế, thực trạng để cho người ta gán cho vợ chồng ông đã tham nhũng một số lớn Mỹ kim trong chương trình này.

Quan điểm của Đại Sứ Lodge đối với chế độ Ngô Đình Diệm đi đến chỗ ‘’vạch lá tìm sâu’’ những khuyết điểm. Người Mỹ có nếp sống thực tế, phân minh, nên họ rất mực thước về vấn đề tiền bạc.

Tiền bạc này là số tiền khổng lồ viện trợ cho Nam Việt Nam trong 9 năm chế độ Diệm cầm quyền. Số tiền đó người Mỹ cho rằng đã mất mát cho một chính thể gia đình trị mà ông Nhu đứng đầu chứ không phải Tổng Thống Diệm.

Đại Sứ Lodge khuyến cáo, thuyết phục Tổng Thống Diệm nhưng đó là những lời nhắn nhủ đến ông Ngô Đình Nhu. Ông Nhu không thể cưỡng được người Mỹ mà ngài Đại Sứ đang đại diện tại Sài Gòn. Những hành động của ông Nhu, Đại Sứ Lodge cho Tổng Thống Diệm biết là Tòa Đại Sứ Mỹ đều thông suốt. Những lời nói mập mờ này, Tổng Thống Diệm không hiểu ông Lodge đòi hỏi điều kiện gì? Một người đạo đức như ông Diệm rất ghét những điều ám muội như vậy. Cho nên Tổng Thống giận lắm.

Mặt đỏ gay, những câu nói Pháp Ngữ ngập ngừng lúng túng. Đó là thói quen của ông khi không bằng lòng điều gì.

Cố nhiên, sau cuộc hội đàm không bổ ích với Đại Sứ Lodge, Tổng Thống thường gọi ‘’chú Nhu’’ để mổ xẻ về ngài Đại Sứ.

Riêng ông Nhu hiểu hơn ai hết. Ngài Đại Sứ đang dằn mặt ông Nhu cố xoay chiều chính sách Mỹ ở Nam Việt Nam. Ông Nhu đang lo lắng, suy nghĩ, bộ mặt chảy dài ngàn năm càng thêm kéo dài đối với hình thù khó chịu.

Những việc làm của ông đã bị CIA theo dõi. Những lời của Đại Sứ Lodge nói với Tổng Thống Diệm rất rõ ràng không đến nỗi mờ ám như Tổng Thống Diệm đang thờ ơ.

Ông Nhu tự kiểm điểm bản thân trong giây lát. Ông đâm ra nghi ngờ mọi người chung quanh công tác với ông. Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống với nhiều bộ mặt lần lượt hiện rõ trong tâm trí ông Ngô Đình Nhu.

Ông Nhu tự hỏi ai đã tiết lộ bí mật của ông. Những bí mật đó là những cuộc tiếp xúc thầm kín giữa ông Cố Vấn với các đại diện Ba Lan bên cạnh Ủy Hội Quốc Tế tại Sài Gòn. Ông Nhu đang dụ định mở cuộc tiếp xúc với Hà Nội như trường hợp ‘’Hiệp thương Bắc Nam’’ mà chế độ miền Bắc đã khởi xướng vào năm 1956. Theo giới thông thạo bên cạnh Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống thì ông Nhu đã từng gặp đại diện việt cộng ở rừng Trảng Bom và Tây Ninh.

Công việc đang tiến hành thì vụ Phật Giáo bùng nổ vào mùa Hạ 1963 nên bị trì hoãn và Hà Nội thay đổi thái độ chính trị chế độ Diệm ở miền Nam. Ngược lại thời gian 1956, khi Hà Nội đòi hỏi ‘’Hiệp Thương’’ Hoa Kỳ phá bĩnh lời yêu cầu đó qua chính quyền Ngô Đình Diệm đang thời kỳ thịnh vượng.

Lúc bấy giờ chính quyền Diệm đòi hỏi Hà Nội phải giảm quân số xuống 2/3 ngang hàng với Việt Nam Cộng Hòa mới nói đến Hiệp Thương Nam Bắc.

Trong giai đoạn này miền Bắc đang khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Hòa bình vừa mới vãn hồi, miền Bắc đòi hỏi nhiều cố gắng xây dựng. Tuy nhiên họ vẫn chú trọng đến huấn luyện quân sự ngày đêm và tăng quân số. Quân lính Bắc Việt vào khoảng 150 ngàn người tại hàng.

Miền Nam, chính quyền Diệm được coi là mới mẻ. Số quân lính Pháp chuyển qua chủ lực quân còn yếu kém, hỗm tạp không mấy hoàn hảo và thiện chiến. Ngoại trừ vài Tiểu Đoàn Nhảy Dù người Nùng Thượng Du Bắc Việt mà ông Diệm cho đó là nòng cốt chủ lực quân Việt Nam Cộng Hòa. Trong hàng quân Việt Nam Cộng Hòa vào khoảng 40 đến 45 ngàn người.

Sự chênh lệch rõ ràng như thế, song Hoa Kỳ tin tưởng Tổng Thống Diệm đang được lòng dân và đang đường đi lên đến thành công. Hơn nữa, Hoa Kỳ vững tin vào những Cố Vấn Mỹ đến Việt Nam huấn luyện đạo binh Việt Nam Cộng Hòa từ hỗn tạp chiến thuật của Pháp để lại tiến đến tinh nhuệ Quân Đội.

Chính quyền Nam Việt Nam cấp bách tăng cường, huấn luyện quân số. Trường Võ Bị Đà Lạt và Trường Sĩ Quan Thủ Đức tiếp tục thâu nhận sinh viên để đào tạo cấp lãnh đạo Quân Đội trọng đại.

Khóa 12 Võ Bị Đà Lạt là khóa đầu tiên xuất thân dưới chế độ Ngô Đình Diệm kể từ ngày Hiệp Định Genève ra đời. Tổng Thống Diệm đích thân chủ tọa lễ mãn khóa và đặt tên là Cộng Hòa.

Đang ở thế vững mạnh, tiến bộ của Việt Nam Cộng Hòa, người Mỹ phá rối hiệp thương và thúc giục Nam Việt Nam gửi gián điệp ra Bắc phá nền kinh tế, quân sự Hà Nội. Những đội gián điệp này nằm trong Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung.

Những toán Lực Lượng Đặc Biệt đó còn được gọi là Biệt Kích xâm nhập. Lúc bấy giờ thỉnh thoảng dân chúng được nghe tin những cơ sở quân sự, cầu cống, đường sá ở miền Bắc bị phá hoại.

Chính quyền miền Bắc kết tội là ‘’bọn phản động’’ gián điệp đang âm mưu tê liệt nhà nước. Các cuộc phá hoại này cố nhiên do chính phủ Diệm và người Hoa Kỳ tổ chức tung người ra Bắc lập chiến khu, mặt trận du kích chống cộng sản.

Tuy nhiên, những công tác này dưới thời Ngô Đình Diệm dấu kín để tránh sự tuyên truyền quốc tế do miền Bắc tung ra. Mãi đến cuối năm 1958 bước sang mùa Hạ 1959, miền Bắc tung tin trên đài phát thanh Hà Nội là quân đội nhà nước vừa bắn hạ 1 máy bay DAKOTA ở mạn Thái Bình, Ninh Bình. Chiếc máy bay này không mang cờ, không mang số, mình phi cơ sơn màu đen để thực hiện phi vụ trong đêm. Đội phi pháo đã hạ phi cơ vào khoảng từ 2 giờ đến 3 giờ sáng.

Phi hành đoàn gồm 2 Sĩ Quan Quân Đội miền Nam và một sĩ quan người Mỹ. Xác chiếc phi cơ đem về Hà Nội trưng bày cho dân chúng xem và kết tội ‘’Mỹ Diệm’’ vi phạm miền trời đất Bắc.

Trong 2 Phi Công sĩ quan, một người bị Bắc Việt đưa lên đài phát thanh phát biểu cảm tưởng. Và cố nhiên cộng sản bắt buộc anh ta kết tội chính quyền ‘’ngụy miền Nam’’. Còn viên Phi Công kia không nghe nói đến.

Vị Phi Công không được nói đến tên là Trung Úy T. về sau Phi Hành Đoàn này ra tòa án Bắc Việt và bị kết án tù. Số phận của Trung Úy T. đến những năm sau cùng của chế độ Ngô Đình Diệm cũng không biết sống chết như thế nào.

Theo những người của chế độ cũ (Ngô Đình Diệm) kể lại thì việc xâm nhập miền Bắc lúc bấy giờ tổ chức rất qui mô và hoàn hảo. Chính quyền Diệm đã đặt được nhiều cơ sở bí mật trên miền Thượng Du, Trung Du dọc theo biên giới Lào-Việt, Hoa-Việt. Thế đứng của các tổ biệt kích rất vững. Có toán thả ra Bắc từ 12 đến 30 người đã trở lại miền Nam rất an toàn.

Những người thả dù đó phần nhiều là người Nùng và họ được xâm nhập vào quê quán của chính họ. Tất cả đều hoạt động về đêm.

Chính quyền miền Nam cấp đủ giấy tờ giả của miền Bắc cho họ để dễ dàng di chuyển. Cũng có nhiều toán biệt kích vùng Phát Diệm, Bùi Chu và được các họ đạo Công Giáo che chở bằng cách dấu trong các Nhà Thờ. Đặc biệt một toán 30 người xâm nhập vùng Bến Hải vào đến Huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) nơi quê hương của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người Trưởng Toán này đã trở lại miền Nam ba tháng sau.

Anh ta làm một bản báo cáo rất kỹ, với nhiều trang giấy đệ trình Đại Tá Tung về tình hình quê hương Tổng Thống. Bản tường trình này được xây dựng do sự yêu cầu của Tổng Thống và ông Ngô Đình Nhu. Nhưng về sau này không hiểu thái độ của Tổng Thống Diệm thế nào? Vì không thấy tiết lộ gì cả.

Mãi đến đời Tướng Khánh có sự Bắc phạt với bề ngoài rầm rộ cho dân chúng lên tinh thần. Tuy nhiên, trong giới tình báo cho rằng việc đó chẳng có gì mới mẻ, vì chính quyền Ngô Đình Diệm đã từng làm trong âm thầm.

Bắc phạt dưới thời Nguyễn Khánh, Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ dẫn đầu phi vụ Skyraider. Đây là một việc làm dễ dàng đối với Tướng Kỳ. Vì đời Ngô Đình Diệm chính ông là người phi công xâm nhập đất Bắc nhiều lần. Trong vụ Bắc Việt hạ một phi cơ đã viết ở trên là bạn đồng hành với Tướng Kỳ (hồi đó ông mang cấp bậc Trung Tá).

Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ dẫn đầu 2 phi cơ Dakota thả biệt kích ra Bắc. Chính ông lái một chiếc, còn chiếc kia là Trung Úy T. (tự là T. râu) cầm đầu. Mỗi chiếc chở từ 15 đến 20 lính người Nùng được huấn luyện ở Long Thành rất kỹ càng trong 6 tháng.

Hai phi cơ không mang số cất cánh ngoài 1 giờ sáng ở Tân Sơn Nhất. Theo đường bay từ bờ biển Vịnh Bắc Việt xâm nhập nội địa miền Bắc. Theo các nhân viên tình báo lúc bấy giờ đã có mặt trong buổi tiễn đưa kể rằng, tinh thần lính Nùng rất cao. Nghĩa là họ không sợ sệt gì cả. Họ trang bị khí giới tối tân. Mỗi một anh lính ngoài súng đạn máy móc chung quanh giây nịt lưng của họ mang theo rất nhiều rượu đế và bia. Trông họ dắt vào lưng những thứ ấy rất buồn cười.

Và trước khi thi hành công tác, gia đình họ không được biết. Gia đình họ được lãnh một số tiền lớn và 12 tháng lương, nên cá nhân mỗi người lính cảm tử này rất yên chí.

Máy bay của Trung Tá Kỳ và Trung Úy T. vào nội địa Bắc Việt rất dễ dàng. Hai viên Phi Công này bay rất cao. Khoảng 4 giờ sáng thì thả xong Quân Biệt Kích xuống miền Trung Du.

Công tác hoàn thành mỹ mãn, nhưng trên con đường về bị lộ mục tiêu nên máy bay Trung Úy T. bị đạn, chính vị sĩ quan này đã báo cho Trung Tá Kỳ rằng: ‘’Trung Tá, tôi bị bắn rồi’’.

Phi cơ mất đường bay. Trung Tá Kỳ nói vài câu trấn tĩnh Trung Úy T. rồi bay lên cao hầu quan sát bạn đồng hành nhưng trong đêm tối không thấy gì cả. Trung Tá Kỳ vội vàng lên cao nữa để tránh cao xạ và tìm đường trở về Nam Việt Nam.

Những cuộc thả Biệt Kích ra Bắc bị khám phá từ đó. Song những chuyến bay gây cơ sở cho Biệt Kích Quân gây rối miền Bắc vẫn được tổ chức đều đặn bằng cách Hoa Kỳ tung ra loại phi cơ thám thính U2, không người lái và có người lái trên không phận Bắc Việt.

Loại phi cơ thám thính, chụp hình này bay với độ cao, mắt trần không thể thấy được. Hoa Kỳ đã sử dụng dưới đời Ngô Đình Diệm trong công tác gián điệp miền Bắc. Phi cơ U2 đã thành công lớn lao trong việc chụp hình các đồn binh và các dàn phi pháo Bắc Việt.

Chính Đại Tá Lê Quang Tung là một sĩ quan trong Bộ Tham Mưu Lực Lượng Đặc Biệt của ông đã ra Hạm Đội Thứ 7 quan sát loại phi cơ U2. Kể từ ngày có U2 hoạt động, những chuyến bay thả biệt kích trên lãnh thổ Bắc Việt tránh được cao xạ. Và cũng kể từ đó không còn nghe Bắc Việt loan truyền trên Đài Phát Thanh Hà Nội là bắn hạ thêm máy bay Dakota nữa.

Hoạt động của U2 trôi chảy đến năm 1959 thì Nga Sô phát giác loại phi cơ này. Nga Sô nhờ máy radar cực mạnh đặt theo biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Nga Sô. Máy radar hoạt động đêm ngày ở biên giới này vì vào thời đó, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu nước Mỹ đặt nhiều hỏa tiễn Hawk bảo vệ xứ này trước sự đe dọa của Nga Sô. Khi U2 từ một căn cứ quân Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập lãnh thổ Nga Sô thám thính thì bị bắn hạ. Viên Phi Công điều khiển máy bay này là Đại Tá Power nhảy dù với độ cao kinh khủng và bị Nga Sô bắt giữ cầm tù. Hai tháng sau trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc, Thủ Tướng Nga Sô Khrouchev tháo giầy cầm tay đập lên bàn phản đối hành động gián điệp của Hoa Kỳ. Các Quan Sát Viên theo dõi hoạt động Liên Hiệp Quốc cho rằng hành động của Thủ Tướng Nga làm hoen ố cơ quan hòa bình này và đã xảy ra lần đầu tiên trong lịch sử Liên Hiệp Quốc.

Mãi đến đời Kennedy, Viên Phi Công Đại Tá Power mới được Nga Sô phóng thích trong một cuộc trao đổi viên Đại Tá gián điệp người Nga bị bắt tại Nữu Ước. Cuộc trao đổi này được diễm ra về đêm giữa Tây Đức và Đông Đức.

Hiện nay Đại Tá Power đã giải ngũ. Ông là một trong những phi công lãnh lương cao nhất của Hãng Pan-Am. Nhiệm vụ của Power là bay thử những chiếc phi cơ vừa mới hoàn thành, trước khi sử dụng trên đường bay thương mại quốc tế.

Nga Sô hạ được U2, Bắc Việt đề cao cảnh giác, nghi ngờ rằng Hoa Kỳ cũng đang sử dụng loại máy bay này trên lãnh thổ miền Bắc. Thật thế, một năm sau, Bắc Việt la hoảng. Hoa Kỳ vi phạm chủ quyền nền trời Bắc bằng phi cơ không người lái.

Thỉnh thoảng Hà Nội tuyên bố bắn được loại phi cơ này mà Bắc Việt gọi là phi cơ không người lái. Từ đó U2 không còn là loại phi cơ bí mật đối với chiến trường gián điệp. Song Hoa Kỳ đã tung ra một bộ óc gián điệp làm điên đầu thế giới cộng sản một thời.

U2 là một tên gián điệp điện tử cuối cùng để bước sang một kỷ nguyên mới vệ tinh nhân tạo gián điệp mà hiện nay Hoa Kỳ và Nga Sô đang sử dụng.

Lực Lượng Đặc Biệt do ông Ngô Đình Nhu tổ chức, Đại Tá Lê Quang Tung điều khiển đã được Hoa Kỳ hỗ trợ như thế. Nên ông Nhu bận tâm phát triển Lực Lượng này. ayebaTung deoaPhát triển đến độ ông Nhu dùng binh chủng này làm nòng cốt bên cạnh chế độ Ngô Đình Diệm.

Và khi Phật Giáo nổi loạn, ông Nhu dùng lính Lực Lượng Đặc Biệt thao túng Thủ Đô Sài Gòn làm sai nguyên tắc nhiệm vụ của những người lính này. Người Hoa Kỳ không bằng lòng như vậy.

Nói đúng nghĩa Lực Lượng Đặc Biệt dưới thời Ngô Đình Diệm chưa đúng hẳn là một lực lượng mạnh. Nhưng phải nói rằng một tổ chức quy củ, nguy hiểm cho chính quyền Bắc Việt. Bên ngoài, người ta cho rằng ông Nhu và Đại Tá Lê Quang Tung là nòng cốt, thật ra Lực Lượng Đặc Biệt này bị ràng buộc vào sự tổ chức của số lớn sĩ quan Cố Vấn Hoa Kỳ.

Ban đầu, Lực Lượng Đặc Biệt tuyển dụng những quân chính quy dù nguyên quán ở miền Bắc. Nhưng chỉ tuyển chọn một số ít làm căn bản mà thôi. Còn lại, Cố Vấn Hoa Kỳ yêu cầu Đại Tá Tung thâu nhận dân sự để huấn luyện.

Cho nên, phần lớn Lực Lượng Đặc Biệt được gọi với danh từ bán quân sự. Những người lính được coi là Dân Sự Chiến Đấu. Người Mỹ gọi tắt là CIDG. Vào thời đó, thỉnh thoảng người ta thấy một vài ông lính với vận phục lạ lùng thả bộ trên đường phố với bộ đồ dơi đen, trên ngực dính huy hiệu đầu lâu có hai xương gác chéo phía dưới trắng hếu. Đó là lính Lực Lượng Đặc Biệt.

Lực Lượng Đặc Biệt của ông Ngô Đình Nhu có hai loại. Loại thứ nhất là đi Bắc, và loại thứ hai ở nội địa. Những người lính đi Bắc được huấn luyện ở Long Thành. Trong thời gian huấn luyện, được tiếp xúc với gia đình. Nhưng đến giai đoạn sắp hết và chuẩn bị công tác thì mọi cuộc tiếp xúc với bên ngoài bị gián đoạn. Họ được đối đãi sung sướng, muốn gì được nấy.

Mỗi tuần được xuống hồ tắm Quân Đội Lido (Gia Định) bơi lội một lần. Mọi sự di chuyển ra khỏi Long Thành đầu dùng xe bít bùng (loại xe chở tù nhân ở Khám Chí Hòa). Trong thời gian này, người ta gọi những lính đi Bắc vào ‘’nhà điên’’. Danh từ này đặt ra một cách đứng đắn trong trại huấn luyện Long Thành.

Ngôi nhà điên là dãy phòng phong tỏa có biên giới cho những lính đi Bắc trú ngụ. Khu vực này cấm chỉ những người qua lại. Thỉnh thoảng người ta thấy rất nhiều đoàn văn nghệ với đầy đủ ca sĩ nổi tiếng đến dãy nhà điên trình diễn cho lính đi Bắc thưởng thức.

Vào thời gian đó, khu nhà điên rất nhộn, những tiếng la hét, cười nói vang dậy hầu như mất trật tự. Theo một số nghệ sĩ cho biết thì số lính này đều cạo trọc, đầu nhẵn bóng, trông bướng bỉnh vô cùng. Nhiều khi làm trở ngại cuộc trình diễn, nhưng vị trại trưởng vẫn thả lỏng cho họ.

Đó là điều ngạc nhiên hết sức đối với nhóm nghệ sĩ đến trình diễn ở một đồn binh quân sự. Nhưng họ không ngờ đám lính đó sắp thi hành những công tác nguy hiểm. Vị trại trưởng đã vấn an với nghệ sĩ và yêu cầu hết sức tha thiết là đừng làm mất lòng đám lính mà bên ngoài rõ ràng ‘’ô hợp’’.

Người Mỹ đóng vai trò tuyển dụng binh sĩ và trả lương cho mỗi người lính đặc biệt. Sĩ quan Việt Nam bên cạnh chỉ lo về thủ tục giấy tờ mà thôi. Vì vậy những lính Lực Lượng Đặc Biệt này thường gọi mình là ‘’lính đánh thuê’’ (Mercenaire). Một danh từ hài hước phủ phàng.

Những sai lầm cỏn con của người Mỹ như thế, nên một số lính dân sự chiến đấu này ở trong hàng ngũ một thời gian hoặc sau khi vào nhà điên đã trốn đi biệt tích.

Trường hợp này gọi là trốn chứ không phải đào ngũ vì Lực Lượng Đặc Biệt là thứ nửa quân sự, nửa dân sự. Số tiền lương mỗi người lính Đặc Biệt rất cao. Nghĩa là gấp 3 người lính Việt Nam Cộng Hòa dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Những Trại Lực Lượng Đặc Biệt binh sĩ chia thành từng toán 9 người Việt và Cố Vấn Mỹ. Ba người Mỹ này không phân định cấp bực rõ ràng, nghĩa là có Toán 2 Sĩ Quan và một Hạ Sĩ Quan. Có Toán hoàn toàn 3 Hạ Sĩ Quan.

Trong 3 người Mỹ này, một làm Cố Vấn Trưởng, một làm Cố Vấn Phó và người cuối cùng trông coi về máy truyền tin khi hành quân xâm nhập ngoại địa Việt Nam Cộng Hòa. Về phía 9 người Việt Nam gồm có: Một sĩ quan từ cấp Chuẩn Úy đến Đại Úy Trưởng Toán, một Trung Sĩ hoặc Thượng Sĩ làm Phó Toán. Các người còn lại là Dân Sự Chiến Đấu.

Dười thời Ngô Đình Diệm, Lực Lượng Đặc Biệt đã dùng một số ít tiểu liên AR16 và tiểu liên SK Thụy Điển. Có nhiều Toán lại dùng vũ khí AK47 đã lấy được của việt cộng. Mỗi Toán Lực Lượng Đặc Biệt đều lấy tên mỗi Tiểu Bang Hoa Kỳ. Vào thời bấy giờ, toán nổi tiếng nhất là Toán Texas, Kansas, Oregon.

Những tổ chức Lực Lượng Đặc Biệt tổ chức qui mô, vững chắc như vậy. Song hầu hết lệ thuộc vào ngân sách của người Mỹ chi tiêu. Đây là một khoảng tiền không nằm trong hệ thống viện trợ Mỹ, mà là một ngân sách riêng biệt của CIA. Cho nên số lượng không đạt được tiêu chuẩn nhất định.

Vì những nguyên nhân đó, trước ngày cách mạng 1.11.1963, người Mỹ đe dọa cắt tiềin chi dụng Lực Lượng Đặc Biệt làm cho ông Ngô Đình Nhu điên đầu vì việc trả lương cho đơn vị này. Ông Nhu phải lấy một số tiền lớn trong ngân sách quốc gia mà trang trải. Nên việc tài chánh của chính phủ được coi là thâm lủng không biết làm sao hàn gắn được. Ông Ngô Đình Nhu gắng gượng với đường lối, còn nước còn tát, phản đối Đại Sứ Lodge về hành động ‘’đưa con bỏ chợ’’ của người Mỹ.

Đại Sứ Lodge chẳng quan tâm đến lời khuyến cáo của ông Nhu mà còn nói rằng, ông lo lắng sự thiếu thốn đạn dược, lương hướng sẽ đưa đến cuộc nổi loạn của Lực Lượng Đặc Biệt.

Ông Nhu tức giận Đại Sứ Lodge đến tột độ, nhưng lại tránh mặt ngài Đại Sứ. Ông Nhu ngấm ngầm nhắn nhủ Đại Sứ Lodge qua Tổng Thống Diệm là người Mỹ chịu trách nhiệm với Thế Giới Tự Do nếu miền Nam lọt vào tay cộng sản. Tuy nhiên Đại Sứ Lodge không mấy quan tâm đến lời đe dọa viển vông đó, trong trí ông đã có kế hoạch san bằng chế độ Diệm cấp tốc rồi.

Nói đến Lực Lượng Đặc Biệt thời Đệ Nhất Cộng Hòa là mối ràng buộc duy nhất, ngoài viện trợ giữa chính quyền và người Hoa Kỳ. Người Mỹ rất muốn nhúng tay vào việc điều khiển Quân Lực Việt Nam. Nhưng Tổng Thống Diệm đã hạn chế và chỉ chấp thuận Cố Vấn mà thôi. Riêng Lực Lượng Đặc Biệt người Mỹ đã thao túng mọi việc, mọi ngành trong cơ quan này.

Sự vững mạnh và công hiệu của đơn vị này đã làm cho ông Ngô Đình Nhu không đặt vấn đề tương quan Mỹ-Việt. Vì ông Nhu thấy cái lợi rõ ràng mà những toán xâm nhập đã gặt hái trên đất Bắc, gây rối chính quyền Hà Nội.

Nên Hoa Kỳ không chấp nhận Hiệp Thương Bắc Nam, ông Nhu lẫn ông Diệm đều cho là hữu lý trên bình diện quân sự, kinh tế Nam Việt Nam trên đường phát triển.

Thế đứng đang lên. Hà Nội yêu cầu được ‘’nói chuyện’’ với miền Nam. Miền Nam từ chối rồi đến năm 1960 Nam Việt Nam trở thành mặt trận du kích cộng sản. Nội bộ lủng củng từ vụ đảo chánh hụt 11.11.1960 đến các đoàn thể, chánh khách kết tội chế độ Diệm gia đình trị, độc tài. Báo chí Mỹ khai thác triệt để các tin đó và dần dần chế độ đó bước vào con đường cùng. Và con đường cùng đó, Quân Đội khai thác thành ngày cách mạng 1.11.1963.

Từ Lực Lượng Đặc Biệt đến Hiệp Thương Nam Bắc, người Hoa Kỳ không tiên liệu đến sự đứng vững của một chế độ. Một chế độ được coi là vững mạnh rồi cũng chế độ đó người Hoa Kỳ kết tội, thanh toán vì độc tài.

Dưới ánh mặt trời Nam Việt Nam, bàn tay sắt bọc nhung của Đại Sứ Lodge đã thi hành kế hoạch ấy. Lực Lượng Đặc Biệt với mối hoài bão của ông Nhu trong việc chống cộng. Cũng lực lượng đó phong tỏa Chùa chiền tại Thủ Đô Sài Gòn, ông Nhu hãnh diện về lực lượng đó bao nhiêu thì cũng lực lượng đó đưa ông đến cái chết đau đớn nhất.

Và người chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, Đại Tá Lê Quang Tung, dư luận cho rằng đã bị giết trong ngày cách mạng 1.11.1963. Nhưng đâu là sự thật? Cái chết của Đại Tá Lê Quang Tung hoàn toàn bí mật.

Vì thi thể của ông đến giờ phút này vẫn chưa tìm được. Chúng tôi sẽ bàn đến Đại Tá Lê Quang Tung trong một vài chương sắp đến để biết ông ta sống hay chết.