Bắt kịp gia đình Kelly
Ở cuối ngõ cụt có hai ngôi nhà gần giống nhau. Trong hai căn nhà đó có 2 gia đình gần giống nhau và mức thu nhập thì cũng tương đương nhau. Nhà Jones thì bị ám ảnh bởi những vật chất tiện nghi. Họ có cả một danh sách những mục tiêu đầy tham vọng như sẽ xây một hồ bơi mới vào mùa hè năm tới, mua một chiếc SUV thật lớn khi hợp đồng thuê nhà hết hạn và cho đứa con 4 tuổi của mình học tại Harvard. Nhà Jones tính toán chính xác những mục tiêu của họ sẽ phải tốn kém bao nhiêu và chính xác khi nào họ cần tiền. Dựa trên những mục tiêu này, họ lập ra một kế hoạch đầu tư tốt nhất cho chính mình. Theo kế hoạch đó, họ có được cơ hội tốt nhất để kiếm được khoản tiền họ cần khi có nhu cầu.
Trong khi đó hàng xóm của họ, nhà Kelly lại chẳng quan tâm gì đến những mục tiêu tài chính. Họ đầu tư để kiếm tiền, đặc biệt là đạt được lãi kép cao nhất từ việc đầu tư của mình. Tại những buổi tiệc nhẹ, những người hàng xóm luôn biết rằng để bắt chuyện với nhà Kelly, tốt hơn cả là bắt đầu bằng câu chuyện về lãi kép. Đó là tất cả những gì mà gia đình này quan tâm.
Sau một khoảng thời gian (thường là khá dài), chắc chắn nhà Kelly giàu hơn nhà Jones. Nhiều năm qua đi, khoảng cách này ngày càng lớn.
Nhà Jones không khỏi cảm thấy đố kị mỗi lần nhìn qua cọc hàng rào của người láng giềng. Rốt cuộc thì họ cũng thích mình là người có nhiều tiền hơn. Tuy nhiên, họ vẫn có lý do để bình thản trước sự cách biệt về tài sản này. Họ tự nhủ: "Nhà Kelly có tiền, nhưng chúng ta có thứ đáng giá hơn". Cái mà nhà Jones có là sự hữu dụng. Họ đã thiết lập được những kế hoạch đầu tư để đạt được những mục tiêu họ thực sự quan tâm.
Nhà Kelly nghĩ rằng nhà Jones mất trí rồi. Liệu ai có thể thấy được cái mà nhà Jones gọi là "hữu dụng" chứ? Nhà Kelly cho rằng các mục tiêu có thể linh động. Điều quan trọng là kiếm càng nhiều tiền càng tốt, và trong khoảng thời gian càng nhanh càng tốt - và rồi nghĩ xem nên chi tiêu khoản tiền kiếm được như thế nào.
Vậy, bên nào có lí hơn: nhà Jones đề cao hữu dụng hay nhà Kelly chỉ quan tâm tới lãi kép?
Hàm hữu dụng dựa trên tài sản của nhà Jones rất rõ ràng. Chưa bao giờ họ tự hỏi liệu tiền có mang lại hạnh phúc không. Họ biết chính xác X đồng đô la có thể làm họ hạnh phúc cỡ nào. Họ lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp với những sở thích này. Mà theo các nhà kinh tế học, đó chính là dấu hiệu của sự hợp lý.
Chẳng có gì khó hiểu khi cuối cùng, nhà Kelly lại giàu hơn nhà Jones. Họ lựa chọn danh mục đầu tư căn cứ vào sự tăng tưởng vốn. Không điều gì, nhất là những ràng buộc cá nhân, có thể kìm hãm nhà Kelly làm giàu. Điều duy nhất nhà Kelly không mong đợi chút nào là sự ghen tức của nhà Jones. Thậm chí, nếu nghĩ theo cách của nhà Jones, tức đề cao hữu dụng thì số tài sản lớn của nhà Kelly vẫn được ưa thích hơn.
Đây chính là điểm trọng yếu trong cuộc tranh luận về tiêu chuẩn Kelly. Đối với nhà kinh tế học, mặc định rằng mọi người có hàm hữu dụng (về của cải) được tính toán chính xác là một điều rất tự nhiên, như thể hít thở không khí vậy. Họ không chút do dự khi mặc định như vậy bởi cái họ cần là một hàm hữu dụng để giải toán. Điều này chẳng hề xuất phát từ quan điểm của Samuelson, mà vì kinh tế học vào thời này bị đồng nhất với toán học.
Thực sự thì cảm nhận của chúng ta về của cải thường dễ thay đổi, không nhất quán, và khó xác định bằng bất cứ một hàm số toán học nào (bao gồm cả hàm số loga). Sự ưa thích thường được tổng quát hoá dựa trên như cầu. Bạn sẽ không biết bạn thực sự cần gì cho tới khi bạn thực sự gặp một số vấn đề cần tới nó. Đây chẳng phải tin mới mẻ gì cho những nhà tổ chức các cuộc thăm dò ý kiến hay những nhóm trọng tâm. Người ta chỉ có quan điểm vững chắc về một số vấn đề mà thôi. Còn với những vấn đề khác, bạn phải thúc ép họ quyết định, và rất nhiều các quyết định đó phụ thuộc vào cách bạn hỏi họ.
Sự ưa thích chắc chắn nhất mà mọi người nghĩ về tiền là có càng nhiều tiền càng tốt và kiếm tiền càng nhanh càng tốt. Nếu hỏi một nhà đầu tư về mức độ rủi ro mà ông ta chấp nhận được thì câu trả lời luôn luôn là: "Chà, không biết nữa... Bao nhiêu rủi ro thì tôi chấp nhận được nhỉ?"
Điều đó không có nghĩa nhà đầu tư này là tay mơ mà đơn giản người này có suy nghĩ rất thoáng. Trước tiên hết, anh ta sẽ tự nhủ với bản thân rằng anh ta đang có đầu tư hợp lý với tỷ suất lợi nhuận và mức rủi ro hợp lý.
Hầu hết các nhà kinh tế học đều bác bỏ ý kiến cho rằng hữu dụng là một khái niệm phi thực tế. Tsvi Ophir thuộc Đại học He-brew đã kết thúc bài viết của mình bằng một lời phản bác rất đanh thép: "một người chấp nhận theo Latané (tức thừa nhận những lý lẽ của Latané) không những phải quên đi hữu dụng kỳ vọng mà còn phải quên đi ngay chính bản thân khái niệm hữu dụng". Khi viết ra câu này, rõ ràng là Ophir cảm thấy mình đang phần nào bác bỏ đi một quan điểm đúng đắn.
Các nghiên cứu về các cách hành xử liên quan đến tài chính cho rằng con người được thúc đẩy không chỉ bằng những gì đạt được hoặc đánh mất một cách hoàn toàn mà còn bởi tính đố kị. Chúng ta so sánh thu nhập từ đầu tư của mình với thu nhập của những người láng giềng và với các chỉ số thị trường. Một thu nhập được gọi là "tốt" khi nó có lợi nếu ta đem so sánh. Trong tất cả các chiến lược quản lý tiền, chỉ có chiến lược của Kelly là không thất bại trong dài hạn.
Có một vấn đề ở đây. Cuộc sống thì ngắn ngủi mà thị trường chứng khoán là một trò chơi chậm chạp. Trong bài xì dách, cứ 40 giây thì người ta biết được mình thắng được gấp đôi hay mất trắng. Còn trong thị trường chứng khoán, thường phải mất hàng năm mới tăng gấp đôi những gì bạn có hoặc cũng rất có thể sẽ mất trắng. Không một nhà đầu tư chứng khoán theo kiểu mua và giữ cổ phiếu nào có thể sống đủ lâu để đủ tự tin kết luận rằng hệ thống của Kelly tốt hơn tất cả các hệ thống khác. Đấy là lý do tại sao hệ thống Kelly thích hợp với những người mua vào và bán ra trong ngắn hạn hơn là những nhà đầu tư nhỏ lẻ điển hình.
Các nhà kinh tế học không phải là những người đầu tiên nghiên cứu các mô hình đánh bạc. Cũng không phải những việc làm kì lạ của các tay chơi chứng khoán thu hút được sự chú ý của những nhà lý luận thời Samuelson. Mấu chốt khiến những người này hứng thú nghiên cứu, và cũng là điều làm cho phương pháp của Kelly có vẻ mới mẻ, chính là vấn đề phân bổ tài sản của một nhà đầu tư điển hình. Bạn nên đầu tư bao nhiêu vào những cổ phiếu có lợi nhuận cao nhưng rủi ro và đầu tư bao nhiêu vào những chứng khoán có lợi nhuận thấp nhưng an toàn hơn như trái phiếu và tài khoản tiết kiệm?
Câu trả lời theo tiêu chuẩn Kelly là hãy đầu tư tất cả vốn của bạn vào cổ phiếu. Thực tế, một số tác giả đã kết luận rằng một người đầu tư vào Quỹ đầu tư theo chỉ số hoàn toàn có thể sử dụng quy luật đòn bẩy ở mức độ khiêm tốn nhất. (Tuy thị trường chứng khoán không thể tránh khỏi những vụ sụp đổ và mặc dù nhiều chứng khoán riêng lẻ có thể trở nên vô giá trị, không một chỉ số chứng khoán nào của Mỹ tụt xuống tới 0).
Phản ứng của các nhà kinh tế học với những nhận định như thế này là: hãy hành động theo thực tế. Đầu tư theo kiểu mua và giữ cổ phiếu là trường hợp mà hữu dụng có ý nghĩa. Một số nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với một danh mục đầu tư vốn tự có, và sẽ ít hài lòng hơn nhiều khi sử dụng mô hình tín dụng mua chứng khoán (buying on margin). Một cuộc khủng hoảng rất có thể sẽ xuất hiện trên thị trường làm giảm đáng kể số tiền tiết kiệm, và ngay cả những người trung niên dày dạn kinh nghiêm cũng không thể thu lại được những gì đã mất. Hệ thống Kelly có thể không thất bại hoàn toàn nhưng nó không hề đảm bảo độ an toàn nào.